[Cầu trợ giúp & đăng ký dịch] Đế Yên

gaygioxuong

Phàm Nhân
Ngọc
64,12
Tu vi
0,00
第十七回 江湖空抱幽兰怨Đệ thập thất hồi giang hồ không bão u lan oán[Thứ mười bảy] [quay về/bẩm báo] [giang hồ/khắp bốn phương/khắp nơi/khắp chốn/kẻ giang hồ/nghề giang hồ] [không/khoảng không] [ôm/hợp lại/bão] [U Lan] oánThứ mười bảy quay về giang hồ không ôm U Lan oán






mấy huynh cho đệ hỏi: tiêu đề như này thì dịch làm sao vậy?
@nhatchimai0000: trưởng tôn vách -trường tôn bích - 墨迹犹新, 这是长孙壁刚刚留下的笔迹. 武玄霜痴立壁前, 不觉呆了. - đây là tên riêng ạ? Trường Tôn Bích @@

@all: trong hồi này, có 2 bài thơ sau:
Mười năm mộng tỉnh tương t.ư lệ
Vạn lý tây phong hãn hải xa
Đồng mệnh uyên ương bi bạc mệnh
Thiên nhai nơi nào là ta gia!

Nguyệt đem nhiệt huyết vấy hồ trần
sáng bả vỡ tung thác cũ người
Ứng với niệm Lý lang quốc hận
lưu hắn đồng hưởng tuyết sơn xuân.

huynh nào dịch thơ hộ em với ;))

Từ U Lan chúng ta hay gặp trong Không Cốc U Lan nghĩa là lan trong rừng vắng, bởi vậy từ U Lan thường dùng để chỉ những người con gái đẹp thùy mị.
Bởi vậy tiêu đề của chương này có nghĩa là: Giang hồ không giữ chân được người con gái xinh đẹp đang oán hận
Còn dịch xuôi thế nào thì tại hạ cũng chịu :D
 

Tuệ Hiền

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Thì để nguyên để anh đi tìm trợ giúp.

Phần tiêu đề cần thận trọng hơn.

Từ U Lan chúng ta hay gặp trong Không Cốc U Lan nghĩa là lan trong rừng vắng, bởi vậy từ U Lan thường dùng để chỉ những người con gái đẹp thùy mị.
Bởi vậy tiêu đề của chương này có nghĩa là: Giang hồ không giữ chân được người con gái xinh đẹp đang oán hận
Còn dịch xuôi thế nào thì tại hạ cũng chịu :D
Nếu đã dịch hoặc đọc nội dung chương rồi thì dễ hơn nhiều, trước, tại hạ cũng chẳng hiểu nghĩa 2 từ "U Lan" ấy.
 

BaoLam

Phàm Nhân
Ngọc
18,32
Tu vi
0,00
"Giang hồ không bão U Lan oán"

"Giang hồ bão oán" : Giang hồ ôm lòng thù hận.

"Giang hồ không bão oán" : Giang hồ vô cớ ôm lòng thù hận.

Do vậy chắc là : Giang hồ vô cớ ôm lòng thù hận của U Lan.

U Lan là gì ? Nghĩa đen thì chỉ có 2 : 1-Hoa Lan . 2-Tên khúc cổ cầm. Ta chưa đọc truyện nên ko biết có phải là tên ai hay ko. : D

---

Dự đoán :

Giang hồ uổng rước U Lan oán
 

Tuệ Hiền

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
"Giang hồ không bão U Lan oán"

"Giang hồ bão oán" : Giang hồ ôm lòng thù hận.

"Giang hồ không bão oán" : Giang hồ vô cớ ôm lòng thù hận.

Do vậy chắc là : Giang hồ vô cớ ôm lòng thù hận U Lan.

U Lan là gì ? Nghĩa đen thì chỉ có 2 : 1-Hoa Lan . 2-Tên khúc cổ cầm. Ta chưa đọc truyện nên ko biết có phải là tên ai hay ko. : D

---

Dự đoán :

Giang hồ vô cớ oán U Lan
Ai biết link post lên để đọc nội dung của chương là xog, khỏi đoán mò nữa.
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Nhớ chương 24, 25 có tiêu đề cẩm sắt mà chưa hiểu. Nay tìm được thêm thông tin, tại hạ để trong đây.

Trích từ bài http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ve-bai-tho-cam-sat-cua-ly-thuong-an

Trước hết, ta thử xem qua gốc gác những từ cần giải thích cùng những điển tích trong bài “Cẩm sắt”.



lishangyin2.jpg


[h=3] Cẩm sắt[/h] Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên.



Câu 1 ) Cẩm sắt: Có người dịch là đàn gấm,[SUP][SUP]2[/SUP][/SUP] nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt[SUP][SUP]3[/SUP][/SUP] thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.[SUP][SUP]4[/SUP][/SUP]
Vô đoan : do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền: Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy,[SUP][SUP]5[/SUP][/SUP] đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của t.ư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).[SUP][SUP]6[/SUP][/SUP]
Câu 2) Trụ: trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ rạo rực yêu đương.
t.ư, tứ: nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, xui nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam ‘Hai tay cầm bốn tao nôi / Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương’ – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Câu 3) Trang sinh: tức Trang Chu, nhà t.ư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết : ‘Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu !’
Câu 4) Vọng Đế : đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế).[SUP][SUP]7[/SUP][/SUP] Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Miết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp t.ư tình với vợ của Miết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.[SUP][SUP]8[/SUP][/SUP]
Xuân tâm : lòng xuân, còn có nghĩa như ‘xuân tình’ : tình yêu trai gái, có thể bao hàm hơi hướng tính dục. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ ‘xuân tình’ khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều.
Câu 5) Thương hải: Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), ‘khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc’ (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại.[SUP][SUP]9[/SUP][/SUP] Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích ‘thương hải di châu’ (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Câu 6) Lam điền : tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.[SUP][SUP]10[/SUP][/SUP]
Ngọc sinhyên : Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường : ‘Cảnh, đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền ửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần’ (thi gia chi cảnh như Lam Ðiền nhật noãn lương ngọc sinh yên, khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền giã).[SUP][SUP]11[/SUP][/SUP]
Hai câu 5 & 6 đối nhau, bởi vậy khi chuyển ngữ chúng tôi đã cố gắng giữ nguyên những chữ đối nhau trong câu. Nói một cách khác, khi xem ‘Thương hải’ là một danh từ tiêng, chúng tôi cũng xem ‘Lam điền’ là danh từ riêng; và khi dịch ‘thương hải’ như một danh từ chung (biển cả), chúng tôi cũng dịch ‘lam điền’ như một danh từ chung (đồng xanh).
Câu 7 & 8) Khả [đãi] : trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như; hoặc là trợ từ nghi vấn (làm sao có thể...).
Võng nhiên : không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha. Câu 7 có thể dịch là ‘Tình này [giả sử] có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ’ hoặc ‘Làm sao có thể chờ đợi để tình này trở thành cái gì để ghi nhớ ?’ Chúng tôi đã chọn cách dịch thứ nhất. Câu 8 có nghĩa là ‘Thì lúc ấy thời gian/duyên tình cũng đã phôi pha/tàn phai/nhạt nhoà’.


Sau đây là bản dịch bài “Cẩm sắt” của chúng tôi :

Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !



Bài thơ cũng có thể dịch như sau :

Cẩm sắt vì đâu ngũ-thập-huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !
 

gaygioxuong

Phàm Nhân
Ngọc
64,12
Tu vi
0,00
Nhớ chương 24, 25 có tiêu đề cẩm sắt mà chưa hiểu. Nay tìm được thêm thông tin, tại hạ để trong đây.

Trích từ bài http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ve-bai-tho-cam-sat-cua-ly-thuong-an

Trước hết, ta thử xem qua gốc gác những từ cần giải thích cùng những điển tích trong bài “Cẩm sắt”.



lishangyin2.jpg


Cẩm sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên.



Câu 1 ) Cẩm sắt: Có người dịch là đàn gấm,[SUP][SUP]2[/SUP][/SUP] nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt[SUP][SUP]3[/SUP][/SUP] thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.[SUP][SUP]4[/SUP][/SUP]
Vô đoan : do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền: Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy,[SUP][SUP]5[/SUP][/SUP] đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của t.ư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).[SUP][SUP]6[/SUP][/SUP]
Câu 2) Trụ: trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ rạo rực yêu đương.
t.ư, tứ: nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, xui nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam ‘Hai tay cầm bốn tao nôi / Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương’ – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Câu 3) Trang sinh: tức Trang Chu, nhà t.ư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết : ‘Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu !’
Câu 4) Vọng Đế : đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế).[SUP][SUP]7[/SUP][/SUP] Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Miết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp t.ư tình với vợ của Miết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.[SUP][SUP]8[/SUP][/SUP]
Xuân tâm : lòng xuân, còn có nghĩa như ‘xuân tình’ : tình yêu trai gái, có thể bao hàm hơi hướng tính dục. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ ‘xuân tình’ khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều.
Câu 5) Thương hải: Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), ‘khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc’ (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại.[SUP][SUP]9[/SUP][/SUP] Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích ‘thương hải di châu’ (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Câu 6) Lam điền : tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.[SUP][SUP]10[/SUP][/SUP]
Ngọc sinhyên : Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường : ‘Cảnh, đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền ửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần’ (thi gia chi cảnh như Lam Ðiền nhật noãn lương ngọc sinh yên, khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền giã).[SUP][SUP]11[/SUP][/SUP]
Hai câu 5 & 6 đối nhau, bởi vậy khi chuyển ngữ chúng tôi đã cố gắng giữ nguyên những chữ đối nhau trong câu. Nói một cách khác, khi xem ‘Thương hải’ là một danh từ tiêng, chúng tôi cũng xem ‘Lam điền’ là danh từ riêng; và khi dịch ‘thương hải’ như một danh từ chung (biển cả), chúng tôi cũng dịch ‘lam điền’ như một danh từ chung (đồng xanh).
Câu 7 & 8) Khả [đãi] : trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như; hoặc là trợ từ nghi vấn (làm sao có thể...).
Võng nhiên : không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha. Câu 7 có thể dịch là ‘Tình này [giả sử] có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ’ hoặc ‘Làm sao có thể chờ đợi để tình này trở thành cái gì để ghi nhớ ?’ Chúng tôi đã chọn cách dịch thứ nhất. Câu 8 có nghĩa là ‘Thì lúc ấy thời gian/duyên tình cũng đã phôi pha/tàn phai/nhạt nhoà’.


Sau đây là bản dịch bài “Cẩm sắt” của chúng tôi :

Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !



Bài thơ cũng có thể dịch như sau :

Cẩm sắt vì đâu ngũ-thập-huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !

Cầm và sắt vốn là 2 thứ nhạc cụ mà???

Tôi cũng đồng ý với lão Nhan, đó là đàn cầm và đàn sắt. Người ta thường nói 'nên duyên cầm sắt', nên từ cầm sắt thường được hiểu là nói về chuyện đôi lứa.
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Tôi cũng đồng ý với lão Nhan, đó là đàn cầm và đàn sắt. Người ta thường nói 'nên duyên cầm sắt', nên từ cầm sắt thường được hiểu là nói về chuyện đôi lứa.

Không phải đâu huynh nó gọi là cẩm sắt, VP nó chuyển thành gấm sắt.

Cẩm sắt # cầm sắt.

Theo như bài diễn giải thì đó là đàn sắt.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top