Là cấm sắt "锦瑟" này á hả anh?Không phải đâu huynh nó gọi là cẩm sắt, VP nó chuyển thành gấm sắt.
Cẩm sắt # cầm sắt.
Theo như bài diễn giải thì đó là đàn sắt.
Là cấm sắt "锦瑟" này á hả anh?Không phải đâu huynh nó gọi là cẩm sắt, VP nó chuyển thành gấm sắt.
Cẩm sắt # cầm sắt.
Theo như bài diễn giải thì đó là đàn sắt.
Đệ có đoạn giải nghĩa này, huynh đệ nào giỏi vào dịch giúp:Nó đấy .Code:锦瑟
漆有織錦紋的瑟。 唐 杜甫 《曲江對雨》詩:“何時詔此金錢會,暫醉佳人錦瑟傍。” 仇兆鰲 注引《周禮樂器圖》:“飾以寶玉者曰寶瑟,繪文如錦者曰錦瑟。” 明 無名氏 《霞箋記‧逾墻得喜》:“朱樓裏會嬌娘,似春風燕子逢 劉盼 ,蹔醉佳人錦瑟旁。” 清 龔自珍 《浪淘沙‧有寄》詞:“我自低迷思錦瑟,誰怨琵琶?”
锦瑟:装饰华美的瑟。瑟:拨弦乐器,通常二十五弦。
Đàn gấm? Là dây đàn bằng một loạt gấm?Theo hv.org nó bảo là đàn gấm
còn theo 1 trang tiếng Trung chả biết đủ tin cậy k0 thì khá giống ý anh Mai.
http://ts300.5156edu.com/html/228.htmlCode:锦瑟:装饰华美的瑟。瑟:拨弦乐器,通常二十五弦。
秋长风道: "我吃面." 坐在前堂吃饭的地方, 一口气说道: "四碗面, 一碗牛杂面, 多加牛杂, 还要一碗红烧排骨面, 只要炖得浓些就好, 还有一碗, 上好的素面." 加重口气道: "记得, 不要一点油星儿!" 等了片刻, 似乎瞥了叶雨荷一眼, 说道: "再来一碗冬菇火腿面, 冬菇最好是北方产的, 火腿一定要金华的." | Thu trường phong đạo: "Ngã cật diện." Tọa tại tiền đường cật phạn đích địa phương, nhất khẩu khí thuyết đạo: "Tứ oản diện, nhất oản ngưu tạp diện, đa gia ngưu tạp, hoàn yếu nhất oản hồng thiêu bài cốt diện, chích yếu đôn đắc nùng ta tựu hảo, hoàn hữu nhất oản, thượng hảo đích tố diện." Gia trọng khẩu khí đạo: "Ký đắc, bất yếu nhất điểm du tinh nhi!" Đẳng liễu phiến khắc, tự hồ miết liễu diệp vũ hà nhất nhãn, thuyết đạo: "Tái lai nhất oản đông cô hỏa thối diện, đông cô tối hảo thị bắc phương sản đích, hỏa thối nhất định yếu kim hoa đích." | Ttp bảo: “Ta ăn mì.” Hắn ngồi ở sảnh đón nói ra một hơi: “Tứ oản diện, nhất oản ngưu tạp diện, đa gia ngưu tạp,còn thêm một bát thịt kho tàu có xương sườn, chỉ cần hầm cách thủy hơi đặc một chút là được, thêm một chén, tố diện tốt nhất.” Hắn đề cao thanh âm nói tiếp: “Nhớ là, không cho chút nước nào vào nhé!” Nghỉ giây lát dường như hắn liếc dvh một cái rồi nói tiếp: “Thêm một bát chân giò hun khói nấu với nấm hương, hay nhất là nấm hương loại lấy từ phương bắc, chân giò hun khói nhất định phải loại kim hoa.” | Thu Trường Phong nói: "Ta ăn mì." Ngồi ở tiền đường ăn cơm địa phương, một hơi nói ra: "Bốn mặt bát, một chén ngưu tạp mặt, nhiều hơn ngưu tạp, còn muốn một chén thịt kho tàu xương sườn mặt, chỉ cần hầm cách thủy được đậm đặc chút ít là tốt rồi, còn có một chén, tốt nhất đồ hộp." Tăng thêm khẩu khí nói: "Nhớ rõ, không cần phải Nhất điểm giọt nước sôi nhi!" Chờ giây lát, tựa hồ liếc Diệp Vũ Hà liếc, nói ra: "Lại đến một chén nấm hương chân giò hun khói mặt, nấm hương tốt nhất là phương bắc sinh ra, chân giò hun khói nhất định phải Kim Hoa." |
Nhớ chương 24, 25 có tiêu đề cẩm sắt mà chưa hiểu. Nay tìm được thêm thông tin, tại hạ để trong đây.
Trích từ bài http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ve-bai-tho-cam-sat-cua-ly-thuong-an
Trước hết, ta thử xem qua gốc gác những từ cần giải thích cùng những điển tích trong bài “Cẩm sắt”.
![]()
Cẩm sắt
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên.
Câu 1 ) Cẩm sắt: Có người dịch là đàn gấm,[SUP][SUP]2[/SUP][/SUP] nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt[SUP][SUP]3[/SUP][/SUP] thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.[SUP][SUP]4[/SUP][/SUP]
Vô đoan : do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền: Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy,[SUP][SUP]5[/SUP][/SUP] đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của t.ư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).[SUP][SUP]6[/SUP][/SUP]
Câu 2) Trụ: trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ rạo rực yêu đương.
t.ư, tứ: nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, xui nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam ‘Hai tay cầm bốn tao nôi / Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương’ – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Câu 3) Trang sinh: tức Trang Chu, nhà t.ư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết : ‘Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu !’
Câu 4) Vọng Đế : đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế).[SUP][SUP]7[/SUP][/SUP] Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Miết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp t.ư tình với vợ của Miết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.[SUP][SUP]8[/SUP][/SUP]
Xuân tâm : lòng xuân, còn có nghĩa như ‘xuân tình’ : tình yêu trai gái, có thể bao hàm hơi hướng tính dục. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ ‘xuân tình’ khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều.
Câu 5) Thương hải: Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), ‘khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc’ (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại.[SUP][SUP]9[/SUP][/SUP] Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích ‘thương hải di châu’ (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Câu 6) Lam điền : tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.[SUP][SUP]10[/SUP][/SUP]
Ngọc sinhyên : Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường : ‘Cảnh, đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền ửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần’ (thi gia chi cảnh như Lam Ðiền nhật noãn lương ngọc sinh yên, khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền giã).[SUP][SUP]11[/SUP][/SUP]
Hai câu 5 & 6 đối nhau, bởi vậy khi chuyển ngữ chúng tôi đã cố gắng giữ nguyên những chữ đối nhau trong câu. Nói một cách khác, khi xem ‘Thương hải’ là một danh từ tiêng, chúng tôi cũng xem ‘Lam điền’ là danh từ riêng; và khi dịch ‘thương hải’ như một danh từ chung (biển cả), chúng tôi cũng dịch ‘lam điền’ như một danh từ chung (đồng xanh).
Câu 7 & 8) Khả [đãi] : trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như; hoặc là trợ từ nghi vấn (làm sao có thể...).
Võng nhiên : không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha. Câu 7 có thể dịch là ‘Tình này [giả sử] có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ’ hoặc ‘Làm sao có thể chờ đợi để tình này trở thành cái gì để ghi nhớ ?’ Chúng tôi đã chọn cách dịch thứ nhất. Câu 8 có nghĩa là ‘Thì lúc ấy thời gian/duyên tình cũng đã phôi pha/tàn phai/nhạt nhoà’.
Sau đây là bản dịch bài “Cẩm sắt” của chúng tôi :
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !
Bài thơ cũng có thể dịch như sau :
Cẩm sắt vì đâu ngũ-thập-huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !
有血飞, 血光潋滟. Hữu huyết phi, huyết quang liễm diễm. [Có] [máu bay ra], [Huyết Quang] [liễm] [diễm].
Ít chữ quá ko biết múa thế nào cho nó hay, anh em trợ giúp phát.
Chào mừng bạn đến với diễn đàn Bạch Ngọc Sách
Để xem đầy đủ nội dung và sử dụng các tính năng, mời bạn Đăng nhập hoặc Đăng ký tài khoản