Hồi thứ chín:
Chí Trinh hai lần đánh đuổi cố nhân.
Sĩ Giao liên hoàn dùng mưu khích tướng.
Tồn Thành khước từ lời mời của Sĩ Giao trở về đất châu Ái khiến Bá Nam không khỏi muộn phiền. Bấy giờ, quân lính Tống Bình được triều đình dồn toàn lực tiếp viện từ Giang Nam liên tục bẽ gãy các đợt tấn công từ phía quân đội nổi dậy đất huyện Vũ Bình càng khiến Sĩ Giao lo lắng. Quân sĩ phía nam Tống Bình không giữ vững được phòng tuyến vừa mới thiết lập khi Dương Thanh chiếm được đất Trường Châu. Quân nổi dậy buộc phải lui về nam áp sát Trường Châu. Sĩ Giao bàn với Dương Thanh:
- Giá như có Tồn Thành, chủ tướng sẽ nhanh chóng chiếm lấy được Giao Châu. Nay tình thế đã nguy cấp, chi bằng chủ tướng hãy gửi thư khuyên Thăng Triều dẫn quân đánh huyện Bình Đạo, phá thành Cổ Loa. Khi đó quân phòng ngự của địch bị tấn công bất ngờ, Tống Bình không đánh cũng tự tan. Về phía Ái Châu, họ Đoàn rục rịch binh mã nhưng không có Tồn Thành, chỉ cần Phụng Quán tướng quân trấn giữ quan ải phía nam châu Trường, Đoàn Uyển sẽ chẳng dám đụng đến ta.
Dương Thanh liền đáp:
- Ý của Sĩ Giao quân sư quả hợp với ý ta. Ta sẽ sai Lý Toàn đốc thêm binh mã Man Hoàng cùng với Chí Trinh tiếp tục đánh vào Ung Châu hòng chia rẽ lực lượng của quân triều đình. Ngày qua, tiểu vương Đà Bạt Ma xứ Hoàn Vương nghe tin ta ở Trường Châu, hắn cho sứ đến phủ viết thư thăm, lại cho năm mươi chiến thuyền ngược bắc sẽ đánh vào Lục Châu. Vua Nam Chiếu lá Mông Phong Hữu mới lên, cũng ngỏ ý đánh đất Quảng, Ung giành đất với triều đình nhà Đường. Chẳng hay ý của Sĩ Giao thế nào.
Sĩ Giao mở cửa đón ánh nắng hắt vào trong phủ, Sĩ Giao bước chậm rãi nói với họ Dương:
- Hiện nay, vua Mục Tông mới chết, triều đình chia rẽ bè phái, việc đánh hay không đánh, bỏ hay giữ đất Giao Châu còn để ngỏ. Đám quân tăng viện từ Giang Nam đánh nhau liên miên, sức quân cũng đã mỏi, tinh thần rệu rã. Chúng muốn vượt Ngũ Lĩnh đến đất nam ta chỉ e không quen thủy thổ, quân ta dễ lòng mà đánh dẹp được bọn ấy. Hoàn Vương với chủ tướng, ngày trước có tâm giao, nay quân ấy muốn giúp ta đoạt đất cũng là thể hiện cái nể trọng với chủ tướng, phần cũng vì bọn chúng lo sợ ta. Tể tướng đầu triều nước ấy vừa dẫn binh bình định các cao nguyên đất Phù Nam, muốn giữ hảo hữu với ta mà tỏ ý như vậy. Chi bằng ta cứ cho quân đó đánh Lục Châu, dẫu có thất bại cũng sẽ khiến tinh thần của đám lính triều đình bị lung lạc, ta cũng không vì đó mà hao tổn binh lực. Nước Nam Chiếu mới chiếm được Ích Châu, Ba Thục, phen này muốn chiếm đất Ung, Quảng mà dò hỏi quân ta ở Man Hoàng. Chi bằng cho hai xứ đó cùng dẫn binh tới Lục Châu, cửa ngõ Giao Châu. Ba bên đánh nhau, bấy giờ ta sẽ sai lính Man Hoàng rút khỏi Ung Châu, quân Nam Chiếu sẽ vì thế mà có chỗ lui về, quân triều đình sẽ tăng quân phòng bị chỗ đất ấy. Nam Chiếu và quân triều Đình cũng vì vậy mà không phá đất Man Hoàng của ta. Khi chiến trường tập trung về Ung Châu, Quảng Châu, Chủ tướng cùng với quân của Thăng Triều chiếm lấy Tống Bình, nắm binh quyền Giao Châu mà chẳng tổn hao lấy một binh mã. Đó cũng là kế hay vậy.
Dương Thanh mặt nhàu nghi ngại:
- Xưa ta với Tồn Thăng vốn chẳng phải chỗ thân tình. Ba năm trước, chạy trốn khỏi Tống Bình, ta nương nhờ chỗ hắn mà hắn không chịu nghe. Hắn sai Do Độc dẫn ta tới đất động khê khỉ ho cò gáy. Nay ta dưỡng binh mà chiếm được đất châu thổ. Hắn chắc hẳn sẽ nóng mắt, sôi máu. Há nào hắn chịu nghe lời ta, khi mà Chí Trinh còn đang ở đất Ung Châu, nhăm nhe lui về chiếm đất châu Bình Nguyên của hắn.
Sĩ Giao cười:
- Chuyện Thăng Triều xin chủ tướng cứ để cho tại hạ lo liệu. Sĩ Giao nguyện tới Phong Châu dùng ba tấc lưỡi khuyên hắn đánh La Thành. Xin chủ tướng hãy an lòng.
Dương Thanh thuận ý Sĩ Giao cho viết một lá thư khuyên nhủ Thăng Triều. Để giữ Trường Châu tránh khỏi sự dòm ngó của các châu quận phía nam và phía tây, Dương Thanh phong Đỗ Phụng Quán làm Trường Châu trung lang tướng, giữ binh lính Trường Châu để hắn toàn tâm toàn ý với họ Dương. Đội quân của Triệu Cường, Dương Diện gã quỷ cùng thủy quân lang tướng Phạm Đan sẽ hợp binh với Chí Liệt thiếu chủ đánh phá các thành trì phía nam Tống Bình, chiếm lại đất đồng bằng Giao Châu, thu thập thêm lương thảo quyết trận này phá được La Thành, chiếm toàn bộ Giao Châu thu về một mối.
Nghe tin quân đội của Dương Thanh, Man Hoàng động kéo binh đánh chiếm khắp các quận huyện phía tây nam. Ngày ngày lại có đám người vào La Thành đốt phá, quấy nhiễu, Lý Nguyên Hỷ sai đám sai nha vây bắt nhốt vào ngục lao, nhưng cứ hễ bắt được một tên, ngày sau lại có năm sáu tên khác vào thành đánh cai ngục, đập phá trị sở. Lý Nguyên Gia đành phải bỏ thành lớn chạy sang đất Long Biên.
Vượt sông Cái chạy tới thành Long Biên, tướng giữ thành Long Trạch lại dọa dẫm Nguyên Hỷ như khi lần trước hắn có ý định chạy sang. Trạch sai quân lính ra khỏi thành hạ trại cạnh bờ sông Cái hướng về La Thành. Một viên quan mách với Nguyên Gia cho gọi Long Trạch cùng đám hương lão trong huyện đến, trước mặt các văn võ quan tướng, cùng các hương lão trong thành, Lý Nguyên Gia tỏ vẻ thất vọng mà nói với y:
- Ta vốn là quan đô hộ An Nam, nay quân phản loạn nổi lên, các ngươi chỉ muốn bo bo vị kỷ mà giữ lấy thành trì của mình, thấy quan tới thì sai quân lính ra khỏi thành như khinh miệt ta với loài dị hợm. Vậy có phải người tôi trung, nghĩa khí của đấng nam nhi hay không. Nếu các ngươi cảm thấy không còn đủ năng lực cầm binh, giữ thành thì hãy nhường cho người khác. Ta thấy có nhiều người cũng mong muốn lập thân, tạo nên sự nghiệp mà chưa có dịp để thể hiện. Nay ta thấy các ngươi đã có ý nhường cái nghiệp bảo vệ uy danh của triều đình cho kẻ khác, thôi thì cũng thuận ý đó mà làm.
Long Trạch nghe vậy nín lặng cả buổi, khi tàn cuộc nghị sự, Long Trạch lẳng lặng ra về. Hai ngày sau, hắn cho toàn bộ binh mã về giữ trong thành mà không dám tỏ một lời. Lý Nguyên Gia đến tận phủ hắn mà vỗ về:
- Tướng quân là dũng tướng của Giao Châu, mọi hành sự của tướng quân đều cho thấy tướng quân một mực lòng trung với triều đình, không ưa những kẻ kiếm thời cơ mà nổi loạn. Ta ở đây cũng đã gần hai năm, ta đã tâu với triều đình mà phong thưởng cho tướng quân. Binh mã sứ sẽ không do tên Giả hòa thượng kia nắm giữ mà là của tướng quân. Mong tướng quân hết lòng vì triều đình, vì Giao Châu này.
Long Trạch nghe vậy mà như cởi bỏ những nghi ngại từ trước, dốc toàn tâm toàn ý ủng Lý quyết dẹp quân phản loạn. Lý Nguyên Gia nói lại với viên quan ngày trước bày kế phục tâm Long Trạch. Viên quan ấy chỉ cười nhạt mà cho rằng đó chỉ là cái bằng mặt chứ tâm dạ phải khi trên chiến trận mới thể hiện ra hết.
Ba ngày sau, Long Trạch nhận lệnh vượt sông Cái, dẫn binh cứu huyện Vũ Bình, đám Giả hòa thượng dẫn binh vượt sông Thiên Đức tiếp viện cho quân lính trong thành Cổ Loa phản công lại quân đội người Man. Trong khi Long Trạch bắt giết được hàng trăm quân tướng của Chí Liệt, đám Giả hòa thượng lại cố thủ trong thành quyết không ra đánh quân Man.
Cùng lúc đó, nhận tin báo từ Lục Châu, quân triều đình bị thuyền giặc Hoàn Vương từ biển đi vào đánh phá dữ dội, quân triều đình bị đốt cháy hơn trăm trại lính. Thành Chi Phong bị quân Nam Chiếu chiếm đánh đã hai ngày, thứ sử châu ấy bị bắt giết treo đầu thị chúng. Hai bên giặc bắt tay nhau đánh chiếm rộng ra khắp vùng trung du, gặt lúa đang vụ chín ở các vùng nông nghiệp của Châu, thu được hơn hai nghìn thạch lương.
Nguyên Hỷ ở trong thành Long Biên nghe tin thất kinh thổ ra máu, cho triệu tướng quân Cam vào thành mà hỏi ý. Triệu Cam dẫn tùy tùng cùng người chú Triệu Túc tới bái kiến Hỷ. Hỷ kể ra hết sự tình, Cam vuốt râu cười:
- Hai chó giành nhau miếng mồi, ắt sẽ cắn nhau bị thương. Đô hộ đại nhân hãy yên tâm. Nam Chiếu và Hoàn Vương đều ở cách xa, đường tiếp tế lương thảo đều rất kỵ cho người dùng binh. Kẻ trên núi xuống cách xa nghìn dặm, kẻ phải đi đường biển sóng gió nghìn trùng khơi. Để xem bọn chúng khi giành được đất ấy chúng hết lương sẽ tự bỏ đi hay sẽ giành giật của nhau mà sống. Ta không cần quá bận tâm tới đám quân ô hợp ở Lục châu.
Hỷ nghe lời Cam, cho rút binh mã từ Lục Châu về đất đồng bằng phía đông nam. Giả Thường khi đó tự ý cầm binh đi giúp Lục Châu để giương võ. Đi đến bờ bắc sông Vân Cừ giao với sông Thầy bị thủy quân của Hoàn Vương từ dưới sông bắn tên chết như ngả dạ. Giả Thường đành cho quân tháo chạy về phía Tây. Đi đoạn hơn mười dặm thì gặp quân Nam Chiếu phục kích, bắn nỏ như mưa, Giả Thường trúng tên, cho quân chạy trốn vào động núi. Đang đêm, quân lính của Chí Trinh dẫn binh đi qua thấy trong động núi có quân lính liền vào chém giết, hơn năm nghìn lính bị chết, những kẻ sống sót đầu hàng hết loạt.
Giả Thường trốn trong hang tối, hắn mò mẫm gặp được tượng phật trong động. Cho là có điềm may mắn, Giả Thường dùng mồi lửa châm nhang bỗng cả hang cháy bùng, Giả Thường la hét lao xuống dòng nước trong động. Ngày sau có người nhìn thấy xác một nhà sư mặc giáp áo, mặt mũi cháy xẹm, chân tay rộp phổng không còn hình dạng nguyên vẹn. Người dân mang xác ấy chôn ở chân núi, ba ngày sau mộ bị đào lên, đầu chiếc đầu lâu bị cắt, tim gan bị moi ra vứt xung quanh mộ. Đám quân lính của Chí Trinh truyền tai nhau, tin đồn tới đám dân trong vùng rằng người này theo Phật mà tâm không phật, thờ chủ mà chí hướng vị kỷ. Nhiều lần chống đối các quan lại Giao Châu dẫu người đó là mệnh quan triều đình hay là kẻ tự lập nên mới có kết cục ra như vậy.
Nha tướng dưới trướng của Chí Trinh là Bồ Đà Nhang cầm thủ cấp của Giả Thường đến trước trại mà khoe với họ Dương. Họ Dương nhìn ánh mắt còn giương giương không chịu nhắm trên đầu lâu liền lấy dao moi đôi mắt đó ném cho quạ ăn. Chí Trinh cầm gươm bổ đôi đầu lâu, có nước trắng đục như bã đậu hôi thối chảy ra. Chí Trinh ngửi phải khí ấy mà ho suyễn hơn một tuần lễ. Chí Trinh sai quân lính rời trại về phía bắc. Trong vòng hai ngày chỗ Chí Trinh bổ đầu lâu xuất hiện nhiều rắn hổ dài cả trượng, rết độc dài bằng cả cánh tay thường hay bò vào trong nhà sàn của dân vùng ấy. Người dân vùng đấy từ đó bỏ hết ruộng nương mà rời đi chỗ khác, không dám quay lại.
Quân Man Hoàng do Chí Trinh cầm đánh phá Ung Châu suốt hai tháng không được, đành phải rút về châu Bình Nguyên. Tới bắc sông Lô, đoạn phía tây núi Hiếu Sơn, Chí Trinh cho đóng quân tại chỗ có nước sâu, núi nghiêng như sắp đổ. Quân lính mệt mỏi do hành quân đường núi, lại bị quân triều đình phản công ác liệt, truy đuổi đến đường giao với khe thung đi vào đất Nam Chiếu. Chí Trinh sai người vào trong các bản tìm vị tù trưởng năm nào đã giúp Trinh thoát khỏi tay quân lính Quế Trọng Vũ. Có vị cô dân nữ bị đám lính bắt được khai với Chí Trinh rằng:
- Hai năm trước, quân lính triều đình đánh quân Nam Chiếu ở bờ sông Nam Bình. Quân Nam Chiếu chạy đến chỗ này bị quân triều đình bắt được giết mấy trăm người. Viên tù trưởng Giàng A Kha mổ trâu, giết lợn, thổi nếp nương đãi khao quân lính triều đình. Cơn say Giàng Kha kể lại chuyện Kha giúp một viên tướng trẻ tuổi tên là Chí Trinh lạc đường đi qua bản. Tên tướng người Hoa tên là Trương Sang cầm đao chặt đầu Kha lúc còn đang ngậm cần uống rượu. Cả nhà A Kha bị giết từ già đến trẻ, gái trai không tha một người nào. Từ bấy giờ, dân bản này đã tản mát đi khắp châu Bình Nguyên, tránh cái tai ương của người Giao Châu mang đến cho người Mèo chúng tôi.
Chí Trinh cúi mình trước núi như sắp đổ, đôi mắt nhắm chặt miệng lẩm nhẩm vài lời tiếng Mán thầm tạ ơn viên tù trưởng năm nào. Ánh mắt xa xăm nhìn về những cây rừng hiên ngang giữa chập chùng đá mây. Chàng lên ngựa, bỏ lại sau lưng núi non hùng vĩ. Trinh đi về phía đông, gặp đoạn có sông nhỏ chảy từ tây sang đông Trinh cho đóng quân ở chỗ ấy.
Chí Trinh nhận được thư từ Phong Châu muốn Trinh đánh vào các huyện thành phía bắc huyện Bình Đạo, dẫn binh người Man đánh vào các hang động phía đông, mở lối cho quân Nam Chiếu lui về đất Ung Châu, quân của Trinh cũng sẽ được viện lương kịp thời. Trinh nghe tin Trương Sang đang trấn thủ thành Nã Lữ nên không nghe lời Phong Châu nhất quyết cho quân tập kích thành Nà Lữ. Trinh đánh ba ngày không hạ được thành, quân lương đã cạn, lại nghe đám mật thám báo về phía đông nam có kho lương trên núi cao mà không ai để ý đến nên Trinh cầm hai nghìn quân cướp núi. Cướp núi lấy lương, Trinh biết được đây là kho trữ lương của quân Nam Chiếu đành vội vàng chở lương về phía tây nam.
Trương Sang nghe tin sai người mang vàng bạc đút lót cho viên tướng của Nam Chiếu đang đánh Lục Châu quay trở về dẹp Trinh. Chạy về đến núi Độc Tôn, Trinh cho hạ trại trên núi, ban đêm bị Trương Sang đốt núi nhưng hễ lửa cứ bén lên đến chừng núi thì mây khói phủ kín, mưa rào dập tắt lửa, Sang đành phải bỏ về thành Nà Lữ tránh tai họa quân Nam Chiếu. Tướng Nam Chiếu là Mông Lợi Lạc Hoan biết quân bị cướp lương cho quân lui khỏi Lục Châu, đánh vào Nà Lữ nhưng Sang dùng châu báu, lụa là gái đẹp khôn khéo đuổi được Mông Hoan đi khỏi. Chí Trinh cho quân cố thủ trên núi hai tuần thì dần dần rút về miền bắc huyện Bình Đạo.
Trương Sang giữ thành Nà Lữ cũng không dám động binh truy theo, Sang bí mật báo cho Nguyên Hỷ ở Long Biên: “Giả hòa thượng đã bị giết, quân Nam Chiếu cũng đã lui, quân lính Man Hoàng đang theo sông Như Nguyệt đi về đến phía bắc đất huyện Bình Đạo.”
Nguyên Hỷ nhận tin nghe không rõ lời của tên lính báo tin hỏi lại hắn:
- Sông Như Nguyệt là đoạn sông nào? Chẳng hay giặc Man đó có nhiều hay ít, kẻ cầm đầu là ai?
Thấy tên mật thám ấp a ấp úng, Triệu Cam đứng ra bẩm lại với Nguyên Hỷ:
- Dòng Như Nguyệt chính là hào tuyến mà ngày trước tên họ Đỗ phò giúp Dương Thanh đã cậy đó mà chống lại sức quân triều đình. Nước sông chảy từ đất châu Bình Nguyên về đến nam Luy Lâu hợp với sông Nam Bình tạo thành thế phòng thủ vững chãi. Thế giặc tàn binh không đáng để lo. Dù có là tướng giỏi như Triệu Tử Long sống lại e rằng cũng chẳng thể giữ nổi mạng.
- Vậy sao quân ta không phòng thủ theo sông ấy để đảm bảo cho ta khỏi sức tấn công của giặc?
Triệu Túc rút kiếm, ánh sáng chói lòa khiến Nguyên Hỷ giật mình. Túc tiến tới tấm bản đồ treo trên vách, mũi kiếm chĩa vào chỗ bờ bắc sông Thiên Đức mà nói:
- Nếu ta ở phía trong này, địch ở phía bắc tràn xuống thì thủ bằng phòng tuyến ấy sẽ có lợi cho ta. Nay ta ở phía trong lũy hào ấy, địch lại ở phía sau lưng phía tây nam, không phải phía trước mặt mà có thể dùng phòng tuyến đó để cự địch. Nay Lục Châu đã bị dân Man chiếm, nước Nam Chiếu cho gọi quân đội trở về đánh Ung Châu. Đã như vậy, thay vì đợi đại quân Kinh Nam tới cứu viện, đại nhân hãy cử tên Thi Nguyên cùng Long Trạch bỏ trống thành các huyện Vũ Bình, Thái Bình mà lui quân về Tống Bình, còn ta sẽ cùng Triệu Cam cầm binh đi đến sông Như Nguyệt khiêu chiến với quân Man, lại dẫn một đạo binh nhỏ hợp với quân của Trương Sang ở Nà Lữ đánh vào Lục Châu vờ như muốn chiếm lại đất ấy nhưng kỳ thực để cho quân Man Hoàng lơi là phòng bị, khinh suất mà quay lại phá giặc ở phía tây nam.
Nguyên Hỷ nghe theo, liền chia quân ra làm ba đạo. Một đạo nhỏ chỉ chừng hơn một nghìn người trống chiêng cờ xí, quân mã hừng hực khí thế đi theo hướng đông tới châu Lục. Một đạo hai nghìn binh dùng thuyền chiến đi ngược dòng Như Nguyệt dẫn dụ quân Chí Trinh ra đánh. Lý Nguyên Gia vờ ốm giữ một đám quân lính già yếu ở lại trong thành Long Biên.
Triệu Cam dẫn quân ra khỏi thành Cổ Loa đi theo sông Như Nguyệt khiêu chiến với Chí Trinh, Chí Trinh trên bờ nhìn thấy cờ hiệu họ “Triệu”, liền mang giấy vàng ra rắc dải dọc bờ sông, cho ba quân đeo khăn vàng chít đầu mà khóc lóc. Triệu Cam thấy vậy liền hét lớn:
- Đám bọn bay chưa đánh mà đứa nào đứa đấy khóc như cha chết mẹ chết. Đứa nào đầu hàng tao tha tội chết. Còn không thì vàng mã sẵn đấy, cúng tế bọn bay luôn thể. Đứa nào cầm đầu bọn giặc cỏ bọn bay, còn không giơ tay chịu trói.
Chí Trinh giương cung bắn một tiễn hạ cờ thêu chữ Triệu rơi xuống mặt sông, đầu mũi tên có quả cam vàng rực chín mọng, nước phun ra như máu chảy. Trinh cầm trên tay một quả cam xạm vỏ bóp nát rồi ném thẳng vào mặt tên lính tiên phong của Triệu. Chí Trinh tung vàng mã lên mà khóc như con dâu khóc mẹ chồng mới mất:
- Ớ cam ơi là cam. Sao mày lại cay xè, đắng ngắt như vậy chứ. Bọn tao đã dầy công chăm chút bón phân đủ đầy, chọn đất tốt mà trồng lên cây. Cớ sao cam ra nông nỗi ấy. Phải chăng cành thân mục rỗng, rễ tham nước phân mà quả thành như thế. Tao rắc vàng này mong mày hóa kiếp loài cây khác để vị đắng ngắt, cay nồng của mày hữu ích hơn với đời.
Triệu Cam tức tối, chửi bới dưới sông hòng dụ Chí Trinh xuống thuyền đánh nhau với Cam một trận sống mái. Trinh đủng đỉnh cầm một đĩa quả từ tốn bóc vỏ, bỏ hạt ăn lần lượt cho hết. Chí Trinh cầm giáo xông xuống bãi sông hô lớn, hai bên bờ sông ùa ra thuyền lớn thuyền nhỏ hơn bốn mươi chiếc khiến Triệu Cam hoảng hốt giục giã quân lính chèo thuyền quay trở lại.
Đi được chừng hai mươi dặm, Chí Trinh đốc mã trên bờ chặn đầu Cam bắn tên uy hiếp. Triệu Cam trốn vào trong khoang thuyền mà nói vọng ra:
- Là một trang tuấn kiệt, Trinh ngươi có dám đánh tay đôi với ta hay không.
Chí Trinh cười lớn :
- Nhà ngươi nghĩ ta đi cùng với ai nữa à. Hãy mau lên đây đấu với ta, đồ nhát gan ăn vụng họ Triệu nhà ngươi.
Nghĩ bụng Chí Trinh đã mắc mưu, Cam cho thuyền táp vào bờ, vội vàng hắn nhảy lên bãi đất, cầm mũi thương chĩa thẳng vào Chí Trinh. Trinh cầm giáo dài, bẻ gãy làm hai tay phải cầm mũi giáo, tay trái cầm đoản côn nhảy xuống ngựa đánh với Cam. Hai bên giao đấu từ khi nắng đổ đứng bóng đến lúc con nước triều lên không phân thắng bại. Triệu Cam sai đám người cầm múc lên gầu nước uống một hơi hết nhẵn đáy lại đánh tiếp với Chí Trinh. Chí Trinh đầm mình xuống nước, uống một hơi tạo cả xoáy nước trên sông, cầm đoản côn, mũi giáo đánh với Cam thêm hai mươi hiệp nữa thì Cam ném thương bỏ chạy.
Chí Trinh quất ngựa đuổi theo đến bãi đầm lầy ngựa bị thụt xuống bùn, không nhấc nổi chân lên. Trinh nhảy ra khỏi ngựa thì bị Triệu Túc từ đâu chạy tới kè dao vào cổ, Túc sai người bắt trói Chí Trinh. Chí Trinh quẫn tiết, vùng vằng đòi hai người họ Triệu thả Trinh ra. Trinh liên tục mắng chửi hai tên đó bụng dạ tiểu nhân, ăn ở hai lòng, phỉ nhổ vào mặt Triệu Túc. Túc cầm dao cứa vào sợi thừng trói Trinh:
- Chí Trinh thiếu chủ không nghĩ sẽ có ngày như thế này phải không? Năm xưa ở thành Nà Lữ, thiếu chủ lừa ta ở lại giữ thành, thân mình đóng ở bãi đất phía ngoài, địch đến thì bỏ chạy, không báo cho tiểu nhân một tiếng. Để khi họ Quế áp sát thành Nà Lữ, tiểu nhân cùng hai trăm huynh đệ không kể tính mạng mà chạy đến trấn Hải Môn, lại bị quy kết tội phản chủ. Nay kết cục như vậy, chắc thiếu chủ không phiền lòng chứ.
Chí Trinh tung người lên đạp trúng một tên lính đang cố giữ lấy Trinh khiên tên đó gãy chiếc xương sườn. Giọng khàn đi vì đói lả, Chí Trinh mắng Túc:
- Cha con chúng mày là bọn vô ơn bạc nghĩa, thờ cá chép mà bụng dạ cá rô không đáng mặt sống ở trên đời này. Chẳng phải bọn chó má chúng mày t.ư thông với địch, dẫn giặc vào nhà giết đàn bà con trẻ thì đã không nên nỗi như bây giờ. Mày nói ai bỏ trốn khi mà ta năm lần bảy lượt lệnh nhà ngươi ra khỏi thành để trống thành mà tương kế tựu kế. Nhà ngươi nghĩ cái thành nhỏ giữa bốn bề núi cao đó có thể chống được sức địch hay sao mà cố thủ cho bằng được. Để khi quân ta bị giặc phá, không còn đường lui thì lúc đó nhà ngươi mới chịu ló cái mặt ra để cho họ Quế đó chiêu dụ. Rồi cả khi ta chạy vượt qua Hiếu Sơn, nghe nhà ngươi mất thành, không rõ tung tích, ta đã phải sai người đi dò hỏi khắp nơi đến khi có kẻ báo về nói ngươi chạy về phía đông, ta mới phần nào yên dạ. Vậy mà cha con mày ăn cháo đập niêu, chó nhà cắn chủ mưu dẫn giặc vào nhà đẩy bọn ta vào chỗ chết, dân Giao Châu vào khói lửa binh đao không dứt.
Triệu Túc giáng một đấm thật mạnh vào mặt Trinh, đôi hàm gãy rụng, vài chiếc răng rơi theo cùng máu đỏ tươi. Triệu Túc toan đánh thêm đòn nữa vào mặt Trinh, Cam cản lại, nói nhỏ với Túc:
- Anh hai xin hãy dừng tay. Hiện giờ nghe nói tên tù trưởng họ Dương vẫn còn nắm binh mã Trường Châu, Man Hoàng khê động hơn bốn mươi châu Cơ mi. Giết Trinh là chuyện dễ như trở bàn tay, nhưng ta đoán rằng họ Dương đâu có thể ngồi yên mà nhìn con trai hắn chết. Trinh còn sống, lại ở trong tay chúng ta. Dương Thanh sẽ không dám giương mắt nhìn con trai hắn bị đe dọa tính mạng mà động binh cướp lấy Giao Châu.
Hai anh em họ Triệu trở về Long Biên báo cho Nguyên Hỷ biết tin. Hỷ lấy làm vui mừng nhưng trong lòng chưa yên. Cam vẫn theo kế sách cũ mang thêm hai nghìn lính đi đánh Lục Châu hòng che mắt quân phản loạn. Cùng lúc đó, Long Trạch rút hết binh mã từ phía tây về Tống Bình đóng trại từ Bình Sa Động phía nam hồ lớn râm Đàm dọc theo Lịch giang đến phía nam giáp sông Cái.
Sĩ Giao nghe tin quân Tống Bình bỏ hai huyện Vũ Bình, Thái Bình lui về trấn thủ La Thành liền sai các tướng chiếm lấy hai huyện. Sĩ Giao sai lính giữ chặt hai huyện đó mà không tiến quân về phía đông. Dương Thanh viết thư hỏi ý Sĩ Giao tại sao không thừa cơ mà chiếm lấy đất huyện Tống Bình. Sĩ Giao gửi lại cho Dương Thanh lá thư chỉ viết vỏn vẹn bốn chữ: “Dương tây trinh đông”. Thanh đọc thư cười lớn, sai người viết thư dũng những mỹ từ đẹp nhất để khen tặng Sĩ Giao. Sĩ Giao tỏ lòng cảm tạ, thức trắng một đêm viết lá thư bày hết tâm can cho Thanh.
Dương Thanh trở về Man Hoàng, đốc binh mã thất động đánh dẹp các tù trưởng đất Man Hoàng để lấy lại uy dũng. Một viên huyện lệnh trẻ tuổi huyện Phù Tà, cơ mi La Phục Châu tên là Ma Cao Dực bàn với Dương Thanh:
- Nay quân binh đã đông, lương thảo đã đủ, đám người man di, khê động cũng theo ta hết thảy. Trường Châu cũng đã thuận theo ý tướng chủ. Tù trưởng về đất Man Hoàng mà không dấy binh Trường Châu để chiếm lại Giao Châu như Tù trưởng hằng ấp ủ bấy lâu. Phải chăng có điều chi chưa được thuận. Vãn sinh còn trẻ chưa hiểu hết chuyện mong tù trưởng giảng cho.
- Cao Dực ở đất động khê chắc chưa hiểu rõ. Đất Giao châu của chính quyền họ Lý, nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người Giao Chỉ. Chuyện phá trị sở, chiếm đất chỉ là một lẽ nhỏ để thu phục đất An Nam, thứ tối quan trọng đó phải là nhân tâm. Lòng người có theo thì mọi điều mới thuận. Các tướng lĩnh triều đình, châu mục, hào trưởng các châu quận đều hiểu rõ tầm quan trọng của Giao Châu nên sẽ không dễ dàng để cho kẻ khác chiếm được đất đó. Bây giờ ta cầm binh đánh lấy Giao Châu, há chăng đám người đó ngồi yên nhìn ta ngồi chỗ ấy. Ái Châu, Phong Châu, Võ An, Hoan, Diễn, Phúc Lộc, tất cả chỉ trực chờ có kẻ chiếm đất đó mà có cớ sự để bành trướng uy danh. Đất Trường Châu vô pháp, thiếu lễ nghi, lòng quân không phục, ý dân muốn từ bỏ từ lâu nên ta mới dễ dàng lấy được đất chỗ ấy. Còn những chỗ khác, nhà ngươi cứ ngẫm mà xem. Hai huyện nhỏ Vũ Bình, Thái Bình, chẳng phải là do Hoàn Vương quấy phá Lục Châu mà quan quân mới phải bỏ hai huyện đó hòng mở vòng vây cho quân tiếp viện từ Kinh Nam xuôi về đất Giao Châu. Nay bố phòng quân ta đã đủ, củi khô đã chất, dầu lửa đã giăng, chỉ chờ có mồi lửa để cháy bùng dữ dội.
Cao Dực nghe Dương Thanh nói như đèn soi chỗ tối, nước ngập ruộng khô. Cao Dực ngày ngày theo Dương Thanh lên núi thao binh, xuống thung trồng lúa cùng đám dân binh. Thi thoảng lại cùng Dương Thanh đọc tấu sớ các châu huyện vùng Man Hoàng. Cao Dực được ở chung nhà sàn, học theo họ Dương cách trị người, dùng pháp luật đối đãi với kẻ dưới. Thời gian sau, Dương Thanh xuôi về đất Trường Châu để ráo riết binh mã đánh trận lớn chiếm lại đất Giao Châu. Mọi chuyện xứ Man Hoang, Cao Dực được Dương Thanh phó thác. Cao Dực bấy giờ mới hai mươi ba tuổi nên nhiều kẻ nghi kỵ ganh ghét. Dương Thanh thoạt đầu muốn giúp Dực thoát khỏi những thị phi, rèm pha nhưng sau đó lại để cho Dực tự kiểm điểm bản thân, đối đáp với những kẻ gây lời thị phi. Cao Dực từ một chàng trai trẻ con chưa thấu đáo sự tình, nay đã trở thành một người mang dáng dấp của tôn trưởng.
Dương Thanh viết thư ngỏ lời Sĩ Giao về Cao Dực, Sĩ Giao viết một lá thư khen tấm tắc về đối trí của Cao Dực. Lời thư Sĩ Giao viết chứa đựng những lời hoa mỹ nhưng không thiếu những dặn dò đầy trách nhiệm đối với việc phó thác của Dương tù trưởng cho Cao Dực. Cao Dực từ bấy giờ hành sự cẩn trọng, mọi việc đều thấu đáo từ dưới lên trên mà không bị người khác rèm pha nữa. Dương Thanh cùng Sĩ Giao cảm thấy vui mừng, dồn toàn lực cho mặt trận phía đông.
Tháng t.ư mùa hè trời nóng bức, hào nước vây thành Long Biên cạn trơ tới đáy, dòng nước lũ tiểu mãn từ sông Cái không ngập tới kênh dẫn đổ vào hào nước. Lý Nguyên Gia cho người vét đáy dòng kênh để dẫn nước vào hào mà suốt hai tuần không tài nào dẫn được vào. Nguyên Gia cưỡi ngựa ra cổng bắc của thành Long Biên, thấy có con nước vắt ngang chảy qua cửa. Nguyên Gia sai quân dân trong thành đào một dòng kênh nữa dẫn nước vào con hào vây thành.
Được một tuần lễ, nước sông Cái lên cao, nước đổ vào kênh, hào đầy ắp. Nguyên Gia đêm nằm mộng thấy có tên mặt quỷ, da xanh tay cầm xích trượng đi thuyền từ cửa sông Thiên Đức xuôi theo dòng nước đoạn qua chỗ cửa bắc thành Long Biên nhảy lên bờ sai quân lính mở cửa, giết người trong thành, máu chảy đầu rơi nhiều không đếm được. Nguyên Gia chợt tỉnh, lau mồ hôi vã khắp người, giữa canh ba chạy tới chỗ bờ sông Thiên Đức đoạn chảy qua cửa bắc thành Long Biên. Dòng nước đang xuôi theo hướng tây bắc đông nam, đến đoạn kênh dẫn nước vào hào thành thì đổi dòng chảy một góc vuông từ mạn Nam ngược về Bắc khiến Nguyên Gia kinh hồn bạt vía chạy về trong thành. Nguyên Gia ốm ba ngày, không ăn không uống. Liễu tá trong phủ đô hộ tới hỏi, Nguyên Gia kể ra giấc mộng đêm trước, lại nói có con nước chảy ngược nên đâm ra lo ốm. Viên Liễu tá cầm chiếc quạt phe phẩy xua đi hơi thở nóng rực tỏa ra từ người của viên đô hộ vỗ về:
- Con nước chảy theo dòng là lẽ tự nhiên, hết đoạn nước chảy qua huyện Long Biên, cũng như bao dòng khác Thiên Đức Giang lại chảy xuôi về đông. Còn cơn mộng của đại nhân chỉ là mê sảng, đâu có điều gì đáng để lo ốm.
Nguyên Gia run run cầm chén nước còn nghi ngút mà trần tình với viên Liễu tá:
- Trước nay ta chỉ nghe sông chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp, từ Tây Bắc mà chảy về Đông Nam. Nay trước cửa thành phía bắc lại có đoạn sông chảy ngược như vậy, lẽ nào điềm báo dân Giao Châu có lòng phản nghịch. Đất Giao Châu trước giờ vốn vẫn bị đe doạ bởi nhiều người nuôi dưỡng ý định làm loạn. Ta không thể yên dạ chút nào.
Viên liễu tá lắc đầu, chỉ nở nụ cười nhạt:
- Nếu đại nhân đã có ý như vậy. Chi bằng nhân lúc đám người Man Hoàng đã lui quân, huyện Tống Bình đã yên, Đại nhân trở về La Thành mà dựng lại trị sở.
Nghe xong lời bàn của viên Liễu tá, Lý Nguyên Gia như khỏi hết ốm bệnh, đầu rũ bỏ được âu lo. Ngày sau Nguyên Gia cho mời các bậc phụ lão, quan chức trong huyện tới bàn bạc. Nguyên Gia sai dân chúng trong thành mỗi người góp hai ngày công, chở bùn, nung gạch đắp thành lũy nhỏ kế bên nền thành cũ đã bị dân man cướp phá, dịch về phía đông gần với sông Cái. Hơn nửa tháng sau, thành được dựng. Cửa kép, tường đôi, bốn hướng vây tròn, nhà cửa san sát, khuôn viên thành nhỏ nhắn, bằng góc tây nam của thành Long Biên.
Lý Nguyên Gia cho dựng điện tế, mời thầy phong thủy đến làm lễ tế bái trời đất, mở tiệc khao dân chúng trong thành. Có viên cận hầu bàn với Nguyên Gia:
- Tiểu nhân nghe các bậc phụ lão bàn rằng Đất chỗ La Thành mới dựng chính là đất Long Đỗ, xưa là đất của thần Tô Lịch, Tô Lịch Giang cũng chính là từ tên ấy mà ra. Nay đại nhân dựng thành trên đất ấy, thuận bề nhiều mặt cũng là nhờ vị thần ấy linh ứng mà giúp ngài vậy. Há không dựng đền miếu thờ sẽ chẳng thể yên được. Chi bằng đại nhân dựng đền cạnh sông để tỏ lòng thành.
Trong tiệc, Nguyên Gia bàn với các bậc hương lão, quan lại địa phương. Các bậc hương lão, quan lại địa phương đều thấy quan đô hộ hiểu được tập quán của địa phương mà đều tỏ ý hài lòng. Lý Nguyên Gia cho cất một ngôi đền cạnh dòng sông mang tên vị thần ấy. Nguyên Gia lại cho mở tiệc khao đám quan lại, hương lão huyện Tống Bình. Tiệc mở linh đình, lễ hội đông đúc đến cả vạn người, trăm ngàn điệu múa đều có, đàn địch vang trời, suốt cả ngày không dứt.
Đêm ấy, Nguyên Hỷ say rượu, nằm cạnh cửa sổ mặt trông ra con sông thần. Đang lặng yên ngon giấc, bỗng nhiên có trận thanh phong ào ào thổi đến, bụi cát cuốn bay lưng trời, rèm lay án động bên trong, một người cưỡi hươu trắng đi từ trên không hạ xuống, râu mày bạc phơ, áo mão rành rạnh sặc sỡ, tiền gần Nguyên Hỷ mà nói:
- Nhờ ơn sứ quân uỷ cho ta làm chủ thành này, nếu sứ quân có giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thẳng ngay, thì mới sung được nhiệm vụ của quan thủ mục, mới xứng với trách nhiệm của một bậc tuần lương.
Nguyên Hỷ bái tạ xin vâng, hỏi tên họ của thần thì thần không đáp, cưỡi nai trắng đạp mây bay đi mất. Hỷ bấy giờ tỉnh lại mới hay đó là giấc mơ. Hỷ kể lại chuyện đêm đó tại đền cho các bậc hương lão, thổ hào địa phương. Hỷ tỏ lòng ngưỡng mộ muốn dân chúng Tống Bình một lòng hướng lời dạy của thần mà phò giúp Hỷ cai quản đất Giao Châu.
Ngày sau, hội tan Nguyên Gia lên trên thành phóng xa tầm mắt nhìn về phía nam bụng nghĩ rằng Giao Châu đã sắp định yên, đám quân phản loạn sẽ phải hàng phục dưới trướng. Nghĩ đến thôi, Nguyên Gia lại thấy hả lòng, miệng cười đắc trí. Có làn mây gợn bầu trời nắng gắt, Nguyên Gia nhìn xuống phía dưới cổng thành. Long Trạch cưỡi ngựa áp giải một đám người từ phía tây trở về. Nguyên Gia đi xuống phía dưới nhìn đám người đó mặt mũi sáng sủa, quần áo gọn gàng, đầu tóc búi cao mà cất lời hỏi:
- Những người này phạm tội gì mà đích thân Long tướng quân lại áp giải vào thành.
Long Trạch mặt lầm lỳ dắt đám phạm nhân, tay cầm song câu bình thản bước tới nói với Nguyên Gia:
- Đám người này ngày qua trà trộn vào lễ hội tung tin xằng bậy, đêm xuống lẻn vào trong thành uống rượu say phá phách dịch quán, lời nói khinh miệt quan đô hộ.
- Những người đó nói gì?
- Chúng truyền tai nhau, phát giấy cho người dân rằng khi trước quan đô hộ Triệu Xương người mỏng, lương ít mà dựng thành Đại La uy nghi là thế. Nay thuế sưu mang nặng, sức lính như sóng vỗ mà chỉ dựng được thành nhỏ như chuồng gà giữa trời đất Giao Châu rộng lớn, lại là đất thiêng rốn rồng. Bọn chúng còn giễu cợt quan đô hộ giữa dịch quán rằng sức ông ta chỉ xây được một cái thành cỏn con như thế. Chúng còn ba hoa khoe mẽ lấy thi văn đối ẩm rằng quan sứ xây thành nhỏ lại cho mở mở hội lớn, có khác chi kẻ nghèo khó dựng một túp nhà tranh dâng lễ chấn trạch bằng ba nhà ngói. Tại hạ nghe thấy mà giận khôn tả xiết, đành bắt giải chúng về để đại nhân xét tội.
Nguyên Hỷ mặt mũi xầm xì, da đỏ như gà chọi say đòn, cầm kiếm dí mặt tên đi đầu mặt mày nho nhã, mặc chiếc quần vải lụa, áo gấm. Hắn vênh mặt, nghển cổ như thể thách thức Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ dùng chuôi kiếm giáng một đòn mạnh vào vai, hắn khuỵu chân ôm lấy vai, mặt mày tức tối mà không nói một lời. Viên đô hộ ra hiệu cho giải chúng đi giam vào ngục tối, tra cực hình lấy lời khai của đám người đó. Nguyên Hỷ ra lệnh toàn thành hễ có ai bàn tán chuyện xây thành, cất dựng đền thờ thần nhẹ thì bị đánh mười roi, xàm ngôn thì cho sai nha khâu miệng hai ngày, còn nếu phát hiện người kể chuyện truyền tin cho người khác bị nhốt vào ngục tối, bỏ đói ba ngày, tiếp tục tái phạm sẽ bị xử chém.
Canh khuya tiếng mõ khua ánh đèn trong thành dần tắt lịm, Nguyên Gia cởi áo mão, giày quan trực ngả lưng xuống tấm phản, tay phe phẩy quạt nan, miệng chóp chép miếng trầu cay của người nam. Chốc chốc Nguyên Hỷ lại lật người nghiêng qua nghiêng lại, thi thoảng lại nhô cao đầu lấy chiếc bát mà nhổ bã. Tiếng đập cửa phủ uỳnh oàng khiến Nguyên Hỷ tỉnh giấc, xộc xệch áo quần quan đô hộ mắt mở mắt nhắm nhìn tay bổ đầu Tô Tiến Hậu hổn hển thở dốc:
- Không hay rồi. Bẩm quan đô hộ, không hay rồi.
- Có điều gì mà nhà ngươi hớt hải chạy tới phủ giữa canh ba.
Tiến Hậu lau hết giọt mồ hôi còn lăn trên khuôn mặt kham khổ của anh chàng, hai tay chống gối, thở phì phò như ngựa:
- Hai cái tên mà Long Trạch bắt giữ khi chiều, bọn chúng là con của viên thứ sử châu Phong Vương Thăng Triều, một tên nữa là Kiều Chung Tiềm con trai của phó thứ sử Chung Đạt.
- Tiến Hậu nghe tin từ khi nào? Sao không sớm báo cho ta biết.
- Chiều nay, tại hạ đi áp lương cho quân đóng ở râm Đàm, khi trở về nhà lao thấy có mấy tên phạm nhân mới, xét danh tính, nghe giọng nói thấy hai người trong đám ấy là người châu Phong. Đầu tiên chúng nhất quyết không chịu khai ra, tại hạ cho người giả làm người của chúng trà trộn vào trong lao, chúng đã nói với người của tại hạ là như vậy. Xét hành trang của chúng, tại hạ cũng tìm ra được hai chiếc lệnh bài này.
Lý Nguyên Hỷ cầm chiếc lệnh bài bằng gỗ, mạ bạc ghi chữ Vương, mặt sau khắc nổi hình chim hạc trắng ngậm ngọc minh châu. Tiến Hậu tấu rằng có lần huyện lệnh Từ Hãn Xương có đi tới đất châu Phong dự tiệc cưới con trai Vương là Thăng Hùng. Tiến Hậu cùng đoàn người của Hãn Xương chở theo lụa là, châu báu tới mừng lễ cưới đã từng nhìn thấy lệnh bài đó là của Thăng Triều ban cho các con và đám cận hầu của họ Vương. Nguyên Hỷ cho Tiến Hậu lui, gọi viên quan huyện Tống Bình là Từ Hãn Xương đến hỏi han. Trong đêm, đương lúc mải mê tửu sắc, Hãn Xương hậm hực chạy đến phủ. Hãn Xương nhìn thấy hai tấm lệnh bài đặt trên bàn, nhanh nhảu hỏi Hỷ:
- Nay đô hộ đại nhân lại bày tiệc khao đãi đám người Giao Chỉ nữa à. Giữa đêm chẳng hay đại nhân cho gọi có điều chi dạy bảo.
- Nhà ngươi nói ta đãi tiệc người Giao Chỉ là có ý gì? Chẳng phải ngày qua tiệc hội đã tàn. Nhà ngươi nói xem ta nên xây thêm mấy cái thành nữa mới thỏa được ý ngươi.
- Tại hạ không có ý đó. Chỉ là nhìn thấy lệnh bài xứ Phong châu, nghĩ rằng Đại nhân hậu đãi bọn người đó mà cho ở lại phủ trị.
Nguyên Hỷ nghiêm mặt, nhả bã trầu cay, súc một ngụm trà hỏi Xương:
- Nhà ngươi biết đó là lệnh bài xứ Phong Châu?
Hãn Xương cúi gằm mặt, tiến tới chỗ chiếc bàn, mắt nhìn ngó nghiêng, tay toan chạm vào lệnh bài đó thì Nguyên Hỷ quay lại mắng mỏ:
- Nhà người chớ có động đến mấy thứ đó. Nhà ngươi nói xem những thứ đó từ đâu mà lại có ở trên bàn của ta.
Hãn Xương mắt dắm mắt mở, gật gù đáp:
- Chắc là đại nhân có ý mời đám người châu Phong lán lại thêm chút bữa để cùng bàn thế sự An Nam. Nay duy chỉ có châu Phong là cận kề với ta, không có ý phản trắc, luôn xử sự đúng mực với các đời quan đô hộ. Mà dân Man Hoàng phía tây bắc nếu có ý đồ đánh thẳng đến Tống Bình, Phong Châu như một lá chắn thép mà Tống Bình thêm yên tâm vậy. Cho nên việc đại nhân đối với đám người châu Phong có phần hậu hĩnh hơn cũng là dễ hiểu. Mấy lời của kẻ tôi mọn suy diễn chủ quan, có điều chi sai sót xin đại nhân lượng thứ cho qua. Vậy mấy người của Thăng Triều vẫn ở trong phủ của đại nhân?
Nguyên Hỷ cầm tách trà mà tâm trí không yên, ấp a ấp úng đáp:
- Nhà ngươi biết như vậy là được rồi. Cho nhà ngươi lui.
Hãn Xương hằn học mặt nặng mày nhẹ bước ra về trong đầu luôn hỏi lý do đang giữa đêm vắng quan sứ lại cho gọi Xương vào. Ra đến phía ngoài phủ gặp Tiến Hậu, Xương hỏi thì biết được chuyện.
Sáng ngày sau, Xương viết một lá thư gửi cho Chung Đạt, vốn là chỗ hay qua lại. Chung Đạt bí mật rời châu Phong đến huyện Tống Bình hỏi cho ra câu chuyện. Chúng Đạt muốn chuyện êm trôi mà đút lót hai trăm lượng bạc cho Xương, Xương chối không nhận sợ rằng không giúp được cho Đạt. Đạt cậy hỏi đường đi nước bước để gỡ vụ này mà Xương tỏ vẻ làm rất khó do quan đô hộ trực tiếp đứng ra xét xử mà lại không cho các quan dưới được hay. Chung Đạt đánh liều đến cậy nhờ Long Trạch, Đạt dẫn theo ba trâu to khỏe bụng thắt vải đỏ, một mâm xôi đầy, năm gà chín cựa, một tráp trầu cau, hai hòm bạc trắng đêm đến mang tới trại quân của Trạch nhờ Trạch đứng ra giúp vụ này. Long Trạch khinh khỉnh không tiếp chuyện họ Kiều. Có viên giám quân nói thầm với Trạch:
- Đất Phong Châu xin tướng quân hãy nể mặt, kẻo rước họa cho Tống Bình vậy.
Trạch quay ra tiếp chuyện, nói đôi ba câu Chung Đạt cúi mình dò xét Trạch chuyện bắt bớ người trong tiệc hội khánh thành đền thờ thần Long Đỗ. Trạch hiểu ý, nhận hết chỗ tặng phẩm, cảm tạ tấm lòng thành của xứ quân châu Phong đối với Tống Bình. Trạch chỉ dám hứa sẽ nói giúp một với quan đô hộ, chút lễ mọn mang xung quân khố Tống Bình.
Chung Đạt chờ tin lòng nóng như lửa đốt, không ăn không ngủ suốt hai ngày ở dịch quán trong La Thành. Ở thành Bạch Hạc, Thăng Triều nghe tin họ Kiều vào huyện Tống Bình suốt mấy ngày mà chưa quay trở về, lại nghe tin con trai thứ Vương Thăng Đức đi cùng Chung Tiềm lông bông đi ngao du suốt cả tháng nay. Trong lòng không yên liền cho gọi đám gia nô Kiều phủ đến Bạch Hạc hỏi chuyện. Đám người Kiều phủ cũng không hay biết nên Thăng Triều đành sai mật sứ đi Tống Bình dò chuyện. Tin báo về Kiều Chung Đạt đang chờ ở dịch quán suốt mấy ngày ở đó không ăn uống gì nên Thăng Triều sinh lòng nghi viết thư triệu Đạt về Bạch Hạc.
Chung Đạt biết Thăng triều hay tin nên đành ngậm ngùi quay về. Thăng Triều hỏi Đạt, Đạt chỉ bẩm lại rằng Đạt tới Tống Bình mang chút cống phẩm, dâng lễ lên đền thờ thánh mới dựng, qua lại chỗ quan huyện Từ Hãn Xương để tạo dựng mối quan hệ khăng khít hơn với Tống Bình. Tin tưởng lời Đạt nên Thăng Triều không dò xét thêm nữa. Thăng Triều nhìn thấy nét mặt buồn ủ rũ của Đạt, quay ra nhìn bức họa chữ Tiềm treo trên vách mà hỏi thêm:
- Nghe nói Đức nhi đi cùng trai thứ nhà ngươi là Tiềm đi ngao du, chẳng hiểu suốt tháng nay không thấy mặt mũi chúng nó.
Như đánh trúng chỗ đau, sắc mặt Chung Đạt xuống màu nhợt nhạt, giọng lắp bắp đáp:
- Thằng con nghịch tử đó, xin đại nhân đừng nhắc tới. Suốt ngày lông bông, rượu chè phè phỡn, ngao du với đám người không ra gì.
- Ý Chung Đạt đám không ra gì đó là Đức nhi?
- Tại hạ nào có ý nói Vương công. Chỉ là thấy Vương công cùng nghịch tử Chung Tiềm ngày ngày qua lại với đám nho hủ say sưa rượu chè, lại bàn lời không hay những người trên.
Thăng Triều ngẫm lời Chung Đạt nói phải nên không trách Đạt. Triều cho Đạt nghỉ ngơi thêm ba ngày rồi vào thành Bạch Hạc bàn việc quân.
Chung Đạt suốt ba ngày mất ngủ liên miên lại không ăn chẳng uống, sắc mặt xấu đi phân nửa. Đám gia nô mời thầy lang đến chữa trị đều lắc đầu không biết bệnh. Thăng Triều nghe Đạt trọng bệnh liền sai người đến đất Lâm Tây mời Lý Lang Mộc đến trừ bệnh. Lang Mộc bắt mạch kê thuốc cho Đạt, Đạt mới chỉ nghe Lang Mộc đọc đơn thuốc mà mặt mũi bừng tỉnh, ngồi dậy hỏi Lang Mộc:
- Trước giờ ta không tin là trên đời còn có lang y chữa được bách bệnh. Nay gặp được thân phụ Do Độc tướng quân ở đây, hết thảy kính phục.
Lão Lang Mộc vuốt râu cười lớn:
- Chẳng phải là ta chữa được bệnh của đại nhân mà là đại nhân đâu có bệnh gì.
- Ta đây mấy ngày không ăn, uống vào đắng miệng, đặt lưng xuống nằm mà mắt không thể nhắm nổi. Đó chẳng phải là bệnh hay sao.
Lang Mộc giọng cười sảng khoái:
- Ta biết có một người sẽ trị được dứt cơn bệnh đó của đại nhân.
- Lang Mộc kê đơn thuốc, ta chỉ cần nghe mà đã dứt cơn đau đầu. Không lẽ đơn thuốc đó không phải của ông?
- Đúng vậy. Người kê đơn thuốc đó đang đứng ngoài phủ, chờ đại nhân.
Trời nắng nóng, đất bốc hơi ngột ngạt, Chung Đạt mấy ngày không ăn uống, ngủ nghỉ bỗng nhiên bật dậy. Chân không kịp đi dép, áo mão chẳng kịp chỉnh tề, vội vàng ra ngoài phủ tìm gặp người mà Lang Mộc dẫn tới. Ánh mắt buồn nặng những u hoài, vừng trán đã nổi mấy nếp mà vẫn toát lên vẻ rạng rỡ đến lạ kỳ, Chung Đạt nhìn người đó mà không khỏi kinh ngạc:
- Anh là người mà Lang Mộc dẫn tới?
Tay cầm chiếc quạt mo lá cọ, Sĩ Giao cúi thấp mình chào Chung Đạt:
- Chính là Giao mỗ, xin bái kiến Kiều đại nhân. Nghe ngài có bệnh đau đầu, kém ăn nên vãn sinh mạn phép xin tới kê thuốc cho đại nhân.
- Giao mỗ. Ta phải gọi anh thế nào?
Sĩ Giao giọng uyển chuyển, âm trầm bổng mà thưa:
- Giao mỗ họ Đỗ, thuở hàn vi theo anh làm lệnh công ở đất Tống Bình. Mà đất Tống Bình không dung nổi, nghe có tướng họ Dương nổi dậy dẹp quân tàn ác mà theo về với minh chủ. Chẳng may tướng chủ bị kẻ dưới lật lọng, dẫn địch vào nhà mà phải ly tán, lưu lạc tứ xứ. Vãn sinh theo anh vợ là Chí Liệt đóng quân ở đất đồng bằng châu thổ, ba lần bảy lượt đánh không được đất Tống Bình nên đành về đất núi phía tây mà lánh nạn, học y thuật mà độ thế dân lành.
- Là Bá Nam quân sư Đỗ Sĩ Giao, trẻ tuổi tài cao mưu kế đầy bụng, dùng cây bút mà giết được nghìn quân địch, người đời xếp ngang hàng với Sĩ Vương, Tinh Thiều thời Lý Đế, Đỗ Anh Hàn thời Bố Cái.
- Những lời thiên hạ thêu dệt gió trăng, xin đại nhân chớ nghe. Sĩ Vương trí tuệ tinh thông, khéo dùng phép nhân trị mà được lòng dân chúng. Tinh Thiều bậc hiền tài xưa nay hiếm thấy, giúp Lý Đế dẹp bọn hung tàn, đánh giặc lân bang tỏ rõ cái uy của người Nam Việt. Đỗ Anh Hàn vãn sinh càng chẳng lấy gì mà bì, bậc tiền nhân trí dũng song toàn, giúp Phùng Vương dẹp bỏ Chính Bình, đánh giặc Lâm Ấp phía nam, đuổi giặc Chà Và quấy nhiễu, ba lần đánh đuổi quân Đường, năm lần bắt sống bọn thứ sử châu Thang, châu Lục, uy danh lừng lẫy. Kẻ vãn sinh há chỉ là suối nhỏ so với nước sông Cái ngoài kia.
Giọng nói dứt khoát, lay động đến tâm can, Kiều Chung Đạt vội mời Sĩ Giao vào trong phủ:
- Ngoài này chẳng phải chỗ để kê đơn, ta mời anh vào trong phủ hầu chuyện, bắt bệnh.
Chung Đạt dẫn vị lang y trẻ tuổi đi qua hai gian nhà lớn, sừng ngà lớn bé giăng đầy, thổ cẩm dệt lộng lẫy xa hoa. Vài bức trướng dát vàng gió lay bay phập phù, cửa gỗ lim nhẵn mịn nước sơn còn mới. Lang Mộc cười nói nhỏ với Sĩ Giao:
- Những thứ này hít vào trong cơ thể, há chăng mà không sinh thành bệnh.
Sĩ Giao chân bước vội, phẩy tay gạt lời Lão lang Lý:
- Con người ta mỗi người một vui thú, kẻ thích gái đẹp, người thích bầu bạn, thi ca. Có những người chuộng sự thanh nhàn, tao nhã lại có kẻ chuộng những vinh hoa, phú quý, vàng bạc lụa là cho thỏa cái sở thích cho họ vậy. Có thế người ta mới vui vẻ, bớt u sầu. Điều đó chẳng phải tốt hơn sao.
- Nhưng những thứ ấy do bàn tay kẻ đó tạo nên thì không nên nỗi, mà là do của đút lót, lòng tham, vậy thì chỉ có khổ cho những kẻ dưới quyền.
Sĩ Giao cười:
- Nhân chi sơ tính bản thiện, nước có đục thì cò mới béo. Đâu phải tự con người ta muốn ra như vậy. Chỉ trách những người đã khiến cho con người ta thành ra như thế.
Bước qua dãy hành lang đầy chim khướu, lá hoa, đá cây xù xì muôn vẻ, Sĩ Giao bước vào gian phòng lớn, trống toác không có thứ gì bên trong. Đôi chân Giao bỗng nhiên lạnh toát, nền nhà cứng trải những thảm nhung đỏ. Ba người ngồi quây tròn bên chiếc bàn nhỏ xinh, bốn chân trụ to bằng ống cổ chân, tấm lụa tơ phủ lên mặt không giấu đi được ánh vàng lấp lánh, mát lạnh phía dưới. Sĩ Giao tấm tắc buông lời khen:
- Đại nhân quả có con mắt tinh tường, am hiểu phong thủy đôi hạc đồng ngậm hạt ngọc minh châu đứng chầu trên lưng rùa này ắt mang lại nhiều điều may mắn cho gia phủ.
Chung Đạt gật gù cười nhếch mép:
- Xứ châu Phong xưa nay yêu loài hạc mà tôn thờ ngang hàng với tứ linh, nhà nghèo khó cũng có trong nhà một đôi hạc bằng gỗ, nhà tôn giả thì đúc hạc đồng mà trấn yểm tà ma, giúp yên định gia thất. Thành phủ châu Phong cũng lấy tên loài chim ấy mà đặt thành tên. Bá Nam quân sư tuổi trẻ mà học rộng hiểu biết nhiều, cho ta hỏi một điều về ý nghĩa tâm linh, hình tượng chim Hạc.
- Vãn bối xin mạn phép nói đôi lời, có điều chi chưa đúng xin đại nhân dạy bảo. Nói về chim hạc, xưa tổ Hùng Vương thấy đất Tượng quận chim hạc trắng phủ trời, núi sông hòa quyện, thế đó có thể dựng được nước mà lập nước Văn Lang, khắc chim hạc lên trống đồng, vách đá để lại cho muôn đời sau. Sách cổ người nam ta có nói Nhất phẩm điểu là loài của tầm cao vũ trụ, đại diện cho trí tuệ tinh thông, bạch hạc tượng trưng cho những điều trong sáng, đầy tinh túy thanh cao. Đôi chân cao lớn của chim hạc như trụ chống trời, thân chim hình khum tượng trưng cho bầu trời. Dáng chim cao lớn thể hiện mong ước vươn tầm trời đất của con cháu vua Hùng, mỏ dài nhọn như mũi tên lao về phía trước, dẫn con người ta đi theo lẽ phải. Hạc ngậm minh châu biểu trưng cho sự cao sang của gia chủ.
Lang Mộc tiếp lời hỏi Sĩ Giao:
- Bá Nam nói thật hay. Ta sống trong khe động bấy lâu, không biết được những điều ấy. Có điều ta chưa được tỏ, dẫu chim hạc thể hiện cho sự tôn quý, cao sang, to lớn của đất trời. Dưới chân hạc là lưng rùa tứ linh. Nó có mang ý nghĩa gì hay chăng?
Sĩ Giao cầm quạt bước rảo quanh phòng, giọng nói lôi cuốn, những cử chỉ mềm mại theo giọng diễn ca:
- Hạc vốn tượng trưng tinh túy thanh cao, tượng trưng cho đất trời, quy là một trong tứ linh cao quý, là bá chủ nguồn nước. Hạc đứng chầu trên lưng rùa thể hiện cho sự hài hòa của trời đất âm dương. Hạc và rùa là đôi bạn thân thiết, rùa sống dưới nước, biết bò, hạc trên cạn biết bay. Lúc trời làm mưa lũ, ngập úng khắp vùng rộng lớn, hạc chẳng sống dưới nước mà rùa cõng trên lưng vượt úng ngập tới chỗ khô ráo. Ngược lại lúc trời hạn hán, rùa được hạc mang đến vùng nước trũng. Ấy là sự thủy chung, tương hỗ của những người bạn tốt trong lúc khó khăn hoạn nạn. Đất châu Phong như thể hạc trắng, đất châu thổ đồng bằng Giao Châu như thân rùa, khăng khít chẳng rời nhau.
Chung Đạt nghe đến đoạn Giao Châu như mình rùa dưới chân hạc mà giật mình, hẹm giọng:
- Bá Nam nói lời ấy là có ý gì?
Sĩ Giao đổi giọng, nói hết thảy bụng dạ:
- Bẩm Kiều đại nhân. Thân là phó thứ sử châu Phong, con trai Đại nhân đang ở đất Tống Bình gây ra tội tày trời. Dẫu chim hạc có đặt hướng nam, hay xoay về hướng đông cũng chẳng thể vãn nổi. Chi bằng đại nhân hãy bàn với thứ sử Thăng Triều động binh mã dẹp bỏ họ Lý tàn ác kia. Triều đình nhà Đường rối loạn đã lâu, không còn đủ sức mang nổi Giao Châu. Chiếm lại Giao Châu về tay người nam đấy là hợp ý dân, thuận ý trời. Nay tại hạ thấy trong xứ An Nam, duy chỉ có Phong Châu xứng làm chủ đất Lĩnh Nam. Thiếu chủ Chí Liệt nay cùng người Man chiếm được hai huyện Vũ Bình, Thái Bình phía tây, quân Tống Bình cố thủ mạn đông, đánh không chạy, dụ không ra. Nghe danh Thăng Triều đã lâu trọng tài, trượng nghĩa, thiếu chủ có ý muốn nương nhờ, mượn binh mã trừ giặc Tống Bình.
Chung Đạt chống tay đỡ đầu mà nghĩ nghĩ suy suy. Lang Mộc xin lui ra. Sĩ Giao thủ thỉ với Chung Đạt :
- Chung Đạt đại nhân nghĩ mà xem. Phong Châu họ Vương trai trưởng mang tâm bệnh đã lâu, trai thứ ăn chơi đọa đày, chẳng thể tiếp nối công lao của Thăng Triều. Giao châu về một mối, chẳng phải là họ Kiều hay sao. Mà cả khi động binh hăm dọa Tống Bình, dẫu có không đánh tới thì với chỉ riêng đất Phong Châu, đại nhân cũng đã chẳng thiếu một điều gì.
Sĩ Giao thở dài, đặt chiếc quạt mo xuống bàn. Ngậm một tách tra mà lắc đầu, nhìn Chung Đạt với ánh mắt không khỏi suy t.ư. Chung Đạt nghiêng nhìn Sĩ Giao, tay đập bàn quát mắng:
- Nhà anh chớ có nói điều phản phúc. Có biết nơi này là nơi nào hay chăng? Anh đang nói chuyện với ai. Với ai ? Với Phong Châu phó thứ sử. Chỉ cần anh bước ra ngoài phủ là sẵn sàng có cả nghìn người cầm đao giết anh.
Sĩ Giao phủi áo, ngồi xuống cạnh Chung Đạt, mặt mày không biến sắc, giọng nói không lay động nói với Chung Đạt :
- Lời nói mạo phạm mong đại nhân thứ tội. Vãn bối không có ý đó. Chỉ là trông thấy gia cảnh của đại nhân mà cảm thấy phiền lòng thay. Các nữ nhi trong nhà lại chẳng thể tiếp nối gia nghiệp của đại nhân. Kiều công tử lại đang trong tay họ Lý kia, chỉ e…
- Ta thách ba đời chúng nó. Đứa nào đụng đến móng tay của con trai ta đứa ấy đừng hòng thoát tội.
Sĩ Giao cười nhạt :
- Họ Lý là đô hộ sứ, cai quản cả vùng đất phía nam Ngũ Lĩnh. Ngài chỉ là phó thứ sử Phong Châu lệ thuộc vào quan đô hộ. Hắn chỉ hắt hơi thì không phải cả nghìn người đâu mà cả vạn người sẵn sàng thay chết cho hắn. Mà phải đâu nên nỗi, thiếu gia chỉ là chút ngà ngà say cùng đám người nho hủ của Vương Thăng Đức mới thành ra như thế. Xin đại nhân hãy xét cho kỹ. Chí Liệt thiếu chủ luôn sẵn sàng mang quân phò giúp đại nhân rửa mối nhục ấy hễ khi họ Lý kia trở mặt sát hại thiếu gia.
- Anh chớ có xàm ngôn, nói điều xúi hại. Vương Thăng Triều mà biết được chuyện ấy ông ta cũng chẳng nghe ta mà đánh Tống Bình đâu.
- Vãn bối có nghe binh quyền Thăng Triều giao phó cho viên tướng họ Hoa dưới trướng ngài đó sao.
Chung Đạt nghe mà dựng tóc gáy, mắt lịm hăm dọa Sĩ Giao :
- Nhà anh. Nhà anh làm sao mà biết được hết những chuyện của ta.
- Đại nhân chớ có nóng giận. Tất cả mọi chuyện Phong Châu, từ lớn tới nhỏ chủ công ta biết rõ mà chưa có dịp diện kiến với Vương thứ sử. Nay chuyện đã ra như vậy, chi bằng đại nhân hãy dẫn ta tới chỗ của Thăng Triều để dò ý của ông ta.
- Anh có tin một khắc sau, đầu anh cho hổ ăn hay không?
Sĩ Giao bước hiên ngang, tay đấm nhẹ lưng, vươn vai giãn cơ bắp, chàng nói :
- Vãn bối tới đây đã chẳng sợ rơi đầu. Nay nghe đại nhân nói lời như vậy thật chua xót thay. Phong Châu đất linh thiêng, anh hùng đầy rẫy, hùng cứ một phương, lại chỉ như đám ba ba rụt cổ. Nỡ lòng nào nhìn bọn gian ác Tống Bình tác oai tác quái, vơ vét của chúng dân, tàn sát người vô tội. Máu nào có chảy xuôi ra biển lớn mà chảy ngược về châu Phong, mà thủ lĩnh xứ ấy chẳng khác kẻ ngu muội. Thật là đau xót lắm.
Chung Đạt ngồi lặng lẽ, đăm chiêu. Sĩ Giao than khóc thảm thương :
- Trời cao có biết nỗi lòng cha mẹ. Cả cuộc đời vun vén cho con cho cái, vậy mà măng non mới bung bẹ, lá vừa đơm từ thân mềm yếu đã bị đào xới. Thân tre già mà đau đớn lắm thay.
Chung Đạt lấy tay mà bịt miệng Sĩ Giao đẩy chàng ra bức vách. Tay nắm chặt đấm mạnh vào bức vách vỡ vụn, máu rỉ nơi gò xương, gân xanh nổi trên khuôn mặt nhẵn nhụi mày râu, Chung Đạt thét lớn vào tai Sĩ Giao :
- Giết. Giết đám ác bá cường hào Tống Bình đó. Năm nào bọn chúng cũng vênh vênh váo váo moi tiền của của ta đến cả chục nghìn lạng bạc, thịt hổ, sừng hươu, gấm vóc sản vật biết bao nhiêu là thứ. Nay lại còn cả gan bắt con trai ta. Thật không coi ta ra gì nữa mà. Nhà anh đêm nay ngủ tại đây bàn chuyện với ta. Sớm ngày mai ta sẽ đưa anh tới gặp Thăng Triều.
Sĩ Giao sắc mặt không đổi nét, đôi mắt rạng rỡ mà không cười nói một lời. Chẳng chút nao núng, tay chàng đỡ lấy Chung Đạt ngồi xuống chiếc ghế đẩu, vội vàng xé manh áo trên người mà lau đi vết máu trên tay của Chung Đạt. Chàng xé lấy chiếc voan mỏng trong ngực áo bó lại vết thương. Sĩ Giao thủ thỉ vào tai Đạt:
- Lão đại nhân sao lại nóng tính như vậy. Giận đám ấy người chớ chút lên thân thể mà khiến thân cao quý này đau đớn. Đại nhân hãy hết sức bình tĩnh, bàn bạc với tướng quân Hoa Tài, rồi bẩm báo cho thứ sử Thăng Triều. Bấy giờ đường đường chính chính đánh Tống Bình, dẹp gian ác, cứu lấy hai vị công tử.
Chung Đạt cảm thấy lòng nhẹ nhõm, đầu óc thông suốt sai đám gia nhân nấu lấy niêu canh hổ để tầm bổ. Chung Đạt còn tự tay lấy rượu ngâm cao hổ, cao bạch mã giới thiệu cho Sĩ Giao, đón tiếp chàng hết sức thân tình. Canh ba, Hoa Tài được gọi vào phủ bàn với Chung Đạt cũng thuận ý nghe theo ngay mà không một lời phân trần.
Ngay trong đêm, Hoa Tài giả cho người báo với quân của Thi Nguyên rằng đang chuẩn bị đánh vào huyện Thái Bình, lấy lại huyện thành Vũ Bình. Thi Nguyên mừng báo tin cho Long Trạch cùng Lý Nguyên Hỷ. Hai người đó mừng rỡ, liền sai người cho thả hai công tử họ Vương và họ Kiều, viết một lá thư cảm tạ tấm thịnh tình của châu Phong với Tống Bình.
Hai vị công tử mặt nghênh ngang bước từ trong nhà lao đi ra ngoài, đoạn qua một phòng giam có tên mặt mũi đầm đìa máu, chân tay run run vì đói lả, đeo chiếc gông gỗ đặc màu đen nặng cỡ bảy mươi cân đang gật gù, miệng liên tục lảm nhảm những lời chửi bới. Có bóng người đi qua, tên ấy trừng trừng mở to hai con mắt, gào thét :
- Quân phản trắc, lòng lang dạ sói.
Hai vị công tử giật mình nhìn nhau, gật đầu mà nghĩ rằng chắc hắn nó nói kẻ khác, chứ chẳng phải mình. Cổ hắn hằn lên chữ tù nhân vừa in sắt nung đỏ còn dính dớp đầy máu, gân cổ tím ngắt do chiếc gông quá nặng đè lên cổ hắn. Mắt hắn liếc láo ra hiệu cho Thăng Đức, Thăng Đức nói không ra tiếng hỏi hắn :
- Anh nói với ta sao?
Thấy có viên cai ngục đến giục hai người đó đi mau ra, tên tù nhân giả vờ gật gù, rên rỉ. Tên cai ngục đi ra, Chung Tiềm nhìn vào hỏi khẽ :
- Nhà anh quen hai bọn ta sao.
Tên đó gật gật, mặt láo liêng nhìn xung quanh, gọi hai người lại gần. Hắn thì thào vào tai:
- Ta là Chí Trinh đây. Bình Nguyên đô đốc đây. Hai người mau mau nghĩ kế để cho ta thoát ra ngoài.
Chung Tiềm cười ê hê nói với Trinh :
- Là Dương Chí Trinh đúng không. Nhà anh không chịu theo phục Vương đại nhân, lại liên tục dẫn binh đi đánh châu Ung. Cái tội không chịu nghe lời. Bị bắt cũng đáng lắm.
Chí Trinh cáu gắt nhưng không dám nói to:
- Cái đồ công tử giấy bọn mày. Chúng mày không biết Vương thứ sử có ý làm phản nên mới giả vờ đoạn tuyệt với ta nhưng thực chất là ông ta sai ta đi đánh châu Ung đó. Sau đó lại cho đám người Man cướp Trường Châu, phá Tống Bình. Tất cả đều là một tay Thăng Triều đó dựng lên. Bọn mày, đúng bọn chẳng hiểu rõ sự tình, suốt ngày trà tửu, thi văn, sách giấy, nghiên mực làm sao mà biết được thứ đó. Mau mau báo cho lão già họ Vương đó tìm cách cứu ta. Sau này, thứ sử Thăng Triều thống lĩnh đất Lĩnh Nam các ngươi chẳng phải là…
Hai tay công tử nhìn Trinh rồi quay ra nhìn nhau cười lớn. Thăng Đức dặn dò Trinh mà nói như ra lệnh cho Chung Tiềm:
- Cha của Chung Tiềm là Chung Đạt có qua lại với bọn quan Tống Bình, năm nào cũng dâng cống châu báu, gấm vóc, sừng ngà nên cũng được bọn ấy nể mặt. Chi bằng Tiềm huynh nói khó với cha anh để ông ấy ra tay. Đến như hai chúng ta cũng được thả ra rồi đây.
Tiềm nghĩ hồi lâu thì tên cai ngục vào quát mắng :
- Hai anh kia. Còn không đi ra ngoài. Còn ở đó xì xào to nhỏ gì với gã đó.
Chung Tiềm giật mình nói lớn :
- Được rồi. Để ta trở vể nói cha ta.
Chí Trinh nằm ngửa ra phía sau, ánh mắt thất vọng tràn trề, anh thở hổn hển rồi rên rỉ theo từng cơn đau nhức trên người. Đám cai ngục nhìn hai tay công tử rì rầm cười :
- Thân còn chưa lo nổi, nói chi đến giúp tên phản tặc đó.
Thăng Đức mặt mũi lầm lỳ bước qua chỗ đám cai ngục đứng. Có tên sai nha dậm chân thật mạnh, Chung Tiềm giật mình ngã vào Đức. Thăng Đức đỡ Tiềm dậy, bước ra ngoài nhà lao. Có hai chiếc xe ngựa rèm đỏ giống hệt nhau chờ sẵn ở phía ngoài, Thăng Đức và Chung Tiềm mỗi người chọn lấy một xe hẹn gặp nhau ở ngã ba Tam tỉu.
Tiếng xe ngựa dần xa, bỗng trong ngục có tiếng kêu la ầm ĩ. Bọn sai nha chạy vào trong, chạy đến gian nhà lao chỗ Chí Trinh đang ngồi dựa vào tường đất phủ đầy rơm rạ, nền đất đen thối như chuồng lợn. Tay phạm nhân cùng gian với Chí Trinh là một trong những kẻ đi theo hai tay công tử Phong Châu co giật, mắt trắng giã, miệng méo xệch cấm khẩu, ú ớ vài câu rồi tay chân cứng đờ. Chí Trinh giả như đang ngủ, tên sai nha vút roi vào chỗ áo rách còn vương máu của Trinh. Trinh giật mình tỉnh dậy, gào thét :
- Tôi đang ngủ, các anh sao lại đánh tôi.
Tay sai nha râu dài từ cằm quá cổ, giọng khàn khàn mắng Trinh :
- Ngủ, ngủ cái con chết tiệt nhà mày. Mày vừa giết nó chết đúng không?
Mặt Trinh tỉnh bơ, miệng ngáp ngắn ngáp dài :
- Các anh nghĩ tôi giết hắn ta bằng cách nào. Chân đeo xích, tay mang gông cùm cổ đến cả tạ. Các anh thử đeo vào xem có đứng nổi không mà đánh với giết.
Tên nha đầu vút mạnh roi vào mặt Trinh :
- Mày lại còn dám cãi lời.
Trinh lê về phía tường đá lạnh lẽo, máu tiếp tục chảy trên khuôn mặt anh. Anh chỉ ngồi lặng yên, đầu tóc bù xù như tổ quạ, mắt liếc trộm nhìn đám sai nha kéo xác tên đó ra ngoài. Mùi thổi quyện với thứ mốc trắng dưới đất bốc lên khó chịu, ngột ngạt khiến Trinh không thể thở nổi, nôn ọe trước mặt bọn chúng. Bọn sai nha cho gọi người trong nha phủ tới khám xét, tay lang y lấy tay che vạt áo, miệng nói lớn:
- Mùi mốc khó chịu, lại thêm ẩm nồm khiến cho mùi hôi nồng nặc, dưới đất có một vài lá xanh, trong miệng phạm nhân lại ngậm cánh hoa màu hồng. Xét qua thì đây là độc dược của loại cây trúc đào. Đoạn thành Đại La mới bị phá, có rất nhiều loại cây này.
Viên sai nha báo lên cho quan huyện Từ Hãn Xương, Hãn Xương bẩm lại với Lý Nguyên Hỷ. Lúc đó, Long Trạch đang ở trong La Thành, bàn chuyện với Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ gọi tên bổ đầu Tiến Hậu đến hỏi:
- Các ngươi cho đám phạm nhân ăn gì? Nay có mấy người đã chết là cớ làm sao?
Tiến Hậu bẩm với Hỷ :
- Chúng tiểu nhân đã cho dò xét, điều tra kỹ lưỡng. Đám quản cơm tù không có kẻ nào nấu loại lá đó cho tù nhân ăn.
- Vậy sao lá lại có trong miệng của mấy tên đã chết. Ai phụ trách bữa cơm cho đám tù nhân?
- Bẩm quan lớn. Là lão Tô Hiền, thúc phụ của tiểu nhân.
- Vậy cho gọi lão ấy lên cho ta. Các ngươi đi tìm xem chiếc xe ngựa chở hai tên công tử châu Phong có chuyện gì xảy ra không. Báo lại ngay cho ta để giải quyết cho gọn gàng.
Long Trạch tấu lại với Nguyên Hỷ :
- Nếu hai tên đó đã chết chi bằng ta hãy đổ thừa lên cho cái tên Chí Trinh kia. Vì thế mà ta cũng chẳng phải lo đám người châu ấy thù ghét ta.
Nguyên Hỷ ưng lời, cho gọi lão Tô Hiền tới. Lão râu tóc phất phơ vài sợi, cúi lụp sụp dưới điện khấn vái Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ hỏi lão :
- Ta miễn lễ cho lão. Lão hãy đứng dậy trả lời cho ta. Mấy bữa nay, lão nấu cơm cho đám tù nhân, có thấy điều gì khác lạ hay không ?
Lão chống tay xuống đất, gồng mình bật người dậy. Giọng nói lão to, rõ ràng, lành mạch:
- Xưa nay nhà bếp, rau cỏ đều tinh tươm, đầy đủ. Mỗi suất cơm tù đều đủ hai hộc gạo, ba lạng rau xanh củ quả, năm phân muối. Bữa cơm cuối cùng của tử tù sẽ có ba lạng thịt lợn hoặc một cánh gà, và thêm một chén rượu. Lão đã quản ba mươi năm nay, không hơn kém một ti, một hốt.
Nguyên Hỷ mở lời khen lão :
- Lão Tô Hiền xưa nay tính toán chi ly, cẩn thận từng chén bữa. Quả nhiên không ai có thể làm tốt hơn lão. Nhưng có kẻ phạm nhân bị chết trong ngục do ăn rau của lão nấu cho. Lão có nghe hay không?
Lão đáp ngay :
- Lão chẳng thù, cũng không oán những kẻ tội ác đó. Phận làm cái điều phúc đức cuối cùng của đồng loại cho những kẻ ngục tù, há vì điều gì mà gây ra cái điều tàn ác không bằng súc vật đó.
- Lão có chắc chắn điều đó chứ?
- Lão sống đã bảy mươi mùa xuân hạ. Há lại không biết những thứ mình nấu ra, những điều mình đã làm. Nếu nói sai một lời, đại nhân cứ xử ta theo pháp trị.
Hãn Xương thầm thì với Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ quay ra nhìn lão một lượt, ánh mắt giương giương không chút sợ hãi, dáng người còng thấp nhưng không vì lời lẽ dọa nạt mà run rẩy. Nguyên Hỷ nhìn Long Trạch, Trạch hiểu ý cho lão lui. Có tên lính hớt hải chạy vào thành báo tin Chung Tiềm đã bị chết, cả người lẫn xe đều bị rơi xuống sông Tô Lịch. Thấy có ngựa giãy giụa trên sông, dân chài đi qua liền vớt được xác của Tiềm cùng tay phu xe. Còn tên Chung Đức không thấy đâu cả. Xóm chài cạnh đó nghe nói có hai người trên xe ngựa nên đã cho người lặn dưới đáy sông sâu mà tìm xác đã hơn nửa canh giờ mà chưa thấy xác viên công tử họ Vương đó.
Lý Nguyên Hỷ nghe tin, mặt mày tím ngắt, vò đầu bứt tai, đôi bàn tay xoa xoa vào nhau đỏ rực. Mồ hồi mướt mát, Nguyên Hỷ bồn chồn, đứng ngồi không yên gọi Thi Nguyên đến. Long Trạch phi ngựa tới trại lính, gọi Thi Nguyên đến bàn chuyện. Nguyên bấy giờ chưa hề biết tin, nghe Nguyên Hỷ kể lại mà ngã ngửa, thảng thốt hỏi :
- Đất châu Phong, người trọng nghĩa khí, xưa nay luôn tỏ rõ tấm lòng thuần phục các quan đô hộ, chưa có tâm dạ gây phản loạn. Nay hai viên công tử của hai họ Vương, Kiều tới Tống Bình, bị bắt nhốt, lại gặp nạn tử biệt. Lời ra lời vào không tránh khỏi thị phi. Chi bằng đô hộ Đại nhân hay viết một lá thư ngỏ. Kể cho hết thảy sự tình, tỏ ra tiếc thương, sai sứ đến xứ đó mà vỗ về bọn chúng. Đợi khi cơn tang thương qua đi, quan đô hộ hãy phong thêm chức tước, đất đai cho châu Phong để bọn chúng yên lòng, không đổi tâm dạ làm phản.
Triệu Hoằng biết tin châu Phong có kẻ xàm ngôn nhục mạ quan đô hộ, hai tên công tử họ Vương, Kiều bị chết ở bên sông, Hoằng cho là đấy cái kết đích đáng của kẻ cuồng ngôn phản loạn. Hoằng dẫn hai con trai Cam, Túc tới diện kiến quan đô hộ, vốn không ưa họ Vương châu Phong nên bàn với Nguyên Hỷ :
- Xưa Dương Thanh có dã tâm phản loạn, triều đình giết bỏ mà đe được các châu quận khác nên đất Lĩnh Nam mới yên. Nay có kẻ giữa phố huyện dám bôi nhọ quan đô hộ, dựng chuyện nói xấu các quan trên, dẫu có là con cái bậc vương giả cũng phải xử cho ra lẽ để làm gương. Nếu chúng có ý đồ khác thì hãy cứ thẳng tay mà trừng trị cho những kẻ khác thấy đó mà không dám làm điều trái đạo.
Ba cha con họ Triệu xin lui, Thi Nguyên ở phía ngoài nghe được liền buông lời trách móc :
- Ngày qua, tiểu nhân nhận được thư từ Hoa tướng quân mà lấy làm tin mừng. Nay không lẽ đại nhân nghe lời lão già tặc tử họ Triệu đó. Nhớ khi trước, lão theo họ Dương, lúc cùng đường phản trắc dẫn binh lính của họ Quế giết chết họ Dương. Đó chính là kẻ tiểu nhân. Mà khi đại nhân gặp khó, ba cha con hắn ở đâu, chúng chối lệnh đi đánh châu Lục để cho đám Nam Chiếu, Hoàn Vương chiếm được đất ấy. Chẳng phải tướng quân Trương Sang dùng kế đuổi được quân Nam Chiếu, quân Hoàn Vương thiếu tiếp tế nên mới lui, chúng mới dùng mưu hèn bắt được Chí Trinh, con trai phản tặc Dương Thanh. Quân phản chủ nay lại cả gan dám bàn chuyện trái nghịch như vậy. Chẳng phải là muốn đẩy đại nhân từ chỗ ánh sáng vào chỗ bóng tối hay sao.
Long Trạch đứng ở cửa phủ hồi lâu, thấy cha con họ Triệu đi ra cũng chạy vào bàn với Lý đô hộ :
- Tên Chí Trinh suốt từ ban trưa đến giờ liên tục gào thét trong nhà lao. Hắn luôn miệng chửi rủa đám người châu Phong là đám giặc cỏ, mưu đồ tiếm hết đất An Nam, tâm địa xấu xa trong cái vỏ bọc giả nhân giả nghĩa, đối đáp tử tế với quan lại Tống Bình. Mạt tướng tới nhà lao hỏi cho ra lẽ thì hắn nói rằng đất châu Phong nuôi binh đến hai vạn, chưa kể dân Man Hoàng ba vạn dân phòng đều hết thảy nghe lời châu Phong. Những vụ đánh châu Trường, phá Tống Bình của quân binh động khê đều có bàn tay của họ Vương. Thế cho nên châu Phong vẫn cứ bình an vô sự trong suốt thời gian mà quân Man cướp phá các châu huyện của ta, thi thoảng châu Phong mới động binh giả như tiếp viện cho quân Tống Bình nhưng thực ra chỉ là để chúng do thám thực lực của ta. Khi quân triều đình mạnh lên thì chúng lại lấy lý do tình hình đã ổn xin rút binh về. Những lời Trinh kể đó, cũng đáng để suy ngẫm. Chi bằng đại nhân hãy cứ gửi xác tên công tử đó tới châu Phong, dẫn theo Chí Trinh cùng các tướng họ Triệu, Giả Thanh, Giả Không, áo trắng, cờ rủ, một mặt để tỏ lòng tiếc thương với họ Kiều, họ Vương. Mặt khác cho chúng thấy việc bắt tên những tên phản loạn như Chí Trinh dễ như trở bàn tay. Nếu chúng cùng ruộc với Trinh, ắt sẽ có đề phòng, bấy giờ các dũng tướng của ta tùy cơ mà hành động. Nếu chúng thuận ý thì bớt được đi mối lo châu Phong, còn không thì ra tay hành xử để làm gương.
Hãn Xương nhìn Thi Nguyên, ánh mắt tỏ vẻ không hài lòng với lời của Trạch. Hãn Xương suy qua tính lại, chực nghĩ ra điều mà nãy giờ Xương toan định nói với Nguyên Hỷ mà chưa có dịp để báo lại. Xương dùng quạt phe phẩy, mấy chiếc râu lún phún phất phơ, tặc lưỡi, Xương nói :
- Xin đại nhân hãy xét cho kỹ. Nếu lời Long Trạch tướng quân nói về những lời khai của Chí Trinh là đúng. Châu Phong có hai vạn binh, lại chưa kể các châu cơ mi có đến ba vạn dân phòng thì đừng nói là một huyện Tống Bình mà cả mười một châu quận khác của đất An Nam này cũng chẳng thể sức nào mà chống lại được. Do đó chẳng phải đến lúc này, mà từ lúc Dương Thanh kia bị giết mà kỳ thực cũng không rõ hắn có chết hay không, họ Vương kia thừa sức để giúp đỡ hắn, đánh vào Tống Bình, các châu quận khác khi ấy còn chưa biết ngả theo ai. Chỉ cần thắng ở Tống Bình, họ Vương sẽ tự khắc làm bá chủ đất An Nam. Lại thêm nữa, Chí Trinh đóng quân ở phía bắc sông Lô đã năm lần bảy lượt bị tướng quân ta đóng ở ải Nà Lữ đánh lui, họ Vương dồn binh đuổi theo thì lại bị quân Nam Chiếu xua quân xuôi theo sông Lô, sông Thao đuổi quân châu Phong. Trinh vì thế mà mới căm phẫn quân châu Phong, không nghe lời dụ của họ Vương, liên tục cùng quân Nam Chiếu quấy nhiễu đất châu Ung. Nghe tin dân Man Hoàng chiếm được Trường Châu, Trinh nghĩ rằng có thể dựa thế núi sông hiểm trở, nước Nam Chiếu có thể mang binh đánh châu Lục, lại xui vua Nam Chiếu sai sứ đến Hoàn Vương mang chiến thuyền tới châu Lục chặn đánh thủy quân của ta từ châu Quảng, Quế, Quỳnh. Kế hoạch của hắn thất bại, quân đội triều đình từ Kinh Nam hai đạo đã tới châu Quảng, đánh lui quân Nam Chiếu ở đất Ung. Vua Nam Chiếu ra ý dụ rút quân khiến hắn lạc lõng đành đánh liều về tới phía bắc huyện Bình Đạo, hòng chiếm Loa Thành mà bị các tướng Triệu Gia bắt được. Hắn ở trong ngục, biết đám người họ Vương, họ Kiều nên nghĩ ra kế hòng khích tướng, chia rẽ mối hảo hữu giữa châu Phong với trị sở Tống Bình.
Lý Nguyên Gia ngẫm nghĩ hồi lâu, quay ra hỏi chuyện Hãn Xương về vụ án của hai viên công tử. Hãn Xương liền đáp :
- Chiều nay, sai nha báo với hạ quan rằng đã tìm suốt dọc sông Tô Lịch cả ba dặm nước đều không thấy xác của viên công tử họ Vương. Mà chỉ thấy chiếc lệnh bài đã bị rơi ở khóm cây trúc đào ở nền đất thành cũ Đại La. Có người đã nhìn thấy một chiếc xe ngựa đi về phía tây, sau đó lại nhìn thấy một chiếc giống hệt đi từ trong thành ra. Tên Chung Tiềm bị chết dưới lòng sông mà không rõ nguyên nhân. Đám dân chài kể lại chỉ nghe có tiếng xe ngựa đi bên bờ sông, ngựa bị lồng đã chạy thẳng xuống sông, tên phu xe bị sất sát mặt mày, máu đỏ cả đoạn sông, hắn chết do chảy máu quá nhiều. Còn tên Chung Tiềm xác đã tím tái chết từ trước, chứ không phải do ngạt nước. Lang y đã cho thăm khám thì thấy lá cây trúc đào trong miệng tên đó, một lượng rất lớn ở trong ruột hắn khiến hắn chết ngay tức khắc. Thời gian hắn chết trước khi lao xuống sông chừng nửa canh giờ, nghĩa là từ lúc hắn mới ra khỏi nhà lao. Tất cả những lá đó đều được nấu chín, không phải lá tươi, mà chúng chắc hẳn cũng biết được toàn thân thứ cây đó đều là chất cực độc nên không dại gì ăn sống.
Nguyên Gia càng nghe càng tỏ ra rối loạn. Nguyên Gia cho đám tướng lui ra, Nguyên Gia cảm thấy nhức đầu, liền sai người nấu cho một bát gà tần hạt sen để cho tâm trí tĩnh lặng. Nguyên Gia cho gọi hai đứa con gái áo yếm, tóc dài, da trắng mặt đứa nào đứa ấy có nét xinh xắn múa mấy điệu cho Nguyên Gia thưởng thức. Hãn Xương đứng ngoài hậu viên thấy sốt ruột mà xô đám lính ngã dúi dụi, chạy vào quỳ trước mặt Nguyên Gia mà bẩm :
- Là một bậc tuần lương, thần Tô Lịch đã dạy, có hết lòng hết sức ngay thẳng mới xứng đáng cho đặng. Mới có chút như vậy mà đại nhân đã thế này, làm phận tôi hèn sao có thể khoanh tay mà đứng nhìn được. Hai ả con gái còn không mau cút, đừng để ta lấy kiếm rạch mặt từng đứa một.
Nguyên Gia ngậm bát canh gà, phun thẳng vào mặt Xương. Nguyên Gia giận dữ :
- Ta là chủ, hay nhà ngươi là chủ. Chuyện đã rõ như ban ngày, cớ gì lại còn phải tìm đến ta để hỏi làm chi. Ngươi đúng thật chỉ là một tên nho hủ, không hơn. Chẳng lẽ ta còn phải hướng dẫn từ ly cho các ngươi.
Hãn Xương còn chưa hiểu lời Nguyên Gia nói, vẫn cố lán lại ra lệnh đuổi hai đứa con gái ra ngoài. Lý Nguyên Gia tức tối, đập vỡ niêu gà, gào thét :
- Bọn hai đứa còn chưa đi. Ý Hãn Xương đã nói, các ngươi lại còn không nghe.
Hai đứa con gái vội vàng lấy khăn áo lau chỗ niêu gà vừa đập vỡ tan rồi lúi húi chạy ra ngoài. Hãn Xương đóng vội cửa, giọng đầy sự tức giận :
- Chắc chắn có kẻ muốn chia rẽ Tống Bình với đám người châu Phong. Ngày này hai tuần trước, có một đám người đã uống rượu cùng hai tay công tử châu Phong đó, lại còn trà tửu ngâm thơ, thưởng ngoạn nguyệt hoa thâu đêm suốt sáng ở quán rượu phía nam thành Đại La cũ. Sau đó đám người kia mất tích mấy ngày, đến khi đại nhân cho cất đền thờ mở hội La Thành thì cùng lúc đó không phải hai tay công tử kia mà chính là đám người hôm trước cho phát tán những lời xằng bậy về đại nhân. Hai tay công tử đó vốn tính hênh hoang nên bị chúng kích động, uống rượu cười đùa, ngâm thơ chế nhạo tài đức của đại nhân. Khi Long Trạch bắt được giam vào nhà lao, thì ngày nào cũng có một kẻ mặc áo huyện nha xách cơm, rượu thịt cho đám công tử giấy đó, bọn sai nha nghĩ rằng đó là người của quan huyện sai đến do Kiều Chung Đạt có mối thân tình với hạ quan. Đến sáng ngày nay, vẫn là tên đó mang cơm rượu thịt vào cho hai tên công tử, sau đó lại có một tên khác cũng lúi húi đi theo, mặt mày đeo khăn chùm kín mít. Đám sai nha hỏi thì tên đó khai là nay có hai vị công tử được ra tù nên đi theo tên sai nha kia vừa là mang cơm, lại mang thêm chút quần áo, đồ đoàn sửa soạn cho hai vị công tử lên xe tránh khỏi thị phi khi về tới châu Phong. Đám sai nha không nghi ngờ bảo hắn bỏ khăn che mặt thì trông thấy mặt hắn ta gớm ghiếc như quỷ nên cho hắn đeo khăn đi vào. Rồi sau đó mọi chuyện như đại nhân đã biết. Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà ra như vậy, phải có một âm mưu đã được lên từ trước. Nếu chúng ta nghe lời họ Triệu, hay tướng quân Long Trạch có ý dụ Vương thứ sứ để xem lòng dạ ông ta thì hạ quan e là đã trúng kế bọn chúng.
Nguyên Gia tay miết hai ngón tay tạo tiếng kêu tanh tách, đưa chén nước lên sục miệng, ý hỏi Hãn Xương :
- Nếu như vậy, Từ huyện lệnh có chủ kiến nào hay không?
- Không thể dùng vũ lực để nói chuyện với Phong Châu, càng không thể để rơi vào bẫy của kẻ có tà mưu. Với mối thân tình từ trước, hạ quan xin đại nhân hãy cho Hãn Xương tới châu Phong một chuyến nói hết sự tình với Chung Đạt. Chung Đạt vốn là kẻ ham sống sợ chết, nhưng lại rất yêu quý vàng bạc, gái đẹp đặc biệt là hết lòng vì con trai. Ông ta biết Chung Tiềm đã chết chắc hẳn sẽ không thể ngồi yên. Nay đã như vậy, tại hạ sẽ nói khó với ông ta, vừa đe dọa vừa vỗ về ông ta. Dùng vàng bạc, đàn bà để ông ta nguôi cơn buồn giận, những cơn buồn đau. Tại hạ sẽ cho ông già Tô Hiền kia thí mạng, chúng ta không nên né tránh tội đã gây ra cho kẻ khác mà buộc nó lên đầu kẻ dưới. Dẫu có căm phẫn thì Chung Đạt vốn là kẻ biết điều nên đại nhân chớ lo. Việc này Hãn Xương xin nhận trách nhiệm hoàn toàn.
Nói đến đây, Nguyên Gia mới chịu nghe. Hãn Xương thầm vui trong bụng vì đã đi một nước cờ đúng đắn khiến cho Nguyên Gia nể phục. Nguyên Gia sai người mang nước ấm tới, lấy chiếc khăn lụa, sấp nước lau đi những miếng gà tần mà viên đô hộ vừa nhổ lên mặt Từ huyện lệnh. Chén rượu đầu môi, Nguyên Gia ôm lấy Hãn Xương mà khen hết lời:
- Lời Hãn Xương rõ một như trời sáng, không có điều chi ngoài sự ngay thẳng. Nếu không phải cái dạ trong sáng, cái tâm hướng về chủ tướng thì sẽ chẳng thể nói ra được những lời đó, sẽ không thể quát mắng bọn nô gia trong phủ đô hộ như với kẻ hầu hạ của mình như vậy.
Sáng ngày sau, Nguyên Gia phong ấn cho Hãn Xương mang theo tùy tùng năm mươi người. Không khăn trắng, vàng mã rầm rộ mà chỉ đi thành một đoàn người ngựa tức tốc tới Mê Linh. Người của Chung Đạt đón sẵn ở cửa Hát Môn, Chung Đạt đứng oai vệ phía tả là Hoa Tài tướng quân, phía hữu là Thăng Hùng mặt mày không nở một nụ cười. Nhìn thấy thân hữu từ xa, lại đón tiếp long trọng không khỏi khiến Hãn Xương cảm thấy hổ thẹn. Hãn Xương mặt buồn bã, giọng xót thương mà kể lại hết sự tình với Chung Đạt.
Chung Đạt lão tướng mặc giáp sắt, cầm cây kích múa tung mặt nước sông Cái. Xông thẳng về phía Từ huyện lệnh, Chung Đạt đôi dòng lệ tuôn, không ngăn nổi kích giương lên chém đứt đầu ngựa mà Hãn Xương đang cưỡi. Hãn Xương ngã bổ nhào xuống đất, lăn xuống mặt sông Cái. Chung Đạt rút gươm nhảy xuống ngựa dí vào cổ Hãn Xương, đôi gò má đỏ ửng dính đầy tóc bạc hoa râm với nước mắt. Kiều lão thảng thiết khóc than:
- Ta với anh thân tình bằng hữu, qua lại suốt chừng ấy năm. Nay con trai ta rơi vào lao lý, nói với anh giúp nhờ nó. Vậy mà lại khiến con trai ta ra nông nỗi như vậy. Anh còn mặt mũi mà đến đây gặp ta sao. Nhát kiếm này đoạn tuyệt hữu hảo, báo thù cho con trai ta.
Hãn Xương cúi mặt, rơi hai giọt lê mà mặt không có một chút xúc động. Mũi kiếm lia qua cổ, máu chảy dầm dề, Chung Đạt ném kiếm xuống đất, ôm lấy chiếc quan tài rát vàng lấp lánh. Ánh sáng mặt trời hắt xuống mặt sông chẳng thể bì với hào nhoáng của chiếc quan tài. Chung Đạt lật tấm ván thiên, nhìn con trai tím ngắt, cứng đờ nằm trong chiếc quan tài. Lột áo quan, Chung Đạt khóc thảm thiết, lấy dao khứa lên vai lên ngực. Thăng Hùng xuống ngựa giữ lấy tay lão phó thứ sử, giằng lấy dao mà ném xuống sông sâu. Chung Đạt khóc đến lả đi trong ánh nắng mặt trời chói chang. Thăng Hùng bấy giờ mới tiến lại gần hỏi Hãn Xương, Xương vội lau máu ở cổ, tay giữ lấy đũng quần ươn ướt, gióng run run đáp :
- Vương thứ công tử không rõ đã đi đâu. Có người nói công t.ư đi một chiếc xe ngựa khác nên không bị ngã xuống sông mà chết.
Nói tới đoạn ấy Chung Đạt như bị ngàn tên đâm, vạn con dao khứa vào tâm can. Lão gào lớn, xé manh giáp, dứt tóc, bứt tai, mặt mày như hổ bị trói, treo lên cành cây mà bị ngọn lửa thiêu đốt. Hãn Xương vỗ về, giọng điệu trầm lắng như xoa bớt những đau thương. Thăng Hùng cho người dìu lão phó thứ sử lên xe ngựa, mà người lão như bùn, không còn chút sức sống. Lão thất thần nhìn từ khe cửa xe ngựa, thấp thoáng chiếc quan tài vàng óng ánh. Ánh sáng chói lòa hắt vào khiến lão giật mình, gào thét như điên dại.
Vốn với tài ăn nói, Hãn Xương đã làm yên lòng Kiều Chung Đạt cùng viên thứ sử họ Vương. Họ Vương không trách cứ, tiếp đãi Hãn Xương chu đáo, lại cho người vào ra quán trọ hàng ngày để cho Hãn Xương bớt buồn chán. Ba ngày sau, đám ma theo lệ người châu Phong đã được chu toàn. Hãn Xương bấy giờ mới xin về.
Chung Đạt sau mấy ngày đau đớn, thể xác không màng, đầu óc mới tĩnh lại đến tìm gặp Hãn Xương. Tới dịch quán thì Xương đã rời đi, chỉ gặp Sĩ Giao đang đánh cờ uống rượu trong quán. Chung Đạt hỏi Sĩ Giao :
- Mấy ngày qua anh ở đâu. Anh nói xem người của Tống Bình đối xử với ta đâu đến nỗi như anh nói. Bọn họ vừa cảm thông, lại hết sức đau xót cùng ta. Trong lúc này, tấm thịnh tình của họ mới thật đáng bao năm qua ta đã đối xử không tệ bạc với chúng.
Sĩ Giao đập mạnh quân cờ khiến bàn cờ rung mạnh. Chung Đạt giật mình, quay lại nhìn thấy có một gã mặt mày kín mít như bưng. Chung Đạt hỏi Sĩ Giao người đó thì Sĩ Giao chỉ đáp rằng đó là một môn khách, đánh cờ mà không chịu bình tâm suy nghĩ nên mới tính ra nước cùng đường. Hoãn đi hoãn lại đến năm lượt, bảy lần. Vãn bối giận quá mà đập mạnh cờ xuống. Chắc khiến đại nhân giật mình.
- Ta nghe Sĩ Giao tính tình như nước sông mùa đông giá, lại không hay nóng tính quát nạt kẻ khác. Người ta chơi cờ với anh chỉ là cùng anh kiếm vui. Đâu có cần tỏ ra thái độ như vậy.
Sĩ Giao lấy quạt xua ván cờ. Sĩ Giao nói với anh chàng bưng mặt kít mít :
- Nể mặt Chung Đạt đại nhân. Ta với anh đánh ván khác. Vãn bối đã có điều gì khiến đại nhân chưa vừa lòng thì xin được rỏng tai lĩnh hội.
Sĩ Giao quay sang cúi chào Chung Đạt. Chung Đạt kể lại chuyện mà Hãn Xương đã nói với ông ta. Sĩ Giao chỉ cười mà đáp lễ. Sau một tuần nhang quán trọ thắp lên thần thổ địa, Chung Đạt mới sức nhớ đến bữa cúng cơm cho con trai đã khuất. Sĩ Giao chạy ra chuồng ngựa cùng Chung Đạt, con ngựa khi nãy còn lành lặn mà mới có chốc lát đã bị bung móng, khuỵu khớp gối. Sĩ Giao buông lời ngỏ ý cho Chung Đạt mượn chiếc xe ngựa để về cho kịp giờ cúng cơm. Chung Đạt cũng đành nhận lời.
Anh chàng bưng kín mặt đi ra phía chuồng ngựa, thấy Sĩ Giao lên xe ngựa cùng Chung Đạt liền gọi lại nói hỏi cớ gì lại lấy xe của anh ta đi. Sĩ Giao cười đáp rằng cho lão phó thứ sử mượn, thân làm phó thứ sử châu Phong chẳng nhẽ lại bất tín. Anh ta không chịu, Kiều Chung Đạt ngó ra cửa xe lấy nén bạc đưa cho anh ta. Anh ta cười hớn hở nhận ngay, lại tận tình đưa hai người đó tới phủ. Sĩ Giao to nhỏ với Chung Đạt suốt quãng đường đi. Chàng giả vờ say rượu, nằm ly bì thở phì phò bên cạnh Chung Đạt. Chung Đạt tới phủ liền mời Sĩ Giao vào trong phủ. Sĩ Giao lại nói khó cho anh chàng kia vào cùng :
- Không phải có ý gì. Mà vãn sinh cùng anh ta cũng rong ruổi suốt sáng đi tìm bệnh nhân mà không có ai nhờ cứu giúp. Dám cả gan xin tá túc ở nhà đại nhân một buổi trưa để tránh cái nắng đổ lửa đất Nam.
Chung Đạt hào sảng cho hai anh chàng vào ăn bữa trưa, lại uống rượu say khiến Chung Đạt không hài lòng. Sĩ Giao cơn say nói hết thảy những lời khiến Chung Đạt cảm thấy căm giận. Chàng lừ khừ trong hơi men nói:
- Đúng là đám người Tống Bình có cái thú là bệnh tật. Nuôi một con chó, bắt nó đẻ, lại đem chó con đi bán. Chó con được người ta nuôi lớn đem thịt thì mua về nấu với giềng, nước cơm thiu, dịch tôm thối thành món ngon. Đem xương đó ném cho chó mẹ ăn. Chó nhà ấy ăn xong quay ra ốm, biếng ăn bỏ bữa. Lại gọi người đến thịt, nấu với những thứ giềng, mẻ, mắm tôm ấy. Lại được thêm bữa ngon, rượu cay nồng thơm phức. Giết được chó con, lại có cớ để mà ăn thịt chó mẹ. Có cái thú ăn thịt chó, mà cũng thật lạ lắm thay. Ngon, sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Đại nhân có thấy đúng không.
Anh chàng kia nằm ôm bụng cười. Chung Đạt hơi men, trong miệng hả hơi vào mặt Sĩ Giao giả say:
- Chó mẹ cũng biết ăn thịt người đó. Ta cho các ngươi đến chỗ thịt người để ăn. Các ngươi có chịu không.
Sĩ Giao như uống phải thuốc tiên, đầu óc tỉnh như sáo. Sĩ Giao đóng cửa, kể lại cho Chung Đạt :
- Đây là Liêu Đức Thinh, anh ta là người Đỗ Động, rất am hiểu Tống Bình. Trong thời gian vừa rồi, anh ta đã ở trong La Thành, qua lại chỗ lão Tô Hiền để tìm hiểu chuyện ở Tống Bình. Thật trùng hợp vụ án ở La Thành, Đức Thinh đều thấy hết được sự tình.
Đức Thinh cởi bỏ khăn áo, hơi rượu nồng nặc :
- Chính tay Long Trạch da xanh mặt quỷ là người đã đến nhà lão Tô Hiền ép lão phải nấu lá trúc đào vào canh cho hai vị công tử ăn. Sau đó chính hắn đã tráo xe ngựa, con ngựa đó là giống chưa thuần, tên phu xe chở hai vị công tử đó chính là tay sai của Trạch. Còn tên phu xe mà đại nhân nhờ viên Từ huyện lệnh đã bị đánh cho bầm tím mặt mày, chân què không thể đi nổi. Trạch là người đầu tiên có mặt ở hiện trường, hắn tới giết chết tên phu xe, và thủ tiêu xác của hai vị công tử mà không hề ai biết. Xui xẻo cho hắn là có một người phụ nữ đã nhìn thấy một tên da xanh giết người trước khi xe ngựa lao xuống sông. Người phụ nữ đó là con gái của lão Tô Hiền. Hãn Xương biết được nên bưng bít, che giấu cho Trạch nên lấy cớ đó giết lão Tô Hiền trước mặt đại nhân như để trả mối thù của đại nhân, nhưng uẩn tình trong đó lão Tô Hiền là người bị lợi dụng. Nay cả ba người con gái của lão đều bị bắt giết, đám con rể lão cũng bị giáng làm dân thường, cấm trở về Tống Bình.
Sĩ Giao tiếp lời :
- Hãn Xương là một tên tráo trợn, đổi trắng thay đen. Hắn khóc mà mặt lạnh tanh, không xúc cảm. Hắn là một quân cờ mà Lý Nguyên Gia đang nắm trong tay. Chính vì thế mà Nguyên Gia đã che mắt được đại nhân, ngầm muốn dạy cho Phong Châu một bài học đích đáng, để tỏ rõ sự uy phong của chúng đối với kẻ khác. Lại thể hiện sự nhân từ bao dung để che mắt châu Phong. Quả nhiên, đám người Tống Bình không coi đại nhân và Vương thứ sử ra một thứ gì trong mắt chúng.
Chung Đạt nghe mà lòng căm phẫn lắm. Lão đốt cháy cả gian phủ phía Đông Nam, hò hét ầm ĩ suốt cả đêm. Đám người hầu kinh hãi, bỏ trốn đến hơn nửa. Bọn gia nhân đi tìm cũng kiếm cách trốn đi. Tiếng cháy rụi, sập sệ của gian phủ phía đó như sôi sục trong tâm can, ý chí của Chung Đạt. Ông nằm ngất lịm giữa sương đêm trong cơn khát máu sục sôi đòi báo thù cho con trai.