Tô Thái Hà
Phàm Nhân
Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ mười :
Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .
Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ mười :
Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .
Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .
Đỗ Sĩ Giao ở lại châu Phong suốt ba tháng mà không thấy phía châu Phong có động tĩnh, Dương Thanh liền cho gọi Sĩ Giao trở về Trường Châu. Sĩ Giao gửi một lá thư để Dương Thanh yên dạ, cho Bá Nam thêm thời gian. Quân tình đã chuẩn bị chu đáo, các tướng lĩnh tại các châu huyện đều đã sẵn sàng chờ tin của Sĩ Giao mang quân đánh trận lớn nhất từ lúc Dương Thanh cầm binh trở lại chiếm châu Trường.
Dương Thanh sai Phạm Đan cầm thủy quân ba nghìn người đóng trại ở lưu vực phía đông sông Đáy. Số thuyền chiến lên đến trăm hai mươi chiếc lớn nhỏ. Phạm Đan phải chia nửa số quân đi đến sông Xích Đằng, chiếm lại vùng đất chài lưới, buôn bán tích lũy thêm lương thảo.
Chí Liệt cầm quân tiên phong trấn giữ thành Đỗ Động, cho quân lính đắp thành cao ba trượng, dựng hàng rào cọc tre cao hai thước bên cạnh hào nước sâu bao quanh thành Đỗ Động. Triệu Cường, Dương Diện Gã Quỷ đóng quân tại chân núi Tản, dựng một lũy nhỏ phía trước thành huyện Thái Bình do thành cũ đã bị tàn phá nặng nề. Hai đạo quân tạo thế gọng không cho địch đi từ phía đông tới. Quân lính châu Phong cũng vì thế mà không lấn thêm đất của họ Dương.
Các tướng Lý Toàn, Ma Cao Dực, Mã Tước, Đặng Hoài trấn giữ đất các khê động Man Hoàng, binh lương tiếp tế chu cấp không thiếu một binh tốt, một hạt lương thảo. Nga Tú Du Thủy Lý Toàn được phân trọng trách vận chuyển quân lương từ Man Hoàng tới châu Trường, hễ cần có điều động, Dương Thanh lại tin tưởng giao cho Lý Toàn lên kế hoạch điều binh, cấp lương chưa bao giờ chậm trễ.
Trường Châu cứ điểm Dương Thanh cho Phụng Quán trấn giữ mặt biển thông thương với đám thuyền buôn nước ngoài, hay có cướp biển, ngoại bang tới tranh chấp. Phía đông bắc giáp Võ An Châu và huyện Chu Diên. Dân chúng ở chỗ đó không ưa sự bành trướng của các thế lực khác ảnh hưởng đến quyền lợi của họ tại Tống Bình nên chưa bao giờ chịu khuất phục Dương Thanh, kể cả khi Dương Thanh đã từng có thời gian nắm trị sở đô hộ.
Dương Thanh giữ tám nghìn quân bao gồm cả lính kỵ tám trăm, bản bộ năm nghìn cùng thủy binh đóng từ cửa Đại An vào đến vùng hạ lưu sông Đáy, sông Hoàng Giang, và bãi đầm Vân Long.
Bấy giờ, triều đình Nhà Đường đương lúc rối ren, hoạn quan lộng hành, các quan đại thần Vương Thủ Trừng, Lý Phùng Cát, Bùi Độ,… bè phái trong triều, giết chóc không kể xiết. Vua Đường Kính Tông Lý Đam hoang râm vô độ, ưa chơi bời, thích đá cầu, đánh vật nên sức khỏe sa sút không có tâm sức mà trị triều đình phương bắc. Các quan lại ở các châu quận xa xôi ra sức lộng hành, vơ vét, đàn áp nhân dân.
Lý Nguyên Gia bắt đầu cảm thấy những áp lực từ phía người Giao Chỉ. Cái uy của thiên triều đã không còn ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân xứ Lĩnh Nam. Lý Nguyên Gia chỉ còn biết lắc đầu ngán ngẩm, lao vào vui thú hoan lạc ở Tống Bình.
Các tướng lĩnh dưới trướng Nguyên Gia đều tỏ vẻ không bằng lòng với nhau, với chính vị quan đô hộ nên không ít lần xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ khiến Nguyên Gia đau đầu.
Những lúc như vậy, Nguyên Gia lại tìm đến gái đẹp, rượu ngon vùng Tống Bình mà làm nhẹ bớt đi những u não muộn phiền. Từ Hãn Xương sau khi dùng lời lẽ vỗ về châu Phong đã ung dung an lòng, ngày lên công đường, tối về lầu quán vui thú với đám kỹ nữ phấn son trong thành huyện mà không hề hay biết Kiều Chung Đạt đã đổi ý muốn gói Tống Bình vào túi riêng.
Sau bảy bảy bốn mươi chín ngày cúng cơm cho con trai, Chung Đạt nuôi chí báo thù bèn đem lời tấu lên tới Vương Thăng Triều. Thăng Triều nghe tin lấy làm giận lắm mới cho gọi Chung Đạt lên. Triều chỉ nhẹ nhàng mà nói với Chung Đạt:
- Chung Đạt với ta tình như thủ túc đã biết bao nhiêu năm nay. Vậy mà lại để cho kẻ ngoài mượn cớ để ta gây hấn với Tống Bình. Gương Dương Thanh vẫn còn đó, chẳng phải là để cho thiên hạ cười chê. Người châu Phong trọng nghĩa khí, khảng khái, đường đường chính chính có điều gì mà lo ngại. Chỉ là có kẻ rắp tâm rèm pha khiến Chung Đạt lay lòng. Xin chớ vì những thứ đó mà hất đổ hết thảy những công lao mà ta và Chung Đạt đã gây dựng.
Chung Đạt nghe Thăng Triều nói mà tỏ ý muộn phiền, muốn từ nay Chung Đạt không bàn đến chuyện trả thù. Hai ngày sau, với giọng điệu thống thiết, Chung Đạt giãi bày với Thăng Triều:
“Hạ quan xin bẩm Vương thứ sử. Ta vẫn thường gọi ông là Thăng Triều, cái tên mà gắn bó với hai ta suốt bao nhiêu năm tháng. Vậy nên ta cứ gọi ông là Thăng Triều cho thuận tai. So về tuổi tôi hơn ông bốn tuổi. Nay đã ngũ thập cái tuổi mà tri thiên mệnh, thấu hết lẽ sự đời, lẽ phải điều hay. Tôi với ông lập đất tổ cha anh mà dựng nghiệp, gặp đất vượng mà công danh lừng lẫy. Há chẳng có điều gì lấy làm phiền muộn.
Nhưng xót thay, dòng sông chỉ chảy mãi một dòng về biển lớn. Tổ ta ở đất này vẫn còn khóc lệ hằng đêm, cháu con bị người ta trà đạp chèn ép, hỏi cha ông có lấy làm yên lòng.
Hay cứ mỗi độ xuân về, hoa trên núi ấy lại kém sắc, nước ở khe suối kia mà thêm nhiều. Liệu có phải chăng nỗi lòng của đất mẹ cứ đổ dồn theo thác lũ đổ về biển lớn mênh mông.
Thăng Triều hãy nghĩ mà xem, từng giọt máu của nòi giống tiên rồng đã thấm xuống đất nam ta chỉ mong cây cối sinh sôi màu mỡ, ruộng đồng xanh tốt trĩu bông. Ấy vậy mà có kẻ nỡ lòng nào đạp lên vai dân nam ta mà đứng, ngồi trên đầu những kẻ lũi lầm. Đun máu nóng trong chảo mồ hôi, trên ngọn lửa hung ác bắt dân ta lên rừng xuống biển kiểm sản vật, dị thú, chim muông. Xương dân ta cho báo cọp gặm xé, máu thịt dân ta làm mồi cho bọn lang sói.
Ta noi gương những người đi trước, Trưng Vương, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Vương Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng giữ bờ cõi non sông mà tổ tiên ta gây dựng bao đời nay. Cứu dân khỏi lầm than đói khổ, kéo dân ra khỏi vũng bùn đỏ máu.
Nhà Đường kia đã quẫn cùng, xứ Giao Châu ta chúng không thể gánh nổi. Đất Phong châu binh hùng, lương mạnh, lại thêm những kẻ anh hùng đang sẵn sàng theo ta mà dấy binh khởi nghĩa đấy chẳng phải là điều đáng nên mừng. Mọi sự đều đã như sắp đặt cho chúng ta từ trước. Còn khi nào mới thỏa chí anh hùng mà cái thời niên thiếu hai chúng ta cùng ước mong.
Chén rượu cay đã nồng lại còn chát, dòng hồng huyết chưa nhỏ đã đỏ sông. Bằng tâm can xin Thăng Triều hiểu rõ, triệu ba quân đứng dậy, quyết mang cả Lĩnh Nam thuộc về ta, cõi nam ta sẽ quy về một mối. Dẫu có chết cũng không hối hận điều gì.”
Thăng Triều đêm không ngon giấc nghĩ đến những lời của Chung Đạt mà trằn trọc, sáng sớm tinh mơ đã cưỡi ngựa mũ giáp chỉnh tề tới Mê Linh gặp Đạt nhân lễ thất tuần con trai Đạt.
Vượt ngã ba Tam tỉu, gặp một chàng trai trẻ, đầu vấn khăn xếp bạc màu, áo nâu gụ đang ung dung thưởng ngoạn ánh bình minh. Chàng cầm chiếc quạt đề bài thơ, ngâm nga trên con đò lênh đênh, chòng chành theo sóng vỗ đôi bờ sông Cái:
“Cồn cao nước trắng ngập đồng
Vũng lầy cùng quẫn giống rồng bùn đen
Trông lên rạng rỡ ánh đèn
Cúi nhìn leo lắt giữa nền mờ sương
Cánh én vội vã qua đường
Sải ưng thong thả muôn phương vẫy vùng
Phong Châu thỏa chí anh hùng
An Nam một cõi lẫy lừng thiên thu.”
Cảnh vật tĩnh lặng, ngàn cơn sóng dữ như lắng lại nghe tiếng chàng trai thư sinh nhỏ nhắn đứng trên chiếc đò nhỏ giữa mênh mang mây trời, sông nước. Vương Thăng Triều búi cao mái tóc, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt xa trông gọi vang:
- Kẻ sĩ hiên ngang giữa mây trời non nước kia, phải chăng là thần tiên giáng thế.
Sĩ Giao quay lại nheo mắt nhìn về phía tả ngạn sông Cái, bóng người cao lớn, nét mặt vuông vức, mặc giáp trụ màu đồng, ánh bạc lấp lánh dưới ban mai. Thương dài, duỗi thẳng uy nghi trên lưng Tuyết Mã như thần tướng trong truyền thuyết. Sĩ Giao vội vã quay trở vào bãi đất ven sông, từ tốn buông lời chào Vương thứ sử:
- Vãn bối cúi chào đại tướng quân. Dáng đứng hiên ngang của bậc thần tướng, bộ giáp phục hào nhoáng, ánh thương sáng lòa trong tia nắng buổi bình minh. Oai vũ vô cùng. Chẳng hay đại tướng có việc gì qua sông từ buổi sớm tinh mơ.
Thăng Triều vỗ ngực, đu cương ngựa hý vang, giọng nói trầm ấm, như rền trong tai:
- Kẻ dũng chỉ được cái vẻ bề ngoài. Nhìn tiên sinh ta cứ ngỡ lạc vào chốn tiên thần. Chẳng hay tiên sinh là người từ đâu tới, giữa tinh mơ sấm đánh bên tai những lời của bậc anh hùng.
Sĩ Giao cúi thấp người, bái kiến, mặt mừng rỡ hồ hởi:
- Vãn sinh là kẻ nho đọc sách, ngày đi rong ruổi bán thuốc cứu đời. Hiện đang tá túc nhờ chỗ của Chung Đạt đại nhân. Canh giấc không tròn nên cưỡi ngựa tới đất Tam tỉu giang thấy cảnh vật thiên địa, cây nước như tranh vẽ mà nổi hứng ngâm bài thơ. Nếu có điều chi khiến tướng quân chê cười xin bỏ quá cho.
Vương Thăng Triều nhảy xuống ngựa, ôm lấy bờ vai mảnh khảnh của chàng, đập mạnh liên hồi. Giọng nói trầm trầm, vang vang, Thăng Triều hỏi Sĩ Giao:
- Nhà anh tên họ thế nào. Nghe giọng anh hẳn không phải người ở đất châu ta.
Sĩ Giao phong thái đĩnh đạc, đường hoàng, giọng nói ôn tồn bẩm với Thăng Triều:
- Kẻ nho họ Đỗ tên Sĩ Giao, người huyện Yên Thành, châu Lục. Tổ tiên họ Đỗ gốc ở Ái Châu.
Lời nói Sĩ Giao khiến Thăng Triều ngờ ngợ, Thăng Triều lắng lại một chút rồi quay ra hỏi:
- Nhà anh chính là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Tiếng tăm lừng lẫy Giao Châu, dâng kế lấy Tống Bình, giết chết Tượng Cổ tàn bạo, xông pha trận mạc cả trăm trận đánh, quân lính triều đình hễ nghe tiếng Bá Nam quân sư mà kinh hãi muôn phần.
- Đại nhân đã quá khen, phận làm tôi cho tướng chủ mà được tiếng thơm lây. Vãn sinh tới đất châu Phong đã hai mùa xuân hạ, gặp được tướng quân chỗ này thật là vinh hạnh.
Thăng Triều hồ hởi gọi mời:
- Ta đương có việc tới Mê Linh, chỗ của Kiều Chung Đạt. Anh có định quay lại đó hay không?
Sĩ Giao không chút chần chừ, nhận lời đi cùng Thăng Triều tới phủ của họ Kiều. Đoạn đường ngắn ngủi không thể cho hai người giãi bày hết những câu chuyện. Đi tới đoạn Hát Môn, Sĩ Giao xin cáo đi đường khác.
Ở Mê Linh, Kiều Chung Đạt nghe tin Thăng Triều đích thân tới tìm liền sai người tiếp đón linh đình, mổ trâu giết gà để dâng bữa mới thứ sử.
Đám vũ nữ áo yếm nuột nà, tay chân thoăn thoắt, ánh mắt đong đưa, voan áo buông lơi trong tiếng đàn tiếng kép của điệu nhạc dân gian. Rượu cả trăm chum xếp dài giữa hai hàng quân lính giương cung nỏ, giáo gươm theo quân lệnh uy vang.
Tiệc đến quá trưa, mặt đỏ gắt như mặt trời mới sáng, Thăng Triều cầm ly rượu hỏi ý Chung Đạt giữa văn võ dự tiệc:
- Phó thứ sử Kiều Chung có nam tử là Tiềm, mới bị quân Tống Bình lấy cớ phản nghịch mà giết đi. Ta nghe mà đau xót thay cho ông. Xót thay, xót thay.
Như trúng tâm can họ Kiều, Chung Đạt gạt nước mắt mà giọng rung rung:
- Kẻ làm con chưa trọn hiếu đạo, lại gây ra tội lớn tày trời với rắn hổ. Dẫu có thương xót mà cũng chẳng thể làm gì hơn.
Thăng Triều hẹm giọng, liếc mắt nhìn Toán Hoa Tài. Toán Hoa Tài giật mình ấp úng cúi gằm mặt xuống bàn. Thấy Toán Hoa Tài sợ sệt, Vương Thăng Triều nhìn sang Lý Do Độc. Đêm trước được lệnh triệu tới, Do Độc thúc ngựa tới Mê Linh cũng góp mặt ở tiệc rượu, đứng ra trước đám văn võ trong tiệc, nói lời tỏ ra trách móc Chung Đạt:
"Đấy là cái gương cho những kẻ khác ngồi đây. Làm mệnh quan triều đình, chữ trung hiếu làm đầu. Nay nam tử Kiều Chung không nghe lời cha dạy đó là bất hiếu. Chỉ trích quan trên, nói lời vu khống khiến lòng dân biến loạn đó là tội bất trung. Đó không phải t.ư cách của bậc tôn trưởng, càng không xứng với cái trung nghĩa mà người châu Phong ta vẫn tôn thờ.
Dù gì thì hắn cũng là con trai của bậc quan thứ sử châu Phong làm ra tội thì đáng phải nhận hình phạt. Quan đô hộ rộng lượng thứ tội cho mà đi đường mải mê uống rượu với đám phu xe mà thân chìm dưới Tô Lịch giang.Thân là phó thứ sử châu Phong để cho con cái ra như vậy, mong Kiều đại nhân làm gương cho kẻ khác. Không phải một lẽ t.ư thù cá nhân mà rước họa cho dân chúng Phong Châu năm huyện cùng với hơn bốn mươi cơ mi thuộc vào."
Sĩ Giao ngồi phía sau họ Kiều phe phẩy quạt mo, ngậm ly rượu cười khểnh. Đám quan lại bàn tán xi xào, Chung Đạt thẳng lưng, tay lau đi dòng nước mắt, ánh mắt hằn học nhìn về phía Do Độc mà không thể buông một lời. Thăng Triều ngà ngà say, quắc mắt nhìn về phía chỗ Sĩ Giao, thấy Giao cười mà cất lời dò hỏi:
- Anh chàng ngồi nấp chỗ góc phải phía xa kia là binh nho thế nào? Sao lại ngồi chỗ đó cười khểnh vọng vào mắt ta.
Sĩ Giao toan cất lời, Chung Đạt gạt đi, bẩm với Thăng Triều:
- Bẩm Vương đại nhân. Anh ta là thầy thuốc họ Đỗ, tới đây để trị bệnh cho tôi và người nhà. Là vị môn khách của t.ư gia.
Thăng Triều nổi cơn giận, quát mắng:
- Chung Đạt đau xót rơi nước mắt. Lý tướng quân lấy lời an ủi. Cớ sao anh lại cười khểnh. Chẳng hay muốn chém đầu.
Sĩ Giao vờ như không biết họ Vương, chắp tay bái lậy rồi đi ra trước tiệc giọng nói lè nhè như gã say rượu:
- Cúi chào thứ sử châu Phong cùng các vị quan tướng. Tiểu nhân là Đỗ Giao, người Lục Châu huyện Yên Thành. Ngày nhỏ ham đọc sách nho nên người làng gọi là Sĩ Giao.
Lý Do Độc cúi chào Sĩ Giao, đám người châu Phong rì rầm. Toán Hoa Tài trước mặt Thăng Triều, Chung Đạt nói lớn:
- Ra là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Ta nghe nói từ khi Quế Trọng Vũ chiếm lại Tống Bình, nhà ngươi cùng tên Chí Liệt cứ ở đất Chu Diên. Sau lại bị quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ đánh dẹp, tướng Tồn Thành châu Ái bị Đoàn Uyển gọi về. Thân kẻ làm anh mà để cho huynh đệ dứt bỏ mà về. Chí Liệt cùng ngươi không có đất trú thân, không có tướng giỏi bên cạnh nên mới chạy tới Vũ Bình lục lạy đám Man Hoàng chiếm thành Đỗ Động. Nếu không phải phải đám Man Hoàng chiếm được Trường Châu không thì Chí Liệt gã đó cũng chết dưới binh đao Tống Bình từ lâu. Nay lại tới châu Phong có mưu đồ chiếm đất hay sao.
Sĩ Giao chỉ tay vào mặt Toán Hoa Tài mà trách lời:
"Là Toán Hoa Tài tướng quân phải chăng. Toán tướng quân thân làm tướng quân cũng biết rõ, thắng thua là lẽ thường của nhà binh. Chủ Dương Thanh tôi uy trấn giết chết bọn tàn ác, châu Phong cũng vì thế mà được bớt đi phần sưu thuế nặng nề hàng năm phải cống tiến.
Dương tướng chủ lại nghĩ đến đất tổ tông ở châu Phong mà tăng thêm tướng giỏi Do Độc, Trình Kỷ, Đàm Thức,… viện binh mã lên đến cả vạn quân tới châu Phong này. Bởi thế mà châu Phong hùng mạnh hơn khi trước bị chèn ép bởi chính quyền đô hộ Đường triều.
Sau đó họ Quế dùng tiền bạc, chức tước mà dụ dỗ đám tiểu nhân dưới trướng, chủ tướng tôi mới bị đám kẻ dưới vì mưu cầu lợi kỷ mà bán chủ cho giặc, bậc trượng nghĩa như Châu Phong há chăng lại đứng ngoài cuộc nhìn kẻ ngoại bang tiếp tục đè đầu cưỡi cổ dân nam ta. Thật thấy hổ thẹn thay.
Em tôi Tồn Thành làm tướng đánh nhiều trận giúp Chí Liệt chiếm lại cả vùng đất rộng lớn phía đồng bằng châu thổ. Hổ dữ chẳng bỏ được con, Đoàn Uyển dụng mưu hèn mà triệu tập em ta trở về châu Ái. Bị giam lỏng ở châu Ái, nhìn cảnh dân nam bị những bàn tay bẩn thỉu nối dài của chính quyền phương bắc chèn ép, Tồn Thành thấy mà phiền lòng bỏ quan về làm lão nông.
Còn về phía thiếu chủ Chí Liệt anh dũng ngoan cường chống lại đám cường bạo phủ đô hộ mà xông pha trận mạc, vì dân nam, vì cháu con nòi rồng mà đâu tiếc tấm thân. Bọn ta dẫu có bại trận, chết ngoài sa trường ấy cũng là cái tâm hướng tới chúng dân, ghét bỏ đám ngoại bang đè nén dân ta bấy lâu. Chứ đâu như châu Phong trượng nghĩa mà chỉ no cái bụng của mình mà không có chút thương cảm cho con dân đang bị giày xéo ngoài kia."
Có tay cầm ly rượu hất xuống đất, mặt bủng, râu mềm, giọng nói chua chát:
- Xưa Sĩ Vương lấy đức trị mà yên được đất nam ta, từ bấy giờ dân ta đều an lạc. Đám người nổi dậy như bọn Lý Phật Tử, Phùng An nổi dậy chống lại quân triều đình, cũng chỉ lấy cái cớ là vì chúng dân nhưng đều vì cái t.ư lợi nên chuốc lấy cái thất bại, sinh linh mấy phen lao đao trong đạn mù khói lửa. Đám người Dương Thanh cũng vì cái t.ư lợi nên mới nhận cái kết cục như thế.
Sĩ Giao rót ly rượu đầy, uống một hơi thật cạn rồi đập ly đi, lời nói sắc tựa dao:
"Là kẻ nho Hoàng La Phú năm trước ở hội châu Phong đi trêu ghẹo đám con gái bị đám thanh niên đánh cho hộc máu mũi máu mồm, quỳ lạy bọn chúng nên mới chạy được về đất Mê Linh này, giao du với công tử Tiềm, nổi tiếng ba hoa nên được gọi là Ba Hoa Phú có phải chăng?
Ông nội Phú là phu ở Giang Nam trong đợt đi tuyển chọn gái dâng cho triều đình họ Lý thông râm với con tiện nhân họ Đào bị quan trên bắt được đem hoạn để thị uy. Nhờ có chút bạc lẻ mà chạy trốn về đất châu Phong lánh lạn. Đến đời Phú là thứ ba, cũng thật hợp với danh hiệu của nhà ngươi đó.
Đất Văn Lang bờ cõi từ dãy Ngũ Lĩnh hướng nam, đông hướng tới biến lớn là của nòi giống bọn ta, của những người con mà người Hoa Hạ các ngươi cho là giống man di, xứ thuộc của bắc triều nên mới có những viên quan lại như Sĩ Nhiếp. Kẻ không ra gì thì nhiều vô kể, còn những kẻ khác dẫu là có đức trị thì vẫn dùng cái khéo léo để bóc lột đám dân nam bọn ta.
Những cái tên mà nho hủ nhà ngươi kể ra, đám người đó có khác chi đám cường hào, bạo ngược với dân. Lý Phật Tử vì lòng ghen ghét đố kỵ với Triệu Vương, lấy tấm chân tình của Nhã Lang mà mưu tước đoạt binh quyền Việt Vương. Phùng An hại anh, hại cháu quẫn tiết mà hàng quân Đường, dẫn địch giết chết cháu mình. Đó là những kẻ có lòng dạ tiểu nhân, không đáng để bàn tới.
Dương chủ tướng giết kẻ tham tàn, không phải kẻ bạo ngược, càng không lấy dân chúng để làm lá chắn, lấy tình thân đem bán rẻ cho giặc, lấy sức quân ta mà giết hại dân ta. Nhà ngươi hãy uốn lưỡi ba lần rồi hãy buông lời."
La Phú đưa tay lên miệng mà sờ. Có mũi tên phóng ra từ phía cánh gà, mũi tên xé toang vạt áo Sĩ Giao, cắm chặt lên cột gỗ trước điện. Sĩ Giao không lấy làm nao núng, lấy tay giựt mạnh mũi tên bẻ gãy làm đôi, đuôi tên có chữ Hỏa. Một vị tướng, đôi chân thanh thoát như ngựa khỏe miền Vân Nam, mái tóc xẻ đôi vừng trán, bước ra giọng nói mỉa mai:
- Là Bá Nam quân sư Đỗ Sĩ Giao, kẻ trốn chạy ở dạ tiệc Tống Bình năm xưa. Suýt mất mạng ở bến Hắc Cảng, được Dương tướng quân khi ấy là nha môn tướng cứu giúp mà nên được sự nghiệp hiển hách. Sĩ Giao quân sư nói thật hay, như đục màng nhĩ của đám nho văn bấy lâu chỉ biết uống rượu, bàn những lời tục tĩu. Tiên sinh cho tại hạ hỏi một câu. Nếu Dương Thanh toàn tâm toàn ý với đám dân chúng Giao Châu, há sao lại khiến bọn chúng dân Tống Bình căm ghét bấy lâu. Những lần Chí Liệt đánh tới vùng phụ cận Tống Bình đều bị dân chúng Tống Bình bỏ trống làng mạc không có ý giữ đám quân của Chí Liệt.
Đỗ Sĩ Giao cầm mũi tên vừa bẻ gãy ném xuống đất, chân giậm giậm, lại lấy bầu rượu dốc vào mũi tên ấy như đang dập lửa. Sĩ Giao nhìn lên bầu trời mà cười lớn:
"Một kẻ như Hỏa Cước Tốc thân là quân tướng Tống Bình một thời khói lửa xông pha, đầu hàng quân triều đình. Theo quân triều đình đi bắt cướp ở châu Phong lại bị em ta Sĩ Hoàng xỉ nhục ở lều quán đất sông Tam tỉu. Vậy mà vẫn được thứ sử châu Phong cho làm đến chức Bổ đầu một huyện vùng biên ải. Quả thật châu Phong thiếu thốn nhân tài tới độ ấy sao. Trong khi đó, Chí Liệt thiếu chủ ba lần viết thư xin nhập quân châu Phong, đều bị Vương thứ sử chối từ. Há chẳng phải bỏ đao sắc lấy dao cùn hay sao.
Chủ tướng Dương Thanh như ta đã nói, bị đám người vì t.ư lợi cá nhân mà bán tình thân, trung nghĩa cho giặc đổi lấy tiền tài, chức tước. Giặc lại dụng kế đánh trống bỏ dùi khiến dân Tống Bình hiểu sai lệch đi chủ đích của đám ác bá họ Quế kia. Chính bọn gian tặc đó đã t.ư thông với họ Quế, tung tin bôi xấu Dương tướng chủ với người dân trong thành Tống Bình, khi tướng chủ không còn nữa thì sát hại dân lành dưới danh nghĩa chủ tướng ta. Vì lẽ đó mà dân Tống Bình còn e ngại với Chí Liệt thiếu chủ.
Nay mọi sự đã hai năm rõ mười, há vì lẽ chi mà Hỏa Cước Tốc vẫn tin vào lời bịa đặt của đám giặc ấy. Thật hổ thẹn thay, buồn lòng lắm thay."
Đám văn võ nhìn Sĩ Giao mà khinh miệt, có ý đuổi Sĩ Giao ra khỏi bữa tiệc của họ Kiều. Chung Đạt ngồi dưới ánh nắng chói chang, mặt mày đỏ như gấc, đứng dậy vỗ về Sĩ Giao:
- Đỗ Lang y. Anh say quá rồi. Anh còn chưa chịu về chỗ ngồi. Chớ nói thêm lời không hay khiến Vương thứ sử tức giận mà tiệc tàn.
Vương Thăng Triều giơ tay gọi hỏi Sĩ Giao:
- Vậy theo anh. Châu Phong ta sẽ phải làm gì mới đáng với bậc tiền nhân.
Bá Nam cười lớn:
- Dẫu có ai làm chủ đất nam khiến con dân nòi giống tiên rồng được an vui, no đủ, nghe theo bậc minh chủ há chẳng phải tốt hơn sao.
Sĩ Giao bái lạy Thăng Triều, cúi mình thật thấp, ánh mắt nhìn Thăng Triều thăm dò. Thăng Triều thấy vậy, liền tặng ly rượu, sai kẻ hầu mang cho Sĩ Giao. Sĩ Giao niệm tình nhận lấy ly rượu, rồi hả hê mượn gió đang thổi phấp phới cờ xí mà bàn:
- Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dẫu dân nam ta càng cố nín nhịn thì đám quan lại ở Tống Bình đâu có muốn như vậy. Những án lớn, huyện lệnh châu Lục tự ý giết chết cả một xóm chài, sai người quét sạch mấm mồng đất Yên Hưng. Bọn châu Ái đục nước béo cò, dắt dân đen vào vũng bùn đen tối. Đất Tống Bình bao nhiêu năm vẫn vậy, quan lớn quan bé đều bụng kễnh nằm nghiêng, soi xét nỗi khổ của đám dân đen bằng xích xiềng, roi vọt… Đấy là bình lặng, an vui, no đủ hay sao.
Thăng Triều lấy hai tay vỗ mạnh xuống bàn, mặt mày nghiêm nghị:
- Lời anh nói chẳng thể trách hờn. Một điều vì dân nam, hai điều vì đất nam. Vậy anh có bao giờ nghĩ rằng chiến tranh chỉ khiến dân lầm than đói khổ hơn chăng.
Sĩ Giao bình thản đáp lời:
"Kẻ lấy bạo tàn để đàn áp bạo tàn chỉ có suy vong, trước giờ luôn là như vậy. Chỉ là cái nhân đức của những kẻ đi trước chưa thể phủ khắp được đất Nam ta. Nay tại hạ thấy đất châu Phong có đủ mọi thiên cơ để dụng nhân đức mà hiệu triệu lòng dân.
Ngày qua, ta xem thiên tượng có vì sao sáng ở phía tây bắc, chuyển ngôi về đông nam đến đoạn cửa sông Cái đổ vào Thiên Đức thì sáng rực lên. Tại hạ xem sách luận ra thì nó ứng với đất người châu Phong. Nếu không phải lúc này thì chắc có lẽ dân nam sẽ mãi chẳng thể ngước thẳng đầu lên mà nhìn mặt mũi cha ông."
Vương Thăng Triều nghe tới đoạn đó thì bị cảm nắng phải sai người dìu vào phía sau lễ đường. Toán Hoa Tài đi theo phò giúp cùng đó là lời hỏi bàn:
- Chẳng hay ý của chủ tướng thế nào?
Thăng Triều ngồi ngậm tách trà rồi lấy tay xoa vào đôi vầng thái dương hằn lên gân xanh, thở dài:
- Giá như Thăng Hùng còn tỉnh táo để giúp ta việc này. Xưa nó vẫn thường vãn cảnh núi Hy Cương mà về khuyên giải ta cho lập đền miếu thờ rồng tiên, làm sao cho hợp lẽ trên dưới, trước sau. Chỉ tiếc là…
Lý Do Độc đi tới bẩm với Thăng Triều:
- Bẩm đại nhân. Sĩ Giao ngày trước có mối thân tình với tiểu tướng. Xin đại nhân cho phép tiểu tướng được mời huynh ấy về trại.
Thăng Triều miết hai bên trán, mặt buồn ngắt gật đầu nói với Do Độc:
- Được. Miễn sao nhà ngươi lo lắng việc quân tình không được bỏ bê, luôn sẵn sàng cảnh giác. Có ngươi cầm binh đất Lâm Tây nên ta cũng yên lòng. Chẳng hay ý của nhà ngươi thế nào. Nhà ngươi hãy dò xem Sĩ Giao đó tâm dạ thế nào rồi bẩm báo lại cho ta.
Bỗng nhiên gió lớn nổi lên, bầu trời sầm tối vần vũ bện những lớp mây trên bầu trời thành hình rồng uốn lượn, nuốt mặt trời vào trong. Chỉ trong thời khắc, mặt trời ló rạng từ phía miệng Rồng Mây. Giọng nói của chàng nho sĩ họ Đỗ văng vẳng bên tai:
"Người châu Phong nghĩa khí ngút trời tựa những đỉnh núi ở phía sau đất Lâm Tây. Đất linh thiêng phụng dưỡng những anh hùng từ thuở khai thiên lập địa. Phía sau lưng thành Bạch Hạc là Núi Hy Cương nơi tổ Hùng Vương lập đất ấy là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc tạo thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.
Từ núi ấy nhìn ra con nước Tam tỉu, thành Bạch Hạc, phía trước ngã ba Tam tỉu có hàng chục quả đồi thấp như đàn rùa tứ linh bò từ ao lớn lên tụ lại chỗ đất linh thiêng. Phía sau, mảnh đất Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp thư. Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục oai phong giữa đất trời. Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) sừng sững như vị tướng quân anh dũng đang cầm chiếc nỏ bắn ra cả nghìn mũi tên coi giữ cõi bờ nước Nam.
Cạnh đó Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là chín mươi chín con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô Phong Châu xưa của bậc tiền nhân dựng nước.
Không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương thơm. Khí cảnh đất ấy phụng dưỡng tứ linh, hạc trắng phủ khắp, sung vượng vô cùng, ắt sẽ sinh ra bậc minh chủ dắt dân Nam ta qua cảnh lầm than đói khổ.
Tính rộng ra, từ trước có bậc nữ hùng Trưng Vương cho tới tận bây giờ đất ấy mới hào quang rực rỡ như thế. Há chẳng phải điềm báo về bậc tôn trưởng đất ấy sẽ thành chủ thống nhất đất nam ta."
Lời nói thao thao của Đỗ Sĩ Giao trước toàn thể văn võ châu Phong như rót thêm dầu vào chỗ lửa đang cháy liu diu. Chung Đạt đi ra phía sau lễ đường thăm hỏi bệnh tình của Thăng Triều. Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt :
- Chung Đạt thấy ta là người như thế nào trong thiên hạ.
Chung Đạt thẳng thắn đáp ngay :
"Đất Tống Bình như cái rốn của rồng thiêng. Dải đất châu thổ trù phú đến mạn đông bắc giáp biển lớn ấy là đuôi rồng. Nay Phong Châu uy danh từ bấy lâu, nhân lúc Đường Kính Tông nối tiếp Mục Tông ham vui, lại bị bọn hoạn quan lũng loạn trong triều. Chẳng sớm thì muộn cũng bị lũ quan hoạn đó trừ khử do Kính Tông không khéo cư xử với bọn ấy. Triều đình vì thế mà sẽ lơi là đất Giao Chỉ.
Lý Nguyên Hỷ là tôi tướng của đám Lý Phùng Cát đang bị các bè phái của tể tướng đương triều Bùi Độ, Vương Thủ Trừng chèn ép. Lúc này lòng dân còn đang loạn, đất Trường Châu và phía tây Tống Bình đã bị Man Hoàng chiếm đánh. Châu Phong không dùng sức mạnh, nghĩa dũng mà chiếm lấy trị sở thì e là kẻ khác đi trước ta một bước mà chiếm lấy. Châu Phong khi ấy sẽ lại lệ thuộc lớp lớp tầng tầng bóc lột, sẽ chẳng phải là điều tốt đẹp cho chúng dân."
Thăng Triều nhìn một lượt ba người cận hầu. Ánh mắt người nào cũng hiện rõ ngọn lửa chiến đấu sục sôi. Do Độc gật đầu tỏ ý muốn Thăng Triều thuận ý ngỏ của Chung Đạt. Toán Hoa Tài bàn với Thăng Triều giữ Sĩ Giao ở lại đất châu Phong. Quân lính của Chí Liệt sẽ do Toán Hoa Tài toàn quyền điều động đề phòng bất trắc. Thăng Triều như gột bỏ đi những muộn phiền, bước ra trước lễ đường bố cáo với toàn văn võ, lời nói chắc nịch :
"Đường triều thối nát. Quan lại miền biên xa ra sức nhũng nhiễu dân lành. Châu Phong ta theo lệ từ trước vẫn thuộc về sự quản thúc của quan sứ ở Tống Bình. Nhiều năm nay ta đã nhẫn nhịn nhún nhường mà chúng không hề có ý dung tha cho dân ta, mỗi ngày thuế sưu nộp càng nhiều hơn. Sức dân, binh lực mà bị sa sút đi trông thấy.
Nay thuận theo thiên ý, lòng dân, ta quyết định ngày mai ở thành Bạch Hạc sẽ huy động toàn quân. Ba ngày sau sẽ xuất binh dẹp bỏ đám bạo tàn ở Tống Bình. Quyết mang lại an vui, no ấm cho người dân đất Nam ta. Ý ta đã quyết, mọi sự sẽ theo sự sắp xếp theo ý ta và Chung Đạt. Kẻ nào chống lệnh chém không dung thứ."
Đám văn nho bấy giờ kẻ nào kẻ ấy tỏ vẻ không vui, bàn tán những lời không hay. Thăng Triều cầm kiếm chém gãy đôi chiếc bàn bày đầy rượu thịt khiến đám văn nho kinh hãi, không dám bàn lời trái ý Thăng Triều. Tiệc tan, đám võ quan nói cười hỷ hả, bọn sĩ nho ngán ngẩm ra về.
Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt khi trước quản sự châu Phong, Chung Đạt chỉ cười mà nói với Thăng Triều rằng:
"Đám hủ nho chỉ tỏ ra như vậy, chứ ý lòng chẳng mong Thăng Triều thu hết đất nam về một mối, bọn chúng rồi chẳng phải cũng có nhiều lợi lộc hơn hay chăng. Mà lời nói nước đôi, chẳng can ngăn mà cũng chẳng đồng tình. Đó chính là dụng ý đám hủ nho. Nếu ta thắng trận thì mở lời nhận công, bằng không chúng cũng sẽ chẳng thù tội với đám quan kế tiếp."
Thăng Triều chỉ cười vuốt râu dài. Trời ngả canh dậu, ánh nắng le lói của buổi chiều đất hai bà khiến Thăng Triều không khỏi vấn vương. Tin báo về, Chí Liệt đã dẫn binh tới bắc thành huyện Thái Bình, chờ sự điều động của Toán Hoa Tài. Sĩ Giao ngà ngà say nằm trên xe ngựa đi cùng Thăng Triều về Bạch Hạc. Do Độc cùng Toán Hoa Tài tức tốc tới châu Phong, sai lính tráng chỉnh tề quân ngũ, quân lương vạn hộc không thiếu một ly.
Sớm ngày sau, Thăng Triều cho gọi các tướng tới Bạch Hạc dàn binh, phòng bố khắp châu. Toán Hoa Tài nhận vạn quân hai đường thủy bộ đóng tại thành Mê Linh xuôi về Tống Bình trong thời gian nhanh nhất. Chung Đạt nắm năm nghìn binh kỵ, hợp với đạo quân của Dương Chí Liệt đánh vào các trại quân triều đình ở dải phòng tuyến ngoài cùng từ nam huyện Thái Bình tới vùng châu thổ phía nam.
Do Độc giữ binh Lâm Tây, sai người đến Man Hoàng khéo dụ người Man giữ chắc vùng cương ải, cấp thêm quân lương, điều động binh lính tăng viện cho Trường Châu, đánh vào các phụ cận với Ai Lao, châu Ái nhằm ngăn ngừa sự điều binh từ Tống Bình từ các châu quận phía nam cùng với đám người nhiễu loạn ở Diễn, Hoan.
Đêm khuya ngày rằm tháng sáu, Do Độc dẫn binh từ Lâm Tây bất ngờ đánh thẳng vào trại lính phòng đông của quân triều đình khiến đám quân triều đình hoảng loạn, bỏ đất ấy mà chạy tới Bạch Hạc.
Hai nghìn quân phòng đông của triều đình nhà Đường chạy tới Bạch Hạc kêu la đòi cho trú nhờ trong thành thì bị Thăng Hùng đứng trên cửa thành phóng tên xuống giết chết viên tướng cầm đầu là Lư Hoán. Đám tàn binh giẫm đạp lên nhau, gươm giáo hạ sát những kẻ vướng chân mà chạy tới Đà Giang phía nam thì quân lính bọc hậu của Chung Đạt trông thấy liền xông ra chém giết chết đến nghìn rưỡi.
Còn hai trăm lính chạy tới ngã ba Tam tỉu phát hiện ra thuyền chiến châu Phong đang xuôi dòng, có tên lầm lỳ tới hỏi viên tướng họ Phùng. Họ Phùng vừa nói thì có mũi tên bắn tới, Hỏa Cước Tốc Đinh Tráng gọi lớn khiến tên lính đó thất kinh nhảy vội xuống sông. Đám thủy quân châu Phong liền nhảy lên bờ bắt giết hết số tàn quân triều đình.
Tin báo về Tống Bình, Nguyên Hỷ đang mê mộng liền hộc máu lăn xuống đất. Hai ả vũ nữ đang hầu hạ thấy vậy mà gọi lớn. Bọn lính tráng xông vào giết chết hai ả đó rồi mới hỏi han Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ cho gọi các viên quan lại, tướng sĩ tới bàn kế chống lại quân châu Phong. Thi Nguyên, Long Trạch giáp chiến không trở về Tống Bình bàn chuyện. Các tướng Triệu Cam, Triệu Túc, Mao Húc, Bục Đồ, Giả Thanh, Giả Không, Trương Hàm, Lương Khúc tức tốc chạy tới Tống Bình.
Từ Nguyên Hãn cúi mặt không dám ngẩng mặt nhìn Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ ho sù sụ bàn việc với đám tướng quan. Kẻ nào kẻ nấy đều không dám mở lời đề đạt với Nguyên Hỷ. Duy chỉ có lão quan Triệu Hoằng dâng kế triệu tập quân lính vùng biên ải, gửi thư cho vị tướng trẻ Mã Thực đang đóng ở châu Ung.
Ngoài ra kêu gọi tiếp tế từ Đoàn Uyển châu Ái, điều binh châu Lục, Võ An tới các huyện châu thổ phía đông nam phòng ngừa đội quân Man Hoàng cấu kết với Hoàn Vương mang thuyền chiến tới chiếm đánh. Lại sai các tướng chia các phòng tuyến từ phía ngoài để đối phó với sức địch từ châu Phong.
Long Trạch giữ binh ở đất hồ lớn râm Đàm, đêm nghe tiếng rắn cắn chuột the thé bên tai mà tỉnh dậy nghe quân báo về phòng tuyến lớp ngoài cùng phía tây bị quân của Chí Liệt cùng một đội quân giáp vải, dao dài từ phía bắc huyện Thái Bình xông tới phá tan, Trạch ngã ngửa ra sàn.
Một tên lính chạy từ phía bờ tây hồ thúc ngựa về trại báo thêm tin rằng đội quân phòng đông ở đất Lâm Tây thường qua lại với quân châu Phong bị giết sạch khiến Long Trạch bất thần nửa đêm dẫn ba nghìn lính bắc cầu nổi qua sông Tô Lịch không cần ý dụ của Nguyên Hỷ đánh thẳng tới huyện Vũ Bình hòng cứu nguy cho đội quân của Thi Nguyên đang chống cự với đám quân Trường Châu cùng Man Hoàng.
Một đạo quân do tướng dưới trướng của Long Trạch là Luân Hữu đi về phía bắc phá vòng vây của quân châu Phong, mở đường tháo chạy cho trại quân đóng ở phía đông huyện Thái Bình.
Luân Hữu mang quân tới chân núi Câu Lậu thì bị toán quân của Chung Đạt chặn đánh, vòng vây hai lớp của quân đội châu Phong chưa thấy, đội quân của Luân Hữu bị phá tan. Luân Hữu bị nô gia của Chung Đạt tên là Cầm Đắc dùng dao dài chặt đứt tay phải. Luân Hữu ôm tay thẫm máu xông lên liều chết với Chung Đạt thì bị con rể lớn của Chung Đạt là Liễu Bình dùng gậy gióng tre vót nhọt đâm thẳng vào ngực trái ngã xuống đất, mắt mở thô lố mà ngừng thở, máu đông. Chung Đạt cho lui quân về thành huyện Thái Bình hạ trại nghỉ ngơi.
Lúc bấy giờ, đội quân Man Hoàng do gã quỷ Tồn Thăng cùng với Triệu Cường xông ra từ núi Tản Viên đánh phủ đầu vào đội quân tiên phong của Long Trạch. Sức quân Man Hoàng quá mạnh khiến Long Trạch đành phải rút lui. Thi Nguyên mang hai đội giáp sĩ chạy về phía đông gặp đội quân của Long Trạch hợp làm một đánh nhau một trận lớn với Chí Liệt, Dương Diện Gã Quỷ đến mờ sáng không phân thắng bại.
Bỗng nhiên có một đội binh mã gần ba nghìn người có hai chục tượng binh đi cùng rầm rầm đi từ phía tây tới. Viên tướng cầm ống nứa thổi vang âm thanh kỳ quái khiến đầu óc quân lính cả hai bên quay cuồng. Gã Quỷ Dương Diện biết đó là Nga Tú Du Thủy liền sai lính bịt hai bên tai chạy toán loạn khiến đội quân của Long Trạch không biết địch ta chém giết lẫn nhau lên đến nửa nghìn người.
Thi Nguyên nghe thứ âm thanh đó lấy chiếc gậy đầu rắn chạy về phía đông nam nơi Chí Liệt đang giao chiến với đám tàn binh, tránh xa thứ âm thanh nhức tai từ Lý Toàn đang tới. Đánh nhau với Chí Liệt hai mươi hiệp dụ Chí Liệt chạy tới chỗ có bụi dứa gai thì nấp đi rồi bất ngờ xông ra đạp vào người Chí Liệt từ phía sau khiến Chí Liệt ngã vào bụi dứa.
Nguyên tay trái dùng đầu xà ngậm chặt đầu ngón tay của Chí Liệt khiến Chí Liệt đau đớn kêu la. Tay phải, Nguyên dùng chiếc quyền trượng đầu rồng toan đánh vào đầu Chí Liệt thì Lý Toàn phi dao nhỏ trúng đầu xà khiến gậy đó gãy đôi. Thi Nguyên chạy ra giật lấy ngựa của tên giám quân chạy về phía nam, lạc vào đất có nhiều núi thấp không tìm thấy đường ra.
Long Trạch trông thấy quân lính Man Hoàng tới tiếp viện cho quân châu Phong cùng Chí Liệt đành phải rút lui về phòng tuyến lớp thứ hai. Đội quân do Chí Liệt đuổi theo truy sát thì gặp đội quân hơn năm nghìn lính của Tống Bình giáp hoa, giáo dài đứng chặn ở phía bờ tây sông Đáy. Chí Liệt thu quân trở về phía tây.
Dương Diện gã quỷ chưa thỏa cơn thèm khát đánh giết tự ý rời quân Trạch xông thẳng về phía quân lính triều đình lấy đầu bảy tên lính dễ như xơi trầu, xông tới giao chiến với Long Trạch. Sức nặng của từng hiệp đánh khiến ngựa của cả hai người phải khuỵu chân, được chục hiệp giao đấu thì ngựa của Long Trạch bị gãy chân, Trạch đành dùng song câu chém đứt lìa hai chân trước ngựa của Gã Quỷ. Gã Quỷ nhảy xuống ngựa, đôi mắt căm hận, miệng nói lớn, cười hả hê:
- Đám giả phật các ngươi. Có bất ngờ không con trai.
Long Trạch đôi mắt đăm đăm, da xanh gân guốc nổi đầy, Trạch cất đi đôi câu trên lưng, dùng móng vuốt gắn chặt đôi tay. Long thiết trảo những đòn giáng mạnh khiến Gã Quỷ lúng túng chống đỡ. Cây dao quắm đã bị gãy làm t.ư, chỉ còn lưỡi quắm dính một mẩu chuôi gỗ. Gã xông tới bụi tre cạnh đó chặt gãy mười cây, chống trả thêm được ba mươi hiệp đấu với Long Trạch.
Gã Quỷ ngẫm trong bụng không thể khắc chế được Long Trạch nên nghĩ kế chạy về mé sông, dùng nghi binh để Long Trạch không biết. Đám quân xô tới mé sông, phạt hết các bụi thì không thấy Gã Quỷ đâu. Một lát sau, gã Quỷ từ phía xa chạy cưỡi ngựa đi tới. Một tên lính không đầu đứng cạnh. Ném thủ cấp vào trước mặt chỗ Trạch đang đứng, Gã Quỷ cười lớn :
- Hẹn gặp lại tên quỷ da xanh nhà ngươi. Đợi ta về rèn vũ khí xứng tầm, sẽ quay lại đấu với nhà ngươi. Các ngươi còn không mau mau chuẩn bị tinh thần lên đoạn đầu đài. Không thì hãy cúi đầu xin gia gia tha mạng, biết đâu ta vui sẽ tha cho lũ các ngươi.
Long Trạch ánh mắt căm hờn mà nghiến răng ken két, cho quân lính hạ trại nghỉ ngơi thay nhau phòng bị quân Man Hoàng cùng châu Phong đến đánh. Sĩ quân mệt mỏi nấu bữa cháo sáng với cá bắt từ sông, Lọng Trạch dùng cháo nhạt trắng thanh đạm mà đầu óc quẩn quanh, lúc nào cũng giật mình thon thót. Hễ có tiếng giáo gươm rơi xuống đất, hay chỉ là tiếng xoong chảo đập vào nhau Trạch lại giậm chân, giương kiếm nạt nộ khiến quân lính chỉ dám thở nhẹ.
Đám binh mã mệt mỏi ngủ khì khì dưới nắng, dẫu nước sông vẫn chảy cuộn ào ào. Long Trạch ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ rồi ôm đầu gục xuống. Nhắm mắt vào mà chẳng thể an tâm, lại trằn trọc giữa nắng rát miền Lĩnh Nam, mồ hôi hột giỏ ướt nhòe vải mực. Sức không còn, Trạch gục mặt xuống bàn.
Tiếng leng keng báo giờ thìn đã hết, một tên lính mặt nhem nhuốc chạy vào. Long Trạch lờ mờ mở mắt, trong thấy lính nhem nhuốc mà giận lời :
- Bọn mày làm gì mà nhơ nhơ nhuốc nhuốc. Giờ đã cơn trưa sao cháo lão chưa xong.
Hắn nói rằng hắn là mõ cả ở trong xóm cách sông Đáy hai hương, chạy tới đây khi trời còn mờ sáng. Báo rằng có kẻ cầm đầu rồng quyền trượng vào trong hương nhiễu nhách suốt đêm. Trẻ con khóc thì bị nhét giẻ, bà già kêu thì đánh mẻ hàm răng. Nhìn hắn tướng uy võ oai phong, không phải dạng tầm thường cướp trộm.
Long Trạch mường tượng ra họ Thi, lấy làm giận đành bỏ bữa không ăn. Cho người đến hương ấp đó tìm kẻ quấy nhiễu.
Đến canh mùi, Thi Nguyên ló mặt về, dáng vóc trông không khác kẻ ăn xin. Long Trạch hỏi Thi Nguyên về thực hư chuyện ấy. Thi Nguyên nói rằng nữa ngày tìm đường mới chạy được tới đây, không biết về dân làng bị nhiễu nhách.
Long Trạch tạm tin lời Thi Nguyên, không trách tội Thi Nguyên. Sau đó, Thi Nguyên buồn bã tới chỗ bờ sông, tên cả mõ đang đánh đẩy đong đưa với một đứa con gái phường mèo mả gà đồng. Long Trạch nói rằng chính tên đó đã nói Nguyên nhiễu nhách dân làng khiến dân đó ghét đám lính triều đình.
Nguyên nghe xong, nhận ra tên đó đêm qua trà trộn vào đội lính của Nguyên, lại hô hào bọn lính bỏ chạy. Chính là gã rêu rao đồn thổi lời không hay về quân lính Tống Bình với đám dân nghèo khiến dân chúng nhìn thấy lính Tống Bình liền bỏ nhà mà đi.
Nguyên hằm hằm mặt đi tới chỗ đôi trai gái chém đứt đôi người đứa con gái. Tên kia máu me đầm người, hốt hoảng chạy đi thì bị Trạch ném câu trúng gáy, đầu lìa khỏi cổ lủng lẳng rồi toàn thân đổ rầm xuống đất. Nguyên lấy trên người hắn ta một chiếc ngà voi khắc chữ Dương. Long Trạch nghĩ thầm trong bụng "Hẳn là bọn người họ Dương, chính bọn ấy làm ra làm ra việc này".
Trạch lệnh cho toàn quân nhổ trại lui về Tống Bình để bảo toàn binh lực. Đi đến đoạn bờ tây sông Tô Lịch, cây cầu nổi bằng gỗ đã bị phá tung. Trạch đích thân cùng tay quân sư dùng bè gỗ vượt sông vào trong La Thành bẩm báo lại toàn bộ việc quân cho Nguyên Hỷ nghe.
Hỷ lúc bấy giờ hai đêm mất ngủ, khuôn mặt đờ đẫn như cái xác vô hồn. Đôi mắt thâm quầng, sâu hoắm lộ ra chiếc sọ hốc hác, tay chân bủn rủn nói với Trạch :
"Ta sai các tướng đi bố phòng những chỗ yếu hiểm. Nay chỉ còn đất phía tây do Long tướng quân cùng Thi Nguyên giữ. Phía bắc bị quân châu Phong tập kích từ đất Mê Linh, quân ta rút theo sông Cái về đến râm Đàm, tướng Triệu Cam, Triệu Túc đang bày binh đoạn từ hữu ngạn sông Cái tới râm Đàm, chúng không quen sông nước nên bị chết đuổi phần nhiều.
Quân lính Mê Linh mạnh quá liên tục cho thuyền vượt sông đánh vào La Thành. Bọn Mao Húc, Bục Đồ trấn thủy quân cửa sông Thiên Đức bị đội quân châu Phong do tướng Toán Hoa Tài châu Phong đẩy lui về phía đông. Thành Long Biên, các tướng Giả Thanh, Giả Không không chống cự nổi đành bỏ trống thành lui về Liên Hựu huyện Nam Định.
Trương Hàm, Lương Khúc giữ Loa Thành hiện vẫn còn giữ được thành nhưng không rõ sẽ trụ được bao nhiêu lâu nữa. Lục Châu lại loạn, quân đội tiếp viện chẳng biết khi nào mới tới."
Long Trạnh tím tái mặt mày, tay bấm chặt dấm máu. Trạch hỏi :
- Nghe nói có viên tướng trẻ tuổi Mã Thực năm trước ở châu Ung dẹp được bọn Nam Chiếu, Man Hoàng. Chẳng hay đại nhân có nghĩ tới hay chưa.
Nguyên Hỷ thều thào :
"Nước xa không cứu được lửa gần. Liên Thụ thành Nam đã bị một toán cướp ở Chu Diên đốt cháy cửa thành, phải dựng cọc tre để trấn thủ. Loa Thành đã bị phá phân nửa. Viện quân ít nhất cũng phải ba ngày nữa mới tới lại bị quân nổi loạn ở châu Lục cản bước.
Giờ chỉ còn đường núi đi qua Nà Lữ nhưng phía đông châu Bình nguyên dân ở đó hiện còn căm ghét Trương Sang do Sang giết viên tù trưởng của chúng nên cũng không thể đi tới được. Nếu có đi qua cũng bị đám quân châu Phong chặn đánh ở phía bắc. Thư gửi tới các châu Quảng, Quế, Kinh Nam mà chẳng có hồi âm. Nay cậy nhờ cả vào Long Trạch tướng quân."
Trạch mặt đăm đăm hồi lâu, vết thương ở vai nhức giật lên như khiến Long Trạch nhớ ra điều gì đó. Gã mặt xanh đi qua đi lại, lầm nhẩm vài lời trong miệng như tự nói với bản thân. Nguyên Hỷ thấy vậy liền hắng giọng mà hỏi :
- Tướng quân có kế gì hay chăng? Có điều gì thì hãy lớn tiếng nói cho ta.
Long Trạch lau đi dòng mồ hôi ướt vừng trán, hai tay vò chặt lấy nhau. Lòng nóng như lửa đốt:
- Cơ sự đã như vậy. Hãy liều chết với chúng một phen, ta không tin bọn chúng có thể chiếm được đất Tống Bình một cách dễ dàng như vậy.
Nguyên Hỷ thấp thỏm ngồi lên, nằm xuống. Giọng nói không ra hơi như người hấp hối :
- Hay ta viết thư đầu hàng châu Phong. Nhường đất Tống Bình cho họ Vương. Hòa hoãn với chúng đợi viện quân tới.
Tay quân sư cho Long Trạch nãy giờ ngồi yên lặng, nghe thấy Nguyên Hỷ muốn hàng mà mặt mũi như bừng tỉnh. Hắn liền ngỏ ý tham mưu :
- Lời đại nhân không phải không có ý hay. Chỉ có điều họ Vương đó có chịu lời hòa hoãn của ta. Chi bằng đại nhân hãy cho Triệu Hoằng làm sứ tới đó mà khuyên giải chúng.
Long Trạch quả quyết :
- Thà chết nơi sa trường chứ không thể hàng những tên phản loạn.
Nguyên Hỷ nhổm dậy, tay run run chỉ vào Long Trạch toan nói lời gì đó thì từ phía ngoài huyện lệnh Tống Bình Nguyên Hãn đi tới báo tin rằng quân lính phía nam đã đánh lui đám quân nổi loạn. Chiếm lại sống Xích Đằng, bọn quân lính Chu Diên đánh dẹp được một đám dân buôn chài là tay sai của đám quân nổi loạn.
Quân lính bắt được hai mươi người cả phụ nữ, bị ép cung nên bọn đó khai ra chỗ quân lính đóng trại, lại dẫn đường mà bắt sống được phó tướng của Phạm Đan là Nguyễn Hoắc. Nhận tin mừng Nguyên Hỷ nét mặt giãn ra đôi chút, Hỷ nói :
- Bọn dân nam nghèo đói đã lâu, bọn thổ hào cũng lấy cớ ấy mà hô hào chúng nổi dậy. Bây giờ chỉ cần sai đám lính trà trộn vào dân, cho mỗi hộ vài đồng bạc lẻ, nói chuyện khéo léo với chúng để chúng căm ghét bọn cầm đầu nổi loạn. Về phía châu Phong ta sẽ sai Triệu Hoằng tới đó bàn lời nghị hòa xem chừng sẽ được lợi cho ta.
Nguyên Hãn cản lời :
"Triệu Hoằng trước theo Dương Thanh không được lòng họ Vương, sau lại bỏ họ Dương theo ta càng khiến Thăng Triều coi khinh. Triệu Hoằng lại vốn tính tham lam e rằng sẽ hỏng chuyện.
Hạ quan nghe quân tình báo về thì Vương Thăng Triều cùng với Kiều Chung Đạt bị kẻ khác rèm mà mà đem lòng hận Tống Bình vì bắt giết con trai của Chung Đạt, lại khiến con trai của Thăng Triều mất tích nên mới động binh đòi xử tội Tống Bình. Tại hạ phen này xin đi để nói lời phải trái với họ Vương cùng với họ Kiều. Tỏ ý muốn nghị hòa, giải quyết mọi chuyện cho êm xuôi."
Long Trạch ném câu xuống dưới sàn nhà, giọng nói trách móc :
"Nếu các ngài muốn hàng thì tự đi mà hàng. Quân lính của ta sẽ đánh tới cùng đợi viện quân tới. Các ngài nghĩ rằng họ Vương đó chỉ vì t.ư thù mà đem binh đánh Tống Bình hay sao. Không phải bọn chúng đã mấy năm nay nuôi binh lính hùng mạnh để đợi cái ngày này hay sao.
Nếu bọn tướng tá dưới trướng như ta đầu hàng chúng thì cái đầu vẫn còn, dẫu có không làm quan tướng thì cũng được trở về làm thường dân. Như các ngài bọn đó đâu có thể cho các ngài ung dung ở Tống Bình."
Từ Hãn Xương vỗ về Long Trạch:
- Long tướng quân nói lời rất hay. Nhưng ta tin quân châu Phong thừa hiểu rằng, khi bọn chúng ngồi lên cái ghế ở Tống Bình sẽ có rất nhiều kẻ khác ngó nhòm, rồi cả triều đình cũng chẳng thể cho bọn chúng ngồi yên. Ta tin rằng Vương Thăng Triều chỉ vì một chút t.ư thù nên mới cả giận mang binh đánh Tống Bình. Phen này ta đi lấy lời phải trái nói cho đám người Phong Châu. Nếu chuyện mà không thành xin dâng đầu cho loài sói lang.
Long Trạch không phục lời nói của Hãn Xương, hậm hực bước ra ngoài, chạy thẳng về phía thành cũ, vượt sông trở về Hoài Đức cùng Thi Nguyên giữ chặt phòng tuyến. Hãn Xương nhận lệnh mang theo đôi chim Hạc đứng trên mình rùa đúc bằng vàng , một mâm cau trầu, xôi gấc, chín chín tám mươi mốt con gà trống luộc kỹ soạn sửa mang tới bờ nam sông Cái.
Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ mười :
Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .
Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .
Chương 10.4 Từ chỗ sáng bước vào tăm tối và cái chết
Chung Đạt nghe có quan huyện Tống Bình có thành ý đem theo lễ vật tới diện kiến liền sai người mang thuyền lớn tới rước.
Bãi Quần Thần giữa dòng sông Cái, phía bờ là đất linh thiêng của lão thần nhân Lý Ông Trọng. Chung Đạt cho người bày chõng tre, vải lụa giữa bãi đất cùng Hãn Xương ngồi đàm đạo hồi lâu đến giữa trưa canh ngọ. Sau đó Chung Đạt mời Hãn Xương về trại quân, mang xôi gấc, thịt gà khao đãi toàn quân.
Hãn Xương trông thấy khí thế ba quân của Chung Đạt mà lấy làm kinh hãi, lúi húi vội vàng chạy qua đám quân bước vào lều trại của Chung Đạt. Chung Đại tiếp đón hậu tình, rồi sai người chuẩn bị xe ngựa, lệnh bài để đưa Hãn Xương tới Bạch Hạc hầu chuyện với Phong Châu thứ sử.
Đêm khuya tiếng lang sói gầm vang, trong cơn ngà say, Chung Đạt tiễn Hãn Xương đi về phía tây bắc. Hãn Xương lên chiếc xe ngựa dần xa tiếng trống chiêng, ánh lửa bập bùng. Tiễn người bạn thâm tình bao năm, cầm ly rượu rót xuống mặt đất cát phù sa đỏ ngàu, Chung Đạt cười trong nước mắt :
- Tiễn biệt hảo hữu. Chén rượu cay như lời tạ từ. Tiễn người từ chỗ ánh lửa rọi tới chỗ mịt mù tối tăm.
Bước vào trại, Chung Đạt mải miết từng nét chữ. Canh ba gà gáy nơi làng chài nhỏ bên sông, Chung Đạt cho người gửi lá thư cho quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ kể tội, vạch trần bộ mặt của đám quan lại Tống Bình, thể hiện ý nguyện muốt quét sạch Tống Bình.
Chung Đạt khuyên rằng Lý Nguyên Hỷ muốn đầu còn trên cổ thì mau mà bỏ trị sở về bắc, kẻo chẳng còn vẹn nguyên tấm thân. Lời lẽ mỉa mai Chung Đạt ví Nguyên Hỷ như gà nuôi trong lồng bấy lâu, béo tốt, lông mượt đến khi lồng vỡ rách thì bị đám gà khác xông tới mổ xé. Chung Đạt nằm ngủ mê trong trại cười phá lên : "Đồ gà lồng không biết bay".
Quân lính kháo nhau, lời bàn tới các quan trong phủ đô hộ. Ai nấy đều cho đám quân châu Phong trước giờ lấy lụa là, vàng bạc nịnh bợ quan trên, nay lại lật thuyền toan làm phản, không đáng kẻ anh hùng trượng nghĩa. Kẻ nào kẻ nấy sớm lên trị sở mà bàn chuyện đều dâng kế đánh dẹp quân châu Phong.
Nguyên Hỷ ho gà suốt tuần lễ, máu xổ ra đến hai chậu đỏ tươi đã nằm bẹp trên giường bệnh từ lâu. Chờ tin từ Hãn Xương quay về mã mãi chưa thấy, Nguyên Hỷ đành phó mặc cho các quan dưới lo liệu việc quân tình.
Kẻ nói đánh tây, người bàn chinh bắc, người nghị hòa với nam, kẻ muốn chiến đấu diệt đông khiến quân tình đảo loạn hết thảy.
Bấy giờ Hãn Xương tới Bạch Hạc diện kiến thứ sử châu Phong, ba ngày không gặp được họ Vương khiến Hãn Xương thấy trong lòng như nuốt phải than đỏ. Hãn Xương nằm trên gác quán trọ nhìn ra thấy chữ Đỗ treo trên chiếc đèn lồng phía trước một quán rượu phía xa.
Hãn Xương sực nhớ lời Chung Đạt ngày trước có nói rằng tới quán rượu ở cửa phủ phía đông, gặp được cha con họ Đỗ sẽ có tín lộ mà tới được phủ thứ sử. Hãn Xương vội vàng mang theo chút bạc tới quán rượu ở góc phía nam thành Bạch Hạc.
Bước vào phía trong quán rượu, như bao quán rượu nhỏ to khác, tên tiểu nhị đon đả hồ hởi đón khách quý. Lời ra tiếng vào trong quán ầm ĩ không khác chi phường buôn thúng bán mẹt ngoài chợ. Tiếng vàng bạc liểng xiểng, lúc xúc mà không thấy một ánh lấp lánh của những thứ đó phát ra. Kẻ vội vã, người cúi mặt, xì xầm những lời bàn bạc như cánh hát tạp âm.
Hãn Xương mặc chiếc áo đẹp đẽ, bước vào quán rượu toát lên vẻ tôn quý của bậc trưởng giả, cô gái bước ra xua tên tiểu nhị vào trong, giọng nói đon đả:
- Khách quan xin mời vào phía bên trong. Có người đang chờ ngài ở phía trong.
Bước qua bếp rượu vào tới một gian phòng ngập tràn những sổ sách bàn tính lách cách. Nhìn qua khe cửa gỗ mà Hãn Xương cười nhạt lắc đầu. Cô gái quay lại nhắc khéo Hãn Xương nhanh nhanh bước vào phía trong. Một viên công tử đang đứng quay mặt về bức vách mặc áo lụa, đầu chít khăn vàng chữ phúc, tay vắt phía sau cầm chiếc quạt lá cọ trực chờ. Nghe tiếng bước chân từ phía sau, viên công tử quay ra cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương ngợ ngợ cúi chào lại vị viên ngoại đó. Hãn Xương lập bập :
- Chẳng hay tên họ vị công tử này là gì? Sao lại biết ta tới đây mà cho gọi vào.
Viên công tử khẽ nhếch mép cười :
- Những kẻ tới đây không phải là tìm tín lộ tới cửa quan hay sao. Thấy vị quan khách đi từ phía quán trọ tới, ta liền sai người nghênh tiếp. Có điều chi thất lễ xin quan khách bỏ quá cho. Ta họ Đỗ tên Nam, tự là Bá Sính, hiệu là Hoàng Y Tín Lộ. Mọi người vẫn gọi ta là Đỗ Hoàng Y. Vị quan khách này nhìn qua bề ngoài chắc hẳn không phải là người đất châu Phong. Đeo lệnh bài, mặc áo lụa bên trong chỉ có thể là huyện lệnh.
Hãn Xương lấy tay ra hiệu gạt lời Hoàng Y :
- Công tử xin khẽ lời cho. Thú thật ta là người của huyện lệnh huyện Thái Bình tới châu Phong đã ba ngày nay tìm gặp thứ sử châu Phong Vương Thăng Triều mà chưa được gặp.
Hoàng Y cười lớn :
- Ngài hãy cứ ngồi xuống đây, uống ly rượu này, ăn chút điểm tâm rồi hãy kể lại sự tình cho ta. Đến đây, bất kỳ ai ở châu Phong đều có thể gặp được. Chỉ có điều…
Hãn Xương rút ra túi bạc, vỗ vào bụng :
- Ta hiểu ta hiểu. Chỉ là cần gặp được họ Vương đó, chắc chắn sẽ không để công tử phải nghĩ suy. Ta ở đây có hai nén bạc đặt làm tin. Xong việc ta sẽ trả thêm cho công tử ba nén nữa.
- Không được. Gặp thứ sử chứ đâu có phải gặp chó gà. Hai nén vàng. Không hơn không kém. Bằng không xin quan khách hãy cứ về quán trọ để đợi gặp thứ sử.
Hãn Xương cắn môi mà rút ra một nén vàng đưa cho Đỗ Nam. Hoàng Y chút thêm hai ly rượu, Hãn Xương nằm ngủ thiếp đi. Khi tỉnh lại đã ở phía trong gian phòng rộng rãi, vật trang trí đơn sơ, bàn ghế gỗ tre mộc mạc. Hãn Xương nhẩm trong bụng rằng mình bị tên kia lường gạt cho tới cái chỗ xơ xác này.
Mở cánh cửa gỗ bằng gỗ lát chắc nịch bước ra phía ngoài, có một ông lão đã trực sẵn ở chỗ đó từ bao giờ tới cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương hỏi ông ta đây là đâu. Ông lão nói đây là phủ của thứ sử rồi dẫn Hãn Xương bước qua khuôn viên tĩnh lặng, đất vườn rộng bao la với những gốc tre, cây cọ mọc thành từng lụm dày di dít, cánh cò, cánh hạc đậu trắng sân vườn.
Có vị công tử mặc áo lụa màu xanh, đầu búi củ hành, đi giầy vải đỏ, mặt mũi tuấn tú khôi ngô trông thấy ông lão dắt người đi tới liền gọi lại :
- Này Lão Đỗ, nhà ngươi lại dắt người đi tới điện phủ có việc gì.
Lão cúi đầu, ra hiệu cho Hãn Xương cúi chào vị công tử, lão bẩm lời :
- Bẩm Vương thiếu chủ, người này muốn được gặp Vương thứ sử.
- Vậy à. Lão hãy đi đi.
Hãn Xương đứng đợi ở phía ngoài, Lão Đỗ bước vào trong bẩm với một người đàn ông tuổi chạc tứ tuần, phong thái điềm đạm. Bóng người hắt ra, tiếng thì thầm nhỏ to, Hãn Xương cố rỏng tai nghe nhưng không sao tập trung được. Hãn Xương nhìn theo vị công tử đó quanh đi quẩn lại, cầm sách đọc lại ngẩn ngơ cười, chốc chốc lại quay ra nhìn về phía gian phòng vẫy tay như muốn chào Xương.
Xương liên tục cúi đầu chào từ phía xa. Một lát sau, Lão Đỗ bước ra, tay cầm một thẻ bài dắt Hãn Xương tới phủ điện.
Mùi trầm hương thoang thoảng, chiếc lư đồng nghi ngút khói, đôi hạc đồng đen đứng uy nghi. Thấp thoáng bóng người là vị thứ sử đang ngồi đọc thẻ tre, dùng nghiên bút đọc điểm những bản tấu sớ. Nhìn từ phía ngoài, Hãn Xương lén nhìn vào phía trong.
Lão Đỗ bước tới gần chỗ của vị thứ sử đang ngồi. Thăng Triều đứng dậy, bước ra ngoài gian điện lớn, hai dãy ghế bàn gỗ nghiến, gỗ xoan bạc màu được xếp phẳng phiu thẳng lối. Vương thứ sử ngồi chính giữa, trên bàn chỉ có nghiên bút cùng vài mảnh giấy gió còn vương chút mực, ánh đèn dầu phụng đang lập lòe bỗng tắt phụt khi Hãn Xương theo chân Lão Đỗ bước vào.
Hãn Xương loay hoay tìm cho mình chỗ ngồi, Lão Đỗ xin lui ra. Thăng Triều ánh mắt nhìn ra Hãn Xương, không gian tĩnh lặng, họ Vương hỏi lớn khiến Hãn Xương giật mình ngồi bệt xuống phía bàn cánh tả. Thăng Triều hỏi:
- Nghe tiếng Hãn Xương huyện lệnh Tống Bình đã lâu. Ngài đến mà không báo với ta một tiếng, dẫu gì cũng là mệnh quan triều đình, sao lại đi lối cửa sau tới điện phủ của ta.
Hãn Xương lấy lại bình tâm, ngồi thẳng lưng, đôi tay đặt lên bàn như trẻ học chữ, tay men men chén nước còn nóng nghi ngút. Xương hít hơi thật sâu, nhắm mắt lấy lại khí giọng đáp lời Thăng Triều một cách khảng khái :
- Gặp được Vương Thăng Triều thật là vinh hạnh. Xét về chức tước tại hạ vẫn kém ngài hai bậc. Tại hạ lại là khách, không dám đòi hỏi gì nhiều hơn. Ta báo với đám hầu lại thì được biết Thăng Triều đại nhân đi thăm nom quân tình ở vùng biên ải nên không gặp được. Nay biết tin ngài trở về phủ, nóng lòng muốn gặp nên mới đành phải nhờ chỗ Đỗ Hoàng Y dẫn đường.
Vương Thăng Triều cười lớn, bỗng nghiêm nghị :
- Làm mệnh quan triều đình, lại là sứ của quan đô hộ Nguyên Hỷ tới châu Phong để gặp kẻ tôi mọn như ta thì đâu cần phải lén lút như vậy. Người đời nghe Thăng Triều đối xử với các bậc trưởng giả như vậy thì nào còn mặt mũi với thiên hạ. Không tiếp đón khách quý thật tận tình chu đáo, mong Từ huyện lệnh không để bụng. Ta sẽ xử thật nghiêm đám tôi dưới quyền. Chẳng hay huyện lệnh tới châu Phong có việc gì.
Hãn Xương ngậm chút chè thơm, dõng dạc đáp:
- Nghe nói Châu Phong vì cả giận quan sứ mà động binh đánh tới Tống Bình.
Thăng Triều mặt không biến sắc, giọng nói hào sảng :
-Đánh thì sao, mà không đánh thì sao? Hãn Xương tới đây muốn khuyên giải ta chăng? Hay là ý chủ nhân của Hãn Xương muốn đầu hàng.
Hãn Xương vểnh mặt, vuốt râu, cười Thăng Triều:
"Tại hạ không dám khuyên giải Vương thứ sử. Chỉ muốn bàn vài lời phải trái với Thăng Triều. Đất Phong châu dẫu có hùng mạnh, nhân tài hào kiệt vô số thì cũng chỉ là một mảnh đất nhỏ nhoi ở xứ tây An Nam, đời đời lệ thuộc vào các quan đô hộ, thuế sưu dâng cống cho triều đình.
Quân binh dẫu có đến nghìn, vạn thì cũng chỉ như những sợi tóc trên đầu. Cắt bỏ đi tóc cũ thì tóc khác lại mọc, chỉ là chủ nhân của nó muốn để tóc ấy ra sao. Đầu nấm ngứa thì dùng bồ kết, hoa bưởi, hương nhu đem nấu với nước, gội đi sẽ hết. Nếu có chấy rận thì dùng lược mau để chải. Bằng không gọt đầu bắt hết chấy rận rồi chăm cho lứa tóc mới.
Châu Phong muốn chiếm đất Tống Bình, chẳng phải là muốn triều đình cắt bỏ tóc ấy đi hay sao. Dẫu sao châu Phong xưa nay vẫn trượng nghĩa, tôn thờ trung hiếu. Nay làm ra điều ấy thấy thật hổ thẹn lắm thay."
Vương Thăng Triều chỉ tay vào Hãn Xương, lắc đầu, nhếch miệng cười :
- Nghe nói chỉ vì mái tóc chấy rận mà đô hộ đại nhân Nguyên Hỷ ốm o, thở không ra hơi, nằm thoi thóp chỉ trực chờ ngày ra đi. Xét ra cũng thấy tội thương cho Nguyên Hỷ đó. Thân xác không còn, thì mái tóc có cũng để làm gì.
"Nếu Thăng Triều đã nói như vậy, ta cũng xin thẳng thắn nói với Thăng Triều. Phía tây bắc chây Phong là bọn Nam Chiếu đang lúc cường thịnh, phía tây là dải cao nguyên Ai Lao, đám người đó vốn chẳng ưa miền trung du phía đông. Nếu Thăng Triều mang quân đánh Tống Bình, chẳng phải khiến bọn đó mừng vui hay sao.
Lại nữa, quân đội các châu quận phía nam có để yên cho Vương thứ sử ngài ngồi yên ở đất châu Phong hay không. Phía bắc có Mã Thực ở đất châu Ung, đội quân Kinh Nam, các châu Khâm, Quế, Quảng, Quỳnh mới chỉ hắt xì thôi, e là châu Phong cũng chẳng còn một ngọn cỏ."
- Triều đình thối nát. Các quan lại trong triều còn chẳng quản nổi. Nói chi đến đám quan tướng xứ xa biên ải. Hãn Xương đừng nói thêm lời nào nữa. Nể mặt Hãn Xương là chỗ qua lại với Chung Đạt từ lâu nên ta sẽ tiễn Từ huyện lệnh ra khỏi thành. Mong Hãn Xương về Tống Bình nói với Nguyên Hỷ rằng gỗ vàng tâm xứ nam ta rất nhiều. Nếu không ngại thì Vương Châu Phong ta sẽ tặng cho đô hộ đại nhân làm quà.
Thăng Triều cười lớn ra hiệu cho Lão Đỗ tiễn khách. Những lời trái tai khiến Hãn Xương bực tức bước ra khỏi điện phủ thứ sử châu Phong. Hoàng Y đứng ở phía ngoài đòi số vàng mà Hãn Xương còn chưa trả.
Hãn Xương dùng dằng không trả, Hoàng Y sai người bao vây không cho Hãn Xương bước đi. Hãn Xương tối tăm mặt mũi, đứng giữa vòng vây đám người to lớn, đóng khố, áo trần mà thiên cưỡng rút túi bạc ra. Hoàng Y tiến tới dằn mặt Hãn Xương:
- Là huyện lệnh thì cũng phải như người thường. Định quỵt của bọn này hả ? Không xong đâu. Nhà ngươi có giỏi thì về Tống Bình gọi tay sai tới đây.
Hãn Xương hậm hực, phun nước bọt vào mặt Hoàng Y. Hoàng Y cả giận cho đám lâu la xông vào đánh. Sĩ Hoàng từ phía quán rượu bước ra quát lớn :
- Dừng tay. Bọn mày còn định làm ăn nữa hay không? Đừng có như lũ ngu ngốc phường trộm cắp như thế chứ. Tha cho hắn ta. Dẫu sao việc của hắn cũng không thành. Lấy của hắn như vậy là đủ rồi.
Hoàng Y mặt vênh váo, mắt trợn ngược lấy tay lau đi miếng đờm trên mặt. Hoàng y chỉ tay vào mặt Hãn Xương cảnh cáo :
"Ngươi nên nhớ lần này có anh Đỗ Thương nói cho mày đấy nhé. Bọn ta đối xử đẹp với tất cả, không phân biệt dân thường, quan lại. Chỉ cần có tiền, bọn ta sẽ làm được việc cho khách. Chứ không bao giờ làm cái việc trốn chui trốn lủi khi xong việc như thế. Định trốn nợ bọn ta à? Lại còn không chịu nói cho tao từ sớm là việc của ngươi không thành cho ta biết.
Bọn ta đây không hề lấy trên người ngươi thứ gì trong lúc ngươi say rượu, mặc dù có thể giết ngươi, lột hết của cải trên người ngươi. Nhưng bọn ta có uy tín, có nghĩa khí. Nhớ chưa. Ta không chấp với loại áo vải yếu mềm như ngươi. Cút."
Hãn Xương không nói một lời, chạy về phía quán trọ, thu xếp tay nải hành lý, cùng hai tên tùy tùng lên xe ngựa thúc ngựa chạy thẳng về phía đông nam. Hãn Xương nắm chặt tay bụng nguyền rủa đám người châu Phong suốt dọc đường đi. Hãn Xương bấn loạn không biết phải nói điều gì với quan đô hộ Nguyên Hỷ khi trở về Tống Bình. Định bụng tới chỗ của Thi Nguyên, Long Trách nói cho hai người đó trước.
Đoạn đi qua dòng sông Đà về phía đông tới cửa Hát Môn tới trại quân của Long Trạch đóng ở Hoài Đức, Hãn Xương thấy tên tùy tùng nói có một đoàn người ngựa chừng hai chục người chạy từ phía nam tới đứng chặn đường phía trước. Hãn Xương cho xe dừng lại, nhìn về phía xa thấy đám lính mặc giáp phục quân Tống Bình liền hỏi :
- Các ngươi là lính của Long Trạch phải không?
Viên tướng đi đầu tiến tới phía trước, cất giọng hỏi:
- Các ngươi là người của châu Phong tới đây do thám có phải không.
- Các anh em nhầm rồi. Ta là Từ huyện lệnh đây. Mọi người không nhận ra ta sao.
Giọng hét lớn, khuôn mặt lầm lỳ viên tướng đó chạy tới cầm cây đao lớn chém đứt đôi người Hãn Xương. Hai nửa người văng ra hai bên xe ngựa, máu chảy loang khắp xe ngựa. Hai tên tùy tùng hoảng sợ nhảy xuống xe ngựa chạy đi.
Viên tướng đó cầm cây giáo của tên lính đứng cạnh bẻ gãy đôi rồi lao thẳng vút về phía hai tên đó. Một tên trúng mũi thương lăn ra chết, tên còn lại bị cán thương ném trúng chân, thậm thọt nhắm mắt chạy về phía đông. Viên tướng cười lớn:
- Về nói với đô hộ Đại nhân rằng Long tướng quân không muốn đầu hàng bọn châu Phong. Quyết đánh với bọn giặc Phong Châu đó đến cùng.
Bóng tên phu xe dần khuất, Toán Hoa Tài dắt ngựa đi từ lụm cây phía tây, lớn giọng nói:
- Quả nhiên lợi hại. Không hổ danh Tre Độc phòng đông – Phong châu Đô úy. Trước giờ ta chỉ nghe Do Độc dũng mãnh mà không tin. Dáng người gày gò, khẳng khiu mà uy lực võ tướng vô cùng kinh ngạc.
Do Độc oai dũng cầm đao lớn, mặt nhìn về đông, miệng nở nụ cười:
- Có khi nào Mặt trời lặn ở phía đông.
Toán Hoa Tài hỏi Do Độc nói lời đó có ý gì. Do Độc chỉ cười, rồi thong thả dắt cưỡi ngựa về.
Toán Hoa Tài cùng Do Độc đi về phía nam, gió thổi lộng mát rượi giữa cái hè nóng bức. Do Độc bàn với Toán Hoa Tài về việc dụng binh, chém tướng, những trận đánh chiến dịch chiến lược. Tiếng chim ríu rít bay theo bước chạy của hai chiến mã.
Về tới trại quân, Toán Hoa Tài cùng Do Độc lập tức cho thu dọn chiến lợi phẩm, sai quân lính kéo xác người đi chôn, băng bó những lính bị thương.
Tàn dư trận chiến vừa qua vẫn còn hiện trên những khuôn mặt thất thần, máu me dính đầy vũ khí, áo giáp, miệng mũi đám lính. Giáo gươm, quân lương hòa với máu, chân tay, mũ giáp lổm nhổm, đâu đó có mùi hôi tanh tanh, những vũng bùn đất đỏ tươi nhuộm màu. Do Độc cùng Toán Hoa Tài thúc giục quân lính dọn dẹp trước canh tuất rồi hành quân tiếp về phía đông.
Trong buổi tối ngày hôm đó, ở Tống Bình, Nguyên Hỷ nhận được tin báo từ triều đình sẽ sai người khác tới thay. Bỗng nhiên Nguyên Hỷ ăn được bữa tối, ngồi dậy bàn chuyện với đám cận hầu.
Long Trạch mang theo binh lính cùng Thi Nguyên bị truy sát tới tận cửa La thành. Tiếng trống giục giã khiến Nguyên Hỷ bất giác nằm lăn ra giường. Đám hầu cận tiến lại hỏi:
- Khi tối sắc mặt của đại nhân đã tốt lên đôi chút. Chẳng hiểu vì lẽ gì mà khiến ngài ra như vậy.
Nguyên Hỷ giọng nói thất kinh :
- Các người không nghe thấy à. Tiếng trống đó báo hiệu quân địch đuổi đám quân của Long Trạch và Thi Nguyên tới sát La Thành rồi. Trời không thương ta mà.
Triệu Hoằng liếc láo nhìn xung quanh hỏi Nguyên Hỷ :
- Chẳng phải đại nhân sai huyện lệnh Nguyên Hãn tới châu Phong để bàn với thứ sử châu ấy về việc hoãn binh hay sao. Tiếng trống quân đâu chắc đã phải là của các tướng trở về.
Nguyên Hỷ nói vọng từ trong trướng ra :
- Hãn Xương đã đi tới đó tới nay là ngày thứ năm rồi mà không hề có tin gì cả. Các tướng thì liên tục báo về quân phản loạn cùng đội quân châu Phong liên tiếp đẩy lui các đợt phản công từ quân ta. Nay nhận tin từ triều đình có Hàn đại nhân cùng đoàn quân Khâm Châu, Ung Châu tới Tống Bình mà ta cũng mừng. Nhưng chẳng biết Hãn Xương có thể nói được đám người châu Phong đó không. Tiếng trống đó khiến lòng ta như lửa đốt.
Một tên lính xông vào hớt hải chạy vào báo tin :
- Bẩm đại nhân. Có một người què quặt nói là tùy tùng của Từ đại nhân đi từ Phong Châu trở về muốn gặp đại nhân.
- Mau mau cho hắn vào.
Năm tên lính vội vàng khênh tên đó vào, hắn thở dốc, ôm lấy chân phải rên rỉ đau đớn. Đám cận hầu tỏ ra ngạc nhiên hỏi hắn :
- Nhà ngươi chẳng phải là Lỗ Hơn đi theo Từ huyện lệnh tới châu Phong hay sao.
Nguyên Hỷ sai người lấy cho hắn một chén nước gạo ninh với tim gà. Lỗ Hơn uống liền hai chén, bẩm với Nguyên Hỷ cùng đám cận hầu:
- Bẩm đô hộ Đại nhân. Từ đại nhân bị quân của Long Trạch chém chết rồi ạ.
Nguyên Hỷ nằm trên giường nghe Lỗ Hơn nói mà giật mình lăn xuống dưới đất. Bọn gia nô phải khênh Nguyên Hỷ lên giường. Miệng đầy dớt dãi, Nguyên Hỷ nói không thành lời :
- Nhà ngươi nói, nói, nói sao. Sao sao lại giết giết, Long long.
Triệu Hoằng đỡ lời :
- Nói đi. Sao Long Trạch đó lại giết Từ huyện lệnh.
- Dạ bẩm. Từ đại nhân vượt sông gặp Kiều Chung Đạt nói chuyện với ông ta một buổi chiều thấy có ý xuôi xuôi nên cử người đưa Từ đại nhân tới thành Bạch Hạc.
Triệu Hoằng sốt ruột liền mắng Lỗ Hơn :
- Nhà ngươi còn không trả lời cho mau. Dài dòng.
Lỗ Hơn lắp bắp, cúi đầu nói tiếp:
"Từ đại nhân tới Bạch Hạc khuyên Vương thứ sử mà hắn không chịu đón tiến. Từ đại nhân phải đút lót cho đám người trong phủ để đưa Từ đại nhân tới gặp hắn. Xong rồi hắn cho người dọa nạt, coi khinh người ở phủ trị chỉ là con tép con tôm không xứng để bọn chúng dâng cống, thuế sưu.
Từ đại nhân hậm hực trở về. Đi tới gần trại quân của Long tướng quân thì bị tùy tướng của Long tướng quân chém chết. Lại nói với tiểu nhân rằng về nói với đại nhân rằng Long Trạch quyết đánh đến cùng. Bằng không Long tướng quân sẽ trở mặt."
Đám cận hầu bàn tán hồi lâu, Nguyên Hỷ ho sụ sụ trong trướng. Một tên lính khác lại chạy vào phủ báo tin:
- Bẩm đại nhân. Long tướng quân cùng Thi Nguyên tướng quân gióng trống ngoài thành muốn được vào thành. Quân địch đang đuổi tới bờ sông Tô Lịch.
Nguyên Hỷ cố hắng giọng nói ra :
- Các ngươi bàn xem ta phải làm thế nào.
Triệu Hoằng kéo cổ Lỗ Hơn, mắt trợn ngược hỏi Hơn :
- Từ Hãn Xương bị giết mà mày lại còn sống để chạy về đây. Mày đi tới đây có kẻ nào nhìn thấy không?
- Dạ. Xin đại nhân tha mạng. Tên tướng kia ra tay nhanh quá khiến tiểu nhân không kịp cho ngựa chạy đi. Đến khi hai đứa tùy tùng bọn con chạy thì tên giặc đó ném thương trúng Lại Hòa khiến nó lăn ra chết. Con may mắn chỉ bị trúng cán thương đập vào chân. Tên giặc đó không đuổi theo nữa lại còn nói với tiểu nhân về bẩm với đại nhân rằng Long đại nhân nói với Lý đại nhân như vậy.
- Vậy trên đường đi nhà ngươi có thấy quân lính đuổi theo không?
- Dạ con không thấy. Con thấy có quân lính của Long Trạch đi từ phía tây về. Sau đó sợ bọn chúng phát hiện ra con đi lên phía bắc, dọc theo sông Cái chạy về tới đoạn bãi sông làng Thị Điềm thì gặp được quân lính đang cưỡi ngựa đi tuần liền cậy nhờ cho về đến La Thành.
Triệu Hoằng bẩm lại với Nguyên Hỷ:
- Bẩm đại nhân. Chỉ e đây là kế của bọn quân phản loạn. Chi bằng hãy mang thêm binh lính trong thành ra phía ngoài cùng với quân tướng của Long Trạch, Thi Nguyên đóng ở bờ sông Tô Lịch. Nếu chúng có lòng phản nghịch thì các tướng sẽ dễ bề kiểm soát. Nếu để chúng vào trong thành hễ có biến sẽ không thể kịp trở tay.
Nguyên Hỷ y lời, Hoằng sai người khênh Lỗ Hơn ra khỏi phủ. Đi được một đoạn, hai tên lính dùng kiếm cắt lấy đầu của Hơn. Tướng giữ thành là Mao Húc cầm đầu Lỗ Hơn lên cửa thành ném xuống dưới đất, buông lời trách móc Long Trạch:
- Nhà ngươi biết đó là đầu của ai không? Của kẻ phản loạn Hãn Xương đó.
Long Trạch tức tối quát mắng :
- Lại là lão già họ Triệu đó nói lời rèm pha đúng không. Giặc đã đuổi đến tận bờ sông Tô Lịch, mau mau mở cửa thành cho ta vào. Bọn Toán Hoa Tài, Lý Do Độc tập kích bất ngờ khiến Thi tướng quân bị trọng thương. Hãy cho bọn ta vào thành. Kẻo quân tướng sẽ chẳng còn một người.
Mao Húc quát lớn:
- Có kẻ nói nhà ngươi có ý phản nghịch nên tối đêm mới mang quân đến thành phủ. Họ Thi kia khổ nhục kế với nhà ngươi. Nếu không có lòng đó thì hãy giữ lính ở bờ sông Tô Lịch, viện binh từ phía bắc và trong thành sẽ cùng ngươi trấn thủ bên bờ sông.
Long Trạch tức hộc máu, phun ra toàn máu đỏ tươi. Ôm lấy ngực, mặt tím tái cầm kiếm chỉ lên trên thành :
"Sức quân mệt mỏi. Lòng quân hoảng loạn. Nào đâu có sức để đánh thêm được nữa. Nay quân giặc kháo tin chia rẽ lòng quân, các ngươi lại ở ru rú trong thành không cần biết bọn ta sống chết ra sao.
Nếu đã như vậy, ta sẽ ở ngoài này chống địch. Cho các tướng sĩ vào trong thành. Họ đã quá mệt mỏi, cả ngày nay đánh nhau không được ăn uống gì. Người lả đi vì đói, kẻ đánh chém tàn tạ. Các người còn không thấy đó sao.
Các người có lòng nào nghi ngờ ta nhưng đừng nghi ngờ bọn họ. Bọn họ do các ngươi tuyển mộ, hết mực trung thành với triều đình. Họ không có tội tình gì. Các người hãy cho họ vào trong thành.
Nếu các ngươi vẫn nghi ngờ ta, ta sẽ cùng đám lính khỏe ở ngoài này nghênh địch. Còn những người bị lả, bị thương hãy cho họ vào trong thành."
Triệu Hoằng đứng phía sau Mao Húc gật đầu. Mao Húc sai người mở cửa thành, nói hắt xuống:
- Các ngươi hãy cho quân lính bị thương vào trong thành. Ta sẽ sai lính mang cơm gạo, vải màn để các ngươi dựng trại ngoài thành. Hễ có động tĩnh thì hãy đánh trống báo hiệu.
Long Trạch thất vọng cầm nắm cơm mà tên giám quân mang tới ném xuống dưới đất. Viên giám quân đưa cho Trạch một miếng khác mà nhặt miếng Trạch vừa ném xuống đất định đưa lên miệng.
Trạch không nhận, cúi xuống nhặt nắm cơm vừa ném xuống cố nhét vào trong miệng, nghẹn ngào nuốt vào trong. Bụi đất dính đầy miệng Trạch, tay giám quân động viên Trạch :
- Tướng quân hãy ăn nốt phần này của ta. Miếng kia đất bụi xin tướng quân hãy để ta đổi miếng khác.
Long Trạch tay lau đi vết máu trên khuôn mặt, giọt mồ hôi lăn từ hốc mắt lăn dọc theo sống mũi. Long Trạch nghẹn ứ trong họng nói:
"Quân ta mỗi người một miếng. Ta cũng như các anh em, không kẻ nào được phần hơn. Miếng của ta dẫu có dính đất bụi thì cũng là đất của cha ông ta, đất ta sinh ra, đất ta nằm khi yên giấc ngàn thu. Có điều chi mà bẩn bụi.
Khi trước ở núi Tiên Du, có khi mỗi người chỉ có một quả dâu chua nhưng không ai tranh giành của nhau. Nay làm tướng quân càng không thể vị kỷ mà quên đi những kẻ khác. Nếu đêm nay địch tới thì các anh em sẽ cùng ta quyết sống chết với bọn giặc cỏ đó hay không."
Lời nói như hiệu triệu cả đoàn quân khiến cho quân sĩ một lòng. Ai cũng chấm xuống nền đất ăn ngon lành miếng cơm được trong thành vừa mang ra. Long Trạch cho người sửa soạn đóng trại, phủ vải màn trên nền đất thịt. Gió mát lành khiến quân sĩ ngủ ngon giấc.
Nửa đêm canh ba, một trận mưa từ đâu kéo tới. Tiếng sấm rền inh ỏi văng vẳng trong tai, Long Trạch choàng tỉnh giấc. Bước ra ngoài cửa trại, thấy nền đất rung rung, Long Trạch hô hào tướng sĩ tỉnh giấc chuẩn bị mũ giáp chống lại đội quân đang ào ào đi tới.
Long Trạch bàng hoàng, cầm song câu ra sức chém quân lính xông thẳng về phía mình. Long Trạch sai người cầm dùi trống để báo hiệu cho trong thành. Tiếng trống gõ được ba tiếng thì bị đám quân của châu Phong lao tới chém chết.
Trống bị phá tan, Long Trạch hò hét phía ngoài trong tiếng gió thổi những hạt mưa nặng hạt réo rắt phía ngoài La Thành. Tiếng sấm rền vang hòa cùng tiếng hò hét ba quân. Đứng trên thành quân lính nhìn xuống phía dưới thấy một màu đen kịt, chỉ có tiếng leng keng của kiếm sắt chạm nhau mà không hề hay biết phía dưới hỗn loạn nhường nào.
Trời tan mưa, những dòng nước cuốn theo máu đỏ tươi đổ về con hào vây quanh, xác người lềnh bềnh nổi trên hào nước. Tiếng gió mưa rền rĩ dần khuất, những tia chớp, tiếng sấm rền dần xa về phía tây nam.
Đám lính trong thành thắp lên ánh lửa đuốc quanh bốn bức thành. Ánh sáng hắt xuống, thây xác nằm ngổn ngang, kiếm đao hắt ánh sáng ngược trở lại trên thành. Nhận ra có điều không hay, Mao Húc gọi lớn phía dưới thành. Không một lời đáp lại, Mao Húc nghe tiếng cười vang vang :
- Bọn chúng chết cả dưới thành rồi. Các ngươi còn không mau chịu trói.
Một ánh đuốc thắp lên phía dưới hiện lên khuôn mặt nham nhở kinh hãi, hai ánh đuốc thắp lên, bộ râu dài, ánh mắt hùm cọp hiện ra, ba ánh đuốc xác người nằm dưới đất ngổn ngang, rồi lần lượt cả trăm ánh đuốc thắp lên.
Mao Húc kinh hãi nhìn xuống phía dưới. Đám lính của Long Trạch đã chết hết, chỉ còn ngổn ngang áo giáp, binh đao.
Phạm Đan đi tới gần cửa thành, vuốt râu dài chỉ gậy lên thành :
- Tay quỷ mặt xanh đã chịu trói. Các người còn không mau mau dâng thành.
Một loạt tên bắn xuống phía dưới, Phạm Đan sai lính lùi ra xa. Đội khiên tre tiến lên phía trước, đỡ lấy những mũi đạn bắn xuống. Được mười lượt tên bắn xuống, lửa trên thành bỗng nhiên dập xuống hết loạt. Ánh lửa dưới chân đám lính đứng trên thành hắt lên khuôn mặt chúng đầy vẻ sợ hãi. Hai tay bọn chúng buông cung nỏ, giáo gươm, đưa quá đầu không nói thêm một lời.
Liêu Đức Thinh bước ra phía trước, miệng nói vang từ dưới cửa thành vang lên:
- Các ngươi thấy quân ta nói đã sợ hãi, bỏ vũ khí đầu hàng nhanh vội. Còn không mau mau mở cửa thành đón gia gia của các ngươi vào thành.
Cửa thành rộng mở, tiếng cười vang từ phía trong vọng ra ngoài:
- Là Phạm Đan tướng quân và Liêu Đức Thinh tướng quân có phải không?
Phạm Đan thu gậy tre xuống ngựa, nhìn vào trong thành một viên tướng già bước ra. Phạm Đan hỏi họ tên lão tướng đó là gì. Lão tướng đó liền xuống ngựa đáp lời :
- Ta là Kiều Chung Đạt, phó thứ sử châu Phong. Các tướng quân là dũng tướng thủy bộ của Dương Chí Liệt phải chăng.
Phạm Đan mừng rỡ, giọng vang vang:
- Ra là lão tướng họ Kiều Phong Châu. Đám tiểu tốt như chúng tôi xá gì so với Kiều lão tướng quân. Chẳng hay các ngài vào được thành từ khi nào.
- Từ khi mưa gió vẫy vùng, sấm chớp rền vang. Bọn ta cướp trại lính ở bờ nam râm Đàm, bắt được hai viên tướng họ Triệu, ép chúng giả làm quân lính Tống Bình trở về La Thành. Triệu Hoằng thấy hai con trai liền mở cửa cho bọn ta xông vào, bắt được toàn bộ đám quan lại võ văn. Chỉ tiếc rằng cái xác Nguyên Hỷ còn chưa tìm được.
Hai tướng quân đi vào trong thành oai dũng, bỏ lại phía ngoài thành những dòng nước đỏ ngàu chảy dữ dội cuộn thành kênh nước đổ ra sông Tô Lịch.
Họ Kiều sắp xếp binh tướng trong thành ổn thỏa đâu đấy liền cho người soạn sửa lễ vật, nhang đèn, vàng mã dựng lễ sạp trước sông thiêng Tô Lịch nơi mà Chung Tiềm con trai của Chung Đạt đã chìm xuống dưới đáy dòng. Tiếng khóc nức nở giữa đêm khuya của viên phó thứ sử đầu hai thứ tóc như nát tan cõi lòng đám lính. Bọn lính ai nấy đều sọng mắt đỏ tiếc thương cho vị thiếu chủ xấu số đã bị chết một cách đầy oan nghiệt.
Chung Đạt người mệt mỏi rã rời, đầu óc mụ mị cho người bơi một chiếc thuyền nhỏ ra giữa dòng sông Tô Lịch. Gió lạnh cuối thu, Chung Đạt ngủ trên chiếc thuyền. Họ Kiều mộng thấy con trai chạy từ trong La Thành ra, người dúm dó, máu đỏ trên miệng, tay cầm cây trúc đào đi từ phía La Thành chạy tới bờ sông liên tục gọi Chung Đạt: "Cha ơi. Oan ức lắm. Cha ơi. Oan ức lắm."
Chung Đạt tỉnh giấc thì trời đã mờ sáng, người toát lạnh mà mồ hôi ướt sũng toàn thân.
Buổi sớm tinh mơ, tiếng gà gáy trong thành như che lấp đi những tan thương của cuộc chiến đêm qua. Có tiếng chim líu lo trên cành sấu đổ bóng xuống dòng sông Tô Lịch. Chung Đạt cưỡi ngựa đi tới góc đông nam La Thành, đứng trông bãi đất khi đêm qua Phạm Đan cùng Liêu Đức Thinh đánh nhau với đám người của Long Trạch.
Mới qua một đêm, chỗ đất đó đã thành những nấm đất cao, chỉ vài canh giờ sau trận mưa sấm trái mùa, xung quanh đã xanh mượt cỏ non cả một vùng. Những xác người không còn nằm chỗ đó, toàn bộ quân lính trong đêm đã mang theo mộc ngưu đem chôn hết xác đó ở chỗ hố sâu phía nam sông Tô Lịch.
La Thành nhỏ còn ướt đẫm những hạt nước của trận mưa đêm qua. Chân thành quách vấy màu đỏ choét, đất bùn vẫn còn vương.
Dương Thanh sai Phạm Đan cầm thủy quân ba nghìn người đóng trại ở lưu vực phía đông sông Đáy. Số thuyền chiến lên đến trăm hai mươi chiếc lớn nhỏ. Phạm Đan phải chia nửa số quân đi đến sông Xích Đằng, chiếm lại vùng đất chài lưới, buôn bán tích lũy thêm lương thảo.
Chí Liệt cầm quân tiên phong trấn giữ thành Đỗ Động, cho quân lính đắp thành cao ba trượng, dựng hàng rào cọc tre cao hai thước bên cạnh hào nước sâu bao quanh thành Đỗ Động. Triệu Cường, Dương Diện Gã Quỷ đóng quân tại chân núi Tản, dựng một lũy nhỏ phía trước thành huyện Thái Bình do thành cũ đã bị tàn phá nặng nề. Hai đạo quân tạo thế gọng không cho địch đi từ phía đông tới. Quân lính châu Phong cũng vì thế mà không lấn thêm đất của họ Dương.
Các tướng Lý Toàn, Ma Cao Dực, Mã Tước, Đặng Hoài trấn giữ đất các khê động Man Hoàng, binh lương tiếp tế chu cấp không thiếu một binh tốt, một hạt lương thảo. Nga Tú Du Thủy Lý Toàn được phân trọng trách vận chuyển quân lương từ Man Hoàng tới châu Trường, hễ cần có điều động, Dương Thanh lại tin tưởng giao cho Lý Toàn lên kế hoạch điều binh, cấp lương chưa bao giờ chậm trễ.
Trường Châu cứ điểm Dương Thanh cho Phụng Quán trấn giữ mặt biển thông thương với đám thuyền buôn nước ngoài, hay có cướp biển, ngoại bang tới tranh chấp. Phía đông bắc giáp Võ An Châu và huyện Chu Diên. Dân chúng ở chỗ đó không ưa sự bành trướng của các thế lực khác ảnh hưởng đến quyền lợi của họ tại Tống Bình nên chưa bao giờ chịu khuất phục Dương Thanh, kể cả khi Dương Thanh đã từng có thời gian nắm trị sở đô hộ.
Dương Thanh giữ tám nghìn quân bao gồm cả lính kỵ tám trăm, bản bộ năm nghìn cùng thủy binh đóng từ cửa Đại An vào đến vùng hạ lưu sông Đáy, sông Hoàng Giang, và bãi đầm Vân Long.
Bấy giờ, triều đình Nhà Đường đương lúc rối ren, hoạn quan lộng hành, các quan đại thần Vương Thủ Trừng, Lý Phùng Cát, Bùi Độ,… bè phái trong triều, giết chóc không kể xiết. Vua Đường Kính Tông Lý Đam hoang râm vô độ, ưa chơi bời, thích đá cầu, đánh vật nên sức khỏe sa sút không có tâm sức mà trị triều đình phương bắc. Các quan lại ở các châu quận xa xôi ra sức lộng hành, vơ vét, đàn áp nhân dân.
Lý Nguyên Gia bắt đầu cảm thấy những áp lực từ phía người Giao Chỉ. Cái uy của thiên triều đã không còn ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân xứ Lĩnh Nam. Lý Nguyên Gia chỉ còn biết lắc đầu ngán ngẩm, lao vào vui thú hoan lạc ở Tống Bình.
Các tướng lĩnh dưới trướng Nguyên Gia đều tỏ vẻ không bằng lòng với nhau, với chính vị quan đô hộ nên không ít lần xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ khiến Nguyên Gia đau đầu.
Những lúc như vậy, Nguyên Gia lại tìm đến gái đẹp, rượu ngon vùng Tống Bình mà làm nhẹ bớt đi những u não muộn phiền. Từ Hãn Xương sau khi dùng lời lẽ vỗ về châu Phong đã ung dung an lòng, ngày lên công đường, tối về lầu quán vui thú với đám kỹ nữ phấn son trong thành huyện mà không hề hay biết Kiều Chung Đạt đã đổi ý muốn gói Tống Bình vào túi riêng.
Sau bảy bảy bốn mươi chín ngày cúng cơm cho con trai, Chung Đạt nuôi chí báo thù bèn đem lời tấu lên tới Vương Thăng Triều. Thăng Triều nghe tin lấy làm giận lắm mới cho gọi Chung Đạt lên. Triều chỉ nhẹ nhàng mà nói với Chung Đạt:
- Chung Đạt với ta tình như thủ túc đã biết bao nhiêu năm nay. Vậy mà lại để cho kẻ ngoài mượn cớ để ta gây hấn với Tống Bình. Gương Dương Thanh vẫn còn đó, chẳng phải là để cho thiên hạ cười chê. Người châu Phong trọng nghĩa khí, khảng khái, đường đường chính chính có điều gì mà lo ngại. Chỉ là có kẻ rắp tâm rèm pha khiến Chung Đạt lay lòng. Xin chớ vì những thứ đó mà hất đổ hết thảy những công lao mà ta và Chung Đạt đã gây dựng.
Chung Đạt nghe Thăng Triều nói mà tỏ ý muộn phiền, muốn từ nay Chung Đạt không bàn đến chuyện trả thù. Hai ngày sau, với giọng điệu thống thiết, Chung Đạt giãi bày với Thăng Triều:
“Hạ quan xin bẩm Vương thứ sử. Ta vẫn thường gọi ông là Thăng Triều, cái tên mà gắn bó với hai ta suốt bao nhiêu năm tháng. Vậy nên ta cứ gọi ông là Thăng Triều cho thuận tai. So về tuổi tôi hơn ông bốn tuổi. Nay đã ngũ thập cái tuổi mà tri thiên mệnh, thấu hết lẽ sự đời, lẽ phải điều hay. Tôi với ông lập đất tổ cha anh mà dựng nghiệp, gặp đất vượng mà công danh lừng lẫy. Há chẳng có điều gì lấy làm phiền muộn.
Nhưng xót thay, dòng sông chỉ chảy mãi một dòng về biển lớn. Tổ ta ở đất này vẫn còn khóc lệ hằng đêm, cháu con bị người ta trà đạp chèn ép, hỏi cha ông có lấy làm yên lòng.
Hay cứ mỗi độ xuân về, hoa trên núi ấy lại kém sắc, nước ở khe suối kia mà thêm nhiều. Liệu có phải chăng nỗi lòng của đất mẹ cứ đổ dồn theo thác lũ đổ về biển lớn mênh mông.
Thăng Triều hãy nghĩ mà xem, từng giọt máu của nòi giống tiên rồng đã thấm xuống đất nam ta chỉ mong cây cối sinh sôi màu mỡ, ruộng đồng xanh tốt trĩu bông. Ấy vậy mà có kẻ nỡ lòng nào đạp lên vai dân nam ta mà đứng, ngồi trên đầu những kẻ lũi lầm. Đun máu nóng trong chảo mồ hôi, trên ngọn lửa hung ác bắt dân ta lên rừng xuống biển kiểm sản vật, dị thú, chim muông. Xương dân ta cho báo cọp gặm xé, máu thịt dân ta làm mồi cho bọn lang sói.
Ta noi gương những người đi trước, Trưng Vương, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Vương Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng giữ bờ cõi non sông mà tổ tiên ta gây dựng bao đời nay. Cứu dân khỏi lầm than đói khổ, kéo dân ra khỏi vũng bùn đỏ máu.
Nhà Đường kia đã quẫn cùng, xứ Giao Châu ta chúng không thể gánh nổi. Đất Phong châu binh hùng, lương mạnh, lại thêm những kẻ anh hùng đang sẵn sàng theo ta mà dấy binh khởi nghĩa đấy chẳng phải là điều đáng nên mừng. Mọi sự đều đã như sắp đặt cho chúng ta từ trước. Còn khi nào mới thỏa chí anh hùng mà cái thời niên thiếu hai chúng ta cùng ước mong.
Chén rượu cay đã nồng lại còn chát, dòng hồng huyết chưa nhỏ đã đỏ sông. Bằng tâm can xin Thăng Triều hiểu rõ, triệu ba quân đứng dậy, quyết mang cả Lĩnh Nam thuộc về ta, cõi nam ta sẽ quy về một mối. Dẫu có chết cũng không hối hận điều gì.”
Thăng Triều đêm không ngon giấc nghĩ đến những lời của Chung Đạt mà trằn trọc, sáng sớm tinh mơ đã cưỡi ngựa mũ giáp chỉnh tề tới Mê Linh gặp Đạt nhân lễ thất tuần con trai Đạt.
Vượt ngã ba Tam tỉu, gặp một chàng trai trẻ, đầu vấn khăn xếp bạc màu, áo nâu gụ đang ung dung thưởng ngoạn ánh bình minh. Chàng cầm chiếc quạt đề bài thơ, ngâm nga trên con đò lênh đênh, chòng chành theo sóng vỗ đôi bờ sông Cái:
“Cồn cao nước trắng ngập đồng
Vũng lầy cùng quẫn giống rồng bùn đen
Trông lên rạng rỡ ánh đèn
Cúi nhìn leo lắt giữa nền mờ sương
Cánh én vội vã qua đường
Sải ưng thong thả muôn phương vẫy vùng
Phong Châu thỏa chí anh hùng
An Nam một cõi lẫy lừng thiên thu.”
Cảnh vật tĩnh lặng, ngàn cơn sóng dữ như lắng lại nghe tiếng chàng trai thư sinh nhỏ nhắn đứng trên chiếc đò nhỏ giữa mênh mang mây trời, sông nước. Vương Thăng Triều búi cao mái tóc, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt xa trông gọi vang:
- Kẻ sĩ hiên ngang giữa mây trời non nước kia, phải chăng là thần tiên giáng thế.
Sĩ Giao quay lại nheo mắt nhìn về phía tả ngạn sông Cái, bóng người cao lớn, nét mặt vuông vức, mặc giáp trụ màu đồng, ánh bạc lấp lánh dưới ban mai. Thương dài, duỗi thẳng uy nghi trên lưng Tuyết Mã như thần tướng trong truyền thuyết. Sĩ Giao vội vã quay trở vào bãi đất ven sông, từ tốn buông lời chào Vương thứ sử:
- Vãn bối cúi chào đại tướng quân. Dáng đứng hiên ngang của bậc thần tướng, bộ giáp phục hào nhoáng, ánh thương sáng lòa trong tia nắng buổi bình minh. Oai vũ vô cùng. Chẳng hay đại tướng có việc gì qua sông từ buổi sớm tinh mơ.
Thăng Triều vỗ ngực, đu cương ngựa hý vang, giọng nói trầm ấm, như rền trong tai:
- Kẻ dũng chỉ được cái vẻ bề ngoài. Nhìn tiên sinh ta cứ ngỡ lạc vào chốn tiên thần. Chẳng hay tiên sinh là người từ đâu tới, giữa tinh mơ sấm đánh bên tai những lời của bậc anh hùng.
Sĩ Giao cúi thấp người, bái kiến, mặt mừng rỡ hồ hởi:
- Vãn sinh là kẻ nho đọc sách, ngày đi rong ruổi bán thuốc cứu đời. Hiện đang tá túc nhờ chỗ của Chung Đạt đại nhân. Canh giấc không tròn nên cưỡi ngựa tới đất Tam tỉu giang thấy cảnh vật thiên địa, cây nước như tranh vẽ mà nổi hứng ngâm bài thơ. Nếu có điều chi khiến tướng quân chê cười xin bỏ quá cho.
Vương Thăng Triều nhảy xuống ngựa, ôm lấy bờ vai mảnh khảnh của chàng, đập mạnh liên hồi. Giọng nói trầm trầm, vang vang, Thăng Triều hỏi Sĩ Giao:
- Nhà anh tên họ thế nào. Nghe giọng anh hẳn không phải người ở đất châu ta.
Sĩ Giao phong thái đĩnh đạc, đường hoàng, giọng nói ôn tồn bẩm với Thăng Triều:
- Kẻ nho họ Đỗ tên Sĩ Giao, người huyện Yên Thành, châu Lục. Tổ tiên họ Đỗ gốc ở Ái Châu.
Lời nói Sĩ Giao khiến Thăng Triều ngờ ngợ, Thăng Triều lắng lại một chút rồi quay ra hỏi:
- Nhà anh chính là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Tiếng tăm lừng lẫy Giao Châu, dâng kế lấy Tống Bình, giết chết Tượng Cổ tàn bạo, xông pha trận mạc cả trăm trận đánh, quân lính triều đình hễ nghe tiếng Bá Nam quân sư mà kinh hãi muôn phần.
- Đại nhân đã quá khen, phận làm tôi cho tướng chủ mà được tiếng thơm lây. Vãn sinh tới đất châu Phong đã hai mùa xuân hạ, gặp được tướng quân chỗ này thật là vinh hạnh.
Thăng Triều hồ hởi gọi mời:
- Ta đương có việc tới Mê Linh, chỗ của Kiều Chung Đạt. Anh có định quay lại đó hay không?
Sĩ Giao không chút chần chừ, nhận lời đi cùng Thăng Triều tới phủ của họ Kiều. Đoạn đường ngắn ngủi không thể cho hai người giãi bày hết những câu chuyện. Đi tới đoạn Hát Môn, Sĩ Giao xin cáo đi đường khác.
Ở Mê Linh, Kiều Chung Đạt nghe tin Thăng Triều đích thân tới tìm liền sai người tiếp đón linh đình, mổ trâu giết gà để dâng bữa mới thứ sử.
Đám vũ nữ áo yếm nuột nà, tay chân thoăn thoắt, ánh mắt đong đưa, voan áo buông lơi trong tiếng đàn tiếng kép của điệu nhạc dân gian. Rượu cả trăm chum xếp dài giữa hai hàng quân lính giương cung nỏ, giáo gươm theo quân lệnh uy vang.
Tiệc đến quá trưa, mặt đỏ gắt như mặt trời mới sáng, Thăng Triều cầm ly rượu hỏi ý Chung Đạt giữa văn võ dự tiệc:
- Phó thứ sử Kiều Chung có nam tử là Tiềm, mới bị quân Tống Bình lấy cớ phản nghịch mà giết đi. Ta nghe mà đau xót thay cho ông. Xót thay, xót thay.
Như trúng tâm can họ Kiều, Chung Đạt gạt nước mắt mà giọng rung rung:
- Kẻ làm con chưa trọn hiếu đạo, lại gây ra tội lớn tày trời với rắn hổ. Dẫu có thương xót mà cũng chẳng thể làm gì hơn.
Thăng Triều hẹm giọng, liếc mắt nhìn Toán Hoa Tài. Toán Hoa Tài giật mình ấp úng cúi gằm mặt xuống bàn. Thấy Toán Hoa Tài sợ sệt, Vương Thăng Triều nhìn sang Lý Do Độc. Đêm trước được lệnh triệu tới, Do Độc thúc ngựa tới Mê Linh cũng góp mặt ở tiệc rượu, đứng ra trước đám văn võ trong tiệc, nói lời tỏ ra trách móc Chung Đạt:
"Đấy là cái gương cho những kẻ khác ngồi đây. Làm mệnh quan triều đình, chữ trung hiếu làm đầu. Nay nam tử Kiều Chung không nghe lời cha dạy đó là bất hiếu. Chỉ trích quan trên, nói lời vu khống khiến lòng dân biến loạn đó là tội bất trung. Đó không phải t.ư cách của bậc tôn trưởng, càng không xứng với cái trung nghĩa mà người châu Phong ta vẫn tôn thờ.
Dù gì thì hắn cũng là con trai của bậc quan thứ sử châu Phong làm ra tội thì đáng phải nhận hình phạt. Quan đô hộ rộng lượng thứ tội cho mà đi đường mải mê uống rượu với đám phu xe mà thân chìm dưới Tô Lịch giang.Thân là phó thứ sử châu Phong để cho con cái ra như vậy, mong Kiều đại nhân làm gương cho kẻ khác. Không phải một lẽ t.ư thù cá nhân mà rước họa cho dân chúng Phong Châu năm huyện cùng với hơn bốn mươi cơ mi thuộc vào."
Sĩ Giao ngồi phía sau họ Kiều phe phẩy quạt mo, ngậm ly rượu cười khểnh. Đám quan lại bàn tán xi xào, Chung Đạt thẳng lưng, tay lau đi dòng nước mắt, ánh mắt hằn học nhìn về phía Do Độc mà không thể buông một lời. Thăng Triều ngà ngà say, quắc mắt nhìn về phía chỗ Sĩ Giao, thấy Giao cười mà cất lời dò hỏi:
- Anh chàng ngồi nấp chỗ góc phải phía xa kia là binh nho thế nào? Sao lại ngồi chỗ đó cười khểnh vọng vào mắt ta.
Sĩ Giao toan cất lời, Chung Đạt gạt đi, bẩm với Thăng Triều:
- Bẩm Vương đại nhân. Anh ta là thầy thuốc họ Đỗ, tới đây để trị bệnh cho tôi và người nhà. Là vị môn khách của t.ư gia.
Thăng Triều nổi cơn giận, quát mắng:
- Chung Đạt đau xót rơi nước mắt. Lý tướng quân lấy lời an ủi. Cớ sao anh lại cười khểnh. Chẳng hay muốn chém đầu.
Sĩ Giao vờ như không biết họ Vương, chắp tay bái lậy rồi đi ra trước tiệc giọng nói lè nhè như gã say rượu:
- Cúi chào thứ sử châu Phong cùng các vị quan tướng. Tiểu nhân là Đỗ Giao, người Lục Châu huyện Yên Thành. Ngày nhỏ ham đọc sách nho nên người làng gọi là Sĩ Giao.
Lý Do Độc cúi chào Sĩ Giao, đám người châu Phong rì rầm. Toán Hoa Tài trước mặt Thăng Triều, Chung Đạt nói lớn:
- Ra là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Ta nghe nói từ khi Quế Trọng Vũ chiếm lại Tống Bình, nhà ngươi cùng tên Chí Liệt cứ ở đất Chu Diên. Sau lại bị quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ đánh dẹp, tướng Tồn Thành châu Ái bị Đoàn Uyển gọi về. Thân kẻ làm anh mà để cho huynh đệ dứt bỏ mà về. Chí Liệt cùng ngươi không có đất trú thân, không có tướng giỏi bên cạnh nên mới chạy tới Vũ Bình lục lạy đám Man Hoàng chiếm thành Đỗ Động. Nếu không phải phải đám Man Hoàng chiếm được Trường Châu không thì Chí Liệt gã đó cũng chết dưới binh đao Tống Bình từ lâu. Nay lại tới châu Phong có mưu đồ chiếm đất hay sao.
Sĩ Giao chỉ tay vào mặt Toán Hoa Tài mà trách lời:
"Là Toán Hoa Tài tướng quân phải chăng. Toán tướng quân thân làm tướng quân cũng biết rõ, thắng thua là lẽ thường của nhà binh. Chủ Dương Thanh tôi uy trấn giết chết bọn tàn ác, châu Phong cũng vì thế mà được bớt đi phần sưu thuế nặng nề hàng năm phải cống tiến.
Dương tướng chủ lại nghĩ đến đất tổ tông ở châu Phong mà tăng thêm tướng giỏi Do Độc, Trình Kỷ, Đàm Thức,… viện binh mã lên đến cả vạn quân tới châu Phong này. Bởi thế mà châu Phong hùng mạnh hơn khi trước bị chèn ép bởi chính quyền đô hộ Đường triều.
Sau đó họ Quế dùng tiền bạc, chức tước mà dụ dỗ đám tiểu nhân dưới trướng, chủ tướng tôi mới bị đám kẻ dưới vì mưu cầu lợi kỷ mà bán chủ cho giặc, bậc trượng nghĩa như Châu Phong há chăng lại đứng ngoài cuộc nhìn kẻ ngoại bang tiếp tục đè đầu cưỡi cổ dân nam ta. Thật thấy hổ thẹn thay.
Em tôi Tồn Thành làm tướng đánh nhiều trận giúp Chí Liệt chiếm lại cả vùng đất rộng lớn phía đồng bằng châu thổ. Hổ dữ chẳng bỏ được con, Đoàn Uyển dụng mưu hèn mà triệu tập em ta trở về châu Ái. Bị giam lỏng ở châu Ái, nhìn cảnh dân nam bị những bàn tay bẩn thỉu nối dài của chính quyền phương bắc chèn ép, Tồn Thành thấy mà phiền lòng bỏ quan về làm lão nông.
Còn về phía thiếu chủ Chí Liệt anh dũng ngoan cường chống lại đám cường bạo phủ đô hộ mà xông pha trận mạc, vì dân nam, vì cháu con nòi rồng mà đâu tiếc tấm thân. Bọn ta dẫu có bại trận, chết ngoài sa trường ấy cũng là cái tâm hướng tới chúng dân, ghét bỏ đám ngoại bang đè nén dân ta bấy lâu. Chứ đâu như châu Phong trượng nghĩa mà chỉ no cái bụng của mình mà không có chút thương cảm cho con dân đang bị giày xéo ngoài kia."
Có tay cầm ly rượu hất xuống đất, mặt bủng, râu mềm, giọng nói chua chát:
- Xưa Sĩ Vương lấy đức trị mà yên được đất nam ta, từ bấy giờ dân ta đều an lạc. Đám người nổi dậy như bọn Lý Phật Tử, Phùng An nổi dậy chống lại quân triều đình, cũng chỉ lấy cái cớ là vì chúng dân nhưng đều vì cái t.ư lợi nên chuốc lấy cái thất bại, sinh linh mấy phen lao đao trong đạn mù khói lửa. Đám người Dương Thanh cũng vì cái t.ư lợi nên mới nhận cái kết cục như thế.
Sĩ Giao rót ly rượu đầy, uống một hơi thật cạn rồi đập ly đi, lời nói sắc tựa dao:
"Là kẻ nho Hoàng La Phú năm trước ở hội châu Phong đi trêu ghẹo đám con gái bị đám thanh niên đánh cho hộc máu mũi máu mồm, quỳ lạy bọn chúng nên mới chạy được về đất Mê Linh này, giao du với công tử Tiềm, nổi tiếng ba hoa nên được gọi là Ba Hoa Phú có phải chăng?
Ông nội Phú là phu ở Giang Nam trong đợt đi tuyển chọn gái dâng cho triều đình họ Lý thông râm với con tiện nhân họ Đào bị quan trên bắt được đem hoạn để thị uy. Nhờ có chút bạc lẻ mà chạy trốn về đất châu Phong lánh lạn. Đến đời Phú là thứ ba, cũng thật hợp với danh hiệu của nhà ngươi đó.
Đất Văn Lang bờ cõi từ dãy Ngũ Lĩnh hướng nam, đông hướng tới biến lớn là của nòi giống bọn ta, của những người con mà người Hoa Hạ các ngươi cho là giống man di, xứ thuộc của bắc triều nên mới có những viên quan lại như Sĩ Nhiếp. Kẻ không ra gì thì nhiều vô kể, còn những kẻ khác dẫu là có đức trị thì vẫn dùng cái khéo léo để bóc lột đám dân nam bọn ta.
Những cái tên mà nho hủ nhà ngươi kể ra, đám người đó có khác chi đám cường hào, bạo ngược với dân. Lý Phật Tử vì lòng ghen ghét đố kỵ với Triệu Vương, lấy tấm chân tình của Nhã Lang mà mưu tước đoạt binh quyền Việt Vương. Phùng An hại anh, hại cháu quẫn tiết mà hàng quân Đường, dẫn địch giết chết cháu mình. Đó là những kẻ có lòng dạ tiểu nhân, không đáng để bàn tới.
Dương chủ tướng giết kẻ tham tàn, không phải kẻ bạo ngược, càng không lấy dân chúng để làm lá chắn, lấy tình thân đem bán rẻ cho giặc, lấy sức quân ta mà giết hại dân ta. Nhà ngươi hãy uốn lưỡi ba lần rồi hãy buông lời."
La Phú đưa tay lên miệng mà sờ. Có mũi tên phóng ra từ phía cánh gà, mũi tên xé toang vạt áo Sĩ Giao, cắm chặt lên cột gỗ trước điện. Sĩ Giao không lấy làm nao núng, lấy tay giựt mạnh mũi tên bẻ gãy làm đôi, đuôi tên có chữ Hỏa. Một vị tướng, đôi chân thanh thoát như ngựa khỏe miền Vân Nam, mái tóc xẻ đôi vừng trán, bước ra giọng nói mỉa mai:
- Là Bá Nam quân sư Đỗ Sĩ Giao, kẻ trốn chạy ở dạ tiệc Tống Bình năm xưa. Suýt mất mạng ở bến Hắc Cảng, được Dương tướng quân khi ấy là nha môn tướng cứu giúp mà nên được sự nghiệp hiển hách. Sĩ Giao quân sư nói thật hay, như đục màng nhĩ của đám nho văn bấy lâu chỉ biết uống rượu, bàn những lời tục tĩu. Tiên sinh cho tại hạ hỏi một câu. Nếu Dương Thanh toàn tâm toàn ý với đám dân chúng Giao Châu, há sao lại khiến bọn chúng dân Tống Bình căm ghét bấy lâu. Những lần Chí Liệt đánh tới vùng phụ cận Tống Bình đều bị dân chúng Tống Bình bỏ trống làng mạc không có ý giữ đám quân của Chí Liệt.
Đỗ Sĩ Giao cầm mũi tên vừa bẻ gãy ném xuống đất, chân giậm giậm, lại lấy bầu rượu dốc vào mũi tên ấy như đang dập lửa. Sĩ Giao nhìn lên bầu trời mà cười lớn:
"Một kẻ như Hỏa Cước Tốc thân là quân tướng Tống Bình một thời khói lửa xông pha, đầu hàng quân triều đình. Theo quân triều đình đi bắt cướp ở châu Phong lại bị em ta Sĩ Hoàng xỉ nhục ở lều quán đất sông Tam tỉu. Vậy mà vẫn được thứ sử châu Phong cho làm đến chức Bổ đầu một huyện vùng biên ải. Quả thật châu Phong thiếu thốn nhân tài tới độ ấy sao. Trong khi đó, Chí Liệt thiếu chủ ba lần viết thư xin nhập quân châu Phong, đều bị Vương thứ sử chối từ. Há chẳng phải bỏ đao sắc lấy dao cùn hay sao.
Chủ tướng Dương Thanh như ta đã nói, bị đám người vì t.ư lợi cá nhân mà bán tình thân, trung nghĩa cho giặc đổi lấy tiền tài, chức tước. Giặc lại dụng kế đánh trống bỏ dùi khiến dân Tống Bình hiểu sai lệch đi chủ đích của đám ác bá họ Quế kia. Chính bọn gian tặc đó đã t.ư thông với họ Quế, tung tin bôi xấu Dương tướng chủ với người dân trong thành Tống Bình, khi tướng chủ không còn nữa thì sát hại dân lành dưới danh nghĩa chủ tướng ta. Vì lẽ đó mà dân Tống Bình còn e ngại với Chí Liệt thiếu chủ.
Nay mọi sự đã hai năm rõ mười, há vì lẽ chi mà Hỏa Cước Tốc vẫn tin vào lời bịa đặt của đám giặc ấy. Thật hổ thẹn thay, buồn lòng lắm thay."
Đám văn võ nhìn Sĩ Giao mà khinh miệt, có ý đuổi Sĩ Giao ra khỏi bữa tiệc của họ Kiều. Chung Đạt ngồi dưới ánh nắng chói chang, mặt mày đỏ như gấc, đứng dậy vỗ về Sĩ Giao:
- Đỗ Lang y. Anh say quá rồi. Anh còn chưa chịu về chỗ ngồi. Chớ nói thêm lời không hay khiến Vương thứ sử tức giận mà tiệc tàn.
Vương Thăng Triều giơ tay gọi hỏi Sĩ Giao:
- Vậy theo anh. Châu Phong ta sẽ phải làm gì mới đáng với bậc tiền nhân.
Bá Nam cười lớn:
- Dẫu có ai làm chủ đất nam khiến con dân nòi giống tiên rồng được an vui, no đủ, nghe theo bậc minh chủ há chẳng phải tốt hơn sao.
Sĩ Giao bái lạy Thăng Triều, cúi mình thật thấp, ánh mắt nhìn Thăng Triều thăm dò. Thăng Triều thấy vậy, liền tặng ly rượu, sai kẻ hầu mang cho Sĩ Giao. Sĩ Giao niệm tình nhận lấy ly rượu, rồi hả hê mượn gió đang thổi phấp phới cờ xí mà bàn:
- Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dẫu dân nam ta càng cố nín nhịn thì đám quan lại ở Tống Bình đâu có muốn như vậy. Những án lớn, huyện lệnh châu Lục tự ý giết chết cả một xóm chài, sai người quét sạch mấm mồng đất Yên Hưng. Bọn châu Ái đục nước béo cò, dắt dân đen vào vũng bùn đen tối. Đất Tống Bình bao nhiêu năm vẫn vậy, quan lớn quan bé đều bụng kễnh nằm nghiêng, soi xét nỗi khổ của đám dân đen bằng xích xiềng, roi vọt… Đấy là bình lặng, an vui, no đủ hay sao.
Thăng Triều lấy hai tay vỗ mạnh xuống bàn, mặt mày nghiêm nghị:
- Lời anh nói chẳng thể trách hờn. Một điều vì dân nam, hai điều vì đất nam. Vậy anh có bao giờ nghĩ rằng chiến tranh chỉ khiến dân lầm than đói khổ hơn chăng.
Sĩ Giao bình thản đáp lời:
"Kẻ lấy bạo tàn để đàn áp bạo tàn chỉ có suy vong, trước giờ luôn là như vậy. Chỉ là cái nhân đức của những kẻ đi trước chưa thể phủ khắp được đất Nam ta. Nay tại hạ thấy đất châu Phong có đủ mọi thiên cơ để dụng nhân đức mà hiệu triệu lòng dân.
Ngày qua, ta xem thiên tượng có vì sao sáng ở phía tây bắc, chuyển ngôi về đông nam đến đoạn cửa sông Cái đổ vào Thiên Đức thì sáng rực lên. Tại hạ xem sách luận ra thì nó ứng với đất người châu Phong. Nếu không phải lúc này thì chắc có lẽ dân nam sẽ mãi chẳng thể ngước thẳng đầu lên mà nhìn mặt mũi cha ông."
Vương Thăng Triều nghe tới đoạn đó thì bị cảm nắng phải sai người dìu vào phía sau lễ đường. Toán Hoa Tài đi theo phò giúp cùng đó là lời hỏi bàn:
- Chẳng hay ý của chủ tướng thế nào?
Thăng Triều ngồi ngậm tách trà rồi lấy tay xoa vào đôi vầng thái dương hằn lên gân xanh, thở dài:
- Giá như Thăng Hùng còn tỉnh táo để giúp ta việc này. Xưa nó vẫn thường vãn cảnh núi Hy Cương mà về khuyên giải ta cho lập đền miếu thờ rồng tiên, làm sao cho hợp lẽ trên dưới, trước sau. Chỉ tiếc là…
Lý Do Độc đi tới bẩm với Thăng Triều:
- Bẩm đại nhân. Sĩ Giao ngày trước có mối thân tình với tiểu tướng. Xin đại nhân cho phép tiểu tướng được mời huynh ấy về trại.
Thăng Triều miết hai bên trán, mặt buồn ngắt gật đầu nói với Do Độc:
- Được. Miễn sao nhà ngươi lo lắng việc quân tình không được bỏ bê, luôn sẵn sàng cảnh giác. Có ngươi cầm binh đất Lâm Tây nên ta cũng yên lòng. Chẳng hay ý của nhà ngươi thế nào. Nhà ngươi hãy dò xem Sĩ Giao đó tâm dạ thế nào rồi bẩm báo lại cho ta.
Bỗng nhiên gió lớn nổi lên, bầu trời sầm tối vần vũ bện những lớp mây trên bầu trời thành hình rồng uốn lượn, nuốt mặt trời vào trong. Chỉ trong thời khắc, mặt trời ló rạng từ phía miệng Rồng Mây. Giọng nói của chàng nho sĩ họ Đỗ văng vẳng bên tai:
"Người châu Phong nghĩa khí ngút trời tựa những đỉnh núi ở phía sau đất Lâm Tây. Đất linh thiêng phụng dưỡng những anh hùng từ thuở khai thiên lập địa. Phía sau lưng thành Bạch Hạc là Núi Hy Cương nơi tổ Hùng Vương lập đất ấy là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc tạo thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.
Từ núi ấy nhìn ra con nước Tam tỉu, thành Bạch Hạc, phía trước ngã ba Tam tỉu có hàng chục quả đồi thấp như đàn rùa tứ linh bò từ ao lớn lên tụ lại chỗ đất linh thiêng. Phía sau, mảnh đất Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp thư. Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục oai phong giữa đất trời. Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) sừng sững như vị tướng quân anh dũng đang cầm chiếc nỏ bắn ra cả nghìn mũi tên coi giữ cõi bờ nước Nam.
Cạnh đó Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là chín mươi chín con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô Phong Châu xưa của bậc tiền nhân dựng nước.
Không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương thơm. Khí cảnh đất ấy phụng dưỡng tứ linh, hạc trắng phủ khắp, sung vượng vô cùng, ắt sẽ sinh ra bậc minh chủ dắt dân Nam ta qua cảnh lầm than đói khổ.
Tính rộng ra, từ trước có bậc nữ hùng Trưng Vương cho tới tận bây giờ đất ấy mới hào quang rực rỡ như thế. Há chẳng phải điềm báo về bậc tôn trưởng đất ấy sẽ thành chủ thống nhất đất nam ta."
Lời nói thao thao của Đỗ Sĩ Giao trước toàn thể văn võ châu Phong như rót thêm dầu vào chỗ lửa đang cháy liu diu. Chung Đạt đi ra phía sau lễ đường thăm hỏi bệnh tình của Thăng Triều. Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt :
- Chung Đạt thấy ta là người như thế nào trong thiên hạ.
Chung Đạt thẳng thắn đáp ngay :
"Đất Tống Bình như cái rốn của rồng thiêng. Dải đất châu thổ trù phú đến mạn đông bắc giáp biển lớn ấy là đuôi rồng. Nay Phong Châu uy danh từ bấy lâu, nhân lúc Đường Kính Tông nối tiếp Mục Tông ham vui, lại bị bọn hoạn quan lũng loạn trong triều. Chẳng sớm thì muộn cũng bị lũ quan hoạn đó trừ khử do Kính Tông không khéo cư xử với bọn ấy. Triều đình vì thế mà sẽ lơi là đất Giao Chỉ.
Lý Nguyên Hỷ là tôi tướng của đám Lý Phùng Cát đang bị các bè phái của tể tướng đương triều Bùi Độ, Vương Thủ Trừng chèn ép. Lúc này lòng dân còn đang loạn, đất Trường Châu và phía tây Tống Bình đã bị Man Hoàng chiếm đánh. Châu Phong không dùng sức mạnh, nghĩa dũng mà chiếm lấy trị sở thì e là kẻ khác đi trước ta một bước mà chiếm lấy. Châu Phong khi ấy sẽ lại lệ thuộc lớp lớp tầng tầng bóc lột, sẽ chẳng phải là điều tốt đẹp cho chúng dân."
Thăng Triều nhìn một lượt ba người cận hầu. Ánh mắt người nào cũng hiện rõ ngọn lửa chiến đấu sục sôi. Do Độc gật đầu tỏ ý muốn Thăng Triều thuận ý ngỏ của Chung Đạt. Toán Hoa Tài bàn với Thăng Triều giữ Sĩ Giao ở lại đất châu Phong. Quân lính của Chí Liệt sẽ do Toán Hoa Tài toàn quyền điều động đề phòng bất trắc. Thăng Triều như gột bỏ đi những muộn phiền, bước ra trước lễ đường bố cáo với toàn văn võ, lời nói chắc nịch :
"Đường triều thối nát. Quan lại miền biên xa ra sức nhũng nhiễu dân lành. Châu Phong ta theo lệ từ trước vẫn thuộc về sự quản thúc của quan sứ ở Tống Bình. Nhiều năm nay ta đã nhẫn nhịn nhún nhường mà chúng không hề có ý dung tha cho dân ta, mỗi ngày thuế sưu nộp càng nhiều hơn. Sức dân, binh lực mà bị sa sút đi trông thấy.
Nay thuận theo thiên ý, lòng dân, ta quyết định ngày mai ở thành Bạch Hạc sẽ huy động toàn quân. Ba ngày sau sẽ xuất binh dẹp bỏ đám bạo tàn ở Tống Bình. Quyết mang lại an vui, no ấm cho người dân đất Nam ta. Ý ta đã quyết, mọi sự sẽ theo sự sắp xếp theo ý ta và Chung Đạt. Kẻ nào chống lệnh chém không dung thứ."
Đám văn nho bấy giờ kẻ nào kẻ ấy tỏ vẻ không vui, bàn tán những lời không hay. Thăng Triều cầm kiếm chém gãy đôi chiếc bàn bày đầy rượu thịt khiến đám văn nho kinh hãi, không dám bàn lời trái ý Thăng Triều. Tiệc tan, đám võ quan nói cười hỷ hả, bọn sĩ nho ngán ngẩm ra về.
Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt khi trước quản sự châu Phong, Chung Đạt chỉ cười mà nói với Thăng Triều rằng:
"Đám hủ nho chỉ tỏ ra như vậy, chứ ý lòng chẳng mong Thăng Triều thu hết đất nam về một mối, bọn chúng rồi chẳng phải cũng có nhiều lợi lộc hơn hay chăng. Mà lời nói nước đôi, chẳng can ngăn mà cũng chẳng đồng tình. Đó chính là dụng ý đám hủ nho. Nếu ta thắng trận thì mở lời nhận công, bằng không chúng cũng sẽ chẳng thù tội với đám quan kế tiếp."
Thăng Triều chỉ cười vuốt râu dài. Trời ngả canh dậu, ánh nắng le lói của buổi chiều đất hai bà khiến Thăng Triều không khỏi vấn vương. Tin báo về, Chí Liệt đã dẫn binh tới bắc thành huyện Thái Bình, chờ sự điều động của Toán Hoa Tài. Sĩ Giao ngà ngà say nằm trên xe ngựa đi cùng Thăng Triều về Bạch Hạc. Do Độc cùng Toán Hoa Tài tức tốc tới châu Phong, sai lính tráng chỉnh tề quân ngũ, quân lương vạn hộc không thiếu một ly.
Sớm ngày sau, Thăng Triều cho gọi các tướng tới Bạch Hạc dàn binh, phòng bố khắp châu. Toán Hoa Tài nhận vạn quân hai đường thủy bộ đóng tại thành Mê Linh xuôi về Tống Bình trong thời gian nhanh nhất. Chung Đạt nắm năm nghìn binh kỵ, hợp với đạo quân của Dương Chí Liệt đánh vào các trại quân triều đình ở dải phòng tuyến ngoài cùng từ nam huyện Thái Bình tới vùng châu thổ phía nam.
Do Độc giữ binh Lâm Tây, sai người đến Man Hoàng khéo dụ người Man giữ chắc vùng cương ải, cấp thêm quân lương, điều động binh lính tăng viện cho Trường Châu, đánh vào các phụ cận với Ai Lao, châu Ái nhằm ngăn ngừa sự điều binh từ Tống Bình từ các châu quận phía nam cùng với đám người nhiễu loạn ở Diễn, Hoan.
Đêm khuya ngày rằm tháng sáu, Do Độc dẫn binh từ Lâm Tây bất ngờ đánh thẳng vào trại lính phòng đông của quân triều đình khiến đám quân triều đình hoảng loạn, bỏ đất ấy mà chạy tới Bạch Hạc.
Hai nghìn quân phòng đông của triều đình nhà Đường chạy tới Bạch Hạc kêu la đòi cho trú nhờ trong thành thì bị Thăng Hùng đứng trên cửa thành phóng tên xuống giết chết viên tướng cầm đầu là Lư Hoán. Đám tàn binh giẫm đạp lên nhau, gươm giáo hạ sát những kẻ vướng chân mà chạy tới Đà Giang phía nam thì quân lính bọc hậu của Chung Đạt trông thấy liền xông ra chém giết chết đến nghìn rưỡi.
Còn hai trăm lính chạy tới ngã ba Tam tỉu phát hiện ra thuyền chiến châu Phong đang xuôi dòng, có tên lầm lỳ tới hỏi viên tướng họ Phùng. Họ Phùng vừa nói thì có mũi tên bắn tới, Hỏa Cước Tốc Đinh Tráng gọi lớn khiến tên lính đó thất kinh nhảy vội xuống sông. Đám thủy quân châu Phong liền nhảy lên bờ bắt giết hết số tàn quân triều đình.
Tin báo về Tống Bình, Nguyên Hỷ đang mê mộng liền hộc máu lăn xuống đất. Hai ả vũ nữ đang hầu hạ thấy vậy mà gọi lớn. Bọn lính tráng xông vào giết chết hai ả đó rồi mới hỏi han Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ cho gọi các viên quan lại, tướng sĩ tới bàn kế chống lại quân châu Phong. Thi Nguyên, Long Trạch giáp chiến không trở về Tống Bình bàn chuyện. Các tướng Triệu Cam, Triệu Túc, Mao Húc, Bục Đồ, Giả Thanh, Giả Không, Trương Hàm, Lương Khúc tức tốc chạy tới Tống Bình.
Từ Nguyên Hãn cúi mặt không dám ngẩng mặt nhìn Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ ho sù sụ bàn việc với đám tướng quan. Kẻ nào kẻ nấy đều không dám mở lời đề đạt với Nguyên Hỷ. Duy chỉ có lão quan Triệu Hoằng dâng kế triệu tập quân lính vùng biên ải, gửi thư cho vị tướng trẻ Mã Thực đang đóng ở châu Ung.
Ngoài ra kêu gọi tiếp tế từ Đoàn Uyển châu Ái, điều binh châu Lục, Võ An tới các huyện châu thổ phía đông nam phòng ngừa đội quân Man Hoàng cấu kết với Hoàn Vương mang thuyền chiến tới chiếm đánh. Lại sai các tướng chia các phòng tuyến từ phía ngoài để đối phó với sức địch từ châu Phong.
Long Trạch giữ binh ở đất hồ lớn râm Đàm, đêm nghe tiếng rắn cắn chuột the thé bên tai mà tỉnh dậy nghe quân báo về phòng tuyến lớp ngoài cùng phía tây bị quân của Chí Liệt cùng một đội quân giáp vải, dao dài từ phía bắc huyện Thái Bình xông tới phá tan, Trạch ngã ngửa ra sàn.
Một tên lính chạy từ phía bờ tây hồ thúc ngựa về trại báo thêm tin rằng đội quân phòng đông ở đất Lâm Tây thường qua lại với quân châu Phong bị giết sạch khiến Long Trạch bất thần nửa đêm dẫn ba nghìn lính bắc cầu nổi qua sông Tô Lịch không cần ý dụ của Nguyên Hỷ đánh thẳng tới huyện Vũ Bình hòng cứu nguy cho đội quân của Thi Nguyên đang chống cự với đám quân Trường Châu cùng Man Hoàng.
Một đạo quân do tướng dưới trướng của Long Trạch là Luân Hữu đi về phía bắc phá vòng vây của quân châu Phong, mở đường tháo chạy cho trại quân đóng ở phía đông huyện Thái Bình.
Luân Hữu mang quân tới chân núi Câu Lậu thì bị toán quân của Chung Đạt chặn đánh, vòng vây hai lớp của quân đội châu Phong chưa thấy, đội quân của Luân Hữu bị phá tan. Luân Hữu bị nô gia của Chung Đạt tên là Cầm Đắc dùng dao dài chặt đứt tay phải. Luân Hữu ôm tay thẫm máu xông lên liều chết với Chung Đạt thì bị con rể lớn của Chung Đạt là Liễu Bình dùng gậy gióng tre vót nhọt đâm thẳng vào ngực trái ngã xuống đất, mắt mở thô lố mà ngừng thở, máu đông. Chung Đạt cho lui quân về thành huyện Thái Bình hạ trại nghỉ ngơi.
Lúc bấy giờ, đội quân Man Hoàng do gã quỷ Tồn Thăng cùng với Triệu Cường xông ra từ núi Tản Viên đánh phủ đầu vào đội quân tiên phong của Long Trạch. Sức quân Man Hoàng quá mạnh khiến Long Trạch đành phải rút lui. Thi Nguyên mang hai đội giáp sĩ chạy về phía đông gặp đội quân của Long Trạch hợp làm một đánh nhau một trận lớn với Chí Liệt, Dương Diện Gã Quỷ đến mờ sáng không phân thắng bại.
Bỗng nhiên có một đội binh mã gần ba nghìn người có hai chục tượng binh đi cùng rầm rầm đi từ phía tây tới. Viên tướng cầm ống nứa thổi vang âm thanh kỳ quái khiến đầu óc quân lính cả hai bên quay cuồng. Gã Quỷ Dương Diện biết đó là Nga Tú Du Thủy liền sai lính bịt hai bên tai chạy toán loạn khiến đội quân của Long Trạch không biết địch ta chém giết lẫn nhau lên đến nửa nghìn người.
Thi Nguyên nghe thứ âm thanh đó lấy chiếc gậy đầu rắn chạy về phía đông nam nơi Chí Liệt đang giao chiến với đám tàn binh, tránh xa thứ âm thanh nhức tai từ Lý Toàn đang tới. Đánh nhau với Chí Liệt hai mươi hiệp dụ Chí Liệt chạy tới chỗ có bụi dứa gai thì nấp đi rồi bất ngờ xông ra đạp vào người Chí Liệt từ phía sau khiến Chí Liệt ngã vào bụi dứa.
Nguyên tay trái dùng đầu xà ngậm chặt đầu ngón tay của Chí Liệt khiến Chí Liệt đau đớn kêu la. Tay phải, Nguyên dùng chiếc quyền trượng đầu rồng toan đánh vào đầu Chí Liệt thì Lý Toàn phi dao nhỏ trúng đầu xà khiến gậy đó gãy đôi. Thi Nguyên chạy ra giật lấy ngựa của tên giám quân chạy về phía nam, lạc vào đất có nhiều núi thấp không tìm thấy đường ra.
Long Trạch trông thấy quân lính Man Hoàng tới tiếp viện cho quân châu Phong cùng Chí Liệt đành phải rút lui về phòng tuyến lớp thứ hai. Đội quân do Chí Liệt đuổi theo truy sát thì gặp đội quân hơn năm nghìn lính của Tống Bình giáp hoa, giáo dài đứng chặn ở phía bờ tây sông Đáy. Chí Liệt thu quân trở về phía tây.
Dương Diện gã quỷ chưa thỏa cơn thèm khát đánh giết tự ý rời quân Trạch xông thẳng về phía quân lính triều đình lấy đầu bảy tên lính dễ như xơi trầu, xông tới giao chiến với Long Trạch. Sức nặng của từng hiệp đánh khiến ngựa của cả hai người phải khuỵu chân, được chục hiệp giao đấu thì ngựa của Long Trạch bị gãy chân, Trạch đành dùng song câu chém đứt lìa hai chân trước ngựa của Gã Quỷ. Gã Quỷ nhảy xuống ngựa, đôi mắt căm hận, miệng nói lớn, cười hả hê:
- Đám giả phật các ngươi. Có bất ngờ không con trai.
Long Trạch đôi mắt đăm đăm, da xanh gân guốc nổi đầy, Trạch cất đi đôi câu trên lưng, dùng móng vuốt gắn chặt đôi tay. Long thiết trảo những đòn giáng mạnh khiến Gã Quỷ lúng túng chống đỡ. Cây dao quắm đã bị gãy làm t.ư, chỉ còn lưỡi quắm dính một mẩu chuôi gỗ. Gã xông tới bụi tre cạnh đó chặt gãy mười cây, chống trả thêm được ba mươi hiệp đấu với Long Trạch.
Gã Quỷ ngẫm trong bụng không thể khắc chế được Long Trạch nên nghĩ kế chạy về mé sông, dùng nghi binh để Long Trạch không biết. Đám quân xô tới mé sông, phạt hết các bụi thì không thấy Gã Quỷ đâu. Một lát sau, gã Quỷ từ phía xa chạy cưỡi ngựa đi tới. Một tên lính không đầu đứng cạnh. Ném thủ cấp vào trước mặt chỗ Trạch đang đứng, Gã Quỷ cười lớn :
- Hẹn gặp lại tên quỷ da xanh nhà ngươi. Đợi ta về rèn vũ khí xứng tầm, sẽ quay lại đấu với nhà ngươi. Các ngươi còn không mau mau chuẩn bị tinh thần lên đoạn đầu đài. Không thì hãy cúi đầu xin gia gia tha mạng, biết đâu ta vui sẽ tha cho lũ các ngươi.
Long Trạch ánh mắt căm hờn mà nghiến răng ken két, cho quân lính hạ trại nghỉ ngơi thay nhau phòng bị quân Man Hoàng cùng châu Phong đến đánh. Sĩ quân mệt mỏi nấu bữa cháo sáng với cá bắt từ sông, Lọng Trạch dùng cháo nhạt trắng thanh đạm mà đầu óc quẩn quanh, lúc nào cũng giật mình thon thót. Hễ có tiếng giáo gươm rơi xuống đất, hay chỉ là tiếng xoong chảo đập vào nhau Trạch lại giậm chân, giương kiếm nạt nộ khiến quân lính chỉ dám thở nhẹ.
Đám binh mã mệt mỏi ngủ khì khì dưới nắng, dẫu nước sông vẫn chảy cuộn ào ào. Long Trạch ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ rồi ôm đầu gục xuống. Nhắm mắt vào mà chẳng thể an tâm, lại trằn trọc giữa nắng rát miền Lĩnh Nam, mồ hôi hột giỏ ướt nhòe vải mực. Sức không còn, Trạch gục mặt xuống bàn.
Tiếng leng keng báo giờ thìn đã hết, một tên lính mặt nhem nhuốc chạy vào. Long Trạch lờ mờ mở mắt, trong thấy lính nhem nhuốc mà giận lời :
- Bọn mày làm gì mà nhơ nhơ nhuốc nhuốc. Giờ đã cơn trưa sao cháo lão chưa xong.
Hắn nói rằng hắn là mõ cả ở trong xóm cách sông Đáy hai hương, chạy tới đây khi trời còn mờ sáng. Báo rằng có kẻ cầm đầu rồng quyền trượng vào trong hương nhiễu nhách suốt đêm. Trẻ con khóc thì bị nhét giẻ, bà già kêu thì đánh mẻ hàm răng. Nhìn hắn tướng uy võ oai phong, không phải dạng tầm thường cướp trộm.
Long Trạch mường tượng ra họ Thi, lấy làm giận đành bỏ bữa không ăn. Cho người đến hương ấp đó tìm kẻ quấy nhiễu.
Đến canh mùi, Thi Nguyên ló mặt về, dáng vóc trông không khác kẻ ăn xin. Long Trạch hỏi Thi Nguyên về thực hư chuyện ấy. Thi Nguyên nói rằng nữa ngày tìm đường mới chạy được tới đây, không biết về dân làng bị nhiễu nhách.
Long Trạch tạm tin lời Thi Nguyên, không trách tội Thi Nguyên. Sau đó, Thi Nguyên buồn bã tới chỗ bờ sông, tên cả mõ đang đánh đẩy đong đưa với một đứa con gái phường mèo mả gà đồng. Long Trạch nói rằng chính tên đó đã nói Nguyên nhiễu nhách dân làng khiến dân đó ghét đám lính triều đình.
Nguyên nghe xong, nhận ra tên đó đêm qua trà trộn vào đội lính của Nguyên, lại hô hào bọn lính bỏ chạy. Chính là gã rêu rao đồn thổi lời không hay về quân lính Tống Bình với đám dân nghèo khiến dân chúng nhìn thấy lính Tống Bình liền bỏ nhà mà đi.
Nguyên hằm hằm mặt đi tới chỗ đôi trai gái chém đứt đôi người đứa con gái. Tên kia máu me đầm người, hốt hoảng chạy đi thì bị Trạch ném câu trúng gáy, đầu lìa khỏi cổ lủng lẳng rồi toàn thân đổ rầm xuống đất. Nguyên lấy trên người hắn ta một chiếc ngà voi khắc chữ Dương. Long Trạch nghĩ thầm trong bụng "Hẳn là bọn người họ Dương, chính bọn ấy làm ra làm ra việc này".
Trạch lệnh cho toàn quân nhổ trại lui về Tống Bình để bảo toàn binh lực. Đi đến đoạn bờ tây sông Tô Lịch, cây cầu nổi bằng gỗ đã bị phá tung. Trạch đích thân cùng tay quân sư dùng bè gỗ vượt sông vào trong La Thành bẩm báo lại toàn bộ việc quân cho Nguyên Hỷ nghe.
Hỷ lúc bấy giờ hai đêm mất ngủ, khuôn mặt đờ đẫn như cái xác vô hồn. Đôi mắt thâm quầng, sâu hoắm lộ ra chiếc sọ hốc hác, tay chân bủn rủn nói với Trạch :
"Ta sai các tướng đi bố phòng những chỗ yếu hiểm. Nay chỉ còn đất phía tây do Long tướng quân cùng Thi Nguyên giữ. Phía bắc bị quân châu Phong tập kích từ đất Mê Linh, quân ta rút theo sông Cái về đến râm Đàm, tướng Triệu Cam, Triệu Túc đang bày binh đoạn từ hữu ngạn sông Cái tới râm Đàm, chúng không quen sông nước nên bị chết đuổi phần nhiều.
Quân lính Mê Linh mạnh quá liên tục cho thuyền vượt sông đánh vào La Thành. Bọn Mao Húc, Bục Đồ trấn thủy quân cửa sông Thiên Đức bị đội quân châu Phong do tướng Toán Hoa Tài châu Phong đẩy lui về phía đông. Thành Long Biên, các tướng Giả Thanh, Giả Không không chống cự nổi đành bỏ trống thành lui về Liên Hựu huyện Nam Định.
Trương Hàm, Lương Khúc giữ Loa Thành hiện vẫn còn giữ được thành nhưng không rõ sẽ trụ được bao nhiêu lâu nữa. Lục Châu lại loạn, quân đội tiếp viện chẳng biết khi nào mới tới."
Long Trạnh tím tái mặt mày, tay bấm chặt dấm máu. Trạch hỏi :
- Nghe nói có viên tướng trẻ tuổi Mã Thực năm trước ở châu Ung dẹp được bọn Nam Chiếu, Man Hoàng. Chẳng hay đại nhân có nghĩ tới hay chưa.
Nguyên Hỷ thều thào :
"Nước xa không cứu được lửa gần. Liên Thụ thành Nam đã bị một toán cướp ở Chu Diên đốt cháy cửa thành, phải dựng cọc tre để trấn thủ. Loa Thành đã bị phá phân nửa. Viện quân ít nhất cũng phải ba ngày nữa mới tới lại bị quân nổi loạn ở châu Lục cản bước.
Giờ chỉ còn đường núi đi qua Nà Lữ nhưng phía đông châu Bình nguyên dân ở đó hiện còn căm ghét Trương Sang do Sang giết viên tù trưởng của chúng nên cũng không thể đi tới được. Nếu có đi qua cũng bị đám quân châu Phong chặn đánh ở phía bắc. Thư gửi tới các châu Quảng, Quế, Kinh Nam mà chẳng có hồi âm. Nay cậy nhờ cả vào Long Trạch tướng quân."
Trạch mặt đăm đăm hồi lâu, vết thương ở vai nhức giật lên như khiến Long Trạch nhớ ra điều gì đó. Gã mặt xanh đi qua đi lại, lầm nhẩm vài lời trong miệng như tự nói với bản thân. Nguyên Hỷ thấy vậy liền hắng giọng mà hỏi :
- Tướng quân có kế gì hay chăng? Có điều gì thì hãy lớn tiếng nói cho ta.
Long Trạch lau đi dòng mồ hôi ướt vừng trán, hai tay vò chặt lấy nhau. Lòng nóng như lửa đốt:
- Cơ sự đã như vậy. Hãy liều chết với chúng một phen, ta không tin bọn chúng có thể chiếm được đất Tống Bình một cách dễ dàng như vậy.
Nguyên Hỷ thấp thỏm ngồi lên, nằm xuống. Giọng nói không ra hơi như người hấp hối :
- Hay ta viết thư đầu hàng châu Phong. Nhường đất Tống Bình cho họ Vương. Hòa hoãn với chúng đợi viện quân tới.
Tay quân sư cho Long Trạch nãy giờ ngồi yên lặng, nghe thấy Nguyên Hỷ muốn hàng mà mặt mũi như bừng tỉnh. Hắn liền ngỏ ý tham mưu :
- Lời đại nhân không phải không có ý hay. Chỉ có điều họ Vương đó có chịu lời hòa hoãn của ta. Chi bằng đại nhân hãy cho Triệu Hoằng làm sứ tới đó mà khuyên giải chúng.
Long Trạch quả quyết :
- Thà chết nơi sa trường chứ không thể hàng những tên phản loạn.
Nguyên Hỷ nhổm dậy, tay run run chỉ vào Long Trạch toan nói lời gì đó thì từ phía ngoài huyện lệnh Tống Bình Nguyên Hãn đi tới báo tin rằng quân lính phía nam đã đánh lui đám quân nổi loạn. Chiếm lại sống Xích Đằng, bọn quân lính Chu Diên đánh dẹp được một đám dân buôn chài là tay sai của đám quân nổi loạn.
Quân lính bắt được hai mươi người cả phụ nữ, bị ép cung nên bọn đó khai ra chỗ quân lính đóng trại, lại dẫn đường mà bắt sống được phó tướng của Phạm Đan là Nguyễn Hoắc. Nhận tin mừng Nguyên Hỷ nét mặt giãn ra đôi chút, Hỷ nói :
- Bọn dân nam nghèo đói đã lâu, bọn thổ hào cũng lấy cớ ấy mà hô hào chúng nổi dậy. Bây giờ chỉ cần sai đám lính trà trộn vào dân, cho mỗi hộ vài đồng bạc lẻ, nói chuyện khéo léo với chúng để chúng căm ghét bọn cầm đầu nổi loạn. Về phía châu Phong ta sẽ sai Triệu Hoằng tới đó bàn lời nghị hòa xem chừng sẽ được lợi cho ta.
Nguyên Hãn cản lời :
"Triệu Hoằng trước theo Dương Thanh không được lòng họ Vương, sau lại bỏ họ Dương theo ta càng khiến Thăng Triều coi khinh. Triệu Hoằng lại vốn tính tham lam e rằng sẽ hỏng chuyện.
Hạ quan nghe quân tình báo về thì Vương Thăng Triều cùng với Kiều Chung Đạt bị kẻ khác rèm mà mà đem lòng hận Tống Bình vì bắt giết con trai của Chung Đạt, lại khiến con trai của Thăng Triều mất tích nên mới động binh đòi xử tội Tống Bình. Tại hạ phen này xin đi để nói lời phải trái với họ Vương cùng với họ Kiều. Tỏ ý muốn nghị hòa, giải quyết mọi chuyện cho êm xuôi."
Long Trạch ném câu xuống dưới sàn nhà, giọng nói trách móc :
"Nếu các ngài muốn hàng thì tự đi mà hàng. Quân lính của ta sẽ đánh tới cùng đợi viện quân tới. Các ngài nghĩ rằng họ Vương đó chỉ vì t.ư thù mà đem binh đánh Tống Bình hay sao. Không phải bọn chúng đã mấy năm nay nuôi binh lính hùng mạnh để đợi cái ngày này hay sao.
Nếu bọn tướng tá dưới trướng như ta đầu hàng chúng thì cái đầu vẫn còn, dẫu có không làm quan tướng thì cũng được trở về làm thường dân. Như các ngài bọn đó đâu có thể cho các ngài ung dung ở Tống Bình."
Từ Hãn Xương vỗ về Long Trạch:
- Long tướng quân nói lời rất hay. Nhưng ta tin quân châu Phong thừa hiểu rằng, khi bọn chúng ngồi lên cái ghế ở Tống Bình sẽ có rất nhiều kẻ khác ngó nhòm, rồi cả triều đình cũng chẳng thể cho bọn chúng ngồi yên. Ta tin rằng Vương Thăng Triều chỉ vì một chút t.ư thù nên mới cả giận mang binh đánh Tống Bình. Phen này ta đi lấy lời phải trái nói cho đám người Phong Châu. Nếu chuyện mà không thành xin dâng đầu cho loài sói lang.
Long Trạch không phục lời nói của Hãn Xương, hậm hực bước ra ngoài, chạy thẳng về phía thành cũ, vượt sông trở về Hoài Đức cùng Thi Nguyên giữ chặt phòng tuyến. Hãn Xương nhận lệnh mang theo đôi chim Hạc đứng trên mình rùa đúc bằng vàng , một mâm cau trầu, xôi gấc, chín chín tám mươi mốt con gà trống luộc kỹ soạn sửa mang tới bờ nam sông Cái.
Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ mười :
Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .
Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .
Chương 10.4 Từ chỗ sáng bước vào tăm tối và cái chết
Chung Đạt nghe có quan huyện Tống Bình có thành ý đem theo lễ vật tới diện kiến liền sai người mang thuyền lớn tới rước.
Bãi Quần Thần giữa dòng sông Cái, phía bờ là đất linh thiêng của lão thần nhân Lý Ông Trọng. Chung Đạt cho người bày chõng tre, vải lụa giữa bãi đất cùng Hãn Xương ngồi đàm đạo hồi lâu đến giữa trưa canh ngọ. Sau đó Chung Đạt mời Hãn Xương về trại quân, mang xôi gấc, thịt gà khao đãi toàn quân.
Hãn Xương trông thấy khí thế ba quân của Chung Đạt mà lấy làm kinh hãi, lúi húi vội vàng chạy qua đám quân bước vào lều trại của Chung Đạt. Chung Đại tiếp đón hậu tình, rồi sai người chuẩn bị xe ngựa, lệnh bài để đưa Hãn Xương tới Bạch Hạc hầu chuyện với Phong Châu thứ sử.
Đêm khuya tiếng lang sói gầm vang, trong cơn ngà say, Chung Đạt tiễn Hãn Xương đi về phía tây bắc. Hãn Xương lên chiếc xe ngựa dần xa tiếng trống chiêng, ánh lửa bập bùng. Tiễn người bạn thâm tình bao năm, cầm ly rượu rót xuống mặt đất cát phù sa đỏ ngàu, Chung Đạt cười trong nước mắt :
- Tiễn biệt hảo hữu. Chén rượu cay như lời tạ từ. Tiễn người từ chỗ ánh lửa rọi tới chỗ mịt mù tối tăm.
Bước vào trại, Chung Đạt mải miết từng nét chữ. Canh ba gà gáy nơi làng chài nhỏ bên sông, Chung Đạt cho người gửi lá thư cho quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ kể tội, vạch trần bộ mặt của đám quan lại Tống Bình, thể hiện ý nguyện muốt quét sạch Tống Bình.
Chung Đạt khuyên rằng Lý Nguyên Hỷ muốn đầu còn trên cổ thì mau mà bỏ trị sở về bắc, kẻo chẳng còn vẹn nguyên tấm thân. Lời lẽ mỉa mai Chung Đạt ví Nguyên Hỷ như gà nuôi trong lồng bấy lâu, béo tốt, lông mượt đến khi lồng vỡ rách thì bị đám gà khác xông tới mổ xé. Chung Đạt nằm ngủ mê trong trại cười phá lên : "Đồ gà lồng không biết bay".
Quân lính kháo nhau, lời bàn tới các quan trong phủ đô hộ. Ai nấy đều cho đám quân châu Phong trước giờ lấy lụa là, vàng bạc nịnh bợ quan trên, nay lại lật thuyền toan làm phản, không đáng kẻ anh hùng trượng nghĩa. Kẻ nào kẻ nấy sớm lên trị sở mà bàn chuyện đều dâng kế đánh dẹp quân châu Phong.
Nguyên Hỷ ho gà suốt tuần lễ, máu xổ ra đến hai chậu đỏ tươi đã nằm bẹp trên giường bệnh từ lâu. Chờ tin từ Hãn Xương quay về mã mãi chưa thấy, Nguyên Hỷ đành phó mặc cho các quan dưới lo liệu việc quân tình.
Kẻ nói đánh tây, người bàn chinh bắc, người nghị hòa với nam, kẻ muốn chiến đấu diệt đông khiến quân tình đảo loạn hết thảy.
Bấy giờ Hãn Xương tới Bạch Hạc diện kiến thứ sử châu Phong, ba ngày không gặp được họ Vương khiến Hãn Xương thấy trong lòng như nuốt phải than đỏ. Hãn Xương nằm trên gác quán trọ nhìn ra thấy chữ Đỗ treo trên chiếc đèn lồng phía trước một quán rượu phía xa.
Hãn Xương sực nhớ lời Chung Đạt ngày trước có nói rằng tới quán rượu ở cửa phủ phía đông, gặp được cha con họ Đỗ sẽ có tín lộ mà tới được phủ thứ sử. Hãn Xương vội vàng mang theo chút bạc tới quán rượu ở góc phía nam thành Bạch Hạc.
Bước vào phía trong quán rượu, như bao quán rượu nhỏ to khác, tên tiểu nhị đon đả hồ hởi đón khách quý. Lời ra tiếng vào trong quán ầm ĩ không khác chi phường buôn thúng bán mẹt ngoài chợ. Tiếng vàng bạc liểng xiểng, lúc xúc mà không thấy một ánh lấp lánh của những thứ đó phát ra. Kẻ vội vã, người cúi mặt, xì xầm những lời bàn bạc như cánh hát tạp âm.
Hãn Xương mặc chiếc áo đẹp đẽ, bước vào quán rượu toát lên vẻ tôn quý của bậc trưởng giả, cô gái bước ra xua tên tiểu nhị vào trong, giọng nói đon đả:
- Khách quan xin mời vào phía bên trong. Có người đang chờ ngài ở phía trong.
Bước qua bếp rượu vào tới một gian phòng ngập tràn những sổ sách bàn tính lách cách. Nhìn qua khe cửa gỗ mà Hãn Xương cười nhạt lắc đầu. Cô gái quay lại nhắc khéo Hãn Xương nhanh nhanh bước vào phía trong. Một viên công tử đang đứng quay mặt về bức vách mặc áo lụa, đầu chít khăn vàng chữ phúc, tay vắt phía sau cầm chiếc quạt lá cọ trực chờ. Nghe tiếng bước chân từ phía sau, viên công tử quay ra cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương ngợ ngợ cúi chào lại vị viên ngoại đó. Hãn Xương lập bập :
- Chẳng hay tên họ vị công tử này là gì? Sao lại biết ta tới đây mà cho gọi vào.
Viên công tử khẽ nhếch mép cười :
- Những kẻ tới đây không phải là tìm tín lộ tới cửa quan hay sao. Thấy vị quan khách đi từ phía quán trọ tới, ta liền sai người nghênh tiếp. Có điều chi thất lễ xin quan khách bỏ quá cho. Ta họ Đỗ tên Nam, tự là Bá Sính, hiệu là Hoàng Y Tín Lộ. Mọi người vẫn gọi ta là Đỗ Hoàng Y. Vị quan khách này nhìn qua bề ngoài chắc hẳn không phải là người đất châu Phong. Đeo lệnh bài, mặc áo lụa bên trong chỉ có thể là huyện lệnh.
Hãn Xương lấy tay ra hiệu gạt lời Hoàng Y :
- Công tử xin khẽ lời cho. Thú thật ta là người của huyện lệnh huyện Thái Bình tới châu Phong đã ba ngày nay tìm gặp thứ sử châu Phong Vương Thăng Triều mà chưa được gặp.
Hoàng Y cười lớn :
- Ngài hãy cứ ngồi xuống đây, uống ly rượu này, ăn chút điểm tâm rồi hãy kể lại sự tình cho ta. Đến đây, bất kỳ ai ở châu Phong đều có thể gặp được. Chỉ có điều…
Hãn Xương rút ra túi bạc, vỗ vào bụng :
- Ta hiểu ta hiểu. Chỉ là cần gặp được họ Vương đó, chắc chắn sẽ không để công tử phải nghĩ suy. Ta ở đây có hai nén bạc đặt làm tin. Xong việc ta sẽ trả thêm cho công tử ba nén nữa.
- Không được. Gặp thứ sử chứ đâu có phải gặp chó gà. Hai nén vàng. Không hơn không kém. Bằng không xin quan khách hãy cứ về quán trọ để đợi gặp thứ sử.
Hãn Xương cắn môi mà rút ra một nén vàng đưa cho Đỗ Nam. Hoàng Y chút thêm hai ly rượu, Hãn Xương nằm ngủ thiếp đi. Khi tỉnh lại đã ở phía trong gian phòng rộng rãi, vật trang trí đơn sơ, bàn ghế gỗ tre mộc mạc. Hãn Xương nhẩm trong bụng rằng mình bị tên kia lường gạt cho tới cái chỗ xơ xác này.
Mở cánh cửa gỗ bằng gỗ lát chắc nịch bước ra phía ngoài, có một ông lão đã trực sẵn ở chỗ đó từ bao giờ tới cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương hỏi ông ta đây là đâu. Ông lão nói đây là phủ của thứ sử rồi dẫn Hãn Xương bước qua khuôn viên tĩnh lặng, đất vườn rộng bao la với những gốc tre, cây cọ mọc thành từng lụm dày di dít, cánh cò, cánh hạc đậu trắng sân vườn.
Có vị công tử mặc áo lụa màu xanh, đầu búi củ hành, đi giầy vải đỏ, mặt mũi tuấn tú khôi ngô trông thấy ông lão dắt người đi tới liền gọi lại :
- Này Lão Đỗ, nhà ngươi lại dắt người đi tới điện phủ có việc gì.
Lão cúi đầu, ra hiệu cho Hãn Xương cúi chào vị công tử, lão bẩm lời :
- Bẩm Vương thiếu chủ, người này muốn được gặp Vương thứ sử.
- Vậy à. Lão hãy đi đi.
Hãn Xương đứng đợi ở phía ngoài, Lão Đỗ bước vào trong bẩm với một người đàn ông tuổi chạc tứ tuần, phong thái điềm đạm. Bóng người hắt ra, tiếng thì thầm nhỏ to, Hãn Xương cố rỏng tai nghe nhưng không sao tập trung được. Hãn Xương nhìn theo vị công tử đó quanh đi quẩn lại, cầm sách đọc lại ngẩn ngơ cười, chốc chốc lại quay ra nhìn về phía gian phòng vẫy tay như muốn chào Xương.
Xương liên tục cúi đầu chào từ phía xa. Một lát sau, Lão Đỗ bước ra, tay cầm một thẻ bài dắt Hãn Xương tới phủ điện.
Mùi trầm hương thoang thoảng, chiếc lư đồng nghi ngút khói, đôi hạc đồng đen đứng uy nghi. Thấp thoáng bóng người là vị thứ sử đang ngồi đọc thẻ tre, dùng nghiên bút đọc điểm những bản tấu sớ. Nhìn từ phía ngoài, Hãn Xương lén nhìn vào phía trong.
Lão Đỗ bước tới gần chỗ của vị thứ sử đang ngồi. Thăng Triều đứng dậy, bước ra ngoài gian điện lớn, hai dãy ghế bàn gỗ nghiến, gỗ xoan bạc màu được xếp phẳng phiu thẳng lối. Vương thứ sử ngồi chính giữa, trên bàn chỉ có nghiên bút cùng vài mảnh giấy gió còn vương chút mực, ánh đèn dầu phụng đang lập lòe bỗng tắt phụt khi Hãn Xương theo chân Lão Đỗ bước vào.
Hãn Xương loay hoay tìm cho mình chỗ ngồi, Lão Đỗ xin lui ra. Thăng Triều ánh mắt nhìn ra Hãn Xương, không gian tĩnh lặng, họ Vương hỏi lớn khiến Hãn Xương giật mình ngồi bệt xuống phía bàn cánh tả. Thăng Triều hỏi:
- Nghe tiếng Hãn Xương huyện lệnh Tống Bình đã lâu. Ngài đến mà không báo với ta một tiếng, dẫu gì cũng là mệnh quan triều đình, sao lại đi lối cửa sau tới điện phủ của ta.
Hãn Xương lấy lại bình tâm, ngồi thẳng lưng, đôi tay đặt lên bàn như trẻ học chữ, tay men men chén nước còn nóng nghi ngút. Xương hít hơi thật sâu, nhắm mắt lấy lại khí giọng đáp lời Thăng Triều một cách khảng khái :
- Gặp được Vương Thăng Triều thật là vinh hạnh. Xét về chức tước tại hạ vẫn kém ngài hai bậc. Tại hạ lại là khách, không dám đòi hỏi gì nhiều hơn. Ta báo với đám hầu lại thì được biết Thăng Triều đại nhân đi thăm nom quân tình ở vùng biên ải nên không gặp được. Nay biết tin ngài trở về phủ, nóng lòng muốn gặp nên mới đành phải nhờ chỗ Đỗ Hoàng Y dẫn đường.
Vương Thăng Triều cười lớn, bỗng nghiêm nghị :
- Làm mệnh quan triều đình, lại là sứ của quan đô hộ Nguyên Hỷ tới châu Phong để gặp kẻ tôi mọn như ta thì đâu cần phải lén lút như vậy. Người đời nghe Thăng Triều đối xử với các bậc trưởng giả như vậy thì nào còn mặt mũi với thiên hạ. Không tiếp đón khách quý thật tận tình chu đáo, mong Từ huyện lệnh không để bụng. Ta sẽ xử thật nghiêm đám tôi dưới quyền. Chẳng hay huyện lệnh tới châu Phong có việc gì.
Hãn Xương ngậm chút chè thơm, dõng dạc đáp:
- Nghe nói Châu Phong vì cả giận quan sứ mà động binh đánh tới Tống Bình.
Thăng Triều mặt không biến sắc, giọng nói hào sảng :
-Đánh thì sao, mà không đánh thì sao? Hãn Xương tới đây muốn khuyên giải ta chăng? Hay là ý chủ nhân của Hãn Xương muốn đầu hàng.
Hãn Xương vểnh mặt, vuốt râu, cười Thăng Triều:
"Tại hạ không dám khuyên giải Vương thứ sử. Chỉ muốn bàn vài lời phải trái với Thăng Triều. Đất Phong châu dẫu có hùng mạnh, nhân tài hào kiệt vô số thì cũng chỉ là một mảnh đất nhỏ nhoi ở xứ tây An Nam, đời đời lệ thuộc vào các quan đô hộ, thuế sưu dâng cống cho triều đình.
Quân binh dẫu có đến nghìn, vạn thì cũng chỉ như những sợi tóc trên đầu. Cắt bỏ đi tóc cũ thì tóc khác lại mọc, chỉ là chủ nhân của nó muốn để tóc ấy ra sao. Đầu nấm ngứa thì dùng bồ kết, hoa bưởi, hương nhu đem nấu với nước, gội đi sẽ hết. Nếu có chấy rận thì dùng lược mau để chải. Bằng không gọt đầu bắt hết chấy rận rồi chăm cho lứa tóc mới.
Châu Phong muốn chiếm đất Tống Bình, chẳng phải là muốn triều đình cắt bỏ tóc ấy đi hay sao. Dẫu sao châu Phong xưa nay vẫn trượng nghĩa, tôn thờ trung hiếu. Nay làm ra điều ấy thấy thật hổ thẹn lắm thay."
Vương Thăng Triều chỉ tay vào Hãn Xương, lắc đầu, nhếch miệng cười :
- Nghe nói chỉ vì mái tóc chấy rận mà đô hộ đại nhân Nguyên Hỷ ốm o, thở không ra hơi, nằm thoi thóp chỉ trực chờ ngày ra đi. Xét ra cũng thấy tội thương cho Nguyên Hỷ đó. Thân xác không còn, thì mái tóc có cũng để làm gì.
"Nếu Thăng Triều đã nói như vậy, ta cũng xin thẳng thắn nói với Thăng Triều. Phía tây bắc chây Phong là bọn Nam Chiếu đang lúc cường thịnh, phía tây là dải cao nguyên Ai Lao, đám người đó vốn chẳng ưa miền trung du phía đông. Nếu Thăng Triều mang quân đánh Tống Bình, chẳng phải khiến bọn đó mừng vui hay sao.
Lại nữa, quân đội các châu quận phía nam có để yên cho Vương thứ sử ngài ngồi yên ở đất châu Phong hay không. Phía bắc có Mã Thực ở đất châu Ung, đội quân Kinh Nam, các châu Khâm, Quế, Quảng, Quỳnh mới chỉ hắt xì thôi, e là châu Phong cũng chẳng còn một ngọn cỏ."
- Triều đình thối nát. Các quan lại trong triều còn chẳng quản nổi. Nói chi đến đám quan tướng xứ xa biên ải. Hãn Xương đừng nói thêm lời nào nữa. Nể mặt Hãn Xương là chỗ qua lại với Chung Đạt từ lâu nên ta sẽ tiễn Từ huyện lệnh ra khỏi thành. Mong Hãn Xương về Tống Bình nói với Nguyên Hỷ rằng gỗ vàng tâm xứ nam ta rất nhiều. Nếu không ngại thì Vương Châu Phong ta sẽ tặng cho đô hộ đại nhân làm quà.
Thăng Triều cười lớn ra hiệu cho Lão Đỗ tiễn khách. Những lời trái tai khiến Hãn Xương bực tức bước ra khỏi điện phủ thứ sử châu Phong. Hoàng Y đứng ở phía ngoài đòi số vàng mà Hãn Xương còn chưa trả.
Hãn Xương dùng dằng không trả, Hoàng Y sai người bao vây không cho Hãn Xương bước đi. Hãn Xương tối tăm mặt mũi, đứng giữa vòng vây đám người to lớn, đóng khố, áo trần mà thiên cưỡng rút túi bạc ra. Hoàng Y tiến tới dằn mặt Hãn Xương:
- Là huyện lệnh thì cũng phải như người thường. Định quỵt của bọn này hả ? Không xong đâu. Nhà ngươi có giỏi thì về Tống Bình gọi tay sai tới đây.
Hãn Xương hậm hực, phun nước bọt vào mặt Hoàng Y. Hoàng Y cả giận cho đám lâu la xông vào đánh. Sĩ Hoàng từ phía quán rượu bước ra quát lớn :
- Dừng tay. Bọn mày còn định làm ăn nữa hay không? Đừng có như lũ ngu ngốc phường trộm cắp như thế chứ. Tha cho hắn ta. Dẫu sao việc của hắn cũng không thành. Lấy của hắn như vậy là đủ rồi.
Hoàng Y mặt vênh váo, mắt trợn ngược lấy tay lau đi miếng đờm trên mặt. Hoàng y chỉ tay vào mặt Hãn Xương cảnh cáo :
"Ngươi nên nhớ lần này có anh Đỗ Thương nói cho mày đấy nhé. Bọn ta đối xử đẹp với tất cả, không phân biệt dân thường, quan lại. Chỉ cần có tiền, bọn ta sẽ làm được việc cho khách. Chứ không bao giờ làm cái việc trốn chui trốn lủi khi xong việc như thế. Định trốn nợ bọn ta à? Lại còn không chịu nói cho tao từ sớm là việc của ngươi không thành cho ta biết.
Bọn ta đây không hề lấy trên người ngươi thứ gì trong lúc ngươi say rượu, mặc dù có thể giết ngươi, lột hết của cải trên người ngươi. Nhưng bọn ta có uy tín, có nghĩa khí. Nhớ chưa. Ta không chấp với loại áo vải yếu mềm như ngươi. Cút."
Hãn Xương không nói một lời, chạy về phía quán trọ, thu xếp tay nải hành lý, cùng hai tên tùy tùng lên xe ngựa thúc ngựa chạy thẳng về phía đông nam. Hãn Xương nắm chặt tay bụng nguyền rủa đám người châu Phong suốt dọc đường đi. Hãn Xương bấn loạn không biết phải nói điều gì với quan đô hộ Nguyên Hỷ khi trở về Tống Bình. Định bụng tới chỗ của Thi Nguyên, Long Trách nói cho hai người đó trước.
Đoạn đi qua dòng sông Đà về phía đông tới cửa Hát Môn tới trại quân của Long Trạch đóng ở Hoài Đức, Hãn Xương thấy tên tùy tùng nói có một đoàn người ngựa chừng hai chục người chạy từ phía nam tới đứng chặn đường phía trước. Hãn Xương cho xe dừng lại, nhìn về phía xa thấy đám lính mặc giáp phục quân Tống Bình liền hỏi :
- Các ngươi là lính của Long Trạch phải không?
Viên tướng đi đầu tiến tới phía trước, cất giọng hỏi:
- Các ngươi là người của châu Phong tới đây do thám có phải không.
- Các anh em nhầm rồi. Ta là Từ huyện lệnh đây. Mọi người không nhận ra ta sao.
Giọng hét lớn, khuôn mặt lầm lỳ viên tướng đó chạy tới cầm cây đao lớn chém đứt đôi người Hãn Xương. Hai nửa người văng ra hai bên xe ngựa, máu chảy loang khắp xe ngựa. Hai tên tùy tùng hoảng sợ nhảy xuống xe ngựa chạy đi.
Viên tướng đó cầm cây giáo của tên lính đứng cạnh bẻ gãy đôi rồi lao thẳng vút về phía hai tên đó. Một tên trúng mũi thương lăn ra chết, tên còn lại bị cán thương ném trúng chân, thậm thọt nhắm mắt chạy về phía đông. Viên tướng cười lớn:
- Về nói với đô hộ Đại nhân rằng Long tướng quân không muốn đầu hàng bọn châu Phong. Quyết đánh với bọn giặc Phong Châu đó đến cùng.
Bóng tên phu xe dần khuất, Toán Hoa Tài dắt ngựa đi từ lụm cây phía tây, lớn giọng nói:
- Quả nhiên lợi hại. Không hổ danh Tre Độc phòng đông – Phong châu Đô úy. Trước giờ ta chỉ nghe Do Độc dũng mãnh mà không tin. Dáng người gày gò, khẳng khiu mà uy lực võ tướng vô cùng kinh ngạc.
Do Độc oai dũng cầm đao lớn, mặt nhìn về đông, miệng nở nụ cười:
- Có khi nào Mặt trời lặn ở phía đông.
Toán Hoa Tài hỏi Do Độc nói lời đó có ý gì. Do Độc chỉ cười, rồi thong thả dắt cưỡi ngựa về.
Toán Hoa Tài cùng Do Độc đi về phía nam, gió thổi lộng mát rượi giữa cái hè nóng bức. Do Độc bàn với Toán Hoa Tài về việc dụng binh, chém tướng, những trận đánh chiến dịch chiến lược. Tiếng chim ríu rít bay theo bước chạy của hai chiến mã.
Về tới trại quân, Toán Hoa Tài cùng Do Độc lập tức cho thu dọn chiến lợi phẩm, sai quân lính kéo xác người đi chôn, băng bó những lính bị thương.
Tàn dư trận chiến vừa qua vẫn còn hiện trên những khuôn mặt thất thần, máu me dính đầy vũ khí, áo giáp, miệng mũi đám lính. Giáo gươm, quân lương hòa với máu, chân tay, mũ giáp lổm nhổm, đâu đó có mùi hôi tanh tanh, những vũng bùn đất đỏ tươi nhuộm màu. Do Độc cùng Toán Hoa Tài thúc giục quân lính dọn dẹp trước canh tuất rồi hành quân tiếp về phía đông.
Trong buổi tối ngày hôm đó, ở Tống Bình, Nguyên Hỷ nhận được tin báo từ triều đình sẽ sai người khác tới thay. Bỗng nhiên Nguyên Hỷ ăn được bữa tối, ngồi dậy bàn chuyện với đám cận hầu.
Long Trạch mang theo binh lính cùng Thi Nguyên bị truy sát tới tận cửa La thành. Tiếng trống giục giã khiến Nguyên Hỷ bất giác nằm lăn ra giường. Đám hầu cận tiến lại hỏi:
- Khi tối sắc mặt của đại nhân đã tốt lên đôi chút. Chẳng hiểu vì lẽ gì mà khiến ngài ra như vậy.
Nguyên Hỷ giọng nói thất kinh :
- Các người không nghe thấy à. Tiếng trống đó báo hiệu quân địch đuổi đám quân của Long Trạch và Thi Nguyên tới sát La Thành rồi. Trời không thương ta mà.
Triệu Hoằng liếc láo nhìn xung quanh hỏi Nguyên Hỷ :
- Chẳng phải đại nhân sai huyện lệnh Nguyên Hãn tới châu Phong để bàn với thứ sử châu ấy về việc hoãn binh hay sao. Tiếng trống quân đâu chắc đã phải là của các tướng trở về.
Nguyên Hỷ nói vọng từ trong trướng ra :
- Hãn Xương đã đi tới đó tới nay là ngày thứ năm rồi mà không hề có tin gì cả. Các tướng thì liên tục báo về quân phản loạn cùng đội quân châu Phong liên tiếp đẩy lui các đợt phản công từ quân ta. Nay nhận tin từ triều đình có Hàn đại nhân cùng đoàn quân Khâm Châu, Ung Châu tới Tống Bình mà ta cũng mừng. Nhưng chẳng biết Hãn Xương có thể nói được đám người châu Phong đó không. Tiếng trống đó khiến lòng ta như lửa đốt.
Một tên lính xông vào hớt hải chạy vào báo tin :
- Bẩm đại nhân. Có một người què quặt nói là tùy tùng của Từ đại nhân đi từ Phong Châu trở về muốn gặp đại nhân.
- Mau mau cho hắn vào.
Năm tên lính vội vàng khênh tên đó vào, hắn thở dốc, ôm lấy chân phải rên rỉ đau đớn. Đám cận hầu tỏ ra ngạc nhiên hỏi hắn :
- Nhà ngươi chẳng phải là Lỗ Hơn đi theo Từ huyện lệnh tới châu Phong hay sao.
Nguyên Hỷ sai người lấy cho hắn một chén nước gạo ninh với tim gà. Lỗ Hơn uống liền hai chén, bẩm với Nguyên Hỷ cùng đám cận hầu:
- Bẩm đô hộ Đại nhân. Từ đại nhân bị quân của Long Trạch chém chết rồi ạ.
Nguyên Hỷ nằm trên giường nghe Lỗ Hơn nói mà giật mình lăn xuống dưới đất. Bọn gia nô phải khênh Nguyên Hỷ lên giường. Miệng đầy dớt dãi, Nguyên Hỷ nói không thành lời :
- Nhà ngươi nói, nói, nói sao. Sao sao lại giết giết, Long long.
Triệu Hoằng đỡ lời :
- Nói đi. Sao Long Trạch đó lại giết Từ huyện lệnh.
- Dạ bẩm. Từ đại nhân vượt sông gặp Kiều Chung Đạt nói chuyện với ông ta một buổi chiều thấy có ý xuôi xuôi nên cử người đưa Từ đại nhân tới thành Bạch Hạc.
Triệu Hoằng sốt ruột liền mắng Lỗ Hơn :
- Nhà ngươi còn không trả lời cho mau. Dài dòng.
Lỗ Hơn lắp bắp, cúi đầu nói tiếp:
"Từ đại nhân tới Bạch Hạc khuyên Vương thứ sử mà hắn không chịu đón tiến. Từ đại nhân phải đút lót cho đám người trong phủ để đưa Từ đại nhân tới gặp hắn. Xong rồi hắn cho người dọa nạt, coi khinh người ở phủ trị chỉ là con tép con tôm không xứng để bọn chúng dâng cống, thuế sưu.
Từ đại nhân hậm hực trở về. Đi tới gần trại quân của Long tướng quân thì bị tùy tướng của Long tướng quân chém chết. Lại nói với tiểu nhân rằng về nói với đại nhân rằng Long Trạch quyết đánh đến cùng. Bằng không Long tướng quân sẽ trở mặt."
Đám cận hầu bàn tán hồi lâu, Nguyên Hỷ ho sụ sụ trong trướng. Một tên lính khác lại chạy vào phủ báo tin:
- Bẩm đại nhân. Long tướng quân cùng Thi Nguyên tướng quân gióng trống ngoài thành muốn được vào thành. Quân địch đang đuổi tới bờ sông Tô Lịch.
Nguyên Hỷ cố hắng giọng nói ra :
- Các ngươi bàn xem ta phải làm thế nào.
Triệu Hoằng kéo cổ Lỗ Hơn, mắt trợn ngược hỏi Hơn :
- Từ Hãn Xương bị giết mà mày lại còn sống để chạy về đây. Mày đi tới đây có kẻ nào nhìn thấy không?
- Dạ. Xin đại nhân tha mạng. Tên tướng kia ra tay nhanh quá khiến tiểu nhân không kịp cho ngựa chạy đi. Đến khi hai đứa tùy tùng bọn con chạy thì tên giặc đó ném thương trúng Lại Hòa khiến nó lăn ra chết. Con may mắn chỉ bị trúng cán thương đập vào chân. Tên giặc đó không đuổi theo nữa lại còn nói với tiểu nhân về bẩm với đại nhân rằng Long đại nhân nói với Lý đại nhân như vậy.
- Vậy trên đường đi nhà ngươi có thấy quân lính đuổi theo không?
- Dạ con không thấy. Con thấy có quân lính của Long Trạch đi từ phía tây về. Sau đó sợ bọn chúng phát hiện ra con đi lên phía bắc, dọc theo sông Cái chạy về tới đoạn bãi sông làng Thị Điềm thì gặp được quân lính đang cưỡi ngựa đi tuần liền cậy nhờ cho về đến La Thành.
Triệu Hoằng bẩm lại với Nguyên Hỷ:
- Bẩm đại nhân. Chỉ e đây là kế của bọn quân phản loạn. Chi bằng hãy mang thêm binh lính trong thành ra phía ngoài cùng với quân tướng của Long Trạch, Thi Nguyên đóng ở bờ sông Tô Lịch. Nếu chúng có lòng phản nghịch thì các tướng sẽ dễ bề kiểm soát. Nếu để chúng vào trong thành hễ có biến sẽ không thể kịp trở tay.
Nguyên Hỷ y lời, Hoằng sai người khênh Lỗ Hơn ra khỏi phủ. Đi được một đoạn, hai tên lính dùng kiếm cắt lấy đầu của Hơn. Tướng giữ thành là Mao Húc cầm đầu Lỗ Hơn lên cửa thành ném xuống dưới đất, buông lời trách móc Long Trạch:
- Nhà ngươi biết đó là đầu của ai không? Của kẻ phản loạn Hãn Xương đó.
Long Trạch tức tối quát mắng :
- Lại là lão già họ Triệu đó nói lời rèm pha đúng không. Giặc đã đuổi đến tận bờ sông Tô Lịch, mau mau mở cửa thành cho ta vào. Bọn Toán Hoa Tài, Lý Do Độc tập kích bất ngờ khiến Thi tướng quân bị trọng thương. Hãy cho bọn ta vào thành. Kẻo quân tướng sẽ chẳng còn một người.
Mao Húc quát lớn:
- Có kẻ nói nhà ngươi có ý phản nghịch nên tối đêm mới mang quân đến thành phủ. Họ Thi kia khổ nhục kế với nhà ngươi. Nếu không có lòng đó thì hãy giữ lính ở bờ sông Tô Lịch, viện binh từ phía bắc và trong thành sẽ cùng ngươi trấn thủ bên bờ sông.
Long Trạch tức hộc máu, phun ra toàn máu đỏ tươi. Ôm lấy ngực, mặt tím tái cầm kiếm chỉ lên trên thành :
"Sức quân mệt mỏi. Lòng quân hoảng loạn. Nào đâu có sức để đánh thêm được nữa. Nay quân giặc kháo tin chia rẽ lòng quân, các ngươi lại ở ru rú trong thành không cần biết bọn ta sống chết ra sao.
Nếu đã như vậy, ta sẽ ở ngoài này chống địch. Cho các tướng sĩ vào trong thành. Họ đã quá mệt mỏi, cả ngày nay đánh nhau không được ăn uống gì. Người lả đi vì đói, kẻ đánh chém tàn tạ. Các người còn không thấy đó sao.
Các người có lòng nào nghi ngờ ta nhưng đừng nghi ngờ bọn họ. Bọn họ do các ngươi tuyển mộ, hết mực trung thành với triều đình. Họ không có tội tình gì. Các người hãy cho họ vào trong thành.
Nếu các ngươi vẫn nghi ngờ ta, ta sẽ cùng đám lính khỏe ở ngoài này nghênh địch. Còn những người bị lả, bị thương hãy cho họ vào trong thành."
Triệu Hoằng đứng phía sau Mao Húc gật đầu. Mao Húc sai người mở cửa thành, nói hắt xuống:
- Các ngươi hãy cho quân lính bị thương vào trong thành. Ta sẽ sai lính mang cơm gạo, vải màn để các ngươi dựng trại ngoài thành. Hễ có động tĩnh thì hãy đánh trống báo hiệu.
Long Trạch thất vọng cầm nắm cơm mà tên giám quân mang tới ném xuống dưới đất. Viên giám quân đưa cho Trạch một miếng khác mà nhặt miếng Trạch vừa ném xuống đất định đưa lên miệng.
Trạch không nhận, cúi xuống nhặt nắm cơm vừa ném xuống cố nhét vào trong miệng, nghẹn ngào nuốt vào trong. Bụi đất dính đầy miệng Trạch, tay giám quân động viên Trạch :
- Tướng quân hãy ăn nốt phần này của ta. Miếng kia đất bụi xin tướng quân hãy để ta đổi miếng khác.
Long Trạch tay lau đi vết máu trên khuôn mặt, giọt mồ hôi lăn từ hốc mắt lăn dọc theo sống mũi. Long Trạch nghẹn ứ trong họng nói:
"Quân ta mỗi người một miếng. Ta cũng như các anh em, không kẻ nào được phần hơn. Miếng của ta dẫu có dính đất bụi thì cũng là đất của cha ông ta, đất ta sinh ra, đất ta nằm khi yên giấc ngàn thu. Có điều chi mà bẩn bụi.
Khi trước ở núi Tiên Du, có khi mỗi người chỉ có một quả dâu chua nhưng không ai tranh giành của nhau. Nay làm tướng quân càng không thể vị kỷ mà quên đi những kẻ khác. Nếu đêm nay địch tới thì các anh em sẽ cùng ta quyết sống chết với bọn giặc cỏ đó hay không."
Lời nói như hiệu triệu cả đoàn quân khiến cho quân sĩ một lòng. Ai cũng chấm xuống nền đất ăn ngon lành miếng cơm được trong thành vừa mang ra. Long Trạch cho người sửa soạn đóng trại, phủ vải màn trên nền đất thịt. Gió mát lành khiến quân sĩ ngủ ngon giấc.
Nửa đêm canh ba, một trận mưa từ đâu kéo tới. Tiếng sấm rền inh ỏi văng vẳng trong tai, Long Trạch choàng tỉnh giấc. Bước ra ngoài cửa trại, thấy nền đất rung rung, Long Trạch hô hào tướng sĩ tỉnh giấc chuẩn bị mũ giáp chống lại đội quân đang ào ào đi tới.
Long Trạch bàng hoàng, cầm song câu ra sức chém quân lính xông thẳng về phía mình. Long Trạch sai người cầm dùi trống để báo hiệu cho trong thành. Tiếng trống gõ được ba tiếng thì bị đám quân của châu Phong lao tới chém chết.
Trống bị phá tan, Long Trạch hò hét phía ngoài trong tiếng gió thổi những hạt mưa nặng hạt réo rắt phía ngoài La Thành. Tiếng sấm rền vang hòa cùng tiếng hò hét ba quân. Đứng trên thành quân lính nhìn xuống phía dưới thấy một màu đen kịt, chỉ có tiếng leng keng của kiếm sắt chạm nhau mà không hề hay biết phía dưới hỗn loạn nhường nào.
Trời tan mưa, những dòng nước cuốn theo máu đỏ tươi đổ về con hào vây quanh, xác người lềnh bềnh nổi trên hào nước. Tiếng gió mưa rền rĩ dần khuất, những tia chớp, tiếng sấm rền dần xa về phía tây nam.
Đám lính trong thành thắp lên ánh lửa đuốc quanh bốn bức thành. Ánh sáng hắt xuống, thây xác nằm ngổn ngang, kiếm đao hắt ánh sáng ngược trở lại trên thành. Nhận ra có điều không hay, Mao Húc gọi lớn phía dưới thành. Không một lời đáp lại, Mao Húc nghe tiếng cười vang vang :
- Bọn chúng chết cả dưới thành rồi. Các ngươi còn không mau chịu trói.
Một ánh đuốc thắp lên phía dưới hiện lên khuôn mặt nham nhở kinh hãi, hai ánh đuốc thắp lên, bộ râu dài, ánh mắt hùm cọp hiện ra, ba ánh đuốc xác người nằm dưới đất ngổn ngang, rồi lần lượt cả trăm ánh đuốc thắp lên.
Mao Húc kinh hãi nhìn xuống phía dưới. Đám lính của Long Trạch đã chết hết, chỉ còn ngổn ngang áo giáp, binh đao.
Phạm Đan đi tới gần cửa thành, vuốt râu dài chỉ gậy lên thành :
- Tay quỷ mặt xanh đã chịu trói. Các người còn không mau mau dâng thành.
Một loạt tên bắn xuống phía dưới, Phạm Đan sai lính lùi ra xa. Đội khiên tre tiến lên phía trước, đỡ lấy những mũi đạn bắn xuống. Được mười lượt tên bắn xuống, lửa trên thành bỗng nhiên dập xuống hết loạt. Ánh lửa dưới chân đám lính đứng trên thành hắt lên khuôn mặt chúng đầy vẻ sợ hãi. Hai tay bọn chúng buông cung nỏ, giáo gươm, đưa quá đầu không nói thêm một lời.
Liêu Đức Thinh bước ra phía trước, miệng nói vang từ dưới cửa thành vang lên:
- Các ngươi thấy quân ta nói đã sợ hãi, bỏ vũ khí đầu hàng nhanh vội. Còn không mau mau mở cửa thành đón gia gia của các ngươi vào thành.
Cửa thành rộng mở, tiếng cười vang từ phía trong vọng ra ngoài:
- Là Phạm Đan tướng quân và Liêu Đức Thinh tướng quân có phải không?
Phạm Đan thu gậy tre xuống ngựa, nhìn vào trong thành một viên tướng già bước ra. Phạm Đan hỏi họ tên lão tướng đó là gì. Lão tướng đó liền xuống ngựa đáp lời :
- Ta là Kiều Chung Đạt, phó thứ sử châu Phong. Các tướng quân là dũng tướng thủy bộ của Dương Chí Liệt phải chăng.
Phạm Đan mừng rỡ, giọng vang vang:
- Ra là lão tướng họ Kiều Phong Châu. Đám tiểu tốt như chúng tôi xá gì so với Kiều lão tướng quân. Chẳng hay các ngài vào được thành từ khi nào.
- Từ khi mưa gió vẫy vùng, sấm chớp rền vang. Bọn ta cướp trại lính ở bờ nam râm Đàm, bắt được hai viên tướng họ Triệu, ép chúng giả làm quân lính Tống Bình trở về La Thành. Triệu Hoằng thấy hai con trai liền mở cửa cho bọn ta xông vào, bắt được toàn bộ đám quan lại võ văn. Chỉ tiếc rằng cái xác Nguyên Hỷ còn chưa tìm được.
Hai tướng quân đi vào trong thành oai dũng, bỏ lại phía ngoài thành những dòng nước đỏ ngàu chảy dữ dội cuộn thành kênh nước đổ ra sông Tô Lịch.
Họ Kiều sắp xếp binh tướng trong thành ổn thỏa đâu đấy liền cho người soạn sửa lễ vật, nhang đèn, vàng mã dựng lễ sạp trước sông thiêng Tô Lịch nơi mà Chung Tiềm con trai của Chung Đạt đã chìm xuống dưới đáy dòng. Tiếng khóc nức nở giữa đêm khuya của viên phó thứ sử đầu hai thứ tóc như nát tan cõi lòng đám lính. Bọn lính ai nấy đều sọng mắt đỏ tiếc thương cho vị thiếu chủ xấu số đã bị chết một cách đầy oan nghiệt.
Chung Đạt người mệt mỏi rã rời, đầu óc mụ mị cho người bơi một chiếc thuyền nhỏ ra giữa dòng sông Tô Lịch. Gió lạnh cuối thu, Chung Đạt ngủ trên chiếc thuyền. Họ Kiều mộng thấy con trai chạy từ trong La Thành ra, người dúm dó, máu đỏ trên miệng, tay cầm cây trúc đào đi từ phía La Thành chạy tới bờ sông liên tục gọi Chung Đạt: "Cha ơi. Oan ức lắm. Cha ơi. Oan ức lắm."
Chung Đạt tỉnh giấc thì trời đã mờ sáng, người toát lạnh mà mồ hôi ướt sũng toàn thân.
Buổi sớm tinh mơ, tiếng gà gáy trong thành như che lấp đi những tan thương của cuộc chiến đêm qua. Có tiếng chim líu lo trên cành sấu đổ bóng xuống dòng sông Tô Lịch. Chung Đạt cưỡi ngựa đi tới góc đông nam La Thành, đứng trông bãi đất khi đêm qua Phạm Đan cùng Liêu Đức Thinh đánh nhau với đám người của Long Trạch.
Mới qua một đêm, chỗ đất đó đã thành những nấm đất cao, chỉ vài canh giờ sau trận mưa sấm trái mùa, xung quanh đã xanh mượt cỏ non cả một vùng. Những xác người không còn nằm chỗ đó, toàn bộ quân lính trong đêm đã mang theo mộc ngưu đem chôn hết xác đó ở chỗ hố sâu phía nam sông Tô Lịch.
La Thành nhỏ còn ướt đẫm những hạt nước của trận mưa đêm qua. Chân thành quách vấy màu đỏ choét, đất bùn vẫn còn vương.