[Thơ] Cổ Thi: Bản Sắc Thi Ca - Lạc Mỹ Xuyên Thu

ʈócquăɳ

Phàm Nhân
Ngọc
-172,94
Tu vi
0,00
Lữ dạ thư hoài
Tác giả: Đỗ Phủ

Hoang+hon.jpg



旅夜書懷

細草微風岸,
危檣獨夜舟。
星垂平野闊,
月涌大江流。
名豈文章著,
官應老病休。
飄飄何所似?
天地一沙鷗。




Lữ dạ thư hoài

Tế thảo vi phong ngạn,
Nguy tường độc dạ chu.
Tinh thuỳ bình dã khoát,
Nguyệt dũng đại giang lưu.
Danh khởi văn chương trứ,
Quan ưng lão bệnh hưu.
Phiêu phiêu hà sở tự?
Thiên địa nhất sa âu.




Dịch nghĩa

Trên bờ cỏ lăn tăn dưới gió hiu hiu
Chiếc thuyền vươn cao cột buồm trong đêm quạnh
Sao rũ xuống cánh đồng bằng phẳng bao la
Trăng tung toé trên sông chảy cuồn cuộn
Danh tiếng há nhờ văn chương mà lừng lẫy
Làm quan cũng nên về nghỉ khi già ốm
Chơi vơi giống như cái gì?
Một con chim âu giữa trời đất

(t.ư liệu: thivien.net)


Dịch thơ:
Nỗi niềm đêm đất khách
Cỏ gợn bên bờ dưới gió hiu
Thuyền con đêm quạnh buồm khẳng khiu,
Bao la đồng phẳng sao buồn rủ
Trăng soi nước xiết, ánh liêu xiêu.
Danh đời phải chăng chỉ văn chương,
Quan trường cũng tận buổi xế chiều
Trôi về nơi đâu, dạt về đâu?
Hải âu độc cánh trời tịch liêu.

-QuănQuăn-
(HoàiThanh)

P/s: Gửi những người con xa nhà...
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Đăng Nhạc Dương Lâu

Tác giả: Đỗ Phủ

Urv7odOt4Fm8dQKbcILzOg.1441998475.jpg

(Ảnh: Nhạc Dương lâu)

登岳陽樓

昔聞洞庭水,
今上岳陽樓。
吳楚東南坼,
乾坤日夜浮。
親朋無一字,
老病有孤舟。
戎馬關山北,
憑軒涕泗流。




Đăng Nhạc Dương* lâu

Tích văn Động Đình thuỷ,
Kim thướng Nhạc Dương lâu.
Ngô Sở đông nam sách,
Càn khôn nhật dạ phù.
Thân bằng vô nhất tự,
Lão bệnh hữu cô chu.
Nhung mã quan san bắc,
Bằng hiên thế tứ lưu.


Dịch nghĩa

Xưa nghe nói nước hồ Động Đình,
Nay được lên lầu Nhạc Dương.
Đất Ngô, đất Sở chia tách ở hai phía đông nam,
Trời đất suốt ngày đêm dập dềnh nổi.
Bà con bạn hữu không có một chữ (thư từ qua lại)!
Thân già yếu lênh đênh trong chiếc thuyền côi quạnh.
Quan san phía bắc đang nhộn binh đao,
Tựa hiên, ròng ròng nước mắt, nước mũi!

(t.ư liệu: thivien.net)

Dịch Thơ: Lên Lầu Nhạc Dương

Trước hồ Động Đình thường nghe đến
Nay lầu Nhạc Dương lại được lên
Đông Nam hai phía chia Ngô Sở
Trời đất ngày đêm nổi dập dềnh
Thư tín hữu** hàng*** nay chẳng thấy
Thân già một chiếc thuyền lênh đênh
Phương Bắc xa xôi còn chinh chiến
Ngậm ngùi rơi lệ tựa bên hiên.

Lạc Mỹ Xuyên Thu


Bản Dịch chữ Nôm (Sưu tầm): Tú Xương

Mấy cảnh Tiêu Tương vẫn tiếng đồn
Lầu đây hồ đấy trải bao còn
Chia ra Ngô Sở chiều ngang dọc
Chốt lại càn khôn thỏa nước non
Một chữ thân bằng tin nhạn vắng
Nghìn trùng quan tái chiếc thuyền con
Xa xa cõi bắc lầm phong hỏa
Thăm thẳm Trường An mắt đã mòn.


Chú Thích:
*Nhạc Dương: Nhạc Dương lâu là lầu ở cửa Tây thành Nhạc Dương, một trong Giang Nam tam đại danh lâu (hai lầu còn lại là Đằng Vương các và Hoàng Hạc lâu).
**Hữu: Bằng hữu, bạn bè

***Hàng: Họ hàng


 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Xuân Nhật Ức Lý Bạch
Tác giả: Đỗ Phủ
◇◇◇
Đôi nét về tác phẩm:
(Năm 746) Đỗ Phủ và Lý Bạch quen nhau ở Lạc Dương. Ít lâu sau Lý Bạch đi Giang Đông, Đỗ Phủ về Trường An. Về sau hai người không còn gặp lại nhau nữa. Đỗ Phủ làm bài này khi về Trường An.


春日憶李白
白也詩無敵,
飄然思不群。
清新庾開府,
俊逸鮑參軍。
渭北春天樹,
江東日暮雲。
何時一樽酒,
重與細論文?




Xuân nhật ức Lý Bạch

Bạch dã thi vô địch,
Phiêu nhiên tứ bất quần.
Thanh tân Dữu khai phủ,*
Tuấn dật Bão tham quân.**
Vị bắc*** xuân thiên thụ,
Giang Đông**** nhật mộ vân.
Hà thì nhất tôn tửu,
Trùng dữ tế luân văn?



Dịch nghĩa

Thơ Lý Bạch không có ai là địch thủ,
Tứ thơ phơi phới, nhẹ nhàng không ai bằng được.
Trong sáng, mới mẻ, giống như thơ của Dữu khai phủ,
Hào hùng phiêu dật, giống như thơ của Bão tham quân.
Lúc này tôi đang ngắm hàng cây dưới trời xuân tại Vị Bắc,
Thì bạn đang ở trong bóng mây chiều ở Giang Ðông.
Biết bao giờ được cùng nhau uống một chén rượu,
Và bàn kỹ về thơ văn?

(t.ư liệu: thivien.net)

Dịch Thơ: Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch

Lý Bạch thi ca ai danh phạm
Tài tứ phiêu nhiên khí bất phàm
Thanh tân như tựa khai phủ Dữu
Phiêu dật hào hùng Bão quân tham
Vị Bắc xuân xanh còn phủ lá
Giang Đông lấp bóng chốn mây ngàn
Đợi ngày nâng chén say rồi tỉnh
Thơ ngày cố hữu lại cùng ngâm.


Lạc Mỹ Xuyên Thu

_______

Chú thích:
*Dữu khai phủ: Tức Dữu Tín 庾信, nhà thơ đời Nam Bắc triều, làm chức khai phủ, có tài văn chương, là tác giả bài Ai Giang Nam phú nổi tiếng.
**Bão tham quân: Tức Bão Chiếu 鮑照, cũng là một nhà thơ đời Nam Bắc triều, làm chức tham quân, nổi tiếng có thi tài.
***Vị Bắc: Lúc này Đỗ Phủ đang ở Hàm Dương, phía bắc sông Vị.
****Giang Đông: Nơi Lý Bạch đang ở lúc này, nay là miền nam tỉnh Giang Tô và miền bắc tỉnh Chiết Giang.

 

ʈócquăɳ

Phàm Nhân
Ngọc
-172,94
Tu vi
0,00
Đề đô thành nam trang
題都城南莊

(hay còn gọi Đề tích sở kiến xứ)
Tác giả: Thôi Hộ 崔護

Thôi Hộ 崔護 tự Ân Công 殷功, người Bác Lăng đời Đường (nay là An Bình, Hà Bắc). Ông là một thi nhân đời Trung Đường, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), làm quan đến Lĩnh Nam tiết độ sứ. Thơ ông "Toàn Đường thi" còn chép 6 bài, trong đó "Đề đô thành nam trang" được lưu truyền rộng rãi nhất.

題都城南莊

去年今日此門中,
人面桃花相映紅.

人面不知何處去?
桃花依舊笑春風.


tumblr_m2fhh2xNzd1qkengto1_1280.jpg


Đề đô thành nam trang

Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong.


Dịch nghĩa:

Năm trước ngày này ngay cửa này,
Mặt người, hoa đào ánh hồng lẫn nhau.
Mặt người chẳng biết đã đi đâu,
Vẫn hoa đào năm ngoái đang cười giỡn với gió xuân.


Dịch thơ: Đề Đô Thành* nam trang
(QuănQuăn)

Năm ngoái, hôm nay tại cửa này
Hoa đào, má phấn đỏ hây hây
Người đâu không thấy, hoa còn đó
Hoa vẫn cợt cười, gió đông lay.

------------

Chú thích:
Đô Thành: Tức Trường An (kinh đô nhà Đường)

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Vô Đề 無題
Tác giả: Gia Các Lượng 諸葛亮

Giới thiệu tác giả: Gia Cát Lượng 諸葛亮 (181-234) tự Khổng Minh 孔明, người Dương Đô, Lang Gia (nay là huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc), từng làm thừa tướng cho Lưu Bị đời Tam quốc, là nhà chính trị, quân sự, phát minh, đồng thời cũng là tản văn gia trứ danh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một đại biểu cho lòng trung thành và của văn hoá truyền thống Trung Quốc. Thời trẻ ông còn có ngoại hiệu là Ngoạ Long 臥龍, hoặc Phục Long 伏龍.
images%20(3).jpeg


20180309_182027-jpg.25931


無題
大夢誰先覺,
平生我自知。
草堂春睡足,
窗外日遲遲。


Vô đề *
Đại mộng thuỳ tiên giác,
Bình sinh ngã tự tri.
Thảo đường xuân thuỵ túc,
Song ngoại nhật trì trì.


Dịch nghĩa
Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.


Dịch thơ: Không Đề
Giấc mộng lớn lao ai người tỉnh?
Cuộc đời bé nhỏ ta biết ta
Lều tranh yên giấc trong nhà
Mặt trời chậm rãi trôi qua ánh chiều.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Bản dịch: Sưu Tầm

Mộng lớn nào hay ai tỉnh sớm
Bình sinh ta tự biết tài ta
Ngày xuân no giấc nơi lều cỏ
Bóng nắng ngoài song đã xế tà.

Trương Việt Linh

Chú thích:
*Vô Đề: Khi Lưu bị đến thảo lư mời Khổng minh ra làm quân sư cho mình lần thứ ba (Tam cố thảo lư). Khổng minh sau khi ngủ dậy (không biết ngủ thật hay cố ý giả vờ ngủ) xuất khẩu thành bài thơ này.

 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊
Tác giả: Trương Kế

***
Đôi nét về tác giả: Trương Kế 張繼 (?-779) tự Ý Tôn 懿孫, người Tương Châu 襄州, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 12 (754), là một nhà thơ có tiếng thời Trung Đường. Thơ của ông trong Toàn Đường thi có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài Phong Kiều dạ bạc 楓橋夜泊 đã giúp ông lưu danh thiên cổ.



楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。


Phong Kiều dạ bạc*

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự, **
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.


Dịch nghĩa

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.

Bản Dịch: Nửa Đêm Đậu Bến Phong Kiều

Bản 1
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ lối
Lửa chày thiêu giấc bãi phong trôi
Cô Tô thành phủ Hàn San tự
Canh tàn chuông gọi khách thuyền côi.


Bản 2
Trăng tàn tiếng quạ phủ trời sương
Hàng phong đèn thắp giấc mộng thường
Cô Tô bến vắng thuyền côi lẻ
Hàn San chuông gọi khách sầu vương.


Lạc Mỹ Xuyên Thu

Bản dịch: Tản Đà

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

(t.ư liệu: thivien.net)

Chú thích:
* Đôi nét về bối cảnh: Trong bối cảnh thành Trường An chìm trong cơn tao loạn thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử đài, chẳng kịp theo đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn mà đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Một đêm ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt qua cả không gian và thời gian, lưu truyền hậu thế.
Bài thơ gây khá nhiều tranh cãi về bối cảnh không theo lẽ thường của tác giả, có ý kiến cho rằng nhà thơ chỉ đang ghép vần nên mới có những đoạn văn không theo lẽ thường kia...
Tìm hiểu thêm

** Hàn San Tự: Ngôi chùa nằm ở phía tây trấn Phong Kiều, Tô Châu, được xây vào năm Thiên Giám (502-519) đời Lương Vũ Đế, đến năm Trinh Quán (627-649) đời Đường Thái Tông được gọi là Hàn San tự để tưởng nhớ nhà sư Hàn San cuồng sĩ đã tu ở đây. Trong chùa có tranh tượng hai nhà sư nổi tiếng Hàn San, Thập Đắc.

_____
Đôi lời: Sở dĩ có hai bản dịch là vì có một số ý kiến cho rằng những bản dịch trước của vài dịch giả vì đi theo ý của bài thơ mà đảo lộn trật tự của bản Hán Việt nên Thu đã dựa vào bản Hán Việt để dịch bản 1, tuy nhiên để dễ hiểu và lột tả được ý nghĩa của bài thơ thì Thu cho rằng như bản 2 sẽ phù hợp hơn.
Cuối cùng, ấn tượng của Thu về bài thơ này khá sâu, trước đây Thu từng hạnh ngộ với một vị cố nhân và may mắn được nghe nói về bài thơ này, vì cách nhiều năm nên Thu chỉ nhớ được khoảng đầu và tên của tác giả, cho đến vài hôm trước đột nhiên bắt gặp nên đã quyết định dịch lại bài thơ này, xem như tưởng nhớ người cố nhân kia, trước kia chẳng hiểu vì sao khi nhớ đến người nọ thì trong đầu lại bật ra hai chữ Kế Phong, đến hiện tại mới dần hiểu, đơn giản là nó gắn liền với bài thơ trên, Kế trong Trương Kế, Phong trong Phong Kiều dạ bạc...

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Họa Khang ngũ Đình Chi "Vọng nguyệt hữu hoài"
Tác giả: Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言


Giới thiệu tác giả: Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 (645-708) tự Tất Giản 必簡, thi nhân Sơ Đường. Đỗ Thẩm Ngôn chính là ông nội của Đỗ Phủ đời Thịnh Đường.


和康五庭芝望月有懷
明月高秋迥,
愁人獨夜看。
暫將弓並曲,
翻與扇俱團。
霧濯清輝苦,
風飄素影寒。
羅衣一此鑒,
頓使別离難。


Hoạ Khang ngũ Đình Chi "Vọng nguyệt hữu hoài"
Minh nguyệt cao thu huýnh,
Sầu nhân độc dạ khan.
Tạm tương cung tịnh khúc,
Phiên dữ phiến câu đoàn.
Vụ trạc thanh huy khổ,
Phong phiêu tố ảnh hàn.
La y nhất thử giám,
Đốn sứ biệt ly nan.


Dịch nghĩa

Trăng thu sáng cao xa,
Ban đêm người buồn một mình coi.
Mới đây cong như cánh cung,
Nay đã tròn như cái quạt.
Sương xuống làm ánh sáng bớt trong,
Gió thổi làm bóng trắng thêm lạnh.
Thoáng thấy như tà áo lụa,
Chợt cảm khó mà rời xa được.


Sưu tầm: thivien.net

Bản dịch: Hoạ bài "Ngắm trăng nghĩ ngợi" của bác năm Khang Đình Chi
Trăng sáng đêm thu cao vời vợi
Dáng người cô quạnh đứng chơi vơi
Vừa mới cong vành như cung tỏa
Nay lại thoắt tròn tựa quạt thoi
Sương xuống phủ mờ trăng sáng tỏ
Gió lùa thêm lạnh bóng trắng trong
Ngoảnh thấy phất phiêu tà áo lụa
Lòng chợt vấn vương chẳng nỡ rời.
Lạc Mỹ Xuyên Thu

*** Không có t.ư liệu giới thiệu về Khang Đình Chi, tuy nhiên có một bài "Vọng Nguyệt Hữu Hoài" của Lý Bạch sẽ được cập nhật trong phần thơ của ông.
 
Last edited:

ʈócquăɳ

Phàm Nhân
Ngọc
-172,94
Tu vi
0,00
Oán Tình ( 怨情 )
Tác giả: Lý Bạch (701-762)


vo-tao-khang-cua-can-long-xahoi.com.vn-1433908559.jpg


怨情
美人捲珠簾,
深坐顰蛾眉.
但見淚痕濕,
不知心恨誰.




Oán tình
Mỹ nhân quyển châu liêm,
Thâm toạ tần nga my.
Đãn kiến lệ ngân thấp,
Bất tri tâm hận thuỳ.



Dịch nghĩa

Người đẹp cuốn chiếc rèm ngọc,
Ngồi thật lâu, ủ rũ mày ngài.
Chỉ thấy nước mắt đẫm ướt,
Không biết lòng nàng đang giận ai đây.

(nguồn: thivien)


Dịch thơ


Oán tình
(QuănQuăn)

Mỹ nhân cuốn rèm châu
Ngồi thinh, rũ mài sầu
Mặt hoa ngân ngấn lệ
Nào giận hờn ai đâu.
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
LÝ BẠCH 李白
Phần Một: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Sáng Tác
200px-liang_kai_-_li_bai_strolling-jpg.26033


☆Cuộc Đời:

Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), biểu tựThái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.

Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).

Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ.[2] Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sợ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐诗三百首) được biên bởi Tôn Thù(孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.

Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch, kiếm vũ của Bùi Mân, thảo thưcủa Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕)



☆☆ Sự Nghiệp Sáng Tác:

Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.

Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên,...

Lý Bạch là người Lũng Tây, Cam Túc; lúc mới 5 tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Theo lời Lý Bạch kể lại, ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường, cụ thể là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành. Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một Man bà (phụ nữ Tây Vực), đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch (lúc này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra).

Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà mẹ nằm mộng thấy sao Tràng Canh (hay Trường Canh), vì sao này có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch. Lý Bạch suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ.

Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ông tỏ ra rất thích, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.

Năm 15 tuổi, ông đã có bài phú ngạo t.ư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi tỉu Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.

Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Trường An... Bạn đồng hành với ông lúc này là Đông Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích ChâuTô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với t.ư Mã Tương Như".

Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộngkết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận.

Năm Khai Nguyên thứ 23 (735), ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".

Sau khi ông qua đời, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì ông làm khoảng 20.000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1.800 bài. Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.

☆☆☆ Tác Phẩm:

(Một bài thơ viết bằng chữ Hán của Lý Bạch)

Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, t.ư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".

Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).

Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú.

☆☆☆☆ Tìm Hiểu Thêm:

♤ Trích Dẫn Tiêu Biểu♤
  1. "Mã nhĩ đông phong" (Tai ngựa, gió đông) - Lý Bạch viết trong bài "Nhớ mười hai đem lạnh Vua Đáp uống một mình" (荅王十二寒夜獨酌有懷): Thế nhân văn thử giai điệu đầu, hữu như đông phong xạ mã nhĩ (世人聞此皆掉頭、有如東風射馬耳), nghĩa là "Mọi người trong thế giới đều nghe ấy và lắc đầu, thật giống như gió xuân thổi qua tai ngựa".
  2. "Kim Cốc tửu sổ" (Kim Cốc số rượu) - Từ bài thơ "Đêm xuân uống rượu trong vườn đào mận (春夜宴桃李園序)": Như thi bất thành, phạt y Kim Cốc tửu sổ (如詩不成、罰依金谷酒數), nghĩa là "Như thơ không thành, phạt theo số rượu ở Kim Cốc".


◇ Lý Bạch Trong Đạo Cao Đài ◇

Theo giáo lý đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Lý Bạch là danh xưng trong một kiếp xuống trần của Thái Bạch Kim Tinh, mượn kiếp này của ngài để tôn thờ một quyền năng thiêng liêng cao trọng với danh hiệu "LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ".

"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam kỳ độ rỗi các nguyên nhân"
Danh xưng Thái Bạch mới có từ đời Phong Thần, đến đời nhà Đường ngài mới chiết chơn linh đầu kiếp là một đại thi hào Lý Bạch.

"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần.
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường canh trích tử đến thăm trần."
_____________

Đôi lời:

Lý Bạch xưa kia còn "Tống Biệt"

Đổ Phủ đêm trăng "Nguyệt Dạ" điền
Biệt khúc chia ly người tri kỉ
Dạ hoài mong ngóng kẻ chinh yên.
-Lạc Mỹ Xuyên Thu-

Lý Bạch, nhắc đến cái tên này tôi lại liên tưởng khá nhiều đến sự lãng mạn và cốt khí thanh tao hơn là sự tài hoa khi nói về Đỗ Phủ. Hình tượng của ông luôn là một bạch y lão nhân, không màn thế sự, không vướng bụi trần khiến người ta chỉ có thể đứng nhìn từ xa mà không dám lại gần.

Bộ thơ khổng lồ của ông thật sự làm tôi rất hoang mang khi phải lựa chọn ra những bài phù hợp với bản thân vừa có thể tách biệt được với phong cách của Đổ Phủ, họ có sự đồng điệu về tâm hồn sáng tác nhưng nếu ai có tìm hiểu về hai vị lão nhân này, chắc hẳn sẽ đôi chút phân biệt được cách ra thi từ của hai người có sự bất đồng. Hơn là những bài nói về nghiệp lớn, tôi lại thích đặt cạnh hai ông bằng những bài thơ ngẫu hứng đời thường.

Số lượng bài có thể chỉ cập nhật trong giới hạn khả năng của dịch giả, nếu thi hữu nào có lòng yêu cổ thi lẫn tác giả này, có thể đóng góp thêm nhiều bản dịch khác.

Chân thành cảm ơn các bạn đã đến với Cổ Thi!

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
-199,95
Tu vi
0,00
Phần hai: Tác Phẩm
Tống Biệt
Tác giả: Lý Bạch
m6p-qhusxizfnghkr4uifw-1441999366-jpg.26037

送別

鬥酒渭城邊,
壚頭醉不眠。
梨花千樹雪,
楊葉萬條煙。
惜別傾壺醑,
臨分贈馬鞭。
看君潁上去,
新月到應圓。


Tống biệt

Đấu tửu Vị thành biên,
Lô đầu tuý bất miên.
Lê hoa thiên thụ tuyết,
Dương diệp vạn điều yên.
Tích biệt khuynh hồ tữ,
Lâm phân tặng mã tiên.
Khán quân Dĩnh thượng khứ,
Tân nguyệt đáo ứng viên.


Bản Dịch: Chia Tay

Cạn chén rượu đào trên sông Vị
Đê đầu bên bếp ngỡ rằng say
Ngàn cây lê phủ như phong tuyết
Vạn cành lá liễu tựa sương mai.
Nâng chén buồn thương người tiễn biệt
Roi da yên ngựa chẳng rời tay
Dáng người dần khuất trên sông Dĩnh
Trăng non vừa hé vẫn tròn hoài.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

 
Last edited:

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top