[Thơ] Cổ Thi: Bản Sắc Thi Ca - Lạc Mỹ Xuyên Thu

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Thu tịch lữ hoài
Tác giả: Lý Bạch
***


秋夕旅懷

涼風度秋海,
吹我鄉思飛。
連山去無際,
流水何時歸。
目極浮雲色,
心斷明月暉。
芳草歇柔豔,
白露催寒衣。
夢長銀漢落,
覺罷天星稀。
含悲想舊國,
泣下誰能揮。


Thu tịch lữ hoài

Lương phong độ thu hải,
Xuy ngã hương tứ phi.
Liên sơn khứ vô tế,
Lưu thuỷ hà thời quy?
Mục cực phù vân sắc,
Tâm đoạn minh nguyệt huy.
Phương thảo yết nhu diệm,
Bạch lộ thôi hàn y.
Mộng trường Ngân Hán lạc,
Giác bãi thiên tinh hy.
Hàm bi tưởng cựu quốc,
Khấp hạ thuỳ năng huy.

Dịch nghĩa
Gió lạnh thổi qua bể mùa thu
Thổi theo lòng nhớ quê nhà của tôi
Núi liền nhau như chạy dài vô cùng tận
Nước trôi mãi hỏi có khi nào trở về chăng?
Sắc mây nổi xa cùng cực khỏi tầm mắt
Trăng sáng soi tỏ làm đứt tươm khúc ruột
Cỏ thơm hết đẹp mướt
Sương bạc giục người mặc áo rét
Giấc mơ dài tưởng rơi dải Ngân Hà
Tỉnh dậy sao trên trời chỉ còn lác đác
Ôm mối sầu tưởng nhớ đến nước cũ
Khóc rơi nước mắt ai lau cho được

(Năm 758)


(t.ư liệu: thivien.net)

Bản dịch: Đêm Thu Nhớ Nhà

Trời thu gió lạnh qua dòng bể,
Thoảng hồn nhung nhớ mảnh chân quê.
Núi bao một dãy dài khôn tận,
Hỏi theo dòng nước, mấy khi về?
Mỏi mắt trông theo mây trời thẳm,
Trăng soi lòng dạ cũng ê chề.
Cỏ thơm xanh mướt nay tàn úa,
Giục người thêm áo gió sương khê.
Ôm mối sầu thương nơi cố quốc,
Lệ dâng chẳng gạt hết não nề...

Lạc Mỹ Xuyên Thu
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Thành phố

Phần Một: Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

☆ Cuộc đời

Thành phố 胡志明 (1890–1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Thành phố. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp.

Quê hương của Người (làng Kim Liên quê nội liền kề với làng Hoàng Trù quê ngoại, đều thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1896), phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1908), Cuộc vận động cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng (1905-1908), Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913). Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, năm 1911 Người quyết định vượt biển sang phương Tây, quê hương của những cuộc cách mạng dân chủ, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển để thực hiện mục đích là dành độc lập, tự do. Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước Người đã có thời gian học tại các trường học tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hoà nhập vào xã hội phương Tây.

Người nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin khi hoạt động trên đất Pháp. Chính vào lúc phong trào cách mạng Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đến với chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và là một trong số những người sáng lập ra Đản.g Cộng sản Pháp (1920).

Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đản.g Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống...

Từ sau khi Đản.g Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 tháng Hai 1930) trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cách mạng, có thời gian bị bắt và tù đày trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông (1931-1932), Người vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Tầng lớp trung tâm Đản.g ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo tốt đường lối của Đản.g.

Ngày 8 tháng Hai 1941, Người trở về Tổ quốc chủ trì Hội nghị Tầng lớp trung tâm lần thứ VIII của Tầng lớp trung tâm Đản.g Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941.

Tháng Tám 1942 với tên gọi mới là Thành phố, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh. Vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Thời gian Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký, một tác phẩm lịch sử và văn học được đánh giá cao.

Người đã vận dụng thành công học thuyết Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam đưa tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, n.hà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Sau ngày Tuyên ngôn độc lập (ngày 2 tháng Chín 1945) tình hình đất nước vô cùng khó khăn, vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Tầng lớp trung tâm Đản.g do Thành phố đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội (1954). Sau giải phóng miền Bắc, Thành phố cùng Tầng lớp trung tâm Đản.g lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Thành phố là linh hồn của hai cuộc kháng chiến cứu nước, Người chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược.

☆☆ Sự Nghiệp Sáng Tác


Chủ tịch Thành phố không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam di sản văn học có giá trị, gắn liền với tiến trình phát triển của cách mạng và đời sống tinh thần của dân tộc.

Sinh thời, Bác Hồ không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và Người cũng không bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ hay nghệ sỹ mặc dù Bác rất yêu văn thơ và cũng rất đỗi tài hoa. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, với lòng yêu nước cháy bỏng, Bác đã quyết tâm tìm đường giải phóng dân tộc và trên con đường hoạt động cách mạng đầy gian khổ ấy, Người nhận ra rằng, văn chương cũng có thể là vũ khí đấu tranh cách mạng. Vì vậy, Người đã dùng văn chương như một vũ khí để phục vụ cách mạng và đã trở thành nhà văn, nhà thơ lớn ngoài ý muốn của mình. Chính Bác đã từng viết rằng:

“Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”.

tpsd14072016(1).jpg

Ảnh t.ư liệu
Quan điểm sáng tác nghệ thuật của Bác cũng rất đặc biệt. Người xem văn nghệ là vũ khí, nghệ sĩ là chiến sĩ vì văn chương phải phục vụ cách mạng, phục vụ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống lại cái ác, cái bất công ngang trái. Lúc ở trong tù ngục, Bác cũng đã từng quan niệm:

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Năm 1951, trong thư gửi các họa sĩ tại Đại hội Văn hóa nghệ thuật ở chiến khu Việt Bắc, Bác viết: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Quan điểm nghệ thuật này của Bác được kế thừa, xuất phát từ truyền thống của dân tộc “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là chuyên chú ở con người, loại không đáng thờ là chuyên chú ở văn chương (Nguyễn Văn Siêu) và Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng quan niệm:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”

Hay Sóng Hồng:

“Dùng bút làm đòn, chuyển xoay chế độ
Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền”

Bác Hồ cũng đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người quan tâm đến quảng đại quần chúng vì Người cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Văn thơ của Bác nhằm vận động tuyên truyền quần chúng làm cách mạng và Người đã nêu lên một kinh nghiệm chung cho các văn nghệ sĩ, người cầm bút phải xác định rõ: Viết cho ai? Viết để làm gì? Và viết cái gì? Viết như thế nào? và đó chính là ý thức, là trách nhiệm của người cầm bút.

Theo Bác, văn chương phải phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc sống và hiện thực cách mạng, chú ý noi gương người tốt việc tốt và uốn nắn phê bình cái xấu. Nhà văn cũng phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề, hình thức của tác phẩm phải hấp dẫn, ngôn từ chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt.

img_20170516154240.jpg

Tác phẩm "Nhật ký trong tù". Nguồn ảnh: dantri.com.vn

Sự nghiệp sáng tác văn học của Bác in đậm dấu ấn ở 3 thể loại: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.

Ở thể loại văn chính luận, Người dùng lối t.ư duy sắc sảo, giàu trí tuệ, lập luận sắc bén, giàu chất luận chiến, dẫn chứng xác thực và tính thuyết phục. Các tác phẩm ở thể loại này được Bác viết với mục đích chính trị, thể hiện những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử. Tiêu biểu có thể kể đến như “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết từ năm 1921 đến 1925 bằng tiếng Pháp, có 12 chương. Đây là tác phẩm chính luận sắc sảo nói lên nỗi đau khổ của người dân bản xứ và tố cáo trực diện chế độ thực dân Pháp, thức tỉnh, kêu gọi những người nô lệ đứng lên chống lại ách áp bức bóc lột. Bản án chế độ thực dân Pháp là một tác phẩm có phần luận bàn lý lẽ, có chứng cứ ở sách vở và cuộc đời, có phần kết tội đanh thép. Tiếp đó là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, đây là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao phản ánh khát vọng độc lập tự do và cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc ta và đã giành chiến thắng. Tác phẩm tuyên bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân Việt Nam và cả thế giới, được viết với cảm hứng phấn chấn, giàu cảm xúc, cấu trúc chặt chẽ, lý lẽ sắc bén. Ngoài ra là một số tác phẩm khác như: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946); Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966); Bản Di chúc (1965-1969).

Ở thể loại truyện và kí, các tác phẩm của Bác Hồ đem lại cho người đọc những rung cảm sâu xa và nhận thức lớn lao với một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một số tác phẩm nổi bật như: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Chuyện con rùa, Những con người biết mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu. Hay Nhật ký chìm tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Giấc ngủ 10 năm… Tất cả các tác phẩm này nhằm vạch trần bộ mặt tàn ác, xảo trá, bịp bợm của chính quyền thực dân, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần tự hào dân tộc.

Hàm chứa chất trí tuệ sắc sảo, nội dung các tác phẩm hướng về những vấn đề lớn của nhân sinh, của quốc gia và cách mạng với cách viết hiện đại cả về ngôn từ, cách xây dựng nhân vật. Ngòi bút của Bác chủ động, sáng tạo, khi là lối kể chân thực tạo không khí gần gũi, có khi lại là giọng điệu châm biếm thâm thúy và tinh tế. Người thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén, mang giá trị về văn học và chính trị, đem lại cho người đọc những rung cảm sâu xa và nhận thức lớn lao với một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa.

img_20170516154239.jpg

Bản thảo tác phẩm "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến". Ảnh: dantri.com.vn

Ngoài văn chính luận và truyện, kí, Bác còn để lại một di sản thơ ca phong phú. Trước hết phải kể đến là tập thơ “Nhật kí trong tù”, gồm 133 bài với hai nội dung lớn: Tố cáo nhà tù vô nhân đạo và xã hội Trung Quốc bất công đồng thời khắc họa bức chân dung vĩ đại của người chiến sĩ cộng sản Thành phố. Ngoài ra, Bác Hồ còn viết nhiều bài thơ với bút pháp giản dị nhằm tuyên truyền đường lối của Đản.g và động viên nhân dân hăng hái tham gia cách mạng. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Bác cũng viết nhiều bài thơ tức cảnh, trữ tình thể hiện chất trữ tình đằm thắm và cảm hứng anh hùng ca thời đại của bậc đại trí, đại dũng với tâm hồn lạc quan tươi sáng, phong thái ung dung tự tại và một tấm lòng luôn canh cánh nỗi niềm lo âu cho “nỗi nước nhà”. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Tức cảnh Pác Bó, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Lên núi, Rằm tháng giêng, Báo tiệp, Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn…

Thơ ca của Bác có sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Nét cổ điển thể hiện ở ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi, nhân vật trữ tình thường có phong thái ung dung, đề tài thiên nhiên chấm phá, nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Nét hiện đại thể hiện ở đề tài dân chủ gắn với chính trị, thời sự và cách mạng, chất lãng mạn bay bổng, giọng điệu thâm trầm.

Có thể khẳng định rằng, sự nghiệp sáng tác văn thơ của Chủ tịch Thành phố là di sản vô giá, có những tác động sâu sắc đến t.ư tưởng, tình cảm của mỗi con người Việt Nam. Những tác phẩm văn học của Người cũng có sự gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, thể hiện t.ư tưởng, tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân. Văn thơ, dù chỉ là thể hiện phần nào phong cách, con người Bác nhưng đối với dân tộc Việt Nam, đó lại chính là kho tàng quý giá, chứa đựng giá trị truyền thống và hiện đại, không chỉ là kết tinh của dân tộc mà còn cả của nhân loại.

Theo cinet.vn


☆☆☆ Tác Phẩm


Trong các tác phẩm của ông có thể nói bản tuyên ngôn độc lập do ông biên soạn là có tiếng vang nhất và được sánh vai cùng các bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử Việt Nam như bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà tương truyền của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
độ thực dân Pháp (1925)
  • Đường kách mệnh (1927)​
  • Con rồng tre (1922, kịch, nhằm đả kích vua Khải Định)[292]​
  • Các truyện ngắn: Pari (1922, Nhân đạo), Lời than vãn của bà Trưng trắc (1922, Nhân đạo), Con người biết mùi hun khói (1922, Nhân đạo), Vi hành (1923, Nhân đạo), Đoàn kết giai cấp (1924, Người cùng khổ), Con rùa(1925, Người cùng khổ), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925, Người cùng khổ)[293]​
  • Nhật ký trong tù (1942, thơ)​
  • Sửa đổi lối làm việc (1947)​
  • Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (bút danh Trần Dân Tiên[294][295][296][297])​
  • Vừa đi đường vừa kể chuyện (bút danh T. Lan[298][299])
    Trong cuốn sách này, Thành phố hóa thân thành một cán bộ trong đoàn tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Thành phố trong rừng núi Việt Bắc và được Thành phố vui miệng kể chuyện cho nghe nhiều chuyện.​
  • Di chúc Thành phố​

☆☆☆☆Tìm Hiểu Thêm:

♧Thành phố trong văn học và nghệ thuật♧

Âm nhạc
Bài chi tiết: Danh sách ca khúc về Thành phố
  • Bài hát "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" của nhạc sĩVăn Cao:
Người về đem tới ngày vui Mùa thu nắng toả Ba Đình Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn, Từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên.
  • Bài hát "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" của nhạc sĩLưu Hữu Phước:
Thành phố sáng ngời gương đấu tranh. Vững bền đưa chúng ta vượt khó khăn. Thành phố muôn năm chỉ lối cho nhân dân. Đến ngày chiến thắng vẻ vang.
  • Bài hát "Người là niềm tin tất thắng" của nhạc sĩ Chu Minh:
Đất nước nghiêng mình đời đời nhớ ơn. Tên người sống mãi với non sông Việt Nam. Lời thề sắt son theo tiếng bác gọi, bốn ngàn năm dồn lại hôm nay, người sống trong muôn triệu trái tim... Thế giới nghiêng mình, loài người tiếc thương. Đây người chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Người là ước mơ của các dân tộc. Tiếng người vang vọng đến mai sau. Nguyện ước theo con đường Bác đi...
  • Bài hát "Bác Hồ, một tình yêu bao la" của nhạc sĩ Thuận Yến
... Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ trung thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
  • Bài hát "Thành phố đẹp nhất tên người" của nhạc sĩ Trần Kiết Tường:
... Trên cánh đồng miền Nam, đau thương mây phủ chân trời. Khi ca lên Thành phố, nghe lòng phơi phới niềm tin...
  • Bài hát The Ballad of Thành phố (Bài ca Thành phố)[304] của nhạc sĩ người Anh Ewan MacColl
... From VietBac to the SaiGon Delta. Marched the armies of Viet Minh. And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people. Peace and freedom and Thành phố...
  • Bài hát Teacher Uncle Ho (Bác Hồ – Thầy giáo) của Pete Seeger:
... I'll have to say in my own way. The only way I know, that we learned power to the people and the power to know. From Teacher Uncle Ho!
  • Bài hát Inolvidable Thành phố (Thành phố – Không thể nào quên) của Alí Primera:
Tenía la figura pequeña y la barbita blanca el camarada Thành phố querido tío Thành phố inolvidable Thành phố indoblegable Thành phố inolvidable Thành phố indoblegable Thành phố...
  • Nhiều sáng tác khác: "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" (Huy Thục), "Thanh niên làm theo lời Bác" (Hoàng Hà), "Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ" (Triều Dâng), "Tấm áo Bác Hồ", "Gửi tới Bác Hồ" (Kapapúi - Tường Vi), "Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác" (An Thuyên), "Vầng trăng Ba Đình", "Miền Trung nhớ Bác", "Người về thăm quê" (Thuận Yến), "Bên lăng Bác Hồ", "Bên tượng đài Bác Hồ" (Lê Giang), "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" (Trần Trung), "Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên", "Cô gái Pakô con cháu Bác Hồ" (Huy Thục), "Đôi dép Bác Hồ" (Văn An - thơ Tạ Hữu Yên), "Bài ca dâng Bác" (Trọng Loan), "Như có Bác Hồ trong ngày đại thắng" (Phạm Tuyên), "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" (Trần Hoàn), "Tình Bác sáng đời ta" (Lưu Hữu Phước), "Thành phố đẹp nhất tên người" (Trần Kiết Tường)...
Thơ, văn, tuyển tập
250px-Thieunhi4_52011.jpg

Tác phẩm "Bác Hồ và ba em thiếu nhi Trung -Nam -Bắc" (Tranh lụa vẽ bằng máu 1947) của họa sĩ Diệp Minh Châu.
  • Bài thơ "Người đi tìm hình của nước" của nhà thơ Chế Lan Viên:
...Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba-lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya...
  • Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu:
...Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường...
  • Bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969, ngay sau khi Chủ tịch Thành phố qua đời, có đoạn:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[305]
  • Bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên::
Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
  • Bài thơ "Một con người chủ nghĩa Mác sinh ra" của Hải Như:
Bác đã cho ta, Bác đã cho đời
Lẽ sống của ngày mai trên Trái Đất
Lẽ sống đẹp, không coi mình cao nhất
Mong kiếp người, ai cũng cất đầu cao
  • Bài thơ "Chúc tụng Bác Hồ" của Ismael Gomes Braga (Brazil):[306]
Vị thánh sống của nghìn thánh sống
Và ân nhân của cả muôn đời
Thành phố! - Chưa dễ thấy người
Chúng tôi đây bọn mù mắt sáng!

Tác phẩm Búp sen xanh của Sơn Tùng kể về thời tuổi trẻ của Thành phố.

Trong tiểu thuyết Đỉnh cao chói lọi của Dương Thu Hương, Thành phố được hư cấu thành nhân vật chính Chủ tịch.[307][308]

Thành phố toàn tập, ấn bản I: Nhà xuất bản Sự thật (1980–1989), ấn bản II: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1995-1996), bản số hóa trên CD-ROM: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001–nay).

Hội họa
Đã có ít nhất bốn bức vẽ bằng máu về Thành phố (huyết họa)[309]

Điện ảnh
  • Hình tượng Thành phố trong phim truyện video Hà Nội – Mùa đông 1946 do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) trong phim truyện nhựa Hẹn gặp lại Sài Gòndo NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Tống Văn Sơ trong phim truyện Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông do NSƯT Trần Lực thể hiện.
Sân khấu
  • Hình tượng Thành phố trong vở kịch Đêm trắng NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Thành phố trong vở chèo Những vần thơ thép do NSƯT Mạnh Kiên thể hiện.
  • Hình tượng Thành phố trong nhiều vở kịch nói do nghệ sĩ Văn Tân thể hiện từ năm 1974 – nay.


(Nguồn t.ư liệu: wikipedi, thivien.net,...)
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Phần hai: Tác Phẩm

◇ Ngục Trung nhật ký (Nhật ký trong tù) 獄中日記 ◇

Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Thành phố viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Thành phố qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia.

Vô Đề
Tác giả: Thành phố
***

無題

身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề (I)
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

Bản dịch: Không Tên

Thân nay trong chốn tù lao
Nhưng tinh thần quyết chẳng vào ngục môn
Muốn nên nghiệp lớn cao hơn
Tinh thần phải cả chẳng sờn ngại chi.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Chú thích:
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.

Nguồn: Thành phố toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Tảo
Tác giả: Thành phố
***


太陽每早從牆上,
照著龍門門未開。
籠裡現時還黑暗,
光明卻已面前來。

早起人人爭獵虱,
八鐘響了早餐開。
勸君且吃一個飽,
否極之時必泰來。

Tảo

Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng,
Chiếu trước lung môn môn vị khai.
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám,
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.

Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt,
Bát chung hưởng liễu tảo xan khai.
Khuyến quân thả ngật nhất cá bão,
Bĩ cực chi thì tất thái lai.


Dịch nghĩa
Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường,
Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở;
Giờ đây trong lao còn đen tối,
Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt.

Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận,
Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu;
Khuyên anh hãy cứ ăn no,
Khổ đến tột cùng, vui ắt tới.


Bản dịch: Buổi Sớm

Mỗi sớm trời lên khỏi ngọn tường
Chiếu vào lao ngục, cửa chưa giương
Khắc này nơi đây còn u tối
Ánh sáng ngoài kia đã tỏ tường.

Sớm dậy mọi người đua bắt rận
Tám giờ chuông điểm, bữa tinh sương
Khuyên anh lấp đầy cơn bụng đói
Khổ cực qua rồi, sướng vui hơn...

Lạc Mỹ Xuyên Thu


 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Nguyên Tiêu
Tác giả: Thành phố
***

元宵

今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。


Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.


Dịch nghĩa
Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.


Bản dịch: Rằm Tháng Giêng

Ngày rằm trăng sáng dịp tháng giêng
Trời xanh, nước thẳm tiết xuân viên
Người trong sương khói bàn quân vụ
Đêm về kịp lúc trăng đầy thuyền.


Lạc Mỹ Xuyên Thu


***

(Tháng 2 năm 1948.)

Nguồn:
1. Thành phố - Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Thành phố toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
 
Last edited:

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Tẩu Lộ
Tác giả: Thành phố
***

走路

走路才知走路難,
重山之外又重山。
重山登到高峰後,
萬里與圖顧盼間。


Tẩu lộ
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian.


Dịch nghĩa
Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác;
Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót,
Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

Bản dịch: Đi Đường

Khổ dặm đi đường biết gian lao
Bao phen trùng điệp lớp núi cao
Núi cao truân đến nơi cùng tận,
Ngàn muôn non nước, mắt thu vào.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

Bản dịch: (sưu tầm)

Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao chập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Nam Trân

____

Nguồn: Thành phố toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Tỳ bà hành 琵琶行
Tác giả: Bạch Cư Dị
***


mws5GEODxGT9oXCWt9NGsw.1441999283.jpg


琵琶行

潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,

江州司馬青衫濕。

Tỳ Bà Hành

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như t.ư ngữ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân a di tử
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang địa thế thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Âu á triều triết nan vi thính
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa
Giang Châu t.ư mã thanh sam thấp.

Dịch nghĩa
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi dì chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
t.ư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh

Dịch thơ:
Lạc Mỹ Xuyên Thu


Tầm Dương tiễn khách đêm thâu
Lá phong hiu hắt, hoa lau êm đềm
Người xuống ngựa, khách trong thuyền
Rượu nâng chưa cạn mà quên sáo đàn
Say rồi cất tiếng buồn than
Trăng tà rọi bóng, hợp tan trĩu lòng
Tỳ Bà bỗng cất trên sông
Người đà quay gót, kẻ không khởi hành
Lần tìm xin hỏi tính danh
Tỳ bà im tiếng chẳng đành đổi trao
Cập thuyền mong được gặp nhau
Khêu đèn, rượu rót, tiệc vào bày qua
Gọi ngàn lần mới bước ra
Tỳ bà che nửa dung hoa thẹn thùng
Thử đàn, vang tiếng mông lung
Khúc còn chưa gảy mà rung động người
Dây thổn thức, tiếng như lời
Giãy bày cay đắng cuộc đời truân chuyên
Rũ mày đàn gảy triền miên
Vô vàng tâm sự, sầu riêng mấy điều
Nhẹ dừng, chậm vuốt, lại khêu
"Nghê Thường" vừa dứt, "Lục Yêu" dây vào
Lớn thì như tiếng mưa rào
Nhỏ đà tựa lúc thì thào nỉ non
Rì rào lẫn tiếng con con
Hòn hòn mân ngọc rót mòn hạt châu
Trong hoa oanh hót thêm vào
Suốt triền, nước chảy nơi đâu ngập ngừng
Giá lòng đàn cũng chợt ngưng
Lắng trong dạ khách lân lân nỗi niềm
Hận lòng một mối sầu riêng
Đàn không còn tiếng mà điên đảo người
Nước đà tựa phá bình rơi
Lại như thiết kỵ sáng ngời đao loan
Dạo tay giữa bốn dây đàn
Kết rồi một khúc âm vang cõi trần
Trên thuyền chẳng tiếng ai nâng
Sông thu rọi bóng trăng ngần gió lay
Trầm ngâm gỡ phím, cài dây
Áo xiêm khép nép cùng ai giải lời:
Nàng thời con gái kinh đô
Xưa làng ở tận Hà Mô quê nhà
Rành đàn lúc tuổi mười ba
Cầm kỳ hạng nhất trong hoa giáo phường
Khúc đàn bao khách cảm thương
Điểm tô xuân sắc, Thu Nương chẳng bằng
Những chàng trai ở Ngũ Lăng
Tranh mua một khúc, lụa dâng gấm hàng
Vành lược bạc, trâm gãy đàn
Quần hồng rượu đổ tràn lan lụa đào
Năm này chẳng khác năm sau
Xuân thu trăng gió, đời bao hạ nhàn
Em tòng quân, khóc dì tang
Chiều qua, sớm lại, sắc nhan luống già
Cổng dần thanh vắng ngựa qua
Xuân nay đà lỡ vào nhà lái buôn
Doanh tham chia biệt xem thường
Tháng rồi từ giã, Phù Lương mua trà
Thuyền đơn lẻ bóng mình ta
Trăng soi dưới bóng trăng tà lạnh căm
Khuya về mộng thấy thời xuân
Khóc nhòe hương phấn, má son chẳng màn."
Tỳ bà vang tiếng thở than
Này thêm tâm sự hồng nhan bùi ngùi
Cùng thân luân lạc chân trời
Gặp nhau như ngỡ một đời đẩy đưa
Năm rồi từ biệt kinh vua
Tầm Dương mang bệnh vẫn chưa khỏi lành
Đất này hẻo lánh âm thanh
Một năm vắng tiếng đua tranh sáo đàn
Sông Bồn ẩm thấp thanh nhàn
Lau vàng, võ trúc mọc quanh hiên nhà
Sáng chiều những tiếng nghe qua
Quốc kêu tuôn máu, vượn hòa bi ai
Ngày xuân hoa, tối trăng vầy
Đêm thu nâng chén rượu say một mình
Sơn ca cũng hót tâm tình
Nhưng ấm ríu rít chẳng gìn tâm can
Nàng dâng một khúc bên đàn
Như vang tiên nhạc rõ ràng bên tai
Ngồi đàn một khúc đêm nay
Tỳ Bà hành khúc vì ai viết lời
Tần ngần cảm xúc lời tôi
Bèn ngồi xuống gảy, chuyển dời kép dây
Thảm thương hơn khúc vừa đây
Một phen tiệc rượu khóc thay cho nàng
Người mang nức nở rõ ràng
Giang Châu t.ư mã ướt làn áo xanh.

Lời tự:
Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận t.ư mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm t.ư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.

元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵琶行。

(Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức t.ư Mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng "Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)". Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ bà hành.)
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Dạ Lãnh
Tác giả: Thành phố
***


夜冷

秋深無褥亦無氈,
縮脛弓腰不可眠。
月照庭蕉增冷氣,
窺窗北斗已橫天。

Dạ lãnh
Thu thâm vô nhục diệc vô chiên,
Súc hĩnh cung yêu bất khả miên.
Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,
Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.

Dịch nghĩa
Đêm cuối thu không đệm cũng không chăn,
Nằm co cẳng cong lưng vẫn không ngủ được;
Trăng soi khóm chuối trước sân càng tăng thêm khí lạnh,
Nhòm qua cửa sổ, sao Bắc Đẩu đã ngang trời.

Bản dịch: Đêm Lạnh

Đêm thu không đệm cũng không chăn
Dáng co, lưng gập, giấc chẳng hoàn
Trăng soi khóm chuối sân thêm lạnh
Cửa sổ trông vời, Bắc Đẩu ngang.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

____

Nguồn: Thành phố toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Nạn hữu xuy địch 難友吹笛
Tác giả: Thành phố
***

難友吹笛

獄中忽聽思鄉曲,
聲轉淒涼調轉愁。
千里關河無限感,
閨人更上一層樓。


Nạn hữu xuy địch

Ngục trung hốt thính t.ư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.


Dịch nghĩa

Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương,
Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn.
Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn,
Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu.

Bản dịch: Bạn Tù Thổi Sáo

Trong tù nghe khúc t.ư hương
Âm vang sầu não, thê lương ngậm ngùi
Quan hà cách biệt phương trời
Phòng khuê, lầu các, một đời nhớ thương.

Lạc Mỹ Xuyên Thu

======
Nguồn: Thành phố toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
 

落媺穿秋

Phàm Nhân
Ngọc
0,05
Tu vi
0,00
Dạ túc Long Tuyền 夜宿龍泉
Tác giả: Thành phố
***

夜宿龍泉

白天雙馬不停蹄,
夜晚嘗嘗五味雞。
虱冷乘機來夾擊,
隔鄰欣聽曉鶯啼。


Dạ túc Long Tuyền

Bạch thiên "song mã" bất đình đề,
Dạ vãn thường thường "ngũ vị kê".
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích,
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.


Dịch nghĩa

Suốt ngày "đôi ngựa" không ngừng vó,
Đêm đến, lại từng nếm món "gà năm vị".
Rệp và rét thừa cơ xông vào tập kích,
Mừng nghe xóm bên, chim oanh hót báo sáng.

Bản dịch: Đêm ngủ ở Long Tuyền

"Đôi ngựa" đi hoài chẳng nghỉ chân
Gà thêm ngũ vị, tối thường ăn
Rệp, rét thừa cơ xông vào đánh
Mừng sáng, oanh ca, khắp xóm làng.

Lạc Mỹ Xuyên Thu


___________

Chú thích:
Long Tuyền là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Tác giả chơi chữ: "song mã" là cỗ xe ngựa cho người quyền quý thời xưa, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả; "ngũ vị kê" là một món ăn ngon nổi tiếng của Trung Quốc, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả bị xiềng tréo giống như chân gà.

Nguồn: Thành phố toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top