[Thơ] Cổ Thi: Bản Sắc Thi Ca - Lạc Mỹ Xuyên Thu

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Hiệp Khách Hành 俠客行
Tác giả: Lý Bạch
***
YCGomoO4NmtHElRcGJ_qsA.1441999097.jpg


俠客行

趙客縵胡纓,
吳鉤霜雪明。
銀鞍照白馬,
颯沓如流星。
十步殺一人,
千里不留行。
事了拂衣去,
深藏身與名。
閑過信陵飲,
脫劍膝前橫。
將炙啖朱亥,
持觴勸侯嬴。
三杯吐然諾,
五岳倒為輕。
眼花耳熱後,
意氣素霓生。
救趙揮金鎚,
邯鄲先震驚。
千秋二壯士,
烜赫大樑城。
縱死俠骨香,
不慚世上英。
誰能書閣下,
白首太玄經。



Hiệp khách hành

Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh.
Ngân an chiếu bạch mã,
Táp đạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.
Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Nhàn quá Tín Lăng ẩm,
Thoát kiếm tất tiền hoành.
Tương chích đạm Chu Hợi,
Trì thương khuyến Hầu Doanh.
Tam bôi thổ nhiên nặc,
Ngũ nhạc đảo vi khinh.
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu,
Ý khí tố nghê sinh.
Cứu Triệu huy kim chuỳ,
Hàm Đan tiên chấn kinh.
Thiên thu nhị tráng sĩ,
Huyên hách Đại Lương thành.
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh.
Thuỳ năng thư các hạ,
Bạch thủ Thái huyền kinh.

Dịch nghĩa
Khách nước Triệu đeo giải mũ thô sơ
Thanh Ngô câu sáng như sương tuyết
Yên bạc soi chiếu con ngựa trắng
Lấp loáng như sao bay
(Thanh gươm) mười bước giết một người
Cho nên không đi xa ngàn dặm
Làm xong việc rũ áo ra đi
Ẩn kín thân thế cùng danh tiếng
Lúc nhàn rỗi qua nhà Tín Lăng quân
Cởi kiếm ra để ngang trên gối
Đem chả nướng mời Chu Hợi
Cầm chén rượu mời Hầu Doanh
Uống ba ly chân thành gật đầu
Năm trái núi lớn thật xem là nhẹ
Sau khi mắt hoa, tai nóng bừng
Ý khí như cầu vồng trắng bốc sinh
Vung cây chuỳ cứu nước Triệu
Thành Hàm Đan trước tiên đã chấn kinh
Hai tráng sĩ ngàn năm sau
Thanh danh lẫy lừng thành Đại Lương
Dù cho chết xương cốt hiệp sĩ còn thơm
Không hổ thẹn với anh hùng trên thế gian
Ai là người có thể ngồi viết sách dưới gác
Bạc đầu với cuốn kinh Thái huyền

(Nguồn: thivien.net)

Bản dịch: Bài Ca Về Người Hiệp Khách

Khách nước Triệu thô sơ giải mũ
Thanh Ngô câu sáng tựa tuyết sương
Bọc lưng ngựa trắng trên đường
Yên sau ánh bạc như gương sáng ngời.

Mười bước giương gươm trừ một kẻ
Cần chi phải vội ngàn dặm xa
Việc xong rủ áo cho qua
Che danh ẩn thế biết là tiếng tăm.

Thanh nhàn ghé lại quân Lăng Tín
Tuốt kiếm nâng chân đặt gối ngồi
Chả nướng Chu Hợi cùng xơi
Rượu đào nâng chén đối mời Hầu Doanh.

Rượu cạn ba ly thân tình trọn
Núi dù năm ngọn tựa hư không
Men say hoa mắt tai bùng
Mà đâu ý chí hào hùng dậy nâng.

Đại chùy vung tay đà cứu Triệu
Hàm Đan khiếp đảm, loạn yên thành
Ngàn năm tráng sĩ hai chàng
Thanh danh lừng lẫy ngút ngàn Đại Lương.

Xác chôn, xương rạn còn danh sáng
Anh hùng nào thẹn với thế gian
Vùi ngâm chép sách bên đàn
Thái Huyền kinh sử bạc đầu người lưu.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Tìm hiểu thêm:
Nguỵ Vô Kỵ được anh là Nguỵ An Ly vương phong làm Tín Lăng quân. Ở thành Đại Lương, kinh đô của nước Nguỵ, có một ẩn sĩ 70 tuổi tên là Hầu Doanh. Tín Lăng quân rất trọng Hầu Doanh, tôn làm thượng khách. Hầu Doanh tiến cử người đồ tể tên là Chu Hợi, cũng là một ẩn sĩ hiền tài. Năm thứ 20 đời Nguỵ An Ly vương, quân Tần vây thành Hàm Đan của nước Triệu. Vua Nguỵ sai tướng Tấn Bỉ mang quân sang cứu Triệu, nhưng sau sợ uy thế của Tần, do đó không tiến quân. Tín Lăng quân vì bạn là Bình Nguyên quân đang bị vây ở Triệu, hết lời xin vua Nguỵ cho tiến quân, nhưng vua Nguỵ không nghe. Theo kế của Hầu Doanh, Tín Lăng quân nhờ vương phi Như Cơ, lấy trộm được binh phù của vua Nguỵ, đem đi ra lệnh cho Tấn Bỉ tiến quân. Tấn Bỉ nghi ngờ không tuân lệnh. Chu Hợi liền rút cây chuỳ sắt nặng 40 cân, giết chết Tấn Bỉ. Nhờ đó Tín Lăng quân dem quân đánh đuổi được quân Tần, cứu nguy cho thành Hàm Đan và Bình Nguyên quân.

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Thu Tứ
Tác giả: Lý Bạch


秋思

燕支黃葉落,
妾望自登臺。
海上碧雲斷,
單于秋色來。
胡兵沙塞合,
漢使玉關回。
征客無歸日,
空悲蕙草摧。

Thu tứ
Yên Chi hoàng diệp lạc,
Thiếp vọng tự đăng đài.
Hải thượng bích vân đoạn,
Thiền Vu thu sắc lai.
Hồ binh sa tái hợp,
Hán sứ Ngọc Quan hồi.
Chinh khách vô quy nhật,
Không bi huệ thảo tồi.

Dịch nghĩa
Ở Yên Chi lá vàng rơi
Thiếp tự lên đài cao ngóng nhìn
Trên vùng Thanh Hải, mây biếc đứt khúc
Nơi biên ải vùng đất của rợ Hồ, sắc thu đã lại tới
Quân Hồ kéo đến đầy trước ải cát
Sứ nhà Hán từ Ngọc Môn quan trở về
Lính chinh chiến chưa biết ngày nào mới trở về
Chỉ thương cho cỏ huệ úa tàn

Ý Thu

Yên Chi đất phủ lá vàng rơi
Đài cao thiếp vọng phía chân trời
Thanh Hải biển mây chia từng đoạn
Thiền Vu thu đến chẳng sao vời
Hồ quân vây kín trời biên ải
Ngọc Môn sứ Hán cũng rã rời
Hẹn khách ra đi giờ không thấy
Loan phòng cỏ huệ úa tàn rơi...

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Bả Tửu Vấn Nguyệt
Tác giả: Lý Bạch

把酒問月

青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。


Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.


Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.

Bản dịch: Nâng Chén Rượu Hỏi Trăng

Trời xanh trăng có tự bao giờ
Nay ta dừng chén hỏi trăng thơ
Ai nào vin nổi trăng vầng sáng
Ta đi trăng cũng bước theo người.

Sáng tựa như gương soi lầu các
Khói mờ lung tỏa bóng trăng sang
Trời đêm chỉ thấy trăng từ biển
Sớm tỏ tan trong dấu mây ngàn.

Thỏ tuyền giã thuốc mãi xuân thu
Hằng Nga lẻ bóng, ai cùng ngụ?
Người nay chẳng thấy trăng ngày cũ
Trăng hoài vẫn đợi bóng người lưu.

Người vốn xưa nay hòa dòng chảy
Trăng trong cũng thưởng hết phen này
Mong rằng cơn say chưa tàn cuộc
Trăng vàng chén tửu đến ngày nay...

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Độ Kinh Môn Tống Biệt
Tác giả: Lý Bạch
***

渡荊門送別
渡遠荊門外,
來從楚國遊。
山隨平野盡,
江入大荒流。
月下飛天鏡,
雲生結海樓。
仍憐故鄉水,
萬裡送行舟。


Độ Kinh Môn tống biệt

Độ viễn kinh môn ngoại,
Lai tòng Sở quốc du.
Sơn tuỳ bình dã tận,
Giang nhập đại hoang lưu.
Nguyệt hạ phi thiên kính,
Vân sinh kết hải lâu.
Nhưng liên cố hương thuỷ,
Vạn lý tống hành chu.

Dịch nghĩa
Vượt ra xa hẳn ngoài núi Kinh Môn
Lại ngoạn du vùng Sở quốc
Núi dài thẳng tắp miền đồng bằng
Sông đổ vào chốn đồng hoang bao la
Trăng chiếu rọi xuống như gương trời bay
Mây kết tụ tạo thành lầu đài trên mặt sông
Vẫn nhớ thương dòng nước chốn quê xưa
Đã đưa tiễn thuyền ta ra đi muôn dặm.

(Năm 724)
Núi Kinh Môn ở huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc.

Bản dịch: Tiễn Biệt Ngoài Kinh Môn

Vượt dặm ngoài xa núi Kinh Môn

Sở quốc rong chơi tường khắp chốn
Núi dài thẳng tắp bình nguyên trải
Sông tràn biếc rộng đổ đồng hoang.
Trăng sáng như gương trời uốn lượn
Lâu đài mây tụ bóng sông buồn
Dòng nước như thương về quê cũ
Lướt thuyền tiễn biệt khách ngàn muôn.

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Độc Tọa Kính Đình Sơn
Tác giả: Lý Bạch

獨坐敬亭山

眾鳥高飛盡,
孤雲獨去閒。
相看兩不厭,
只有敬亭山。

Độc toạ Kính Đình sơn
Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc khứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Đình sơn.

Dịch nghĩa
Bầy chim bay đi hết,
Đám mây lẻ một mình lững lờ.
Nhìn nhau mãi không chán,
Chỉ có núi Kính Đình.

(Năm 753)

Bản dịch: Ngồi một mình ở núi Kính Đình

Chim đàn tung cánh chẳng hay tin
Mây trôi lơ lửng lẻ riêng mình
Chán chi nhìn ngắm lòng thanh tịnh
Duy chỉ cùng ta với Kính Đình.

Lạc Mỹ Xuyên Thu​
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Thu Phong Từ
Tác giả: Lý Bạch
***

秋風詞

秋風清,
秋月明。
落葉聚還散,
寒鴉棲復驚。
相思相見知何日,
此時此夜難為情。

Thu phong từ
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương t.ư, tương kiến tri hà nhật?
Thử thì thử dạ nan vi tình...

Dịch nghĩa
Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp?
Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.

Bản dịch: Thu Phong Từ

Bản 1
Gió thu trong
Trăng thu sáng
Lá rụng hợp rồi tan
Quạ đậu chợt giật mình
Tương t.ư chẳng hay ngày gặp lại?
Lòng này đêm ấy chứa chan tình.

Bản 2
Gió trong thanh thoát một đêm thu
Trăng sáng tựa gương chẳng mây mù
Lá rơi thiết nghĩ tàn hay tụ
Quạ lạnh giật mình thoáng âm u
Tương t.ư thử hỏi ngày gặp lại
Lòng này đêm ấy vẫn còn lưu...

***Lần đầu thử viết lại theo phong tác của tác giả. Bởi thật sự chẳng biết phóng tác thể loại ra thế nào...​
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Bạch Đầu Ngâm
Tác giả: Lý Bạch
***

白頭吟

錦水東北流,
波蕩雙鴛鴦。
雄巢漢宮樹,
雌弄秦草芳。
寧同萬死碎綺翼,
不忍雲間兩分張。
此時阿嬌正嬌妒,
獨坐長門愁日暮。
但愿君恩顧妾深,
豈惜黃金買詞賦。
相如作賦得黃金,
丈夫好新多異心。
一朝將聘茂陵女,
文君因贈白頭吟。
東流不作西歸水,
落花辭條羞故林。
兔絲固無情,
隨風任傾倒。
誰使女蘿枝,
而來強縈抱。
兩草猶一心,
人心不如草。
莫卷龍須席,
從他生網絲。
且留琥珀枕,
或有夢來時。
覆水再收豈滿杯,
棄妾已去難重回。
古來得意不相負,
只今惟見青陵臺。

Bạch đầu ngâm

Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty* cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.


Dịch nghĩa

Dòng nước như gấm trôi về đông bắc
Trên sóng chấp chới đôi uyên ương
Con trống đậu trên cây ở Hán cung
Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần
Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh
Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây
Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy
Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn
Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn
Há tiếc hoàng kim mua từ phú
Tương Như làm phú được hoàng kim
Trượng phu ưa mới sinh lòng khác
Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”
Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây
Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ
Cỏ thố ty vốn vô tình
Theo gió mà ngả nghiêng
Ai xui khiến dây cỏ nữ la
Tìm tới quấn quýt không rời
Hai loài cỏ, chung một tấm lòng
Lòng người sao chẳng như cỏ ấy
Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng)
Mặc cho tơ nhện chăng đầy
Hãy để lại chiếc gối hổ phách
Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ
Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao
Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại
Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau
Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi.

(t.ư liệu: thivien.net)

Bản dịch: Ngâm Đầu Bạc

Sông Cẩm chảy xuôi về đông bắc
Uyên ương đầu sóng quyện đôi vần
Trống đậu trên cao sào cung Hán
Mái đùa hương thảo cỏ đất Tần.

Thà chết một lần tan lông cánh
Chẳng nguyện chia lìa giữa áng mây
Cơn ghen A Kiều bao thuở ấy
Trường Môn cô quạnh hết canh ngày.

Luyến tiếc quân vương thương tình cũ
Nào hay từ phú chẳng hoàng kim
Tương Như hoàng kim được từ phú
Say hoa ong bướm giữa kim tiền.

Mậu Lăng trót say người quên ngẫm
Văn Quân dâng tặng Bạch Đầu Ngâm
Nước đã xuôi đông, tây còn nhớ
Hoa lìa cành cũ, thẹn rừng thâm.

Tơ hồng dây đỏ vốn vô tình
Chẳng màn cơn gió thoảng lung linh
Ai khiến nữ la cùng bến đậu
Quấn quýt bên nhau tựa bóng hình.

Một tấm lòng chung, hai loài cỏ
Lòng người sao vẹn được thế đây?
Long tu chiếu chiếc mong đừng cuốn
Mặc cho tơ nhện phủ giăng đầy.

Hổ phách gối xưa nhờ lưu lại
Biết đâu giấc mộng sẽ quay đầu
Nước đổ vô tình sao lấy trọn
Chàng về nhưng thiếp chẳng còn đâu.

Xưa kia đắc ý đâu ruồng rẫy
Nay chỉ Thanh Lăng với cầm đài...

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Chú thích:
*cỏ thố ty: hay còn được gọi là dây tơ hồng.
**Bài thơ là một bài phóng tác từ câu chuyện của Tương Như và Trác Văn Quân. Để biết thêm chi tiết, có thể xem lại chú thích ở bài Cầm Đài của Đỗ Phủ.
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Cổ Ý
Tác Giả: Lý Bạch
***

古意

君為女蘿草,
妾作菟絲花。
輕條不自行,
為逐春風斜。
百丈託遠松,
纏綿成一家。
誰言會面易,
各在青山崖。
女蘿發馨香,
菟絲斷人腸。
枝枝相糾結,
葉葉競飄揚。
生子不知根,
因誰共芬芳。
中巢雙翡翠,
上宿紫鴛鴦。
若識二草心,
海潮易可量。


Cổ ý
Quân vi nữ la thảo,
Thiếp tác thố ti hoa.
Khinh điều bất tự hành,
Vị trục xuân phong tà.
Bách trượng thác viễn tùng,
Triền miên thành nhất gia.
Thuỳ ngôn hội diện dị,
Các tại thanh sơn nha (nhai).
Nữ la phát hinh hương,
Thố ty đoạn nhân trường.
Chi chi tương củ kết,
Diệp diệp cánh phiêu dương.
Sinh tử bất tri căn,
Nhân thuỳ cộng phân phương.
Trung sào song phỉ thuý,
Thượng túc tử uyên ương.
Nhược thức nhị thảo tâm,
Hải triều diệc khả lường.


Dịch nghĩa
Chàng là loài cỏ nữ la
Thiếp là loài hoa thố ti
Cành nhỏ nhắn không thể tự đi
Nghiêng ngả theo gió xuân
Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi
Lâu ngày thành chung một nhà
Ai bảo gặp nhau đã dễ
Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh
Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát
Hoa thố ti làm người ta đứt ruột
Cành cành kết lại với nhau chằng chịt
Lá lá phất phơ theo gió
Sinh con chẳng biết đến rễ
Nhờ ai mà cùng thơm
Bên trong là tổ phỉ thuý
Bên trên đôi uyên ương đậu
Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy
Thì có thể đo được nước triều ở biển.


Bản dịch: Ý Cũ

Tình chàng ví cỏ nữ la
Thố ti tựa thiếp, là hoa ái tình.

...

Cành nhỏ nghiêng nghiêng đà uốn lượn
Nương theo xuân thoảng gió vờn qua
Gửi thân tùng bách xa trăm trượng
Lâu ngày tái ngộ chung một nhà.

Ai bảo tương phùng đâu chuyện dễ
Núi xanh chia cắt cũng đôi sườn
Hương ngát nữ la mùi cỏ dại
Thố ti day dứt kẻ đoạn trường.

Cành cành kết chặt thuở ban sơ
Lá lá phiêu nhiên gió lững lờ
Sinh con chẳng biết đâu là rễ
Cùng nhau hương tỏa chẳng phai mờ.

Trong kia phỉ thúy xây cùng tổ
Trên này đôi đậu bóng uyên ương
Ví chăng biết được đôi tình cỏ
Mấy khi triều biển cũng đo lường.

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Lục Thủy Khúc
Tác giả: Lý Bạch

淥水曲

淥水明秋月,
南湖採白蘋。
荷花嬌欲語,
愁殺蕩舟人。

Lục Thuỷ khúc
Lục Thuỷ minh thu nguyệt,
Nam hồ thái bạch tần.
Hà hoa kiều dục ngữ,
Sầu sát đãng chu nhân.


Dịch nghĩa
Trong nước thu xanh biếc có ánh trăng sáng
Nam hồ hoa sen trắng toả sáng chói
Hoa đẹp dục người cất tiếng ca
Làm buồn lòng khách chơi thuyền.

Bản dịch: Khúc Lục Thủy

Nước trong xanh biếc trăng thu sáng
Nam hồ sen trắng tỏa hào quang
Yêu kiều hoa dục người cất tiếng
Thuyền khách chơi sông dạ bàng hoàng.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Tử Dạ Đông Ca
Tác giả: Lý Bạch
***

子夜冬歌

明朝驛使發,
一夜絮征袍。
素手抽鍼冷,
那堪把剪刀!
裁縫寄遠道,
幾日到臨洮?

Tử Dạ đông ca
Minh triêu dịch sứ phát,
Nhất dạ nhứ chinh bào.
Tố thủ trừu trâm lãnh,
Na kham bả tiễn đao.
Tài phùng ký viễn đạo,
Kỷ nhật đáo Lâm Thao.


Dịch nghĩa
Ngày mai sứ giả sẽ đi về miền chinh chiến
Nguyên đêm ngồi may chiếc áo trận
Bàn tay ngọc cầm kim khâu đã thấy lạnh
Không biết có cầm nổi cái kéo để cắt áo hay không
May cho xong để còn gởi ra miền xa xôi
Vài ngày nửa rồi sẽ có áo cho người Lâm Thao.

Bản dịch: Bài Hát Mùa Đông Của Nàng Tử Dạ

Chiến trường sứ giả ra đi
Trước đêm may áo thân kì trường sa
Kim khâu lạnh buốt tay ngà
Kéo dao có cắt áo ra chiến bào?
Gửi người biên ải cho mau
Sớm ngày đưa áo Lâm Thao nhận giùm.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Chú thích:
Bài thơ nói lên cái khổ của chiến tranh. Cuộc chiến đã dính liền với nếp sống thường ngày. Nói lên sư thiếu thốn cơ cực của kiếp sống cũng như hình ảnh phụ nữ Á Đông vẫn ngàn đời hy sinh nhịn ăn nhịn mặc để lo cho chồng cho con
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top