Giống Rồng - Nguyễn Khai Quốc

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
  • Tên truyện: Giống Rồng
  • Tên tác giả: Nguyễn Khai Quốc
  • Thể loại: Tiểu thuyết - Việt sử ca
  • Cảnh báo: không
  • Nguồn: bachngocsach.com
  • Giới thiệu truyện:
    Nguyễn Khai Quốc bình luận:
    Dân ta phải biêt sử ta. Dẫu là người con đất Việt nào đi chăng nữa, nòi giống chính là cái tự tôn dân tộc. Con Rồng cháu tiên chính là giống nòi của ta. Là một người dân đất Việt với mong muốn được lột tả hết sức chân thực cuộc sống của người Việt ta thời kỳ tiền độc lập - trước chiến tranh Đại Cổ Việt (Ngô Vương - Ngô Quyền) - Nam Hán. Tác giả Nguyễn Khai Quốc đã viết tác phẩm tiểu thuyết "Giống Rồng" kể về quá trình hình thành t.ư tưởng độc lập với phương Bắc sau hơn ba trăm năm bị đô hộ bởi Nhà Đường, hơn nghìn năm bắc thuộc. Với các tuyến nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc như: Dương Thanh, Đỗ Sĩ Giao, Đỗ Tồn Thành, Lý Do Độc, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền,...Lý Tượng Cổ, Bùi Thái, Cao Biền, Tăng Cổn, Hoằng Tháo... được tiểu thuyết hóa chín phần hư một phần thực, tiểu thuyết lịch sử Giống Rồng sẽ mang lại cho các bạn cái nhìn chân thực, sống động về thời kỳ được coi là sơ khai, bắt đầu những mầm mống về ý thức dân tộc, chủ quyền, độc lập. Nhìn vào đó chúng ta có thể chiêm nghiệm ra những gì cuộc sống ngày nay đang diễn ra. Tìm kiếm đâu đó sẽ là sự hiển diện của bản thân mỗi con người chúng ta trong tác phẩm. Đúng sai, sai đúng, trái phải ngược xuôi tất cả chỉ là quan điểm, cách nhìn từ mỗi người. Tác phẩm mang nội dung hàm chứa những vấn đề hết sức nhức nhối của xã hội loài người đó là phân chia giai cấp, nạn bóc lột, đút lót, hối lộ, cửa quyền,... Hy vọng sẽ mang lại làn gió mới cho làn sóng tiểu thuyết của Việt Nam.
    Tiểu thuyết là tác phẩm dài kỳ, hứa hẹn là một trong những bộ tiểu thuyết có một không hai ở Việt Nam
 
Last edited:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Nguyễn Khai Quốc bình luận:
Bài ca Giống Rồng

Trùng trùng sóng vỗ nhẹ bờ đông

Điệp điệp non cao chí sĩ hùng

Ánh kiếm bóng thương nhăn mặt nước

Hương rừng vị biển chén cay nồng

Giang sơn gấm vóc ai nào khóc

Bỗng chốc cơ đồ hóa bỏ không

Lặng lẽ trông theo làn khói trắng

Ầm vang tiếng gọi giống Tiên Rồng



Hồi Thứ nhất:
Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.
Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Từ xưa đến nay chuyện cá chép hóa rồng chỉ có trong truyền thuyết, trâu ngựa chỉ làm con mồi cho hổ báo. Ấy vậy mà trong nhân gian nơi xứ nam trong mấy năm này, xảy ra bao điều kỳ lạ. Dân ở Đỗ Gia trang hương Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu, giáp sông Vân Cừ bắt được cá chép vàng, vảy rồng lấp lánh, đầu nhô sừng cao, nặng tới ba trăm cân. Nơi Ái Châu, có một con trâu rừng húc chết một đàn cọp chuyên săn gà, bắt dê dưới làng. Mọi người dân xứ Nam này đều kháo nhau rằng: “Cá chép hóa rồng, trâu xông giết cọp chẳng phải là điều hiếm có hay sao. Chỉ trong vòng hơn trăm ngày bao điều kỳ dị xảy ra nơi xứ này. Ắt có điềm báo cho vận thế thay đổi nơi xứ này.”

Trong những năm tàn tệ này của đế chế Đường, quan tham đông như kiến cỏ, kéo bè kéo cánh ra sức vơ vét của cải tiền bạc của triều đình và dân chúng. Hoạn quan đục nước béo cò, ra sức tạo ảnh hưởng lớn trong cấm cung, thao túng quyền lực, triều đình ngày càng bê trễ, mỗi lúc càng lâm nguy. Ngoài biên cương, các bộ tộc phía Bắc, phía tây đánh phá chiếm đất, một dải đất rộng lớn của nhà Đường chiến tranh đã trở thành một câu chuyện quá quen thuộc. Trong nước, các thế lực hùng cứ khắp nơi đứng dậy khởi nghĩa nổi lên như nấm, các tướng lĩnh thay nhau làm phản, lật đổ lẫn nhau, đánh chiếm đất đai, thành trì. Suốt dọc sông Trường Giang đến phía bắc dãy Ngũ Lĩnh, dân chúng lầm than trong khói lửa binh đao.

Vượt qua núi Ngũ Lĩnh về phía biển Nam Hải, dân chúng oán thán bởi sự hà khắc của quan chức đương thời. Nơi đây xưa thuộc đất người Việt Cổ đã từ nghìn năm trước, đến Đông Hán thì bị người Hoa Hạ từ phương Bắc tới xâm lăng chiếm làm đất của người Bắc. Đã qua đến gần một nghìn năm, người đất này không hề cam chịu sự cai trị của người phương Bắc và coi triều đình phương Bắc như một kẻ xâm lăng. Đời này qua đời khác, triều đình phương Bắc càng ngày coi mảnh đất phía nam dãy Ngũ Lĩnh như cái gai trong mắt, chấy giận trong chăn đã lâu ngày. Đến thời kỳ thịnh trị của Đường Triều, những kẻ tay sai của triều đình Trường An coi nơi đây chỉ là chỗ tạm lui để rồi tiến tới những tham vọng cao hơn, cũng không ít kẻ lún sâu vào việc vơ vét của cải của dân Nam với vô vàn những sản vật, dị thú, quái mộc… Sự chia rẽ ngày càng sâu sắc, các quan chức đô hộ ngày càng ra sức càn quét các cuộc nổi dậy theo cách tạn bạo nhất có thể. Dân càng đói, chúng sinh càng khổ sở dưới cảnh áp bức của người phương Bắc. Ấy thế nên bao nhiêu danh sĩ Trung Nguyên đã vượt Ngũ Lĩnh để trú chân nơi đất An Nam ấy rồi cũng phải thốt lên rằng:

“Trung Nguyên ai oán muôn phần

Đất Nam đá sỏi vạn lần xót thương”

Người đến, rồi người lại đi bỏ lại đây là muôn ngàn căm phẫn, cái ý chí sục sôi suốt nghìn năm ấy lúc nào cũng hiện diện trong mỗi người dân đất ấy. Trong sóng gió chính trường Trung Nguyên, ấy cũng là lúc những hiền nhân miền xa xôi phía nam có thời cơ lập nghiệp.

Năm Đinh Dậu (817), quan đô hộ là Bùi Hành Lập sau khi vơ vét của cải, nhũng loạn lòng dân đất An Nam đã kịp thời chạy thoát về Trung Nguyên để lại cho viên quan đô hộ tiếp theo là Lý Tượng Cổ vốn dòng tông thất nhất Đường là sự phẫn nộ, và căm ghét viên quan đô hộ trong dân chúng An Nam. Tượng Cổ theo lối mòn của những viên quan đô hộ trước, cướp miếng ăn, cái mặc của người dân bằng những chính sách rất hà khắc, cống nộp nặng nề, sưu thuế vô lý. Được tiếng tham lam và với hão huyền vơ vét nhiều để có tiền cai “cúng” cho quan trên, ấy là cơ hội để mở ra con đường công danh sự nghiệp sáng lạng. Hành Lập ở đây hai năm thôi mà hắn còn tăng hai bậc phẩm quan, vậy nên Tượng Cổ chắc bẩm rằng chỉ cần hắn tăng thuế, tăng sưu lên vài lần, buộc dân An Nam phải nộp lên gấp đôi, gấp ba nhờ việc chiếm được một vùng đất rồng lớn giàu sản vật phía Nam giáp với Hoàn Vương là hắn cũng có thể mua được chức quan cao hơn hai bậc phẩm quan.

Làm quan đô hộ được hai năm, đến năm Kỷ Hợi (819), Tượng Cổ không những chẳng vơ vét được mà hắn lúc nào cũng bị hoảng loạn bởi dân chúng An Nam chống cự quyết liệt. Hắn không ngờ được rằng sự giận dữ của người Nam lại khiến các tướng sĩ của người phương Bắc do hắn mang theo khiếp hãi đến vậy. Bấy giờ Lâm Ấp rục rịch đánh chiếm châu Ái, châu Hoan, người Man Động từ tây bắc giáp với Nam Chiếu nổi dậy nhăm nhe đánh thẳng Tống Bình phủ. Tượng Cổ lòng nóng như lửa đốt, phía Triều Đình rất nhiều kẻ đã nhăm nhe đánh bật hắn ra khỏi đất An Nam do suốt dòng hai năm “hắn chẳng làm được tích sự gì”.

Nghe trong nhân gian có chuyện kỳ lạ, hắn sai tên huyện lịnh tại Ninh Hải (Quảng Ninh) đến hương Yên Hưng để dò la. Tên huyện lịnh đến nơi yêu cầu tất cả mọi người dân tập trung tại bãi sông. Thấy trai tráng mọi người trong làng ai cũng đóng khố, phụ nữ chỉ có mảnh yếm sờn sờn, mặt mày nhem nhuốc lại thêm mùi tanh tanh của cá, hắn liền sai mấy tên lính cho hắn lên kiệu, nhìn qua màn, tay cầm vạt áo che mũi nói vọng ra:

- Thấy quan đến mà các ngươi sao lại chậm trễ? Không lẽ các ngươi muốn chết hay sao?

Một lão già làng đứng lên hàng trước, tay chống gậy, người cúi rạp xuống sát đất mà trả lời rằng:

- Bẩm quan! Chúng con dân chài lưới, quanh năm đò dọc thuyền ngang. Không quen lễ nghĩa phép tắc trên bờ. Mong quan thứ tội.

- Lão nói láo. Lão chừng ấy tuổi đời. Đâu phải không biết. Cái hương này có lần nào quan đến mà không phải đợi các ngươi. Các ngươi lại muốn phạt thêm nữa chăng? – Tên quan quát tháo từ trong rèm kiệu.

Cả đám dân chài cúi xuống, tay chắp phía trước lậy quan:

- Mong quan tha tội.

Ông cụ bước tiếp đến mà nói, giọng run run:

- Bẩm quan. Con dân chúng tôi trước giờ không dám thất lễ. Những lần quan và lính thu tô đến đây trước hay cả lần này nữa, chúng tôi quá nửa trên thuyền, trên bờ chỉ toàn những người già như lão đây, chậm chạp nên mong quan thứ tội. Mấy năm nay, cá nhỏ, lại không nhiều, chẳng thể nộp thuế tô đầy đủ cho quan trên. Giờ đây trong hương mỗi nhà cũng chỉ vài con cá khô…

Huyện lịnh cắt lời:

- Ta không cần biết. Hai mùa nước rồi, các ngươi còn thiếu ta cả thảy ba nghìn cân cá. Cá các ngươi nộp đem đi bán khắp Giao Châu này chẳng được là nhiêu. Quan trên luôn miệng trách móc ta. Các người nghĩ xem. Các huyện lân cận vùng Giao Châu này có cái nơi nào như cái huyện này không? Lần này, các ngươi không nộp đủ thì cả ta cùng các ngươi chẳng thể yên ổn được đâu.

Nói rồi hắn cho lính vào lục lọi từng chum vại, lưới chài từ trên bờ trên thuyền. Mọi người trong làng đứng dưới cái nắng oi của buổi trưa cuối hè. Ai cũng nhễ nhại mồ hôi, cúi gằm xuống đất. Bọn trẻ con thì núp dưới bóng của cha của anh để tránh cái nắng rát như đổ lửa ấy. Tên huyện lịnh ung dung trong rèm kiệu, chốc lát hắn lại chẹp chẹp miệng rồi lại thưởng thức một chén trà mà tên lính chuyển cho hắn. Hắn lẩm nhẩm: “Bọn mày định giấu nó à? Lần này mà có được nó ta dâng lên thứ sử chắc chắn được thưởng to rồi.” Hắn lại cười và gọi một tên lính đến mà hỏi:

- Các ngươi tìm thấy thì mang đến đây trước mặt bọn dân đen kia cho ta.

Tên lính chắp tay trước người, cúi gằm mặt vừa bước lui ra vừa gật đầu lia lịa, miệng liên tiếp nói “Dạ vâng. Dạ vâng. Dạ vâng”.

Có cụ già tiến lại gần kiệu, tên lính xua xua: “Ông lão chớ có lại gần!”. Huyện lịnh chóp chép miếng trầu:

- Lão có chuyện gì thì cứ nói! Nhưng hãy đứng ra xa một chút. Ta không quen mùi này của các người.

Giọng Lão khảng khái thưa:

- Bẩm quan. Quân lính của ngài không hiểu đang định tìm thứ gì? Cá chúng tôi treo, phơi chứ đâu có để chum vại. Mấy cái chum chứa nước mưa để ăn. Cớ sao lại đổ hết đi? Sắp tới trời hanh khô, trẻ con người gia lấy gì mà ăn mà uống? Mong quan xem xét.

Hắn lại chọp chẹp:

- Khá hay cho cho mấy cái vại của các người. Ta thích thì ta làm. Đang mùa mưa, nước ngập đầy sông lại còn già mồm. Chả nhẽ ta không biết thiên văn bằng ngươi.

Để ta xem, các ngươi có điều gì giấu giếm ta không?

Ông Lão phừng phừng đỏ mặt tiến lại gần kiệu hơn nữa thì bọn lính tráng xô vào cản. Ông Lão hẩy nhẹ một cái, cả đám ấy lăn đùng ra đất. Bọn trẻ con cười khúc khích, người lớn thì chỉ dám nhìn theo rồi, che miệng của mấy đứa trẻ lại kẻo lại bị quan trách phạt. Lão cúi thấp thưa với quan:

- Dạ bẩm. Lão không dám đắc tội với quan. Mà chỉ là xin thưa với quan rằng chúng tôi mùa này chẳng được mấy. Chỉ được vài con cá treo khô như hương lão trưởng đã thưa với quan. Còn tôi chỉ mong các quan nương tay, chúng tôi chỉ có mấy cái chum vại ấy là tài sản thôi. Tôi cũng xin quan trên một điều rằng, bọn trẻ con, phụ nữ người già, đứng nắng như thế này họ chẳng thể chịu nổi. Mong quan cho họ được lui.

- Lão nói nghe cũng có lý. Thôi được. Ta cho lệnh đám lính lục soát không để chum vỡ, lưới rách. Còn các ngươi lui về gốc cây đằng kia mà đứng. Không ai được về nhà. Kẻ nào về nhà mà ta bắt được phạt một trăm roi.

- Đội ơn quan. – Mọi người trong làng lưng cúi thấp, tay chắp trước người lại lui dần về phía gốc cây. Đám thanh niên làng lán lại đứng cúi mình trước kiệu quan.

Sau hai canh giờ lục soát, bọn quân lính tập hợp đầy đủ tại bãi sông báo với quan rằng:

- Bẩm quan. Trên thuyền, trong bờ chẳng có nổi một con cá to nào. Chỉ thấy cá riếc, cá rô cùng vài con tôm này thôi ạ.

Bọn lính vác một lưới cá nửa tươi nửa khô lẫn cùng với nhau xuống dưới mặt cát. Mọi người rì rầm: “Sao lại để cá thế kia? Cá khô tôi phơi mấy nắng rồi. Cá tươi phải để riêng chứ. Chẳng biết là cá của nhà nào nữa, rồi chúng ta chia thế nào! Cả chục cái lưới bị rách kia kìa…”

Tên huyện lịnh quát lớn:

- Tất cả các ngươi! Mau mau thành khẩn không thì đứng có trách ta là ác.

Có chàng thanh niên bước lên:

- Bẩm quan. Chúng tôi chỉ có những thứ này thôi. Quan trên thu thì chúng tôi biết ăn bằng gì? Phải không mọi người. – Anh này hỏi mọi người.

Dân làng chỉ xì xào chứ không ai dám nói to.

- Ái chà chà. Cái tên cứng đầu này. Nhà người có biết là ngươi đang nói chuyện với ai không? – Một tên lính dương giáo lên hăm dọa.

- Tôi cũng như anh, là con dân đất nam này. Anh cần cơm ăn áo mặc, chúng tôi cũng vậy. Trước đây, năm nào chúng tôi cũng nộp sưu thuế đầy đủ đâu có thiếu cân cá nào. Mấy năm nay sông ít cá tôm, còn chẳng đủ ăn. Chưa dám mong các quan trên cứu đói chỉ dám cúi xin cho hoãn lại vài mùa. Khi cá tôm nhiều trở lại, con dân chúng tôi lại nộp bù.

Tên quan huyện ngồi trong kiệu, ném miếng bã trầu ra, miệng gắt lên:

- Con dân điêu ngoa. Ta nghe nói, đêm rằm cách đây dăm ngày, dân làng các ngươi tổ chức hội họp linh đình, vui ca nhảy múa suốt tối. Ấy thế là đói kém hay sao?

Chàng thanh niên định tiến lên nhưng ông lão giọng sang sảng ngăn lại:

- Cháu hãy để ta. Chớ có vội vàng.

Lão bẩm với quan:

- Bẩm với Lý huyện, đêm hôm đó rằm tháng sáu, chúng tôi chỉ là mượn ánh trăng sáng rồi mọi người cùng nhau làm lễ cầu ngư mong mùa nước đầy cá tôm. Có kẻ thấy thế mà rèm pha với các ngài quả oan cho chúng tôi. Các ngài thấy đấy, khố rách chẳng có mà mặc, cá khô ròi bọ bâu đầy, chúng tiểu nhân lấy gì ra mà tiệc tùng được đây. Mong Lý huyện minh xét.

Tên quan hậm hực trong kiệu chưa biết nói gì thì có đám lính vác hai chum nặng, đám còn lại thì khiêng một chú cá lớn vảy vàng rực rỡ trong chiếc lưới đan bằng sợi đay dày. Nghe tiếng nhốn nháo, tên huyện quan ngồi dậy, vén rèm kiệu ra thì thấy ánh sáng lòa đôi mắt. Hắn hỏi:

- Cái gì thế hả?

Một tên lính chạy tới, rồi chỉ về phía đôi chum và con cá:

- Bẩm quan! Chúng tôi đi về phía tây nam của con sông chừng bốn dặm theo thuyền thì thấy ở đó có hai cái chum rượu lớn và một con cá đang bị nhốt ở dưới sông.

Tên huyện lịnh họ Lý bước tới, nhìn một lúc, con cá quẫy mạnh khiến vài tên lính bị ngã ra. Hắn hét lớn:

- Thứ gì đây?

Ông lão vừa nói bước ra:

- Thưa quan. Chúng tôi mới bắt được cá này. Nhưng nhìn dáng vẻ nó khác thường nên chúng tôi đang định làm lễ để thả về với sông mong điều tốt lành đến với dân làng.

- Chà chà. Mình thon, vây rộng, vảy rồng. Râu thưa, miệng lớn sừng trông dị thường. Quả nhiên quý hiếm. Thôi được rồi. Cá này để ta tâu với quan trên mang cá này đi cầu ngư cho cả vùng Giao Châu này. Nếu quan trên mà vui lòng thì tiền sưu, tô thuế vụ này ta sẽ xin miễn cho các ngươi. Nhưng phải nhớ nộp trả nợ những năm trước đấy.

Nói xong rồi. Hắn vội vàng cho quân đi rồi mượn một chiếc thuyền lớn sai chở đến Tống Bình. Hắn ung dung ngồi kiệu rồi bước lên thuyền. Hắn quay lại nhìn dân chài với ánh mắt kiêu ngạo, cười lớn và buông lời rằng:

- Các ngươi thừa hưởng hồng phúc Đường triều, nay có vật lạ đem cúng tiến ấy cũng là lẽ nên làm. Ta sẽ xin ân điển cho các ngươi.

Hương lão trưởng ngồi sụp xuống nhìn lên trời mà than rằng:

- Trời xanh có mắt! Chúng con dân đen cùng cũi, chẳng thể trả Long thần về với đại ngàn rộng lớn.

Trong lúc đó, có một thuyền nhỏ đi ngược từ đông nam lên, dáng dấp một chàng thanh niên tráng kiện đang đẩy mái chèo nhanh thoăn thoắt ngược cửa Nam Triệu trở vào sông Thầy. Trăng đã treo cao trên lũy tre ven đê, tiếng mái chèo khua nước bì bõm chẳng thể xua tan đi không gian im ắng của sông nước xứ này. Tên quan huyện chễm chệ ngồi trên lọng đung đưa dưới ánh sương mờ ảo. Lát lát hắn lại xua xua đuổi muỗi, hắng giọng hắn liên tục hỏi đám lính: “Sắp tới chưa bay?”

Mấy tên lính gù gật bên mạn thuyền giật mình nói theo: “Sắp rồi, sáng rồi”.

Chiếc lưới căng kéo con cá về sông Cái ngược dòng khiến mấy tên lính thay nhau đẩy mái chèo cũng thấm mệt. Có chút canh cá loãng trên cái niêu chưa hết canh ba đã sạch trơn. Một hai tên lính đi tuần vòng quanh thuyền như hai cái xác vô hồn kéo lê trong đêm trăng đôi mươi. Bỗng nhiên thuyền thấy lướt nhẹ đi, không còn cảm giác nặng trĩu nữa. Mấy tên lính xì xầm: “Chắc là con cá đã chịu bơi theo thuyền rồi”.

Thuyền lắc lư một cái thật mạnh khiến tên quan huyện lăn quay ra sàn. Bọn lính nhốn nháo: “Thuyền nghiêng, kẻo lật.” Góc phải mạn thuyền là đám lính bị trượt dồn vào chất đống, giáo mác lô xô đâm vào áo quần chúng khiến máu chảy đầm đề. Một lát sau thuyền lại yên, tên quan huyện chỉnh lại đầu tóc, xiêm y quát tháo:

- Các ngươi lái thuyền kiểu gì đấy?

Một tên lính lầm lũi từ giữa khoang thuyền đi lên, mặt lấm lét cho biết:

- Bẩm quan! Lưới rách, cá đã bơi mất.

Tên quan mặt đỏ như gấc, căm căm nhìn đám lính rồi ra sức quát tháo:

- Cha mẹ nhà chúng bay. Có con cá cũng không giữ được. Chúng bay có biết đầu của các ngươi cả trăm đứa cũng không đổi được nó không? Nó chính là rồng đất Việt đấy. Bọn bay có biết không?

Bọn lính tên nào tên ấy mặt mũi như gà vừa cắt tiết. Tên quan họ Lý lại tiếp tục than vãn:

“Ôi than ôi! Đi ngay, bơi nhanh. Ta không cần biết con cá bơi nhanh cỡ nào. Từ giờ đến giờ thìn ngày mai các ngươi không bắt được con cá thì ta giết sạch các ngươi.”

Bọn lính tráng vội vàng vơ lưới cụ nhốn nháo soi đuốc xuống mặt sông tìm cá. Một đám khác nhảy vội lên bờ khua xóm chài ven sông lùng sục cùng bọn chúng. Tên bổ đầu họ Mã thì thầm bên tai quan huyện: “Bẩm quan lớn! Lúc nghiêng thuyền, không biết Đại nhân có để ý không? Ta thấy dưới ánh trăng, mạn phải thuyền có một bóng người. Sải tay hắn dài cỡ chục tấc, chân thoăn thoát bì bõm xuôi theo dòng.”

- Có chuyện đó sao? Sao nhà ngươi không nói sớm? – Tên quan huyện sửng sốt.

- Bẩm đại nhân. Người nóng giận tôi chưa dám can. Nay thấy nguôi nên tôi mới bẩm. Tôi còn nhìn thấy rõ một vết tràm sau lưng hắn giống y hệt hình săm của đám dân Đỗ gia trang. Chắc chắn là bọn dân đen đó đã đến cướp báu vật ấy.

Tên quan hét lớn, tay hắn cầm cây giáo đâm mạnh vào mạn thuyền để xả nỗi giận dữ.

- Bay đâu! Quay lại Đỗ Gia Trang giết hết cho ta.

Tên bổ đầu cúi gằm mặt xuống, mặt tái mét, miệng lắp bắp:

- Bẩm… bẩm… bẩm! Có… có… cần giết, giết hết không, không ạ?

- Giết sạch cho ta! Lũ điêu dân láo toét. Lần này không tìm được cá ta sẽ giết sạch bọn bay.

Trời dần trở sáng, đám lính đi tìm chưa thấy có tin gì báo về với tên quan huyện. Hắn vật vờ trên chiếc lọng, thi thoảng lại giật mình miệng lẩm bẩm “Long Ngư, Long Ngư”. Mấy tên lính rệu rã chuẩn bị bữa sáng cho quan huyện cùng với chút nước ấm để hắn rửa mặt.

Hắn cáu gắt liên hổi: “Cha mẹ mày! Lão gia mà không thấy nó chúng mày sẽ phải chết! Phải chết, phải chết.”

Giờ đã quá Tỵ, hắn nhễ nhại dưới ánh nắng hè gay gắt. Không thấy tăm hơi từ đám lính uể oải trên sông. Tên quan họ Lý liền giục giã sai quay lại hương Yên Hưng.

Thuyền quan cập bờ, dân chúng nhìn tên quan họ Lý một cách e dè. Hắn giơ tay ra hiệu cho đám lính chặn hết mọi ngả đường. Tay hắn lăm le thanh gươm trên tay. Hắn chỉ trỏ, đám lính xông vào từng nhà kéo người già, phụ nữ, trẻ em tay chẳng có gì chỉ biết ú ớ rồi hét lên “Giết người! Giết người!” Trẻ con lon ton nhốn nháo chống cự yếu ớt trước sự sỗ sàng của đám lính tráng. Rồi trong chốc lát, cả làng chài đỏ máu, thây người chất đống chẳng còn chút sự sống. Xác gà, xác lợn, cá khô, tươi lẫn lộn đỏ lòm trong đầm máu. Chỉ còn vài cánh tay thoi thóp và giọng the thé yếu ớt cũng bị gươm giáo của bọn lính dập ngay.

Đám thanh niên làng nghe tin hốt hoảng chạy về, người cầm lưới kẻ cầm tay chèo vội vã cập bờ lao vào liều chết một phen với đám lính đằm đằm sát khí kia. Kẻ chém người giết, máu cũ chưa khô đã lại đậm thêm màu. Lính tráng sứt chán mẻ đầu, đám thanh niên làng thì rách tay, gãy chân. Chẳng còn ai lành lặn. Những tên lính quen tập trận giả nay thấy yếu ớt khi đương đầu với những thanh niên làng chài, lần lượt ngã quỵ rồi rủ nhau lên thuyền chạy trốn. Máu chảy thành dòng, một góc sông lênh láng. Tiếng í ới gọi nhau cũng dần tắt lịm trong cái nắng rát mùa hè. Chỉ trong nửa canh giờ thôi, những mái nhà cháy rụi, những xác người lô nhô lần lượt được kéo đi trong cơn đói mệt của những người còn lại trong làng.

Chàng thanh niên tóc búi củ hành, dáng người vạm vỡ, thân cao bảy thước, mình dày tựa chum, đôi chân thoăn thoắt, ánh mắt sáng ngời trên khuôn mặt vuông vức, mày rậm như hùm. Mặt lấm lét, tay đỏ máu tươi anh ta vừa đi vừa rưng rưng nước mắt, giọt lệ lăn giọt mồ hôi hòa làm nhạt dần những vết máu trên khuôn mặt:

- Thật là khốn nạn. Đám bạo tàn các ngươi sẽ phải chết. Thù này ắt báo. Nợ này ắt đòi. Con dân đất này vô cớ chịu đọa đày chỉ vì một con cá. Thật là tai họa.

Anh gầm vang một tiếng đổ về bãi lầy cửa sông. Tôm cá nhảy lên ùa về biển lớn. Cua cáy chạy lên bờ vì tiếng rền sóng dữ. Cả lảng chỉ còn lại tám người cùng hai chiếc thuyền nhỏ.

Sau hơn ba ngày vừa cúng tế, vừa trốn chạy. Ba đêm ròng tám người còn lại đào được hơn hai chục hố mả dọc dòng sông xuôi về Đông Hải. Họ chẳng dám hương hoa hay đắp nấm vì sợ lũ quan quân quay lại đào quật lên. Tang thương nhưng cực chẳng đã họ lại bàn:

- Giờ ta chẳng còn chốn dung thân, quan quân lùng sục chúng ta khắp Giao Châu này. Thôi thì hai thuyền này, mỗi hướng một ngả. Ta cùng với Sĩ Giao, Sĩ Hoàng, Đỗ Dụng ngược dòng về Giao Châu có chỗ người quen để tá túc chờ ngày tương hội. Còn Đỗ Trang, Đỗ Kiêm, Tồn Thành và Thủ Trừng xuôi theo Đông Hải đến Ái Châu nương nhờ chỗ Đỗ thứ sử Ái Châu.

Thuyền ngược về Tống Bình đi đến cửa sông Thầy thì bị đám cướp khét tiếng ở Giao Châu là Lục Bạch Hổ cướp phá, thuyền tan người bị bắt chẳng còn tin tức. Thấy vậy, Tồn Thành lấy làm buồn lắm. Đêm trăng xuống lại nhâm nhi chén rượu khóc than: “Trời đất điên đảo, lòng người đảo điên. Biết đến khi nào Đỗ Gia ta mới được ổn yên?”.

Vài tuần sau khi đến được Trường Châu, Tồn Thành và Thủ Trừng lại lạc mất Đỗ Trang, Đỗ Kiêm trong lần quan quân vơ vét thuế sưu nơi này. Chẳng là Trang và Kiêm kết giao với đám dân nghèo ngoài biển ở hương Giao Long (Giao Thủy Nam Định) chống phá bọn quan quân nên bị bắt mà không biết bị giam ở nhà lao nào. Hỏi dò thì Tồn Thành được biết đã bị đưa về nhà lao huyện Nhật Nam châu Ái. Hai cha con kiếm cá, tìm cơm ở Trường Châu một thời gian, thân cô thế cô lạc lõng giữa dòng. Con còn bé thơ nhọc nhằn kiểm sống chẳng phải kế hay mà cũng không thể có cơ hội thay đổi cuộc sống này. Tồn Thành nhớ lại lời của Đỗ Đại dặn trước khi chia ly. Tồn Thành tìm về Ái Châu nơi thứ sử châu Ái.

Xuôi về nam chừng hơn hai chục hải lý rồi về sâu trong đất liền hai trăm dặm đường, cuối cùng Tồn Thành cùng con trai cũng đến được Cửu Chân châu Ái. Rừng sâu nước hiểm khiến hai cha con không ít lần làm mồi cho thú hoang. Tồn Thành dặn dò Thủ Trừng rằng: “Hai cha con ta đi chuyến này, ta chỉ e điều xấu nhất xảy ra là một trong hai cha con ta mất mạng nơi cùng cốc này nhưng chúng ta đã tới được đây rồi, con hãy gắng lên, chỉ còn chút đường nữa thôi, chỉ một chút nữa thôi.”

Thủ Trừng mắt nhắm tịt trên vai cha. Tồn Thành chẳng thể cầm nước mắt cố gắng gọi con trai tỉnh dậy mà không thấy thưa. Từng bước chân nặng trĩu, một tay giữ lấy con trên lưng, một tay chống gậy qua khe suối nước lạnh toát mà rợn người ghê gớm. Đôi chân trơ khung xương khẳng khiu như những gióng tre ghép lại run lên bần bật khiến mảnh khố tàn tạ như sắp rụng rơi xuống mặt nước. Tồn Thành nhìn thấy một cây sung rừng quả chín đỏ rực cả gốc cây. Tồn Thành tiến tới, có tiếng vo vo quanh tai rồi trời đất như tối sầm lại, cả hai cha con ngã khuỵu dưới gốc cây mà không một lời thảng thiết.

Trời đã về tối sẫm, khung cảnh hoang vu của chốn rừng này càng khiến người ta thêm kinh hãi. Tiếng gầm rú của những con sói hoang, lạo xạo trong rừng là âm thanh từ bọn rắn chuông, rắn hổ. Đâu đó có tiếng gà rừng quang quác xé tan màn đêm. Giật mình, Tồn Thành tỉnh dậy trong mơ màng, người ê ẩm ngơ ngác nhìn xung quanh. Một sự im lặng đến sợ hãi. Chỉ có tiếng thở thoi thóp của đứa trẻ nằm bên. Dù cố gắng đứng dậy nhưng cơ thể như cả nghìn núi đè khiến Tồn Thành lại kéo đôi chân run rẩy kia xuống.

Tồn Thành tiến sát lại gần con trai mình thủ thỉ vào tai nó mà mắt lệ nhòa:

- Con trai à! Chúng ta được cứu rồi!

Nói rồi, có bóng người tiến lại gần. Đó là một thụ nữ tuổi chạc tứ tuần, dáng người thấp lùn, mặt rỗ chằng rỗ chịt. Chẳng có chút sợ hãi, Tồn Thành hỏi:

- Là bà đã cứu hai cha con ta?

Chẳng nói chẳng rằng, bà ta lấy chút nước ấm rót vào một cái chén và đặt trước mặt Tồn Thành là hai quả đào rừng. Tồn Thành nhận lấy và chưa khỏi tò mò:

- Bà là ai? Sao lại không nói gì với ta? Đây là đâu, ta muốn tìm đường về huyện thành huyện Cửu Chân.

Nói xong, bà ta vẫn không hề mở lời khiến Tồn Thành bắt đầu thấy hậm hực:

- Bà bị điếc hay bị câm vậy?

Bà ta vẫn cười, rồi có tiếng người đàn ông ầm ầm rền vang vào tai Tồn Thành:

- Bà ấy bị điếc từ nhỏ. Không thể nghe thấy nhà ngươi nói được gì đâu.

Tồn Thành, nhổm người dậy ngước mắt lên nhìn dưới ánh trăng hắt vào là người đàn ông thấp lùn, miệng lớn, râu rậm. Tay ông cầm một con dao quắm, chuôi dài chừng ba thước. Mặt dữ dằn như báo cọp, giọng lại rền vang bên tai:

- Hai cha con nhà ngươi người từ đâu đến mà lại đi qua lối này. Chốn này đâu phải chỗ để con người qua lại?

Tồn Thành thều thào:

- Thưa ông! Cha con tôi đây cũng bước cùng đường mới ra thế này. Kể ra thì dài lắm, thật cực chẳng đã đã tới nơi này bị ra thế này. Ta thì chẳng hấn hề gì chỉ tội cho con trai ta. Mong hai vị cứu lấy con ta.

Nói rồi, Tồn Thành khóc nấc lên.

- Trời yên bể lặng bỗng một ngày, cả nhà ta bị giết. Thật là căm phẫn lắm thay.

Ông lão hỏi:

- Vậy là cớ làm sao? Mời anh uống chén nước ấm này. Đây là nước cây đinh lăng. Xong rồi uống thêm chút nước cháo này. Cậu bé sẽ không sao đâu. Mấy vết sưng kia là do ong bò vẽ đốt. Lão có cây thuốc này đã cho cậu bé ấy uống rồi. Anh cứ yên tâm mà dưỡng sức.

- Cảm ơn ông nhiều lắm. Ta với ông không quen không biết, cớ sao lại cứu ta?

Ông lão cười lớn:

- Thấy chết không cứu ấy là tội lớn lắm. Vợ chồng ta quanh năm lên rừng chặt cây, hái lá. Thấy con sóc, con thỏ bị thương còn chẳng lỡ đem thịt mà còn đưa chúng về chăm chút. Lòng nào lại không thể cứu đồng loại.

Tồn Thành giọng run run:

- Thật là không gì có thể báo đáp. Nãy giờ trò chuyện mà chẳng hay tên ông lão và bà nhà đây?

Lão cười lớn, râu rung lên bần bật, vết chân chim hai khóe mắt hằn sâu:

- Lão đây họ xưa họ Nùng, ngày quan sứ Tống Bình về châu này, lão lấy họ Lý. Tên ta là Do Trị. Bà nhà ta là Lô Thị.

Tồn Thành nghe danh lấy làm thảng thốt:

- Sao ông lại đổi thành họ Lý?

Lão chẳng một chút đắn đo, lớn giọng khiến Tồn Thành giật mình:

- Ta ư? Nhà ngươi cứ nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Sau này rồi nhà ngươi rõ.

Uống xong chén nước cùng chút nước cháo. Tồn Thành thấy đầu nặng như vạn búa đập, chân tay bỗng cứng đờ rồi lịm đi.

Sáng sớm ngày hôm sau, tiếng trẻ con gọi lanh lảnh bên tai khiến Tồn Thành tỉnh giấc.

- Cha ơi. Cha ơi! Cha ơi. Cha tỉnh lại đi cha.

Nước mắt Thủ Trừng khiến khuôn mặt gầy gò của bé càng thêm nhem nhuốc. Thủ Trừng chẳng thể dứt hơi liên hồi gọi cha. Mặt nó lấm lét nhìn xung quanh rồi thét lên thật to, nó gục mặt vào vai cha rồi rúc rúc dụi để lau đi hai dòng đang đẫm nhòe trên khuôn mặt nó.

Cánh tay Tồn Thành nhẹ nhàng ôm lấy con trai rồi nhẹ nhàng nói:

- Con trai à! Chúng ta sống rồi!

Thủ Trừng vẫn nức nở gọi cha, Tồn Thành siết chặt lấy con, cảm từng tiếng thở và nước mắt của con trai. Trái tim Tồn Thành như đập dồn dập khiến chàng thở gấp gáp hơn. Anh chàng đứng bật dậy, ôm chặt lấy con, luôn miệng ghé vào tai Thủ Trừng: “Ơn trời cao, nhờ hồng phước của ông! Cha con ta được sống rồi!”

Có tiếng mở cửa, ánh sáng le lói xiên qua kẽ lá rừng rọi thẳng vào chỗ cha con họ Đỗ kia đang nằm. Một chàng thanh niên cao lêu nghêu, đôi chân thẳng tắp như hai ống tre, dáng người mảnh khảnh, đầu búi củ hành nhô cao. Thủ Trừng nức nở trong lòng cha, miệng còn vương vài giọt nước khoe với cha:

- Cha ơi! Chú này, sáng cho con ăn cháo, còn có cả quả ngon lắm.

- Anh là…

- Tôi là Do Độc, làm bổ đầu huyện Cửu Chân. Ngày qua rẽ qua nhà thăm bố cái tôi thấy cha con anh bị ong đốt bên suối nên đã đưa anh về đây.

Tồn Thành nhìn lại một lượt từ trên xuống dưới anh ta, rồi ấp úng hỏi:

- Anh là, có phải là…

- Đúng rồi. Hai người đó là cha mẹ tôi. Cha tôi là thầy lang, người ta vẫn gọi là Lý Lang Mộc. Cũng thật may cho nhà anh và cậu bé.

Dáng đứng cao lớn, mặt mày khôi ngô như tranh vẽ khiến Tồn Thành không khỏi bỡ ngỡ. Duy chỉ có đôi mày rặm giống ông lang Lý kia, Tồn Thành thắc mắc:

- Lão lang Lý và bà Lô Thị kia trông thật khác.

Do Độc rút búi hành xõa tóc, rồi cười lớn:

- Quả nhiên, quả nhiên. Ta hiểu ý anh. Ta là con cha mẹ ta. Ấy vậy mà bao nhiêu kẻ rèm pha nói này nói kia khiến cha ta chẳng thể ở lại huyện thành chữa bệnh cứu dân. Mẹ ta bị câm điếc, ấy lại mang thêm cái tiếng ấy thật là tủi hổ mà.

Tồn Thành vẫn còn lấn cấn:

- Quả thực ta cũng không thể nhận ra.

Do Độc, ngồi xuống chiếc chõng còn vương đầy bụi rừng, giọng từ tốn với Tồn Thành:

- Cha ta Lang Mộc là người có y thuật uyên thâm. Ngày trước, Bố Cái đã từng mời cha ta làm lang trung quân khi mới mười bảy tuổi. Khi Phùng An bị diệt thì cha ta về trú lánh nơi huyện nghèo châu Ái này. Mẹ ta là người phụ nữ vùng Hoan di dân để tránh cái đói lũ năm ấy gặp cha ta. Vì lòng mến mộ mà bà nguyện ở lại với cha ta. Sinh ra ta mà cả cái thành Cửu ấy không tin ta là cốt nhục của cha ta. Lớn lên mỗi ngày ta một khác, từ cái khổ người cho đến khuôn mặt ấy nên cha ta phải đóng cửa tiệm thuốc về đây. Ngày ngày rong ruổi trên chiếc xe ngựa đi khắp Ái này bốc thuốc chữa bệnh cứu người, chẳng màng gì bổng tước, tiền tài.

Tồn Thành nghe như thông lỗ tai, mắt được rửa nước thần. Giọng thảng thốt:

- Vậy ra là… Quả nhiên phi phàm. Đêm qua, ta nghe giọng ông lão sang sảng thật chẳng giống kẻ phàm. Năm nay anh bao nhiêu tuổi rồi?

- Chẳng giấu gì anh. Sang tháng ba này mới tròn đôi mươi.

- Dáng dấp thư sinh nhưng đôi mắt phượng hoàng, mày báo cọp cũng thật lạ thường. Hai chục tuổi mà đã là bổ đầu huyện Cửu Chân này, chắc hẳn không phải tầm thường.

Do Độc cười lớn:

- Anh quá khen rồi. Huyện này, quan tước luân chuyển liên tục. Kể từ ngày Mã Tống làm quan sứ Giao Châu, dăm lần bảy lượt thay đổi quan sứ, ấy là bấy lần đổi thay bọn tay sai. Tên huyện lịnh ở đây cũng là tay sai của quan sứ Tượng Cổ. Trong vùng này duy chỉ có nhà ta họ Lý. Cũng là vì mang họ Lý, có chút nghệ công nên được gọi vào nha môn. Hai năm trước ta là lính, nay mới được cất nhắc làm bổ đầu…

Hai người hàn huyên từ sáng cho đến tận trưa. Do Độc lôi bình rượu quý dưới lòng đất từ sau bếp lên, rồi bắt lấy con gà mà nướng lên thơm lừng. Hai người ngồi với nhau, bày tỏ chí khí của mình ra khiến người kia hết thảy kinh ngạc. Tồn Thành hỏi:

- Do Độc tráng trí anh hùng. Bấy lâu ta đi tìm bấy lâu mới có người hay như vậy. Tại sao anh lại làm bổ đầu mà không phải là một tướng lĩnh trong quân?

- Nói ra thì chỉ sợ anh cười. Ta vốn không quen cầm gươm giáo, lại chẳng có cái uy của kẻ cầm quân. Chỉ thấy việc bất bình trong thiên hạ mà cứu giúp, làm bổ đầu cũng có thể thể hiện cái ý nguyện của mình vậy.

Tồn Thành rốc hũ rượu vào miệng, rồi cười một cái thật lớn:

- Cái chữ bất bình nghe thật hay. Nào chúng ta cùng hết hũ rượu này. Ta xưa còn nhỏ nghe chuyện Bố Cái mà thật ngưỡng mộ. Vì dân này, vì đất này làm trai tráng đâu thể cứ mãi cúi luồn dưới cái khinh rẻ của kẻ ngoại bang, người không cùng giống dòng. Chỉ vì cái phận nhỏ, làm chài dân thiện lương mà vác tội lớn với kẻ trên mà chưa thể làm gì được. Thật đáng tủi hổ.

Hai cha con họ Đỗ quá lâu rồi không được một bữa no chứ há chi đến rượu thịt ê chề như vậy. Ấy nên Thủ Trừng ăn uống no say lăn quay ra ngủ từ lúc nào chẳng hay. Tồn Thành trong cơn say ngẫu hứng:

“Tôi anh đôi đứa chẳng quen

Bão mưa nắng gió bao phen giữa rừng

Tôi anh qua vẫn người dưng

Đói no bạo bệnh cũng mừng cũng lo

Nay đây cơm nếp làm giò

Rượu thơm gà nướng ấy cho lễ thần

Mong được cứu nước giúp dân

Hai ta nguyện ước đôi thân chẳng rời!”

Do Độc vui khôn tả xiết:

- Tồn Thành thơ hay. Nay gặp được người chí cốt, sẵn có rượu thịt đây chi bằng chúng ta kết nghĩa anh em suốt đời này. Thân trai này đâu chỉ mãi cúi đầu.

Tồn Thành mừng rỡ, ôm lấy vai Do Độc:

- Được. Ta nay hăm sáu là anh. Do Độc trẻ hơn là em. Thủ Trừng con trai ta nay gọi em là chú. Không mong như Lưu – Quan – Trương, chỉ mong chí lớn toại lòng, giúp dân cứu nước. Ly này tế trời, tế đất. Cạn ly này anh em ta mãi mãi đồng lòng.

Nói xong, hai người cùng uống cạn chum rồi ném nó lên cao rơi xuống làm cái xoảng khiến trâu lợn nghe thấy mà kinh hãi, đất rung lên, cây cối quanh nhà lá rụng tả tơi. Hai người dùng dao khía lên vai hai chữ “Huynh đệ” rồi lấy máu ấy hòa với rượu cùng cạn hết.

Ngày rằm tháng ấy, Do Độc soạn bổn lễ gồm chín hộc gạo, chín con gà sống cùng chút vàng bạc tích góp được tiến cử Tồn Thành với huyện lịnh. Tên huyện lịnh họ Lý nhận Tồn Thành làm nha môn tướng. Do tính tình thẳng thắn mà lại dễ nóng giận, Tồn Thành không ít lần khiến tên huyện lịnh mất lòng nên Tồn Thành bị đám quan lại ở huyện Cửu Chân xa lánh. Ngày ngày người người qua lại chỗ Do Độc nhưng hễ đến cả tuần chỉ có vài tên lính đến báo tin qua nhà Tồn Thành.

Thấy điều không hay nên Tồn Thành bàn với Do Độc rằng:

- Này em trai. Chúng ta cứ như thế này ta e không được rồi. Em ở đây có quen có biết, mọi người còn hay qua. Còn ta thì ngày ngày luyện võ cho mấy trăm tên lính xong rồi lại về nhà, chẳng giao du được với ai. Như vậy có hơi hoài nhãng quá không?

Do Độc thương Tồn Thành lại nói:

- Anh à. Em đây cũng chẳng giấu gì. Ngày ngày kẻ qua, người lại qua chỗ em cũng chỉ toàn là những kẻ chẳng ra gì. Kẻ mở cửa hàng, người chốn tửu lầu, hạng cờ bạc, chủ nợ, đám quan lại cậy nhờ. Em còn trẻ, chẳng biết giải quyết sao. Huyện lịnh thì lại ỉ hết việc cho đám dưới chúng ta, chỉ ngồi một chỗ chờ đợi những kẻ ấy dâng biếu chút bạc hư. Nay anh có ý gì hay không?

Tồn Thành đắn đo:

- Ta vào đây cũng đã được ba tuần trăng rồi. Tên huyện lịnh này chẳng khác gì tên họ Lý ngày trước ở Yên Hưng, có ngày rồi ta cũng bị đè đầu mà chết như dân Đỗ Gia Trang. Chẳng thể như thế này mãi được em ạ. Hay là ngày mai chúng ta bái biệt song thân phụ mẫu rồi đến Nhật Nam tìm Đỗ Thứ sử để nương nhờ chờ thời cơ cứu dân giúp nước.

Do Độc chẳng lấy một nghi ngại, gật đầu đồng ý ngay. Sớm hôm sau, chẳng để lại một lời hai người rời khỏi nha môn huyện Cửu Chân đi về phía tây – huyện Nhật Nam để nương nhờ họ Đỗ. Thật không may, vừa đến nơi thì Đỗ Thứ sử đã bệnh nặng. Tồn Thành nhận là người con họ Đỗ đến thăm hỏi, bước vào phủ nơi Đỗ Thứ sử đương nằm chỉ thấy thoi thóp một người đang nằm trên giường, bên cạnh hông vạt áo kéo lên làm lộ ra hình xăm Long ngư. Chưa kịp nói lời nào thì tiếng khóc cất lên xe lòng từ giọng mấy người phụ nữ:

- Ông ơi! Xin đừng bỏ tôi đi! Cha ơi! Cha ơi!

Đâu đó từ phía cửa phủ vào là đám quan lại, vào phủ phục dưới trướng, giọng dứt lên từng cơn:

- Ối ơi là hỡi ơi. Đại nhân ơi! Đại nhân. Đại nhân ra đi bỏ lại đây Ái Châu dân khổ lầm than. Tấm gương soi sáng cho bọn quan chúng tôi. Người sao đã vội vàng đi như vậy?

Thấy vậy, Tồn Thành xin lui.

Cả thành Nhật Nam khi ấy tang thương, tấp nập toàn là xe ngựa phủ vải trắng. Do Độc và Tồn Thành phải nằm nghỉ nơi chuồng ngựa vì chẳng có lấy một quán trọ và nhà dân nào còn dư dả chỗ. Nào đám quan lại các huyện, nào là nha môn, tướng soái khắp Ái Châu này về tá túc để thăm viếng. Rồi cả những kẻ làm ăn, những chủ quán rượu, sòng bạc, thanh lâu nổi tiếng khắp Ái Châu này cũng đoàn đoàn xe xe liểng kiểng nào là rượu, là vàng bạc, vải trắng phủ đầy xếp hàng dài từ ba phía Cổng thành Nhật Nam.

Tồn Thành chỉ dám dâng nén nhang từ xa bái lạy viên Thứ sử xấu số kia. Tồn Thành bàn với Do Độc:

- Nay trời xanh đã ngả vàng nâu. Hai chúng ta tá túc lại vài ngày rồi chờ bái kiến tân Thứ sử vậy.

Hai người ngậm ngùi rồi bàn với nhau thì Thủ Trừng từ đâu chạy tới hát bài vè:

“Ve vẻ vè vè ve

Cái vè Châu Ái

Ái thê thì sái

Nam phái suy tàn

Cả thảy một bàn

Toàn là nữ nhân

Cái chết kệ gần

Nhường phần cho ai

Rể phần tướng soái

Bĩ cực nhân tài

Ghế để cho ai

Châu Ái ái châu.”

Nghe làm lạ, Tồn Thành bịt miệng cậu bé lại. Giọng nghiêm khắc:

- Con im lặng ngay. Con nghe được bài đó ở đâu?

- Dạ, đám trẻ con trong thành đứa nào cũng hát thế nên con hát theo thôi cha.

Do Độc nói với Tồn Thành:

- Ngày trước em có nghe nói Đỗ Thứ sử không có con trai. Các tướng soái, cận hầu đều là con rể và đám con cháu Thất trắc phu nhân Mã Thị. Mã Thị này có chút gọi là dữ dằn nhưng chẳng thể như Lã Hậu hay Võ Hậu. Phen này, sẽ có loạn lớn rồi.

Y lời Do Độc nói, một tháng sau khi Đỗ Thứ sử qua đời, các con rể của Đỗ thứ sử thi nhau bành trướng từ các phiên trấn thành trì của mình tranh giành đất đai. Ở Giao Châu khi ấy chẳng có chút động tĩnh nào để dẹp loạn ở Ái Châu. Tồn Thành nói với Do Độc:

- Quá tháng rồi. Ái Châu này đất nhỏ hẹp, thành trì không nhiều. Đất không chủ, các phiên trấn giành giật nhau từng chút đất. Trời chẳng thương nên ta mới em mới thế này. Ngày qua ta đi nghe ngóng thì đám quân Cửu Chân đang cát cứ ngay phía Đông thành Nhật Nam. Ở đó, quân lính ngày trước ta và em rèn vẫn là những người đó. Nay ta về liệu có được hay chăng?

Do Độc do dự:

- Thôi cực chẳng đã. Phen này gắng công lớn mà lập thân.

Nói xong, Do Độc tốc mã chạy ra ngoài thành chạy về phía Đông nơi quân Cửu Chân đang đóng dâng lên diệu kế chiếm lấy Nhật Nam. Con rể thứ hai của Đỗ Thứ sử là Đoàn Uyển cầm đầu cánh quân tiếp nhận ngay Do Độc và lệnh cho Tồn Thành trong ứng ngoài hợp chiếm lấy Nhật Nam.

Hai ngày sau, Tồn Thành và đám huynh đệ gây loạn trong thành. Trong lúc đang giải quyết Tồn Thành, nhân quan giữ thành không để ý Do Độc cùng năm trăm lính xông thẳng vào thành, bắt giết viên quan giữ thành. Lúc bấy giờ, đoàn quân của Đoàn Uyển từ phía sau khoảng năm nghìn tướng sĩ hừng hực chạy vào thành giết chết Mã Thị và hai người em rể. Đoàn Uyển tạm quyền nắm giữ toàn bộ Ái Châu. Các phiên trấn khác đều dâng thư hàng. Ái Châu được toàn vẹn về tay Uyển.

Bấy giờ, Tồn Thành và Do Độc được nắm quyền binh Nhật Nam và Cửu Chân. Tồn Thành bàn với Uyển: “Nay Ái Châu đã quy một mối. Chỉ là cái họa Giao Châu đang đợi ngài đó.”

Uyển nghĩ một hồi thì hỏi Thành: “Ý ngươi là quan sứ Tượng Cổ?”

Thành đáp: “Đúng rồi đấy.”

Uyển vẫn chưa thông thoáng đầu óc thì Thành tiếp lời:

“Đại nhân xem. Trước Đỗ Thứ sử lập công hiển hách nên được giao đất này. Phía Đỗ thứ sử đất Trường Châu, Dương thứ sử Hoan Châu, Vương thứ sử Phong Châu đều giành đất mà xưng nhưng đều được các quan sứ thừa nhận chỉ sau có một vài tuần, chậm trễ thì cũng chỉ một tháng. Bây giờ ngài giành đất này đã bấy lâu mà không được Tống Bình thừa nhận há chẳng phải là cái gai trong mắt ấy sao.”

Uyển tỏ ra lo lắng, rồi hỏi ý kiến Thành:

- Thế ngươi có mưu gì hay chăng?

- Mưu thì Thành tôi chẳng có, chỉ có kế hèn này xin đại nhân xem xét.

Uyển sốt sắng:

- Được. Nhà ngươi nói xem.

- Phía bắc Giao Châu, đất hiểm trở là đất người man, thượng nguồn dòng Cái, dòng Đà là đất người Nam Chiếu. Phía tây Tống Bình là khoảng đồng bằng mênh mông, qua sông Mã là đất của Ai Lao. Những đất ấy xưa nay không hề ưa các đời quan sứ. Nay Nam Chiếu hùng mạnh lấy đất Thục của vua Đường. Dân Man chiếm đến đất Quang, Chiêm châu Phong. Chi bằng ta sai sứ đến người người man thuyết phục họ cùng ta đánh Tống Bình, các Châu khác chỉ có Ái Châu ta là cận kệ Tống Bình nhất. Phía nam ta là đất Hoan, thứ sử nơi ấy cũng là dòng tông đất Nam ta. Ta thử viết thư thăm dò xem thế nào.

Uyển ưng lời Thành lắm liền cho người sai sứ đến đất Phong để khích dân man xuôi sông Đà, sông Cái về Tống Bình. Chuẩn bị quân lực được ba tháng thì quân man động đã chiếm toàn bộ Phong Châu, các cơ mi xung quanh Tống Bình và cả đất Đường Lâm cửa ngõ Tây Bắc Tống Bình. Các quân lính từ vùng Ái do Tồn Thành và Do Độc thống lĩnh đã chuẩn bị kỹ càng chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn.

Lúc bấy giờ tại Tống Bình, trong lúc bộn bề, Tượng Cổ mới nhận ra là dưới trướng hắn còn có một vị tướng dũng mãnh người Việt họ Dương tên Thanh. Dương Thanh dòng dõi hào trưởng, từng là thứ sử Hoan Châu. Nhưng Tượng Cổ rất e ngại người này vì giữa Tượng Cổ và họ Dương vốn đã hiềm khích từ trước. Nay trong lúc gian nguy, hắn cũng chỉ còn trông chờ vào họ Dương.

Dương Thanh là tông thất chính dòng của họ Dương, nhiều đời làm thứ sử tại Hoan Châu. Sinh ra và lớn lên trong gia đình quyền cao chức trọng nhưng tính tình ông rộng rãi hào sảng lại kết giao với rất nhiều bạn bè ở khắp nơi, chẳng kể giàu nghèo. Chỉ cần nghe danh ông thì bọn tù trưởng man tộc, các tướng lĩnh, bổ đầu suốt dải đất từ Lâm Ấp đến tận Ái Châu đều kính nể. Tính tình họ Dương thẳng thắn và bộc trực nhưng rất nóng tính. Có lần có một huyện lệnh dâng biếu lễ vật, ông hỏi:

- Năm nay ta thấy dân ở huyện các ngươi thiếu đói vì hạn hán, há sao lại dâng nhiều lễ vật cho ta vậy?

Tên huyện lệnh này lẻo mép thưa rằng:

- Bẩm quan trên, quan cũng như phụ mẫu vậy. Con cái có hiếu dù có ăn khoai sắn cũng để phần cho cha mẹ miếng thịt ngon.

Nói chưa dứt lời, thứ sử họ Dương nổi đùng đùng kéo hắn ra đánh trăm trượng, rồi tước bỏ áo mũ cho hắn về quê và lập tức sai người bán hết chỗ lễ vật ấy mua gạo cứu đói cho dân. Làm thứ sử, họ Dương được lòng dân chúng và trong quân, ông cũng thể hiện được cái uy dũng của mình trong từng trận chiến.

Trong trận chiến với quân Lâm Ấp, Hoàn Vương dưới thời quan đô hộ Triệu Xương, một mình họ Dương xông thẳng xào huyệt của địch bắt sống dăm chục tướng, đứng trên núi Ngự phóng tiễn thiêu trụi cả một quân doanh, ông cùng quân Hoan Châu đánh đuổi cả chục vạn giặc chạy thẳng vào vùng đất của người Chăm phía nam dãy Bạch Mã. Những chiến công hiển hách ấy càng làm cho bọn triều đình phương Bắc càng thêm lo sợ. Dân chúng cả vùng Phúc Lộc, Diễn, Hoan ai nấy đều tuân theo luật pháp Dương thứ sử đề ra.

Dương thứ sử khéo khoan sức dân, nhiều lần dâng biểu quan đô hộ xin giảm nộp thuế, sưu do thiên tai, hán hạn. Ông thưa với các quan đô hộ rằng: “Vùng biên ải như Vũ Lộc, Diễn, Hoan đầu năm nắng hạn, cuối năm lũ lụt. Phía tây là Cao nguyên Ai Lao, phía nam là Hoàn Vương Lâm Ấp, phía đông lũ giặc biển Chà Và quấy nhiễu, dân chúng đói khát khắp nơi thấy mà thương mà tội. Vừa trải qua cuộc chiến đẫm máu, cây chưa mọc được lên do máu người còn vương, sức người còn chưa kịp hồi. Nay dâng biểu sớ kính quan trên thấu cho nỗi khổ dân tình, thư sức dân mà miễn thuế, sưu cho dân chúng các Châu Vũ Lộc, Diễn, Hoan trong vòng ba năm. Năm năm giảm sưu, giảm thuế, đến khi dân đã đủ ấm mặc, cơm đủ nuôi binh thì lúc ấy triều đình không cần nhắc nhở, là thứ sử Hoan Châu, ta cũng tự nguyện cống nộp cho triều đình đầy đủ.”

Cho đến đời quan đô hộ là Bùi Hành Lập, hắn thấy dị vật phong phú, sản vật phì nhiêu hắn liền bắt Dương thứ sử cống nộp nhưng ông đã nhiều lần từ chối. Không thể làm gì được, Bùi Hành Lập ấm ức trong lòng, dặn bọn quan lại ở Tống Bình rằng: “Sắp tới đây Lý Tượng Cổ là tông thất hoàng gia, các ngươi cố gắng giúp ông ta trị tên thứ sử châu Hoan ấy. Tiếng hoàng gia tông thất ấy mới có thể “dạy bảo” được người ấy. Ta đã lập sớ cho triều đình phong hắn làm thượng tướng thống lĩnh hai vạn binh Giao Châu này. Nhưng thực chất là chỉ để dụ hắn về Tống Bình để dễ bề kiểm soát. Ta nay về kinh nhận chức mới, các ngươi hãy cứ an tâm phò trợ Tượng Cổ, sau này rồi ta sẽ cất nhắc các ngươi.”

Ấy nhưng đến khi Tượng Cổ phụng mệnh đến Tống Bình, Dương Thanh năm lần từ chối yết kiến, hai năm không cống lấy một lạng thóc, hay một tấc vải nào. Tượng Cổ lại không nghe lời bọn Bùi Hành Lập, hắn sợ rằng Dương thứ sử có trong tay trọng binh thì càng khó có thể kiểm soát được ông ta. Nhưng rồi có tên huyện lịnh năm nào bị Dương Thanh đánh thị cáo vì tội đút lót quan trên đến chầu kiến Tượng Cổ mà thưa rằng:

- Bẩm lạy quan trên. Con trước đây huyện lịnh huyện Hoài Hoan, đang lúc mùa màng tốt tươi, dân chài kéo cá đầy ắp các thuyền, con quan bé cũng chỉ dám tuân mệnh vua nào có lòng khác. Thuế sưu con nộp đủ đầy, ấy vậy mà hắn kêu con là sao lại nộp ít vậy, dân no kềnh bụng, quân sĩ say sưa sức đâu mà đánh giặc làm ăn. Rồi hắn biển thủ quân lương, thuế sưu châu ấy, khiến quan các vị quan đô hộ trước đâu có thu được cắc nào đâu. Hắn kêu nuôi dân, dưỡng binh ấy nhưng mà ai mà hiểu được hắn ta làm gì.

Tượng Cổ quát tháo:

- Nhà ngươi nói láo. Ta còn lạ gì nhà ngươi. Bay đâu mang ra chém.

Nói rồi một đám áo khăn lếch thếch, trong áo lụa, ngoài quấn khăn kín đầu quỳ lậy bên ngoài phủ đô hộ mà lớn tiếng rằng:

- Mong quan lớn minh xét. Khai ân cho Thừa huyện lịnh.

Thấy láo nháo, bọn lính ra lôi tất cả bọn chúng vào phủ mà tra hỏi. Tượng Cổ hỏi:

- Các ngươi là ai, sao lại xin tha tội cho hắn?

Một tên lắp bắp, đầu gối lê tới gần:

- Bẩm quan đô hộ, bọn tội dân chúng con đây trước là quan huyện lịnh, hương trưởng vùng Hoan, Ái, từ khi họ Dương kia làm thứ sử, hắn kiêu ngạo ganh ghét tụi con nên hắn đuổi quan, cắt hết lương bổng. Bọn con phải khổ sở lắm mới ra được Tống Bình, chờ ngày quan lớn đến đây.

Có tên Liễu tá ghé tai Tượng Cổ thì thầm: “Bọn này xưa bị Bùi đại nhân xua đuổi, nhưng tiểu nhân thấy rằng, để trị được họ Dương ta cũng có thể dùng đến bọn này đại nhân ạ. Theo ngu ý của tiểu nhân, ta cứ phong cho bọn này làm giám quân ở Tống Bình nhưng không giao thực quyền cho bọn chúng. Rồi ta xin mệnh vua ban để dụ họ Dương về Tống Bình mà lợi dụng bọn này trừ khử hắn. Cứ kế ấy mà làm, tiểu nhân dám chắc họ Dương sẽ trong sự kiểm soát của ta.”

Tượng Cổ gật gù và nói với bọn đang quỳ dưới trướng rằng:

- Các ngươi quả nhiên vô tội, nghe các ngươi kể mà ta đã hiểu được họ Dương ấy. Thôi được, ta sẽ sớm phục quan cho các ngươi nhưng có điều họ Dương đang giữ đất ở những chỗ ấy, ta sẽ tạm thời thu nạp các người làm giám binh. Sau này tùy theo công lao mà được thăng chức, nhận lương hưởng.

Bọn quỳ lạy dưới trướng đồng quỳ gối xuống mà lạy:

- Đội ơn quan lớn.

Sau đêm ấy, Tượng Cổ cho người ngày đêm phi ngựa về Trường An dâng biểu xin thánh chỉ phong cho Dương thứ sử làm tướng Giao Châu. Vốn là dòng dõi tông thất nhà Đường nên chỉ trong vòng một tháng, họ Lý đã có được thánh chỉ trong tay và lập tức đi triệu hồi Dương Thanh về Tống Bình. Lý Tượng Cổ còn mang đoàn rước kiệu long trọng đến Hoan Châu, hắn cũng đích thân dẫn chỉ tới hòng thể hiện sự tôn trọng đối với Dương Thanh để Dương thứ sử mềm lòng.

Được tin báo, Dương Thanh mở cổng thành nghênh tiếp, hai bên là hai hàng lính nghiêm trang, cổng thành thênh thang chỉ có lính mang cờ thêu chữ Dương lớn đứng suốt dọc hai bên dài đến cả dặm đường. Họ Dương ra tiếp đón quan thứ sử và thánh chỉ cách cổng Bắc của thành mười dặm và có khoảng hai trăm lính áo vải, đầu quấn khăn đỏ theo sau. Dương Thanh dáng người to lớn, mình cao bảy trượng năm tấc, mày quăn như mày rồng, đôi mắt tựa cọp uy nghi, tay cầm cây thương dài tám trượng. Mỗi lần Dương thứ sử múa thương ánh bạc chói lòa, thương lao vun vút như tên bắn, uy lực vô cùng. Cây thương khắc dòng chữ nổi: “Nam thiên anh hùng tướng” đỏ rực, sau lưng mang cờ thêu dòng chữ nét tựa rồng cuốn: “Thanh thiên Dương tướng”. Mỗi bước đi của thứ sử nặng tựa cột lim, rầm rầm như vạn lính đang cùng bước. Giọng nói vang vang sấm rền, thứ sử mang trên mình chiếc giáp bằng gỗ nghiến, đầu quấn khăn màu đỏ thẫm, cưỡi trên con huyết mã oai nghiêm dữ dằn khiến cho Tượng Cổ cảm thấy trong mình nóng ran, trời mùa xuân nhưng mồ hôi đẫm áo. Tới cổng thành, Dương Thanh xuống ngựa, cả đoàn binh quỳ sụp xuống nghe thánh chỉ phong Dương Thanh làm An Nam đô hộ thượng tướng, nắm giữ hai vạn binh Giao Châu, Phong Châu, Phúc Lộc Châu, Trường Châu và được quyền dùng binh các châu Hoan, Ái, Vũ Lục. Dương Thanh cúi đầu nhận thánh ân. Dương Thanh liền lên ngựa và cầm thánh chỉ, cây thương vung lên ánh sáng chói lòa, khiến Tượng Cố và đám tùy tùng kinh hãi, đám lính hô vang:

- Nam thiên anh hùng tướng! Nam thiên anh hùng tướng!

Giọng Dương thanh uy vang, chiếc cung giương lên và một mũi tên trúng một con Đại bàng đang bay từ phương bắc về phía nam. Bọn chim chóc ở rừng cây phía xa nghe tiếng hô dũng mãnh của Dương Thanh mà cất cánh bay từng đàn, từng đàn, nháo nhác bay về phương Bắc.

Tượng Cổ hãi hùng, chỉ dám nhìn về phía rừng ấy qua rèm cửa xe mã trượng. Họ Dương mời Tượng Cổ ở lại vài hôm để rồi theo quan đô hộ về Tống Bình. Bấy giờ, một vị nho sĩ dưới trướng Dương Thanh bàn với Dương Thanh rằng:

- Chủ tướng rời Hoan Châu về Tống Bình e rằng điều không phải? Thứ nhất, quân sĩ Tống Bình là lính Bắc phương. Thứ hai, Hoan Châu không chủ dễ sinh loạn. Thứ ba, họ Lý này e là không có ý tốt với ta. Xin chủ tướng xoi xét.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Ngươi đúng là kẻ nho sĩ nhát gan. Nhà ngươi lo lắng quá rồi. Ta đường đường thứ sử một châu, nay lại có thánh lệnh, binh quyền. Sợ chi lũ đầu voi đuôi chuột. Nhà ngươi nói cũng có lý nhưng trong đầu ta đã có cách để xử trí chuyện này.

Nói xong, Dương Thanh đặt một quân cờ khiến vị nho sĩ ngỡ ngàng và vuốt râu cười lớn:

- Chủ tướng quả là cao cờ. Tại hạ chỉ cần một nước nữa là thắng nhưng chủ tướng chỉ cần một quân cờ ấy đã lật ngược ván cờ. Đại nhân quả là cao tay. Tiểu nho xin bái phục.

Một tháng sau, Dương Thanh mang thánh chỉ cùng con trai thứ Chí Trinh, đám tùy tùng dăm chục người trong gia đình, lũ gia nhân đến Tống Bình nhậm chức và để con trai lớn Dương Chí Liệt ở lại châu Hoan chờ lệnh. Đoàn người của Dương Thanh suốt dọc đường từ phủ thành Châu Hoan đến Giao Châu đều được dân ở những nơi đó đón tiếp nồng hậu. Chẳng thế mà Dương thứ sử cũng rất cởi mở đón nhận lòng thành của mọi người và hứa rằng sẽ giúp mọi người sẽ không bớt đi nỗi lo sưu thuế, gian tham. Đến trị sở Tống Bình, Dương Thanh lập tức chỉnh tề quân ngũ. Dù là bọn lính phương Bắc nhưng cũng đã đồn trú rất lâu năm ở nơi này cho nên nhiều người đã lấy vợ Giao Châu, xác định bám lại đất của người Nam này. Nhờ thế, Dương tướng quân cũng sớm thu phục được lòng binh. Người xa thì cho về quê dăm ba tháng, người gần thì cho phục dịch tại gia trong lúc đương hòa chiến sự nhưng lúc nào quân doanh cũng ngăn nắp chỉnh tề. Nghe ngóng tình hình chuyển biến không được như ý muốn, Dương Thanh kết giao với đám quan lại và tướng sĩ trong thành trong thành khiến Tượng Cổ càng thêm chướng mắt với bọn quan lại ở Giao Châu, Tượng Cổ bắt đầu trở mặt.

Tháng hai mùa xuân năm Kỷ hợi (819), Tượng Cổ yêu cầu Dương Thanh hội đủ hai vạn rưỡi quân để trực chiến. Dương Thanh hồi đáp rằng: “Hiện nay, chiến sự hòa bình, suốt dọc Vũ Lục, Hoan, Ái dân tình yên ổn, bọn Cao Miên, Chà Và, Lâm Ấp không còn quấy nhiễu; khắp các châu cơ mi, các tù trưởng, hào trưởng đều một lòng hướng về Giao Châu nên bọn Nam Chiếu cũng chẳng lấn tới đất ta. Hiện tại tiểu tướng chỉ cần một vạn quân là đủ. Số còn lại cho về quê thăm nhà, làm nông để nuôi dưỡng sức quân. Há chẳng phải kế hay. Nửa năm nữa, binh đông, lương đủ sức quân dào dào như thác đổ, ấy thì sợ giặc nào.”

Bọn giám quân Giao Châu thì liên tục báo với Tượng Cổ rằng: “Dương Thanh đem lòng phản nên mới lấy lòng binh, rồi đuổi khéo bọn lính bắc về quê, còn lại là lính người nam không thì cũng lấy vợ nam, hắn xua đi ra khỏi Tống Bình để chiêu binh bãi mã cho hắn chờ thời cơ để phản. Lại thêm bọn Chí Liệt ở Hoan, Ái không thể xem thường được.”

Nhiều lần nghe lời rèm pha của bọn giám quân vốn ganh ghét họ Dương, cũng phần vì lo sợ Dương Thanh nắm binh quyền có thể làm loạn. Tượng Cổ lập tức thu binh quyền và chỉ cho Dương Thanh giữ chức mà không có thực quyền. Họ Lý còn bắt Dương Chí Liệt trở về Tống Bình và sai người đến làm thứ sử ở Hoan Châu. Họ Dương cũng không hề có phản ứng gì và ngày đêm thao luyện binh mã.

Tháng ba mùa xuân năm ấy, Dương Thanh đánh thắng quân Chà Và xâm lấn vùng biển Ái Châu, Hoan Châu. Ở Giao Châu, có người lại mách với Tượng Cổ rằng Dương Thanh cố tình đi dẹp giặc ở Ái Châu rồi ở luôn đó có ý định nuôi binh làm phản. Lại có kẻ rèm pha rằng, Dương Thanh để Chí Trinh nắm binh mã trong thành, Dương Thanh ở bên ngoài, trong ứng ngoài hợp để cướp lấy La Thành, lúc ấy quan đô hộ có là thánh thần cũng chẳng thể chở tay. Nghe vậy, Tượng Cổ ngày đêm cho lính bao vây phủ tướng quân, luôn kè kè bên Chí Trinh là một đám lính thân cận của Tượng Cổ, mọi hành động của Chí Trinh đều được những tên này bẩm báo lại với Lý đô hộ.

Tượng Cổ rút hết binh quyền họ Dương, rồi lại sai Dương Thanh đóng quân ở bãi Quần Thần phía nam La Thành, chỉ khi có việc hắn mới gọi Dương Thanh vào. Chí Trinh bấy giờ thấy căm phẫn lắm, anh nói với cha rằng: “Thưa cha. Họ Lý này càng ngày càng không coi chúng ta ra gì. Hắn nhiều lần bắt ép chúng ta làm theo hắn, rồi hắn còn đuổi chúng ta ra cái nơi này, trong tay thì chẳng có binh quyền.”

Dương Thanh không nói lời gì, và ông lại đi một nước cờ khiến cho Chí Trinh ngỡ ngàng, không kịp phản ứng và phải chịu thua. Dương Thanh bình thản mà đáp rằng: “Thời cơ sắp tới rồi con trai.”

Mùa hạ năm Kỷ Hợi (819), nước sông Cái lên cao, họ Dương sai lính đắp đê cao, đào sông dẫn đến các nơi đồng cạn, chăm lo việc dân tình vùng Giao Châu. Bọn Tượng Cổ thì chỉ lo vui chơi ăn uống linh đình trong thành. Buổi chúc thọ của Tượng Cổ, Dương Thanh và một viên Đô áp nha cáo ốm không đến dự buổi chúc thọ của y. Tượng Cổ lấy lòng căm giận lắm, bọn Liễu tá, giám quân lại bày cho kế rằng: “Đại nhân đích thân mang rượu ngon đến nhà hắn mà thăm ốm. Nhân đó rồi trừ khử hắn.”

Thấy thuận tai, Tượng Cổ lập tức cho người ban rượu cho Dương tướng quân, đêm ấy hắn còn đến tận phủ tướng họ Dương để thăm hỏi. Nửa đêm canh ba, hắn cho sục sạo cả La Thành, lính tráng hội đủ phủ tướng quân. Hắn bước vào phủ rồi hẹm giọng:

- Ta nghe nói Dương tướng quân bị ốm, nay đến thăm và tặng thuốc quý, rượu ngon cho tướng quân đây.

Dương Thanh đang luyện võ ở hậu viên vội vàng cởi bỏ mũ áo, giáo gươm về nằm trên giường giả bệnh. Dương thanh sai một tên hầu cận ra tiếp đón quan đô hộ. Tên này thưa với Tượng Cổ:

- Bẩm quan lớn. Tướng quân nhà chúng con ốm mệt suốt hai ngày nay. Hiện đang nằm trong giường, bệnh không thể ra ngoài đây đón tiếp. Mong quan lớn lượng thứ cho. Chủ nhân con cũng xin được mời quan lớn vào trong ấy.

Tượng Cổ lập tức cho người mang thuốc và rượu vào trong. Tượng Cổ gọi Dương Thanh vài lần nhưng không thấy thưa, hắn nghĩ rằng Dương Thanh ốm mệt nên không thể dậy được. Hắn tỉ tê: “Dương Thanh à, nhà ngươi mà có mệnh hệ gì thì An Nam này biết tính thế nào? Bọn Cao Miên, Nam Chiếu đang nhăm nhe, nhà ngươi hãy sớm lành bệnh mà lo cho bách tính An Nam.”

Dương Thanh không động tĩnh gì, Tượng Cổ ra hiệu lệnh để mang thuốc bổ và rượu ngon vào trong. Bỗng xuất hiện một cô gái tuổi ngoài đôi mươi xinh đẹp tựa cô tiên tay bưng chén thuốc đi qua họ Lý. Hắn ngẩn ngơ nhìn cô ấy, gương mặt thanh tao, lông mày lá liễu, hai mắt buồn, khuôn mặt thanh tú, lại thêm nước da trắng ngần e lệ trước họ Lý. Hắn cứ bần thần như lạc vào trong cõi mơ. Hắn giật mình khi Dương Thanh trở người quay mặt về phía Tưởng Cổ, mắt trợn trừng trừng. Tượng Cổ sợ hãi, ngã ra phía sau. Hắn lùi lại và chạy thẳng về phía cửa căn phòng. Một tên lính bất cẩn làm vỡ cái niêu gà tần, hắn sợ tái mét mặt. Tượng Cổ ra lệnh cho bọn lâu nhâu, giọng sợ hãi:

- Về phủ, về phủ ngay.

Dương Thanh, ngồi dậy cười lớn. Có tên gia nô đến bẩm báo:

- Bẩm ông. Cái niêu gà tần vừa rơi, con chó nhà ta ăn phải, chẳng may nó lăn ra sùi bọt mép rồi chết.

Dương Thanh sai người đổ hết những thứ ấy đi và mang hũ rượu ấy ban cho bọn giám quân. Lũ giám quân sợ hãi nghe thấy vậy kẻ thì liều mình uống, kẻ thì sợ hãi chạy trốn khỏi Giao Châu. Bấy giờ, bọn trẻ nhỏ ở Giao Châu hát vè rằng:

“Ve vẻ vè ve

Cái vè quan hớn

Quan thì rất lớn

Tướng thì ốm o

Có chút quà cho

Bụng no quà biếu

Tướng quân thì thiếu

Chẳng biếu thứ gì

Lại được dân di

Quan đi đến phủ

Dao găm thủ áo

Báo cáo sự tình

Bọn lính bưng rượu

Định liệu ra tay

Ai ngờ ngủ say

Trở tay trở gối

Mắt thì thô lố

Làm bố quan e

Ấy rồi ù té

Quan lớn tè quần.

Ve vẻ vè ve.”

Sau khi Tượng cổ rời khỏi phủ, Dương Thanh lập tức cho người mang bình rượu quý thưởng cho giám quân phía nam thành. Một lát sau có một tên lính quay lại phủ bẩm báo rằng:

- Bẩm Đại nhân, có hai tên giám quân sau khi uống rượu đã phun máu ra chết ngay tại chỗ. Hiện một đám giám quân khác thấy vậy đã bỏ trốn. Còn lại chỉ còn vài tên thôi ạ.

Dương Thanh tức tốc đến phía nam thành, Dương Thanh quát lớn:

- Kẻ nào đã cho độc vào rượu này?

Nói xong Dương Thanh đập vỡ tan hũ rượu mà khóc lớn: “Ơi các vong linh huynh đệ, thật là tội nghiệp cho các ngươi. Ta thề ta sẽ trả thù cho các ngươi!”

Bọn giám quân, lính tráng lùi ra xa, rượu từ hũ vỡ chảy đến đâu, mặt đất sùi lên những bọt trắng, một chốc đám có xanh đã thành đám cỏ đen úa. Dương Thanh sai người chôn cất chu đáo hai tên giám quân. Dương Thanh rút gươm nói lớn:

- Ta sẽ báo thù cho các huynh đệ. Các người trung thành với ta nghĩa là trung thành với đất An Nam, với triều đình thì sẽ chẳng sợ thiếu cơm ăn, áo mặc. Gia đình các người cũng chẳng sợ bị kẻ nào hăm dọa.

Bọn giám quân co rúm người rồi vội quỳ sạp người xuống mà sợ hãi:

- Chúng tôi xin… xin một lòng theo… theo … theo tướng quân.

Dương Thanh hét lớn:

- Bắt hết những kẻ đã chạy trốn cho ta. Người sống thì phải thấy người, kẻ chết thì phải thấy đầu.

Xong rồi thanh gươm cắm lặm xuống đất. Có tên giám quân sợ quá mà tiện ngay trong quần, tên thì xỉu ngay tại chỗ. Dương Thanh lên ngựa cười lớn rồi vượt sông chạy thẳng về phía thành Luy Lâu, phía đông trị sở Tống Bình. Trong đêm khuya vắng lặng chẳng lấy một bóng người, Dương Thanh dắt ngựa đứng trên gò đất cao nhìn xa xăm có thứ ánh sáng lập lòe bờ phía đông sông Cái, giọng hát nỉ non:

“Người về tôi chẳng có ai.

Đây tôi chỉ có bờ vai anh hùng.

Đêm khuya lạnh lẽo sang sông

Gặp người quân tử bóng hồng trao duyên

Người ơi hễ có lên thuyền

Trao tôi thanh kiếm rồi quên chiến trường…”

Vị tướng đang đắm chìm trong câu hát nghiêng đưa theo mái chèo thì bỗng có tiếng gọi da diết từ phía lòng sông:

- Này vị tướng quân kia ơi. Trời canh ba sao còn đứng đấy! Kẻ anh hùng lo chi việc cơm áo. Sẽ có người giúp tướng chủ vượt nan. Xuống đây nghe một tiếng đàn, hễ sông có động thì bàn việc quân.

Dương Thanh quăng ánh mắt xuống làn nước còn đang nuốt ánh trăng khuya, huyết mã hý cao một tiếng rồi chạy thẳng về phía sông sâu. Dương Thanh ngại ngần bước tới bến sông. Ngựa huyết mã nhảy chồm lên đứng cạnh mạn thuyền nhìn Dương Thanh như ý muốn tướng chủ lên cùng. Có một lão râu tóc lơ thơ nhưng chẳng lấy một sợi bạc, người lùn chừng năm thước, tay bắp cuộn, chân vững trãi như hai cột đình, mình rùa đội chiếc nón lá xạm màu vì nắng, tay nắm chắc mái chèo tựa người tướng quân cầm mác trên tay, giọng sang sảng:

- Vị tướng quân này muốn sang sông nhưng sao còn chưa chịu lên thuyền?

- Phải, nhưng sao lão biết ta muốn sang sông?

- Bọn chúng tôi quanh năm sông nước chở những chuyển đò, có chi mà không hiểu người khách. Ngựa của ngài chính là dẫn đường, chủ có muốn đi thì ngựa ắt mới đi.

Dương Thanh cho là phải rồi trò chuyện với ông lão mà ngủ quên lúc nào chẳng hay. Có tiếng vó ngựa huỳnh huỵch nền nã trong tai, Dương Thanh tỉnh dậy, người vị tướng ê mỏi, toàn thân ướt sũng mồ hôi, huyết mã vẫn đứng nhởn nhơ gặm chút cỏ non còn đang vương chút sương đêm. Rồi có tiếng người chạy lại bụi tre phía bến sông. Bóng đen núp yên lặng, Dương Thanh ra hiệu cho huyết mã im lặng, vị tướng tiến từng bước nhẹ ra bờ sông rồi vòng qua bụi tre. Bọn lính tráng lùng sục khắp bến đò, ông lái đò ban nãy lúc canh hai đưa họ Dương sang sông cũng không còn ở đó, chỉ còn hai tên phu gầy còm đang ăn bữa đêm với hai củ khoai nướng nhem nhuốc. Hai tên phu ậm ư ậm ừ, mấy tên lính gắt lớn:

- Các ngươi có khai không thì bảo! Hoặc là các ngươi sẽ phải chết.

Một tên phu quỳ xuống van lài:

- Mong các Đại nhân tha cho hai anh em chúng con. Từ canh hai đến giờ bọn con chưa chở được chuyến đò nào cũng không thấy người nào gọi đò cả.

- Vậy dấu vó ngựa đây là sao hả? Các ngươi còn định chối?

Tên nha dịch rút kiếm ra khỏi bao định chém thì bóng đen núp sau bụi tre vội vàng chạy ra xô hắn. Dưới anh đuốc, chàng trai dáng người mảnh khảnh như cành trúc, khuôn mặt khôi ngô thanh nhã tựa thần tiên, mắt sáng như sao trời, sống mũi thẳng như cây dừa xứ Hoàn Vương. Dương Thanh bỗng thấy có một quầng sáng quanh anh ta từ dưới sông lên nhưng thượng tướng quân vẫn không nhúc nhích chân. Áo quần xộc xệch ướt át, tóc xõa ngang lưng, chàng trai nhìn bọn sai nha với ánh mắt giận dữ:

- Hai người đó không có tội gì. Các ngươi hãy để họ yên.

Thượng tướng quân chăm chú nhìn anh ta từ trực diện, gương mặt thanh tú khiến Dương Thanh có cảm giác đã quen từ rất lâu. Hai tên lính tiến đến gần, trói chàng thanh niên bằng thừng đay. Chàng thanh niên cố gắng cựa nhưng không thể thay đổi được tình hình. Hai tên phu lái đò hớt hải lên đò đi sang hữu ngạn sông Cái mà không dám ngoảnh lại nhìn lấy một lần. Dương Thanh thấy một bóng đen dưới mặt nước từ từ đi lên che khuất ánh đèn trên chiếc thuyền nan. Dương Thanh giật mình, huyết mã hý vang. Hai tên lính quay lại lùng sục, giương đuốc về phía Dương Thanh. Dương Thanh cười lớn:

- Hai ngươi đang đêm khuya khoắt sao lại sang đây? Nhìn các ngươi thì chắc chắn là lính Tống Bình phủ. Các ngươi định đảo ngũ hay sao?

Hai tên lính hất mặt lên ngông nghênh:

- Nhà ngươi nói đúng. Nhưng chỉ đúng một nửa. Bọn ta tuân mệnh Lý Đại nhân đi bắt người chứ không đảo ngũ. Nhà ngươi cũng mang áo quân Tống Bình, áo giáp kia ngươi có từ đâu. Không lẽ…

Dương Thanh chẳng cười lớn:

- Các ngươi truy bắt ai?

- Bắt ai thì liên quan gì đến nhà ngươi?

Thượng tướng huýt sáo, huyết mã lao tới khiến hai tên lính ngã ngửa. Rồi bỗng nhiên bóng đen xuất hiện, nhanh như cắt, thượng tướng cùng hai tên lính bị hạ gục. Huyết mã hý liên hồi kêu thảm thiết trong đêm.

Tờ mờ sáng, Dương Thanh tỉnh giấc nhìn xung quanh trong ê ẩm. Dương tướng nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp bị gãy mất một chân, xung quanh là vách đất, mái tranh. Thượng tướng nhìn một lượt khắp nhà có ở một cây mái chèo dựng góc nhà, một chiếc nón quai thao xậm xì vì mưa nắng treo trên bức tường đất loang lổ. Có manh lưới rách còn ướt sũng nước sông, vẩn đục và tanh tanh mùi cá. Dương Thanh bước ra ngoài, ngẩng đầu lên thì mặt trời đã quá ngọn tre. Huyết mã đứng nhâm nhi đám cỏ non đầu hạ, mặt như khoái chí nhìn Dương tướng. Thấy đằng sau nhà có tiếng âm ư, Dương Thanh chạy ra phía sau. “Hóa ra là hai tên lính hôm qua! Nhưng sao ta lại ở đây, không bị trói như hai tên này?” Dương tướng lẩm nhẩm trong miệng.

- Dương thứ sử đã tỉnh rổi đấy à? – Giọng cười sảng khoái vang lên từ phía bờ sông.

- Hóa ra là lão! Đêm qua lão đưa ta qua sông phải không?

Ông lão chân cột đình, tướng người vạm vỡ phi phàm, mang trên vai chiếc thuyển nan đã chở họ Dương đêm qua. Ông lão đặt chiếc thuyền xuống rồi trả lời giọng sang sảng:

- Chính lão! Đêm qua tướng quân trúng gió nên ta và hai con ta đã đưa tướng quân vào đây. Chắc tướng quân vẫn còn nhận ra người này?

Chàng tra khôi ngô tuấn tú bước ra, trên vai còn đương vắt lưới, ánh bạc sáng lấp lóe sau lưng. Anh chàng chắp tay, quỳ gối chào Dương Thanh:

- Đa tạ tướng quân đã ra tay cứu giúp. Tiểu nhân nghe danh tướng quân đã lâu, nay mới hạnh ngộ! Thật là may mắn.

- Nhà ngươi là… - Dương Thanh ngập ngừng hỏi.

Lão ngư khảng khái nói:

- Bẩm thứ sử! Người này là Sĩ Giao vốn thuộc dòng dõi Đỗ gia ở Ái Châu, tổ nghiệp ở đất Bắc nhưng đã về Ái Châu từng làm thứ sử. Đời trước có Đỗ Anh Sách từng làm đến chức Phó đô hộ, nhập viện phán án tại trị sở Tống Bình đời đô hộ sứ Triệu Xương và Trương Chu. Sau này họ Bùi hống hách nên đã lui về xứ Trường Châu. Chỉ còn vài người ở lại Tống Bình làm các chức nhỏ.

- Bẩm tướng quân! Tôi nghe nói ngài cũng chẳng ưa tên họ Lý, buổi chúc thọ ngày qua ngài cũng không đến nhưng cái uy của ngài khiến hắn chẳng thể làm gì. Tôi họng thấp cổ bé nên mới thành ra nông nỗi này.

Dương Thanh cắt lời:

- Nhà ngươi có phải là tên Đô áp nha trong phủ?

- Dạ đúng. Từ ngày họ Bùi đến Tống Bình, Đỗ gia người thì về quê, kẻ thì đi khai hoang các cơ mi. Chỉ còn tôi ở lại. Kỳ thi hương cũng đạt Tú tài nhưng hắn chẳng màng đến chỉ giao cho cái chức Đô áp nha. Tôi đây võ tuy có luyện nhưng chẳng thể như văn. Tôi đây mới về huyện Ninh Hải, Lục châu sinh sống như một ngư dân. Xung quanh Tống Bình này, mấy châu cơ mi thì toàn những kẻ bợ đỡ, nịnh nọt hắn làm thứ sử, huyện lịnh. Sau khi Đỗ Gia trang bị viên huyện lịnh Ninh Hải thảm sát, tôi trở lại Tống Bình thì hắn ban cho gia đình tôi trăm mẫu ruộng phía nam Luy Lâu nhưng nửa năm hạn hán không nộp được chút sưu nào thì bọn cướp đến quấy phá, đám làm thuê cùng vì thế mà đói chẳng làm nữa. Hắn thì tết tổ chức tiệc đãi, tháng giêng lễ cầu, tháng ba mừng thọ, tháng t.ư đầy tháng cháu… Lần nào tôi cũng phải chạy vạy hết nơi này nơi khác để mua quà lễ cho hắn. Tướng quân ở ngoài xa không biết chứ. Đến giờ tôi còn chưa trả được hết những món nợ trước. Cũng chẳng còn mặt mũi nào mà đi vay mua lễ vật đến ăn tiệc của hắn. Ấy nên tôi mới phải chạy trốn đến đây. Cả đêm hắn cho người lùng sục tôi. May mà chạy đến bãi sông có Lão Đỗ Đại đây không tôi cũng chỉ còn nước chết trong tay hắn.

- Nhìn tướng mạo các ngươi chẳng phải kẻ thường. Nay ta thấy người Nam ta nơi nào cũng oán thán, nghèo đói, còn bọn quan lại các châu, huyện thì ra công ra sức vét vơ, đút lót quan trên để chạy chức quyền. Từ lâu ta đã muốn trừ khử bọn này. Nay Lý Tượng Cổ lại càng thêm hung bạo. Hắn cậy trên có lọng lớn, giả làm nghiêm trị kẻ dưới khiến dân Nam lầm than khổ cực. Ta được về Tống Bình, đi đánh giặc ở suốt dọc Lục Châu, Trường Châu, Ái Châu, đâu đâu dân cùng than khóc cực cùng. Nay giặc ngoài đã yên, triều đình phương Bắc đang loạn, ta đã kết giao với trí sĩ người Nam ở khắp các Châu chờ ngày giành lại quyền tự chủ tại đất này. Ta thấy các ngươi cũng chẳng phải người thường lại ghét lũ tham ác phương Bắc. Chẳng biết Các người có chí hướng giống ta, cùng ta mưu nghiệp lớn hay chăng?

Lão Đỗ nói:

- Lão xưa nay chỉ biết lênh đênh sông nước, quăng chèo bắt lưới nào đâu có biết chuyện binh gia.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Lão dũng mãnh hơn người, hạ gục ta chỉ một đòn đánh. Không thể khinh thường. Nếu Lão ưng thuận thì ta phong Lão làm Bộ binh bản tướng, cầm năm ngàn quân bộ binh trị sở, chờ ngày lật đổ người Bắc phương.

- Lão ngư cảm ơn thịnh tình của tướng quân. Nếu đã như vậy, ta xin phò trợ tướng quân nhưng khoan hãy cho ta làm tướng. Để cho ta lập công khi ấy rồi mới ban sau cũng không muộn. Ta cũng xin tướng quân thu nạp Sĩ Giao, chắc chắn Sĩ Giao sẽ không làm tướng quân thất vọng.

Sĩ Giao quỳ xuống bái lạy:

- Sĩ Giao xin dốc lòng vì tướng quân. Ta có chút này làm quà xin giao lại cho tướng quân.

Sĩ giao cởi chiếc áo đang mặc trên người. Chiếc áo cũ khiến Dương Thanh không khỏi ngạc nhiên:

- Nhà ngươi là có ý gì?

- Bẩm tướng quân. Chu Diên cách đây không xa, chừng trăm dặm đường. Ngày trước tướng quân từng đánh quân Chà Và. Đây cũng là vùng đất hiểm yếu, ngày trước quân Quỳnh Châu vào đó mà đánh bại được Phùng An thiếu chủ. Tại hạ có người anh em là hào trưởng đất ấy, tập hợp được trên ba nghìn anh em chỉ chờ ngày khởi nghĩa. Núi Tiên Du, trăm mẫu ruộng ta đã cho huynh đệ khai khẩn, nay cũng được nghìn người, tất cả xin nghe tướng quân điều động. Vùng Hoan Ái, trọng yếu nhưng là đất của tướng quân nên thêm phần an tâm. Bọn Phong Châu, Man Hoàng tham của đút lót nên cũng dễ bề cầm cự. Đây là bản đồ An Nam và kế sách để trị lũ cướp người Bắc.

Dương Thanh lấy làm mừng lắm nên đã ở lại với hai người họ Đỗ kia cho đến quá chiều. Bữa cơm cá rượu nhạt khiến cho sĩ khí Dương Thanh lên cao, nổi hứng đọc bài thơ:

“Nam vương xưng tại đất này

Kẻ ngư chài lưới, cuốc cày nhà nông

Đào núi rồi lại ngăn sông

Bao năm vun đắp bao công gieo trồng

Lĩnh Nam mảnh đất con rồng

Biển Đông bát ngát một dòng cháu tiên

Thục Vương xưa ấn chủ quyền

Bà Trưng Bà Triệu đất liền máu xương

Lý Tổ lừng lẫy muôn phương

An Nam Bố Cái Đại vương anh hùng

Bao phen lửa đạn nghìn trùng

Dân ăn cát sỏi nộp từng đồng sưu

Phận ai ăn chõ uống niêu

Canh ba thức giấc trai điều biên xa

Trẻ con cùng với đàn bà

Vạn cân thóc thuế, lụa là hiến dâng

Than ôi cái túng cái bần

Bao phen cam chịu bấy lần khổ đau

Nghìn năm mưa nắng giãi dầu

Cá ai lưỡi thẳng mắc câu không mồi.

Đêm ấy, Dương Thanh cùng hai người đến bãi Quần Thần khấn vái trời đất, bọn lính tráng được khao đãi rượu thịt no nê. Dương Thanh dắt hai người ra bờ sông cùng tắm để gột bỏ những muộn phiền. Lão ngư họ Đỗ khua chèo, Sĩ Giao cao hứng thổi bài quan họ, giọng thanh thanh trong trẻo, Dương Thị thấy vậy liền hát cùng Sĩ Giao. Chỉ vài ngày sau, biết tâm tình của Sĩ Giao và con gái, Dương Thanh gả con gái Dương Thị cho Sĩ Giao.
 
Last edited:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:
Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành​
Về họ Lý, Tượng Cổ trở về phủ và sai lính tìm hiểu về cô gái khiến hắn ngẩn ngơ khi ở phủ tướng đêm ấy tại Dương tướng phủ. Ngày đêm hắn thẩn thơ, làm văn làm thơ về cô gái ấy, chỉ ước một lần được gặp mặt. Rồi có kẻ mách rằng: “Muốn gặp lại nàng tiên ấy, chỉ cần đến phủ quân sư của Dương Thanh.” Hắn lập tức rước kiệu lớn, trống kèn khua vang khắp La Thành đến nhà họ Đỗ. Hắn biết nàng là con gái nhỏ Dương tướng, vợ của Sĩ Giao, quân sư hầu cận của họ Dương cũng là tay Áp nha lần trước đắc tội với y. Hắn liền trơ trẽn sai lính đến phủ rước nàng về, Sĩ Giao biết vậy lấy làm hậm hức lắm. Sĩ Giao sai người thế thân cho vợ mình rồi đưa về phủ đô hộ. Họ Lý hồi hộp rồi chăm chút tiếp đón giai nhân. Linh cảm cho hắn thấy có điều gì đấy không đúng như những gì hắn mường tượng ở trong đầu. Hắn cho lính đến bắt cả nhà Đỗ Sĩ Giao rồi ép Dương Thị phải chiều chuộng hắn.

Được tin, Dương Thanh nổi cơn giận, mang quân lính vào thành định hỏi tội họ Lý. Họ Lý sai người thả Đỗ Sĩ Giao, rồi hắn cười nhạt rằng: “Dương tướng quân khỏi lo, chỉ là chút hiểu nhầm giữa ta và Đỗ Tiên sinh.” Sĩ Giao bẩm báo lại với Dương Thanh tất cả sự việc. Dương Thanh sai người cho gia đình Sĩ Giao trở về Ái Châu. Tại đây, Sĩ Giao gặp lại được Tồn Thành và Thủ Trừng.

Từ bấy giờ, Lý đô hộ lại càng sợ Dương Thanh hơn khiến hắn tâm thần bất an, lúc nào hắn cũng mơ mơ màng màng việc giữ được Dương Thị nhưng hắn lại giật mình nghĩ đến Dương Thanh. Hắn lao vào gái gú, hoan lạc để quên đi sầu não, buồn phiền. Việc Giao Châu thì họ Lý giao hết quan dưới, hầu cận.

Trở lại tình hình Giao Châu lúc ấy, Lý đô hộ bắt bọn Man Hoàng dọc sông Đà, sông Cái phải cống nộp nào là sừng ngà, da cọp, sơn hào biết bao nhiêu là là thứ. Bọn tù trưởng các châu cơ mi ở Hoàng Man động ngày càng căm ghét họ Lý kia, lại bị bọn Nam chiếu mua chuộc nên lúc nào cũng nhăm nhe có ý đồ xấu. Tượng Cổ càng thêm lo lắng. Nhiều lần triệu hồi Dương Thanh về La Thành nhưng ông không tuân. Tượng Cổ mới sai lính gửi cho Dương Thanh một lá thư rằng:

“Tượng Cổ ta trước sinh ra quyền cao chức trọng, bị bon quan tham nhiễu loạn triều đình khiến ta mất chức quan, triều đình lừa lọc đuổi ta về An Nam này. Ta chỉ mong có người hiểu ta nhưng xem ra chỉ có mình Dương Thanh hiểu. Ta cũng chỉ vì bách tính mà hành xử thôi. Cũng là vì bọn quan dưới nhiễu nhách dân lành, chia rẽ mọi người. Cả ta và Dương tướng quân cũng bị cuốn vào ấy. Nay ta khẩn thiết mời tướng quân vì bách tính An Nam, và cũng vì danh dự người Nam, vì hai chữ nghĩa dũng của Tướng quân mà trấn áp bọn Man Hoàng cứu nhân dân bách tính Giao Châu. Xin tướng quân rộng lòng xoi xét tâm can.”

Dương Thanh đọc xong lá thư mà cười lớn: “Đúng là bọn tiểu nhân, phen này ta thề sẽ diệt được bọn ngươi.”

Tên lính đưa thư nghe được liền chạy về phủ đô hộ báo với Tượng Cổ khiến hắn mừng lắm. Đêm ấy, bọn Man Hoàng áp sát phong Châu và huyện Thái Bình, Tượng Cổ mở rộng cổng thành phía nam để quân Dương Thanh vào thành chuẩn bị nghênh địch. Hắn chắc bẩm rằng có uy vũ của Dương tướng quân nên phần thắng thuộc về mình, hắn cho mời tiệc rượu ca hát để mừng công. Bất ngờ cả trăm tên lính bao vây phủ đô hộ, một tiếng ngựa hí vang trời làm hắn giật mình. Một vị tướng quân trên lưng con huyết mã, mặt đầy uy nghiêm oai dũng bước vào cửa phủ. Tượng Cổ dang rộng tay, chạy vội về phía Dương tướng mà khua tay múa mép:

- Dương tướng quân đã đến rồi. Có Dương tướng quân ở đây, Giao Châu không lo bị phá rồi. Tiệc này ta mở để khao tướng sĩ. Xin mời Dương tướng quân xuống ngựa nâng ly, và mời mọi người chúc Dương tướng quân thắng trận trở về.

Dương Thanh quắc mắt nhìn họ Lý và đám quan lại, một mũi tên bắn ra, Tượng Cổ nằm sấp dưới sàn máu lênh láng. Bọn vũ nữ hoảng loạn chạy ra ngoài phủ, riêng đám quan lại dưới trướng, Dương Thanh cho lính vào giết gọn từng tên. Bọn hầu cần, gia nhân, lính tráng chống cự quyết liệt nhưng không sao cưỡng lại sức mạnh của đoàn quân người nam của Dương Thanh. Biết tin xấu xảy đến với quan đô hộ, bọn lính từ các huyện Long Biên, Chu Diên lập tức kéo về La Thành nhưng bị Chí Liệt chặn đánh tan tác bên bờ Đông sông Cái. Lính tráng thì hàng, tướng sĩ thì tẩu thoát về phương Bắc.

Khi đó, tại châu Ái, bọn Đoàn Uyển, Tồn Thành, Do Độc thấy Giao Châu có biến lớn lại biết được người anh em Sĩ Giao đang ở Ái Châu. Tồn Thành cho gọi Sĩ Giao đến Nhật Nam.

Sĩ Giao mừng rỡ gặp lại Tồn Thành sau gần ba năm xa cách, biết bao là chuyện. Tồn Thành bày tỏ sự mến mộ với Thiên thanh tướng và mong muốn được cùng Sĩ Giao về Tống Bình để cùng góp sức cứu dân. Sĩ Giao vui lắm, lại nói: “Mưu tầm mưu, kế tầm kế, ngày diệt trừ họ Lý báo thù cho Đỗ Gia trang đã gần đến rồi.”

Dương Thanh gửi cho Sĩ Giao một lá thư mật hẹn ngày hội quân tại Tống Bình. Ngay trong đêm Dương Thanh giết chết viên quan sứ tại Tống Bình, Sĩ Giao cùng với Tồn Thành dẫn hơn tám trăm lính và hai chục thuyền lớn đi dọc bờ biển từ Ái Châu đến cửa Ba Lạt ngược dòng sông cái vào đất Chu Diên đánh thẳng vào cửa ngõ đất Hiến, lại cho thuyền xuôi dòng Luộc sang đất huyện Ninh Hải, châu Lục ra sức đánh giết bọn quan quân chống cự quyết liệt tại đó. Đám lính nghe danh tiếng Dương Thanh mà ra hàng hết loạt. Viên quan họ Lý năm nào chạy trốn đến Hải Môn thì bị Do Độc truy sát mang thủ cấp về tế tại bãi sông cửa Nam Triệu.

Tròn ba năm, kể từ ngày định mệnh ấy, Sĩ Giao cùng Tồn Thành trở lại mảnh đất năm nào những người dân xứ chài ấy còn í ới gọi nhau từ sớm đi bắt cá tôm. Bọn trẻ chạy lon ton dưới những dàn lưới còn nguyên mùi cá. Những khoảnh khắc ấy cứ ùa về trong những câu chuyện của con người đã ăn trực nằm chờ nơi này, chờ ngày thay đổi đất Giao Châu này. Chỉ còn lại đây những nấm mồ xanh mướt cỏ, những căn nhà trống toác còn vương lại trên đó là cát sông và những dấu vết sương gió của thời gian.

Hai người đang uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc của ngày hè tháng sáu thì có một tên lính vội vàng chạy đến báo với Sĩ Giao:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Ngoài kia có một gã hung tợn, tóc rối bù xù đang đòi vào doanh trại để gặp tướng quân. Chúng tôi hỏi thì hắn ta gào thét lên rồi cứ đi thẳng vào. Hắn khỏe quá, chúng tôi không thể cản lại hắn được.

Tồn Thành sửng sốt:

- Ở đâu? Người ở đâu đến?

Chẳng nói chẳng rằng, Sĩ Giao lên ngựa và chạy ra phía cổng doanh trại. Dưới lập lòe ánh lửa trại, Sĩ Giao thấy một gã to lớn, tay bắp cuồn cuộn tựa mây, đôi chân sưng sững như chân voi nham nhở những bùn đen còn dính lại đang khô dần. Chiếc khố ướt sũng vẫn còn vương vẩn cá tôm. Mặt hắn có vết bớp lớn chiếm trọn nửa khuôn mặt bên phải. Một mắt hắn hằn nguyên vết chém của đao kiếm. Sĩ Giao có chút e dè:

- Nhà ngươi là ai? Là người hay quỷ?

Hắn gầm gào lên một cách hung dữ như quỷ Sa tăng trong truyền thuyết, tay hắn cầm cây gậy bằng gỗ nghiến gồng mình bẻ nó gãy tan tành khiến mọi người khiếp sợ. Tồn Thành cầm cây thương trên tay một tên lính xông thắng tới chỗ hắn. Cây thương lao vun vút rẽ khói, bụi cát mờ mịt mà gã hung dữ kia vừa dập tung lên. Hắn lại gào lên một tiếng “Giết” thật lớn rồi đạp tung cây thương của Tồn Thành, cây thương gãy làm t.ư. Do Độc bấy giờ cưỡi ngựa từ phía cổng quân doanh đến cầm kiếm chém thẳng vào người hắn. Lưỡi kiếm sáng loáng lia một cái thật ngọt qua khuôn mặt đầy thẹo của gã khiến mái tóc xõa xượi của hắn cụt lủn, máu trên khuôn mặt hắn chảy ra thành dòng. Tồn Thành cầm hai mảnh gãy của chiếc thương vừa gãy, giọng giận dữ hỏi gã:

- Nhà ngươi có phải là…

Sĩ Giao đưa ánh đuốc lại gần khuôn mặt hắn. Từng giọt máu lẫn giọt mồ hôi nóng rừng chảy từ mắt trái của hắn xuống cuốn trôi đi những bụi bùn còn vương. Khuôn mặt hắn dần hiện ra khiến Sĩ Giao giật mình, thốt lên:

- Tồn Thăng!

Hắn lại gầm gào, hét lớn:

- Giết!

Tồn Thành lúc này, ném đôi chuôi thương xuống dưới đất tiến lại gần. Thành hạ giọng:

- Ngươi là Tồn, Tồn…

Máu chảy trên khuôn mặt hắn lẫn bụi cát khiến con mắt còn lại của hắn giật giật lên. Gã xông thẳng vào đám lính, vác từng người lên rồi ném thẳng vào lều trại. Bọn lính tráng thấy thế đều lùi ra cả. Chỉ có Sĩ Giao tiến lại gần, ân cần hỏi han hắn. Hắn liền nhe răng dữ dằn như để đe dọa Sĩ Giao. Sĩ Giao quẳng bộ giáp xuống rồi xé tan chiếc áo đang mặc trên người. Hắn sững người lại, mắt chằm chằm nhìn vào hông phải của Sĩ Giao.

- Là em rồi. Tồn Thăng ơi. Đúng là em rồi. –Sĩ Giao nấc lên trong nghẹn ngào.

Gã mặt thẹo bỗng sụp xuống, mắt hắn nhắm nghiền. Tồn Thành liền hét lớn lên:

- Các ngươi còn không dìu quân sư cùng em ta vào doanh trại.

Do Độc thu kiếm lại, hỏi Tồn Thành:

- Người ta vừa chém là em của các anh?

Có tiếng xe ngựa từ phía doanh trại phía tây đến, tiếng lanh lảnh của đứa trẻ:

- Cha ơi! Trừng con sáng nay thấy chú Thăng ở bãi sông cùng với cá có sừng.

Trên xe ngựa bước xuống là Thủ Trừng và Dương Thị cùng đám người tùy tùng. Đám lính và Sĩ Giao đương dìu Thăng vào trong chỉ ngoái đầu ra nhìn qua rồi nhanh chóng lấy nước lau rửa người cho Tồn Thăng.

Tồn Thành ôm lấy Trừng sốt sắng chạy vào trong trướng. Tồn Thành gầm gào:

- Các người mau mau ninh cho ta một niêu gà tần và một niêu canh cá.

Nói rồi, Do Độc tiến vào. Với y thuật của con trai Lý Lang Mộc, tuy có chút gượng gạo nhưng Độc đã gột sạch vết thương và bó lại cho Thăng. Độc quấn lấy một miếng da dê đắp thuốc lá trên khuôn mặt của Thăng. Chỉ trong vòng ba ngày, vết thương đã liền, chỉ có con mắt bên trái nay đã khép hẳn một nửa bên ngoài cạnh thái dương.

Độc nói với Thành rằng: “Vết thương của Thăng khá sâu, lại thêm những vết thương ngày trước khiến khuôn mặt của Thăng chẳng thể trở lại bình thường được. Em là người khiến anh ta ra như thế này. Tội này xin các anh cứ trách phạt.”

Thành cười lớn sáng khoái:

- Cũng may là Do Độc kiếm thuật quả là đáng nể phục nên bọn ta mới nhận ra được Thăng. Nếu chẳng phải vì nhát kiếm ấy, mái tóc vẫn che đi khuôn mặt ấy thì ta đã giết chết em ta hay sao. Ta trách em làm sao đây?

Do Độc lại nói:

- Nếu các anh không trách phạt em thì em xin bằng mọi giá sẽ chữa khỏi cho Tồn Thăng. Thăng là em của anh Tồn Thành thì cũng có nghĩa là anh của Do Độc em.

Chỉ đúng một ngày sau, Lý Lang Mộc đã có mặt tại doanh trại. Sĩ Giao bấy giờ mừng lắm. Vội vội vàng vàng, Sĩ Giao bái kiến Lý tiên sinh. Lý Lang Mộc chẳng ngồi nghỉ ngơi, chưa một ly trà đã khẩn trương xem dò vết thương của Tồn Thăng. Xem dò vết thương một lượt, Lý Lang thở phào nhẹ nhõm:

- Thật may mắn cho người anh em này. Anh ta chỉ là sức quá kiệt mà như thế này thôi. Hãy cứ tiếp tục vắt nước cháo và cho anh ta uống canh. Chỉ ngày mai là anh ta tỉnh dậy. Thuốc đắp mặt cũng chỉ giờ dậu ngày mai là tháo ra được.

Y lời Lão Lý nói, sáng sớm ngày hôm sau Tồn Thăng tỉnh lại. Do Độc liền sai bọn lính đi kéo cá dưới sông lên, mua rượu trong dân, đãi khao cả đoàn quân. Khói lửa bập bùng, mùi cá nướng thơm lừng quyện với gạo nếp không thể xua đi được hương nồng dịu của những hũ rượu. Cả đoàn quân ăn uống no say suốt từ giờ thìn đến tận khi gà lên chuồng. Trong hơi men, Sĩ Giao lớn tiếng với cả đoàn quân:

- Nhờ phúc của Thiên thanh Dương tướng Dương Thanh. Trước là trả được mối thù mà bọn bạo tàn đã reo với dân Nam ta, sau ấy là con dân hương Yên Hưng cũng đã được toại lòng.

Nói đến đây, Tồn Thăng bỗng nhiên khóc lớn như một đứa trẻ. Tiếng khóc của gã to đến nỗi lũ mèo hoang đang rình rập chờ cá thừa thi nhau chạy toán loạn, kêu la thảm thiết. Tiếng đàn mèo hoàn kêu hòa với tiếng khóc ấy khiến mọi người không ai là không kinh hãi. Tồn Thành hắng giọng:

- Nam tử hán dũng mãnh như em cớ sao khóc như đàn bà con trẻ vậy?

Thăng mếu máo khiến khuôn mặt đầy những nếp gãy do đao kiếm trở nên khó nhìn hơn bao giờ. Chút máu đỏ tươi lại rỉ ra từ vết thương còn chưa lành nhoe nhoét trên gò má trái khiến mặt hắn càng thêm kinh sợ. Thủ Trừng thét lớn:

- Chú quỷ Thăng. Con quỷ khóc nhè.

Mọi người cùng cười lên trong tiếng nói ngây thơ của đứa trẻ lên mười khiến Thăng mặt nóng phừng phừng. Thăng lắng lại, mặt gầm gừ như thú dữ chuẩn bị săn mồi. Con mắt phải sâu hoắm trong hốc mắt thâm xì nhìn xung quanh. Đám lính đang ngặt nghẹo cười nhìn Thăng mà nín bặt. Chẳng kẻ nào dám cười nữa. Sĩ Giao ân cần hỏi:

- Tại sao em khóc?

Thăng như lạc mất giọng trong cơn nấc:

- Tại ta. Tất cả là do em.

Thành ngạc nhiên hỏi em mình:

- Em làm sao? Mọi người bị tên quan huyện họ Lý kia sát hại. Đâu có liên quan gì đến em. Bao năm qua em ở đâu?

Nói đến đây, Tồn Thăng nghẹn ngào trong nước mắt kể lại…

…Một ngày hè cách đây, Thăng cùng đám thanh niên Đỗ Gia trang bắt được Long ngư. Các cụ già trong làng cho ấy là điềm lành liền làm lễ cúng tế thả cá về với đại ngàn. Sức mạnh của Thăng có thể khiến núi đổ biển trào một mình kéo cả con cá lớn ấy vào bờ. Hai ngày sau, tên Lý huyện lệnh đám quan quân đến vây làng hòng tìm Long ngư. Hắn phá phách làng xóm cho lục lọi khắp nơi. Rồi hắn còn định mang cá về Tống Bình dâng cho giặc Tượng Cổ. Thăng xua thuyền nhỏ bám theo định xông lên thuyền giết chết tên Lý huyện trong lúc hắn ngủ trên thuyền. Chẳng may, Long ngư quẫy mạnh quá khiến cả đám lính tỉnh giấc. Em vội vàng bơi xuôi dòng về cửa Nam Triệu. Mấy ngày hôm sau quay lại làng thì tất cả già trẻ gái trai đã bị giết sạch. Thăng ta lấy làm căm phẫn lắm. Thăng nghĩ là do mình gây lên. Ấy nên mỗi mạng người, Thăng vạch lên cơ thể mình một nhát dao để tưởng nhớ. Trên cơ thể Thăng cả trăm vết cứa khắp từ khuôn mặt đến đầu ngón chân.

Sau đó, Thăng về huyện thành Ninh Hải tìm cách báo thù mà thân cô thế cô chẳng làm được gì. Cứ hễ ngày rằm, mùng một hắn đi chùa là Thăng ta lại tìm cách tiếp cận hắn nhưng hắn luôn hết sức cảnh giác. Sau khi giết chết cả xóm chài hương Đỗ, hắn cũng có đến vài nơi nữa và cũng vì lý do ấy mà giết thêm cả mấy chục mạng người nữa. Khi ấy, Thăng ta mới kết giao những người chung kẻ thù tìm kế báo thù. Tháng bảy năm trước, Thăng ta cùng đám anh em đột nhập vào huyện thành Ninh Hải hòng giết hắn. Số trời không cho hắn chết. Khi chúng ta vào đến phủ của hắn thì có tiện nữ nhà ấy cùng nhân tình hí húi đằng sau bếp làm rơi vỡ cái chum rượu quý của hắn treo ở đó.

Thấy có động, cả đám lính xông thẳng vào thấy anh em ta trong phủ liền ra tay. Mấy anh em của ta bị bọn gia nhân lính tráng giết sạch cùng đôi tiện nhân kia. Một mình ta liều chết xông vào thì hắn đã tẩu thoát từ lúc nào. Thăng lại chạy về núi Yên gần Hải Môn quan làm cướp. Suốt dọc từ Hải Môn trấn về đến Luy Lâu – địa bàn của Lục Bạch Hổ là địa bàn của Thăng ta. Đám cường hào quanh đây cùng bọn dân buôn từ Ngũ Lĩnh xuôi nam nghe tiếng ta mà khiếp hãi muôn lần . Còn tên Lý huyện kia từ bấy sợ hãi, hắn đóng kín cửa phủ, canh phòng nghiêm ngặt cả ngày lẫn đêm. Tháng trước, anh em ta lại bao vây phủ thành, nếu không phải có sự giúp đỡ của đám lính Tống Bình thì ta đã giết chết được hắn rồi…

Sĩ Giao khi ấy lại hỏi:

- Chúng ta phải mất một tuần sau mới thoát khỏi cửa Nam Triệu ra Đông Hải, sao không có gặp em?

Thăng vẫn còn đương dở câu chuyện:

- Là em đi lang thang không dám trở về. Mà nếu không phải là cái tên Chí Liệt thì ta đã giết chết sạch bọn chúng rồi.

Mọi người thảng thốt, Tồn Thành hỏi:

- Ý em là sao? Là Thiếu Dương tướng quân giúp đỡ hắn sao?

Tồn Thăng khảng khái:

- Là cái tên nhóc Chí Liệt ấy. Hắn đánh với em hai trăm hiệp không phân thắng bại. Nhân lúc ấy, cái tên phó tướng của hắn tập kích trại của em trên núi Yên. Anh em mất nơi đồn trú, nay tan tác mỗi người một nơi. Ta chạy được đến đây thì bị cái tên Tre Độc kia chém rách nửa mặt. Nhìn ta như thế này chưa đủ thảm hại hay sao?

Cả đám anh em cười phá theo lời của Thăng, Do Độc cười khẩy:

- Đại ca thứ lỗi. Em tên là Do Độc, chứ không phải Tre Độc.

Tồn Thăng mặt hậm hực:

- Ta không biết. Ta thấy mọi người gọi ngươi là Độc, mà người có khác chi cây tre đâu. Ta gọi Tre Độc là không đúng à. Thôi, đừng có cười ta nữa. Mấy ngày nay ta chưa được ăn gì rồi.

Sĩ Giao cười lớn một tiếng:

- Người anh em. Ăn cho nhiều vào. Bao năm vất vả rồi.

Do Độc thấy Thăng đương ngấu nghiến cái tỏi gà thì lại châm chọc:

- Mấy ngày nay, anh ta chẳng ăn suốt đấy sao. Nào là cháo gà, cháo cá, canh gà tần… Mà người cứ ngủ mê ngủ mệt để cho anh em ta đút mỏi tay đấy sao.

Thăng quay ra, hất cằm nói:

- Nhà ngươi gây ra thì nhà ngươi phải cho ta ăn chứ. May là ta còn chưa cho ngươi một bài học đấy. Còn con mắt của ta. Trước ta còn nhìn thấy mờ mờ, nay chẳng còn thấy cái gì nữa. Chẳng phải là do nhà ngươi đấy sao.

Lão Lang Lý cười hiền nói với Thăng:

- Vị huynh đệ này không biết đấy. Cũng may là con ngươi ấy bị hỏng, con trai ta đã gắp nó ra. Chứ không biết chừng vài ngày nữa là nó đến độ hoại tử rồi nhà ngươi có đi gặp cha anh rồi.

Cầm hũ rượu lên uống ực một hơi cái thật dài, Thăng sang sảng nói phả hơi rượu vào mặt Lão Lý Lang:

- Thì đấy là máu thịt của cha mẹ ta cho ta. Ta ăn vào thì có phải tốt hơn không?

Tồn Thành dứt cười, nghiêm nghị nói với Thăng:

- Em ăn đi. Dừng tại đây được rồi. Ta hỏi, kẻ nào khiến mắt em ra như vậy?

Gã ngồm ngoàm miềng thịt gà trong miệng, môi còn bóng nhẫy trả lời:

- Anh Thành thật không để ý gì cả! Em vừa nói rồi, khi em đếm từng người Đỗ gia trang bị giết. Còn một người nữa là anh là em chưa đếm, lúc ấy cả người em chằng chịt vết chém rồi. Chẳng còn chỗ nào nữa, em mới nghĩ là còn cái mắt nữa thôi. Thì em rạch được một nửa rồi em mới nhớ ra còn có cả thằng cu Trừng nhà anh nữa. Em lại nghĩ lại là thôi, mắt còn để dò đường mà đi.

- Thế nên chú mới rạch có một nửa con mắt thôi đúng không? Thế sao không rạch hết con mắt ấy đi? Một mắt cũng nhìn thấy được mọi thứ mà.

Tồn Thăng uống thêm ngụm rượu nữa rồi thở ra một cái thật dài:

- À… Là em nhớ ngày trước ông nội kể cho em chuyện Hạ Hầu Đôn nước Ngụy thời Tam Quốc, em cũng định moi ra ăn nhưng mà thấy ăn đi thì thật uổng nên em thôi, để nó nhìn thấy mờ mờ cũng được. Ai ngờ.

Tồn Thành muốn cười nhưng không thể cười được, từ đâu nước mắt nam nhi lại ứa ra. Tồn Thành sụt sịt vội vàng lấy vạt áo gạt đi. Giọng còn nghẹn ngào:

- Nay anh em ta ở đây hội ngộ cứ như thể Tam Anh đoàn viên năm nào. Nay có Lão Lý, Sĩ Giao ở đây. Tôi với Do Độc cùng em trai ta Tồn Thăng lấy hũ rượu cùng xôi, thịt gà, cá nướng trước dâng lên trời, sau xin cúi vái đất mẹ, mặt hướng về Tống Bình, lưng dựa biển Đông xin thề “Ba anh em chúng ta, ngày tháng vẹn toàn đời này anh em chẳng rời. Sinh ly tử biệt quyết không hai lòng.”

Nói rồi, Do Độc cùng Tồn Thăng cùng cầm hũ rượu lên khấn vái trời đất. Mặt hướng Tây Nam mà vái nguyện giữ nguyên lời thề cho đến bạc mái đầu, trở về nơi đất mẹ. Sĩ Giao cùng Lão Lý Lang cùng đứng dậy, mắt ngước trời nam bỗng thấy năm ngôi sao sáng lên rực rỡ đứng cạnh mặt trăng to tròn. Sĩ Giao cười mãn nguyện nói: “Ngay cả trời đất cũng nhận ra được sự hạnh ngộ này. Quả là đại hỷ, đại hỷ.”

Đêm ấy, mọi người ăn uống say sưa đến tận canh ba. Có tin quân báo, Sĩ Giao loạng choạng tỉnh dậy bước ra ngoài trướng nhận quân lệnh.

Tiếng vó ngựa dần xa phía Tây, Sĩ Giao bước ra ngoài trời nhìn thấy Tồn Thăng vẫn còn đang đứng ngay ngắn, tay cầm chiếc thương dài uy nghi đứng đó. Thấy Sĩ Giao đi ra, Thăng cúi chào. Sĩ Giao đỡ lấy người Thăng lên rồi hỏi:

- Đêm khuya sao em không đi ngủ.

Tồn Thăng cúi gằm mặt, hai tay trước ngực vắt chéo mà nói:

- Bẩm anh. Thăng em trước ngỗ ngược khiến mọi người trong làng bị liên lụy, sau lại bị tên huyện quan tham lam tàn sát. Chẳng nghĩ là các anh còn đây, em tìm đến rượu để nguôi sầu, nuôi mộng báo thù. Đêm nào cũng trằn trọc chẳng thể ngủ được nên mới lấy dao ra rạch mình.

Sĩ Giao vỗ vai, rồi lấy áo choàng mình khoác lên cho Tồn Thăng:

- Em mặc áo này vào, ngày mai ta sẽ cho lính may cho em một bộ quần áo để diện kiến chủ công, chứ không thể đóng khố như thế này mãi được. Trên cao ông trời có mắt đã cho anh em ta đoàn tụ. Lại diệt được giặc nước, thù nhà. Em còn điều gì trăn trở mà chưa thể ngủ được?

Tồn Thăng giọng lại sang sảng:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Nay anh đã là quan sĩ, cánh tay đắc lực của Thiên thanh tướng. Uy vọng khắp vùng Giao Châu này rồi. Anh cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Em thấy đám lính canh đã mệt mỏi bấy lâu. Em bảo bọn chúng đi ngủ. Em sẽ đứng đây canh giấc ngủ cho anh cùng mọi người. Em cũng nóng lòng gặp lại tên tiểu tử Chí Liệt để đánh với hắt một trận hả hê.

Sĩ Giao nở một nụ cười hiền từ, nhẹ nhàng dặn dò Tồn Thăng:

- Thăng này. Ngày mai diện kiến chủ công. Ta thấy một điều thế này. Em cho là phải thì nghe. Tính tình em các anh em đây thì có thể hiểu. Nhưng khi gặp chủ công và thiếu chủ thì…

Tồn Thăng nhanh nhảu:

- Cái đó Thăng em hiểu chứ. Ngày mai em sẽ quấn khăn kẻo khiến chủ tướng cùng mọi người kinh hãi.

Sĩ Giao gỡ miếng da dê trên khuôn mặt Thăng xuống. Sĩ Giao nhăn mắt rồi lại đeo lại cho Thăng. Sĩ Giao nói:

- Em hãy cứ mang miếng da dê này nhé. Ta đã nghĩ ra cho em một cái tên. Đó là Dương Diện. Dương là đồng âm với họ của chủ tướng, diện là khuôn mặt. Em đeo miếng da dê này để cho người đối diện bớt kinh hãi, Dương Diện ấy cũng là biệt hiệu cho em vậy. Sau này, được phong tướng soái thì em sẽ là Dương Diện tướng quân Đỗ Tồn Thăng.

Nghe được phong hiệu, Thăng mừng hớn hở. Chạy khắp doanh trại hò hét ầm ĩ. Sĩ Giao ra hiệu cho hắn ngược trở lại và giữ im lặng trong quân doanh. Sĩ Giao cầm tay Thăng rồi dắt vào trong lều trại. Hai người hồi tưởng những chuyện đã qua. Đến hồi Sĩ Giao kể đến chuyện hai người Tồn Thành và Do Độc gặp nhau thì gã đã lăn quay ra ngủ, ngáy khì khì từ lâu.

Sĩ Giao phe phẩy chiếc quạt lông xua bớt đi cái oi nóng của mùa hè và cười khẽ. Sĩ giao ngồi viết thêm vài trang báo cáo quân tình để khi mặt trời lên hồi báo với Dương Thanh.

Về phía Dương Thanh, sau khi Dương Thanh chiếm được La Thành, đánh đuổi bọn quan triều đình phương Bắc chèn ép dân An Nam, Dân chúng Giao Châu và sáu châu quận ở An Nam lấy làm hả hê lắm. Bọn Man Hoàng kinh hãi mà rút sâu về núi rừng phía Tây Bắc Giao Châu, bọn Nam Chiếu cùng lập tức rút quân khỏi các châu cơ mi xung quanh Phong Châu. Bọn lính người bắc, kẻ đảo ngũ chạy trốn, kẻ tự vẫn đến cả nghìn người. Các viên quan từ cấp thứ sử xuống đến hương trưởng, hào trưởng ai nấy đều quy hàng họ Dương, tôn Dương Thanh là chủ tướng đứng đầu vùng đất Lĩnh Nam. Nhưng bên cạnh đó, không ít kẻ vẫn còn chưa tâm phục họ Dương, bên ngoài thì thừa nhận nhưng trong lòng không phục. Một số kẻ thì rút về các châu cơ mi để né tránh sự kiểm soát của họ Dương.

Nghe tin thắng trận từ khắp mọi nơi từ trấn Hải Môn đến các vùng lân cận Ái Châu, Giao Châu, Phong Châu. Dương Thanh lập tức cho gọi các tướng sĩ về La Thành để phong thưởng theo công trạng của từng người.

Lựa được ngày đẹp, Dương Thanh cho mở tiệc mừng công tại La Thành. Đám quan lại, tướng sĩ ai nấy mặt mày mừng rỡ. Kẻ chở rượu quý, người dâng thóc gạo trâu ngựa đổ dồn về Tống Bình. Sĩ Giao mất đến nửa ngày đọc công trạng của từng người, kẻ công lớn làm tướng đứng đầu, ban phát ruộng đất. Người bắt giữ, chém được giặc ít cũng được thưởng mười nén bạc, cùng với đó là đất ruộng quanh Giao Châu, Phong Châu, Võ An châu, Trường Châu phì nhiêu.

Tan tiệc, Sĩ Giao thấy Tồn Thành và Do Độc có vẻ không vui, liền hỏi:

- Tại sao các em lại buồn như vậy.

Do Độc toan nói thì Tồn Thành cản lại, cúi gằm mặt nhận giấy lãnh ân điển bước đi. Đi được một đoạn thì cả hai lên ngựa chạy về phía Đông rồi mờ dần theo bụi đường.

Đêm ấy, Sĩ Giao tìm được hai người ở thành Luy Lâu đang uống rượu tại một quán khách nhỏ đơn sơ. Sĩ Giao ngồi xuống cạnh Do Độc, cầm chén rượu lên tu ực một cái thật đã rồi hỏi:

- Các em cớ sao lại như thế?

Chén rượu đầu môi, Tồn Thành quay mặt đi giọng phừng phừng:

- Sĩ Giao nói với tụi em là theo Thiên Thanh tướng ắt sẽ lập được công danh. Sĩ Giao giờ là quân sư của Dương tướng lại tước Giao Châu thứ sử. Bọn em đây truy sát địch quá Hải Môn quan. Mọi công lao lớn nhỏ đều được Uyển kia nhận hết. Có anh chứng kiến đấy. Bọn em vẫn nguyên chức cũ, đất không tăng thêm một mảnh. Há là kẻ vô danh tiểu tốt còn được lãnh thưởng. Nghe xong công trạng mà chẳng thấy được vui, chạy tới đây kiếm tửu giải sầu.

- Các đệ chớ hiểu lầm chủ tướng. Người làm chủ tướng, bao việc còn bộn bề phải lo. Bản công trạng lệnh ấy ban đầu ta viết để trình tướng chủ nhưng sau đó lại giao cho Triệu Hoằng xét lại. Bọn Đoàn Uyển châu Ái, Đỗ Anh Toàn, Đỗ Cảnh Tung Trường Châu, Trần Phiến An Vũ châu đút lót cho hắn. Triệu Hoằng vốn kẻ tham đút lót nên đã sửa công lao của mấy tên kia. Nhiều chỗ ta đọc thấy chưa xuôi nhưng trước mặt chủ tướng ta chẳng thể nói sai. Các đệ cũng đừng lấy thế làm buồn phiền. Việc này ta sẽ báo cho chủ tướng.

Do Độc và Tồn Thành nghe vậy cũng mừng. Tồn Thành sau được Dương Thanh điều làm An Nam đô úy, lãnh toàn bộ quân đội Ái Châu chỉ dưới quyền Đoàn Uyển. Do Độc được phong Phong Đông đô úy, lãnh binh tại Phong Châu dưới quyền chỉ huy của thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều. Ba ngày sau, Tồn Thành cùng con trai cầm tám trăm lính về Châu Ái. Do Độc cùng cha nhận hai nghìn quân về tới Phong Châu đóng quân tại Lâm Tây. Sĩ Giao được Dương Thanh phong hiệu Bá Nam quân sư, quân quyền chỉ dưới họ Dương. Gã Quỷ Dương Diện ở lại làm An Nam hộ sư lang tướng, ngày ngày ở cạnh Sĩ Giao. Còn Lão Đỗ Đại sau khi đánh thắng người man ở vùng Lâm Tây được phong làm Chu Diên huyện úy, đất trăm mẫu tả ngạn sông Cái. Đỗ Trang, Đỗ Kiêm được ra khỏi nhà lao Nhật Nam làm giám quân dưới quyền Tồn Thành.

Lại nói Sĩ Hoàng em trai Sĩ Giao cùng người hương Yên Hưng là Đỗ Dụng bị bọn Lục Bạch Hổ bắt cách đây đã ba năm mà không hay tung tích. Sĩ Giao xin Dương Thanh hai trăm lính cùng bọn Đỗ Đại, Tồn Thăng, Chí Liệt hướng đi từ La Thành đến Luy Lâu khoảng ba chục dặm đường là núi Tiên Du. Cánh núi phía bắc ấy chính là chỗ mà bọn cướp ấy đóng ở đó.

Đêm tháng tám ngày mồng ba, mấy người lán lại thành Luy Lâu. Mờ sáng nghe thấy tiếng tấp nập ngoài thành, Sĩ Giao tỉnh dậy hé cửa nhìn ra ngoài thì thấy dân chúng trong thành người người quần áo tươm tất, trẻ con được dìu dắt cùng người lớn nô nức đi ra cổng phía Tây thành Luy Lâu. Không thấy Dương Diện quỷ ở trong nhà trọ, Sĩ Giao toan đi tìm.

Sĩ Giao khẽ mở cửa phía sau thấy vết chân lớn và bức tường đất còn nguyên dấu người trèo qua. Sĩ Giao vội mở cửa thì thấy Tồn Thăng đang đánh lộn với hai chàng trai trẻ. Sĩ Giao hỏi:

- Đêm khuya sao em lại đi đánh lộn với người ta?

- Quân sư huynh. Hai tên này nhân lúc mọi người tấp nập ngoài này đã lẻn vào phòng trọ định trộm cắp bị em bắt được muốn chạy trốn thì em bắt được.

Hai tên kia thanh niên trai tráng nhưng không thể nhúc nhích dưới tay của “gã Quỷ”, chỉ lắp bắp xin tha mạng.

Sĩ Giao hỏi:

- Nguyên cớ sao trai tráng lại đi trộm cắp của người ta?

Tên trẻ tuổi hơn quỳ gối xuống vái sống hai người:

- Xin các quan nhân tha mạng. Chúng con có mắt mà không thấy núi cao. Mấy tháng nay đánh nhau liên miên. Nhà bọn con nuôi mẹ già trẻ con cả thảy mười mấy miệng ăn mà giờ chỉ còn có hai hộc gạo. Chỉ tại cái tên này xui mà con chót dại. Thương tình con mong các vị tha mạng.

Sĩ Giao mắng té tát:

- Các người không cần phải kể lể. Vừa rồi thắng trận, Dương tướng chẳng phải đã mở kho thóc, phát lương cho dân nghèo sao. Ban nãy, không phải là em ta thì các ngươi chẳng phải là đã được vớ hĩnh rồi sao. Các ngươi tội gì thì sẽ được quan huyện xét xử.

Giọng Sĩ Giao lại nghiêm nghị hỏi:

- Ta hỏi các ngươi. Trong thành có chuyện gì mà giữa đêm lại tấp nập đến vậy?

Tên mặt già hơn sợ hãi quá, nói thủ thỉ trong miệng mà không phát ra tiếng khiến gã Quỷ giận giữ, rồi nhấc bổng hắn lên:

- Lại còn không nói hả?

Hắn nài niết Tồn Thăng tha mạng. Tên trẻ hơn lại nói:

- Bẩm các quan gia. Tháng rồi, chỉ sau khi Dương tướng quân làm chủ Đại La. Ngoài thành Luy Lâu về phía Tây Nam có một vị viên ngoại họ Nguyễn dựng một ngôi chùa có mời thầy tu từ Hòa An tự là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải ghé. Từ bấy, môn khách từ khách hẳn đông lên và dân chúng thì đến ấy nghe giảng đạo ngày càng đông. Ngày hôm nay, các vị sư sãi chùa ấy làm lễ mừng phật quy tự, ấy nên dân chúng dậy từ buổi sớm sắm lễ đến ấy mà tỏ lòng thành.

- Thế nên các ngươi mới có ý định “xin” chút lộc phật có phải chăng?

Sĩ Giao sai Thăng trói hai người này vào cột nhà bằng thừng trão để sớm mai giải hai người ấy lên huyện phủ. Sáng ngày sau, Chí Liệt cùng Dương Diện Quỷ đưa hai tên trộm kia trình báo quan huyện. Đỗ Đại cùng Sĩ Giao ra khỏi thành từ sớm hướng về hương Phù Đổng.

Suốt dọc đường đi, hai người họ gặp trai tráng, phụ nữ, người già trẻ con nối đuôi nhau dài đến cả vài dặm đường. Có người nhận ra hai người thì cúi chào:

- Hai vị Đỗ tướng quân cũng đi bái phật đấy à?

Sĩ Giao ôn tồn đáp lễ lại mọi người:

- Chỉ là bọn ta có chút công chuyện đi ngang qua, không biết là ngày tháng này tại đây lễ hội gì mà lại đông như vậy?

- Hai vị tướng quân thật là không biết hay sao? Hương Phù Đổng có vị cao tăng từ Trung Nguyên về đây tu hành. Hạnh pháp tinh thông nổi danh khắp vùng này. Nay lại mở lễ phật quy tự nên dân chúng tôi đến để tỏ lòng hành.

Sĩ Giao và Đỗ Đại bái biệt dòng người, thúc ngựa đi tách về phía đông hướng thẳng núi Tiên Du rồi rẽ tắt qua một con kênh đào. Đỗ Đại quan sát con kênh nước khá lớn e dè nói:

- Sĩ Giao này. Nay đầu tháng tám, nước sông lớn khiến kênh nước ngập đồng. Ngựa này khó mà qua được con nước.

Sĩ Giao nhìn về đám đông bên kia dòng kênh trong bụi đất rồi thở dài:

- Chắc có lẽ phải quay lại Luy Lâu để đi lại thôi.

Tiếng ngựa hý vang, có một viên đá ném trúng đầu Đỗ Đại. Đỗ Đại thất kinh quát lớn:

- Là kẻ nào đánh nén.

Có giọng cười lớn từ dưới con kênh. Sĩ Giao nhăn mặt quan sát. Thì ra là một vị tiểu hòa thượng. Khuôn mặt nhỏ nhắn, da trắng, mặt trái xoan mình nhỏ khoác chiếc áo gụ còn thùng thình, tay trước ngực cúi chào:

- Hai vị quan nhân xin thứ lỗi. Là do tiểu tăng không nhìn rõ lầm hai vị là giặc cướp Lục hổ nên đã thất kính.

Đỗ Đại quát lớn:

- Cái tên Tiểu tử nhà ngươi.

Sĩ Giao gạt lại, nói lớn:

- Này vị tiểu sư phụ. Sao lại không ở trong tự lại ra ngoài chống bè trên sông?

Vị tiểu hòa thượng cười lớn, đôi mắt như nhắm lại:

- Là sư phụ sai ta ra đây trồng rau trông cướp. Hai vị quan nhân đến đất này có việc gì? Nếu đi xem phật thì đi từ Luy Lâu sang mới có cây cầu nhỏ để đi. Quanh đây kênh lớn bao quanh, chẳng có đường mà đi đâu.

- Tiểu sư phụ cho chúng tôi nhờ bè qua con nước để vào chùa xem phật được chăng? Chúng tôi đi từ Tiên Du xuống, không biết đường mong tiểu sư phụ châm chước cho hai chúng tôi.

- Hai vị ơi. Xem phật thì phải tự tâm, băng qua gian khó để tỏ lòng chứ sao lại đi đường tắt, cậy nhờ người khác. Tăng tôi không thể giúp gì được cho hai vị rồi.

Nói rồi, Đỗ Đại quát lớn:

- Tiểu tử kia. Đứng lại. Chớ có khua môi múa mép.

Dòng nước trôi nhanh, tiểu hòa thượng ngoảnh đầu quay đi, thoắt cái đã biến mất sau lùm cây bên kia dòng kênh. Đỗ Đại cởi bỏ hộ giáp, lấy thừng ngựa bện lấy áo quần buộc chặt lấy con dao nhỏ quẳng trúng bè đang đậu bên kia dòng. Rồi nhẹ nhàng kéo sang bờ này mời Sĩ Giao lên bè. Ngựa bước lên, chòng chành mảng bè, Sĩ Giao nói:

- Để ta xuống ngựa sang trước. Rồi anh quay lại dắt từng con ngựa sang đó.

- Cái tên tiểu tự ấy thật ngốc. Đã không cho người ta đi thì mang bè lên bờ mà cất đi. Đây lại còn chẳng neo chặt ở bờ.

Hai người vừa đặt chân sang bờ kia thì lại là tiếng cười ban nãy. Đỗ Đại trông sang bờ thì thấy vị tiểu hòa thượng đang ngồi trên ngựa, giọng lanh lảnh nói vọng sang:

- Hai vị mượn bè của ta mà không hỏi, vậy hai người hãy cho ta mượn ngựa.

Nói rồi, hai con ngựa chạy thẳng về Đông. Sĩ Giao nói với Đỗ Đại:

- Ta cứ qua đây được rồi thì vào xem tình hình thế nào rồi hãy quay lại tìm tiểu sư phụ ấy.

Đỗ Đại ấm ức trong lòng nhưng vẫn chịu theo Sĩ Giao đi bộ chừng ba trăm thước thì gặp có hai vị hòa thượng mình trần đang gánh nước tưới rau. Đỗ Đại nói nhỏ với Sĩ Giao:

- Sĩ Giao đệ. Hai người bọn họ thật không bình thường. Một người trông thật dữ dằn như báo cọp. Một người nhìn mắt liên hồi chớp đảo như phường trộm cắp.

Sĩ Giao tiến lại gần thì một người làm rơi thùng nước, giương cây đòn lên đánh thẳng vào ngực Sĩ Giao. Đỗ Đại thân thủ nhanh nhẹn đỡ lấy Sĩ Giao, tay khum nắm đấm hòng ra tay thì người còn lại mặt hoằm hoằm nhìn vào Đỗ Đại. Sĩ Giao tự đỡ mình dậy, cản Đỗ Đại đứng ra phía trước.

- Hai vị hòa thượng đây chắc có chút hiểu lầm rồi.

Vị hòa thượng râu ria xồm xoàm, mắt cọp bước lên, tay vẫn giữ chắc chiếc đòn, giọng nặng trĩu tiếng Quỳnh châu:

- Hai ngươi là người bất chính. Trước giờ kẻ đi vào đất này mà không qua cầu Đông không phường cướp trộm thì là dân dị mọi chạy trốn.

Sĩ Giao đưa quân bài ra thì hai gã hòa thượng này nhìn nhau rồi không ai bảo ai thu gậy lại rồi tận tình đưa hai người họ Đỗ vào chùa. Đi được chừng trăm bước thì đột ngột hai người quay lại dùng đòn nhằm chân Sĩ Giao và Đỗ Đại mà đánh. Đỗ Đại né được, còn Sĩ Giao may có thanh kiếm ngang hông nên đỡ được chiêu hiểm của hai vị tăng nhân.

Đỗ Đại lại lớn tiếng hỏi:

- Hai ta không thù không oán cớ sao lại đánh. Bọn ta đây có công chuyện nên mới ghé qua. Hai ngươi còn đụng thủ thì đừng trách ta.

Sĩ Giao ôn tồn:

- Ta là người của Dương tướng chủ. Nay đến đây có công chuyện cớ sao hai người lại ngăn cản ta.

- Đừng có già mồm. Hai ngươi đừng hòng qua mắt được bọn ta. Trước giờ chỉ có lệnh bài của quan thống sứ, các huyện phủ. Chứ chưa nghe quân bài Dương tướng. Mà nếu có thì các ngươi cũng có thể là giả.

Giọng nói khó nghe, Lão Đại hỏi lại:

- Các ngươi là tăng ni từ đâu đến đây dám hỗn xược với cả Sĩ Giao quân sư.

Sĩ Giao lại nói:

- Anh Đại không cần phải nói vậy. Hai vị chắc cũng biết. Thống lĩnh Tống Bình giờ là Dương Thanh tướng chủ. Tại hạ là Đỗ Sĩ Giao, hầu tướng dưới chủ công. Nay nghe danh đại sư đến đây trước là để tỏ lòng ngưỡng mộ, sau là muốn được tận thỉnh Giáo Phật của Đại sư để thông tuệ, sáng nhãn.

Nói xong, hai vị hòa thượng vẫn không tin lời, một mực đổ cho hai người họ Đỗ là phường cướp trộm dùng côn thuật nhằm thẳng hai người mà ra sức đánh. Sĩ Giao chỉ né đỡ mà không đụng dao kiếm sợ tổn hại nơi tôn nghiêm thanh tịnh. Đỗ Đại ra sức chống trả lại hai vị đó.

Đánh được gần trăm hiệp, hai người đó không khuất phục được Đỗ Đại. Nhân lúc Đại không để ý đến, vị tăng nhân mắt bé, miệng ếch đột ngột tung gậy đánh mạnh một đòn nhằm vai phải Sĩ Giao. Đỗ Đại rút gươm chặt gãy đôi cây gậy khiến hắn kinh hãi lùi lại ba bước. Đoạn Đỗ Đại giương gươm lên thì có vị tăng nhân bước ra mang trên mình áo cà sa vàng, mặt tròn đẹp như hoa toát lên vẻ từ bi, da trắng như tuyết, mắt sáng rạng rỡ, đôi tai lớn chảy xuống hai bên cằm. Sĩ Giao ngỡ Phật tổ mà chắp tay vái:

- Phật Tổ anh linh. Nam mô a di đà.

Vị ấy nói với giọng Quỳnh Châu:

- Bần tăng có thể giúp gì được hai vị quan nhân hay chăng?

Sĩ Giao cùng Tồn Thành thành kính đáp lễ với vị tăng nhân. Tồn Thành nói:

- Hai anh em từ phía mạn Tiên Du đến, nghe rằng có vị cao tăng tại chùa, qua đây trông thấy cảnh chùa tôn nghiêm lại muốn ghé thăm để bày tỏ sự mến mộ.

Vị Cao Tăng hiền từ đáp lời:

- Hai vị hẳn không phải là người xứ này. Đức Phật từ bi mở rộng tấm lòng đón nhận hai vị. Chăng hay hai vị tên họ thế nào?

- Ta tên Giao người châu Ái, đây là Đỗ Đại người Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu. Nghe có vị cao tăng tại chùa nay lại có lễ Phật quy tự nên hai chúng ta đến thăm bày tỏ tấm lòng thành. Có chút lễ mọn mang theo cùng ngựa nhưng qua sông bị một thiếu niên gạt ta lấy đi mất rồi.

- Hai vị có lòng thành hướng tâm tới phật đâu cần phải lễ lạc cao dày. Hai vị đệ tử của ta đây có gì thất kính mong hai vị lượng thứ.

Nói rồi, vị hòa thượng ấy dáng người thong thả bước vào chùa. Đỗ Đại nói với Sĩ Giao:

- Này em trai. Ta thấy có gì đó không ổn. Mong em cẩn thận.

Hai người đi theo ba vị tăng nhân bước vào chùa bằng cửa phía Bắc, đi qua hai gian tự phía sau và khu hậu viên hoàn toàn được dựng bằng đá hoa cương. Mùi thanh sắc của đá mới mài khiến Sĩ Giao thấy gai người. Bước vào phía trong là cả thảy chín chín tám mốt gian chùa được dựng bằng gỗ lim, gỗ sến với kiến trúc kỳ quái. Đi được một nửa số gian thì Sĩ Giao và Đỗ Đại không thấy ba vị hòa thượng kia nữa. Đi qua gian thứ năm mươi chín thì Sĩ Giao lạc mất Đỗ Đại. Còn Đỗ Đại thấy mình như mất phương hướng tìm cách đi ra ngoài. Bước ra khỏi khuôn viên ngôi chùa. Đại thấy có tiếng người nhí nháu phía hậu điện thì tiến tới dò la. Một cú trời giáng khiến Đỗ Đại ngất lịm. Còn Sĩ Giao biến mất trong mênh mang của gần trăm gian tự nơi đây.

Phía cửa nam, dòng người nườm nượp đổ về ngày một đông hơn. Kẻ đội lễ trên đầu, người bê ngang hông đặt lên trước điện rồi khấn vái. Chí Liệt và Tồn Thăng chen lấn mãi rồi cùng vào được trong tự. Chí Liệt nói với Thăng:

- Anh quỷ này. Chúng ta đã đến đây cũng đã hơn hai canh giờ rồi mà vẫn chưa thấy hai sư huynh đến. Trời nóng nực như thế này mà mọi người chen nhau vào đây thất là ngột ngạt quá. Chùa lớn, nước sơn vẫn còn mới, đá gạch này không phải là loại ở đất Giao Châu này dễ kiếm.

Gã Quỷ nói lớn:

- Chắc ở đây nhiều nhà sư lắm. Ta không thích bọn đầu trọc ấy. Suốt ngày lẩm nhẩm trong mồm cái gì gọi là kinh phật. Lại không được uống rượu ăn thịt. Sống thể thì sống làm gì. Phải không?

Chí Liệt chỉ cười rồi phát hiện ra có hai vị tăng nhân mặt hung dữ đang lúi húi ở phía tả viên. Chí Liệt ra hiệu để gã Quỷ đi theo hai người đó. Đi qua ao sen nhỏ và một chiếc cửa lớn, hai tên này mở gói bọc mà hai tên ấy vừa gói ghém mang tới đây. Nào là gà, thịt xôi nếp, sẵn đấy là hai vò rượu nếp thơm lừng. Gã Quỷ nhảy xổ ra quát tháo:

- Hai tên trộm cướp nhà ngươi. Dám giả danh hòa thượng để lấy cắp đồ lễ hả?

Dứt lời, Chí Liệt không kịp cản gã quỷ, Thăng xông thẳng vào chỗ hai kẻ ấy dùng gậy đập vỡ chum rượu. Chí Liệt nói:

- Chỗ thanh tịnh chớ có gây ồn ào, lão Quỷ.

Hai tên kia mặt mũi hung tợn, tay lấy vội hai cây đòn nhăm nhe toan đánh gã Quỷ. Gã Quỷ gầm gào, nhìn thấy thịt rượu lại nhỏ nước miếng. Hai tên kia cười lớn:

- Các người mới là kẻ ăn cướp. Hà cớ gì lại đi theo bọn ta đến đây. Bằng cách nào mà các ngươi lẻn được vào đây?

Chí Liệt khảng khái:

- Ta thấy hai ngươi khả nghi mới đi theo tới đây. Các ngươi là hòa thượng mà lại ăn thịt uống rượu?

- Liên can gì các ngươi. Có giỏi thì la lớn lên. Ở đây không ai nghe thấy gì đâu.

Hai tên hòa thượng cười lớn khiến Gã Quỷ nóng mặt dùng sức xông thẳng vào hai người đó. Gã quỷ lấy mảnh chum vỡ còn vương chút rượu đưa lên miệng uống một hơi vẫn còn thòm thèm. Hai tên kia song côn đánh thẳng vào người Gã Quỷ. Gã Quỷ quay lại lao thẳng về phía gã tăng nhân mắt bé, miệng ếch dùng hết sức cánh tay mà nhằm vào bụng hắn khiến hắn không thể trở tay kịp thổ huyết tại chỗ. Tên kia thấy thế ra sức dùng đòn đánh vào vai và gáy gã quỷ. Chí Liệt dùng gươm đỡ nhưng không thể cản lại sức mạnh của đòn võ dị của hắn. Gã quỷ mặc cho hắn vụt vào người, tay xé phanh con gà mà ăn. Miệng chưa lau khô, như thêm sức mạnh, Gã Quỷ dùng sức tay phá tan cây đòn làm t.ư khiến tên kia lùi lại vài bước.

Có vị tiểu hòa thượng chạy ra luôn miệng “Nam mô ai di đà phật” thoăn thoắt ra đòn rồi khóa trái khiến Chí Liệt không kịp trở tay. Gã Quỷ quát tháo:

- Tiểu tử ngươi từ đâu đến. Thả Thiện tướng em trai ta mau.

Tiểu hòa thượng nhanh nhảu nói:

- Lại là hai người nữa. Giọng nói không khác hai kẻ kia. Các ngươi là đồng bọn của nhau có phải không?

Tăng nhân mặt hổ bảo nói giận dữ:

- Chính y. Hai tên này và hai tên lúc sáng cùng một ruộc. Tiểu sư huynh nhìn hông phải của gã đeo mặt lạ đó thì thấy. Hình săm Long ngư.

- Các ngươi đến đây có ý đồ xấu gì?

- Tiểu tử kia. Mau thả thiếu chủ ra. Không thì đừng trách ta.

Nói rồi, Gã Quỷ nhấc bổng chiếc bàn đá lên mà quẳng về phía tiểu hòa thượng. Tiểu hòa thượng né vội rồi chạy nhanh về phía hậu viên. Chí Liệt cản lại bước chạy của Gã Quỷ rồi trói hai tên hòa thượng kia lại. Dò hỏi thì biết được Sĩ Giao và Đỗ Đại đã bị hai tên hòa thượng kia lừa vào trong chùa mà bị lạc. Lại biết được ngôi chùa lớn này là của Lý Tượng Cổ dựng lên. Trước khi Tượng Cổ bị chết thì có một nhà sư họ Trịnh đã tới đây.

Hai người tiến sau vào phía trong chùa, mở từng cánh cửa thấy chùa uy nghiêm lộng lẫy khiến cho cả hai tâm trí như đảo lộn. Càng tiến sâu vào trong chùa, những tượng đồng, tượng gỗ nối nối nhau, hương khói nghi ngút ngập tràn khắp các gian thờ. Như lạc vào cõi mơ, Thăng thét lớn lên một tiếng thì có tiếng kiếm rút nhanh khỏi bao vun vút trong làn khói mờ ảo. Ánh kiếm hắt lên khuôn mặt thư sinh, Chí Liệt vội thu kiếm lại, kiếm vô tình chạm vào vai người ấy. Thăng gào lớn:

- Quân sư đại ca.

Sĩ Giao kéo hai người ra khỏi gian thờ lộng lẫy vừa rồi chạy vào một gian lạnh ngắt, không khí ngột ngạt toàn bụi ẩm mốc. Gã Quỷ lớn tiếng hỏi:

- Lão Đỗ Đại đâu? Sao lại chỉ có mình huynh ở đây?

Sĩ Giao nhỏ nhẹ hiệu cho Gã Quỷ nói nhỏ lại, trần tình:

- Ta đã đi hết khắp các gian chùa mà chẳng thấy lối ra, gian nào cũng y gian nào chỉ có chỗ này là thật khác. E là có kẻ ý xấu đã đưa ta vào bẫy này. Bây giờ thiếu chủ cùng ta đi men theo các cánh phía tả, Thăng em hãy bám sát theo bọn ta đánh dấu những cánh cửa đã đi qua, quan sát phía sau xem có động tĩnh gì hay không.

Nói rồi từ phía sau có cánh tay vỗ vai Chí Liệt, ánh lửa bỗng bùng lên. Có vị hòa thượng mặt dài, miệng rộng, cánh mày lá liễu co sát với nhau như một đường thẳng, mũi thẳng như cây tre, hai tai trĩu xuống như hai quả lựu hai bên. Sĩ Giao không khỏi giật mình hỏi:

- Nhà ngươi là ai? Sao lại ở đây.

- Bần Tăng họ Thị, hiệu đạo là Lập Đức. Các vị hãy đi theo bần tăng ắt tìm được lối ra.

Ba người e dè đi theo vị hòa thượng ấy, từng lớp cửa được mở ra khe khẽ. Đến cánh cửa gian cuối cùng, ánh sáng chiếu vào khiến khuôn mặt của Gã Quỷ hiện ra ngày một rõ hơn. Vị hòa thượng kia hỏi:

- Các ngươi là ai tại sao lại tới đây? Nhìn người này tướng chẳng khác chi giặc cướp.

Thăng cau mày, khuôn mặt gã lại hằn lên những hình thù xấu xí, giọng oang oang:

- Cái tên hòa thượng kia. Các ngươi mới chính là cướp. Biết bao nhiêu lễ vật người dân đến lễ, các ngươi không đi phát lộc cho chúng sinh mà đổ tiền dựng chùa lớn, đúc tượng to, ngày ngày khói hương nghi ngút lại còn ăn vụng chốn cửa chùa. E là bọn tăng ni các ngươi…

Sĩ Giao cản lời:

- Tồn Thăng chớ nói xằng.

Ánh nắng chiếu qua khe cửa rọi thẳng vào tấm lưng vị hòa thượng, vết chỉ sờn như muốn vạch tấm lưng ấy ra. Vai áo vị hòa thượng được vá với miếng vải màu nâu gụ. Đôi chân trần bước qua nền đất lạnh lẽo rồi bước ra ngoài hiên nắng rực đang phơi toàn là cây khô đã héo cong từ bao giờ. Chiếc áo cà sa đã bạc màu đập vào mắt Sĩ Giao, Sĩ Giao trộm nghĩ “Chùa lớn, lộc nhiều há lại kiệm như vậy?”

Trời đã giữa trưa, ba người cảm thấy đói lả, ánh mắt mệt mỏi Sĩ Giao hỏi:

- Nắng như thiêu đốt. Sư phụ không đi giày cho khỏi bỏng chân.

- Niệm phật kinh qua. Đặng đó xá gì.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Sao sư biết chúng tôi ở đó mà dẫn chúng tôi tới đây.

- Thiên duyên ấy thôi. Các vị ngồi tạm đây chừng mấy khắc nữa ăn bữa cơm chay cùng với bần tăng.

Nói rồi vị tăng ấy nhanh nhẹn bước đi. Bóng đa phủ xuống xua bớt cái nắng nóng. Hai người cởi hộ giáp, nhặt lá ấy mà phe phẩy. Bỗng chốc lại có cơn gió nhẹ phớt qua nhẹ đi cái oi bức ấy. Chí Liệt quan sát một hồi.

Mái hiên ngói đất đã mục xanh, cây xà sơn mới nhưng chẳng giấu đi được mục nát bên trong. Mở cánh cửa lớn bằng gỗ đã bị thủng vài chỗ là một ngôi chùa nhỏ. Bước qua cổng tam quan là hồ sen lớn, bao quanh là lối đi dẫn vào một chùa năm gian chồng diêm, hai tầng, gỗ lim, gỗ gụ, gỗ táu tróc nửa lớn màu sơn. Năm gian chùa và khuôn viên cảnh chùa ấy là theo kiểu nội công ngoại quốc thường chỉ có ở xứ Giao Châu này. Trước tiền đường về phía bên trái có một chiếc khánh đồng được đỡ bằng khung gỗ sơn đỏ còn mới, phía phải là chuông đồng cũ có khắc chữ “Nam Thiên Kiến Quốc Tự chung”.

Sĩ Giao, Chí Liệt hai người ngồi nghỉ dưới gốc đa lau đi những giọt mồ hôi, làn hương trầm phảng phất khiến hai người thiu thiu. Tiếng chuông chùa vang vang chẳng theo nhịp lối cùng lúc tiếng ngựa hý vang gốc cây thị nơi ngoài cổng chùa khiến hai người tỉnh giấc. Gã Quỷ cười hớn hở:

- Không ngờ chùa cũ mà lại có chuông âm thật hay.

Tiếng lớn vọng lại từ cửa chùa:

- Thiếu chủ, Sĩ Giao đấy à!

Tồn Thăng bỏ dùi chuông xuống chạy vội tới chỗ Đỗ Đại mà hỏi:

- Là sư huynh đã đi đâu?

Đỗ Đại ồn tồn nói:

- Khi ta cùng với Sĩ Giao vào ngôi Đại Tự bên phải ngôi chùa này đã bị lạc. Ta cố trốn chạy ra ngoài thì thấy phía sau sảnh chùa có đám người nói giọng Quỳnh châu đang bàn bạc chuyện gì đó. Sau đó thì ta ngất lịm. Tỉnh dậy thì đang nằm bên cạnh hai con ngựa nơi gốc thị đằng kia. Mọi người làm sao mà biết chỗ này?

Gã Quỷ, ngậm quả thị rồi chỉ về phía vị hòa thượng ban nãy. Hai vai gánh trĩu hai thùng nước đổ vào chum lớn gần bếp lửa. Gánh nước rồi vội vã đun nước, làm cơm chay. Đỗ Đại chạy tới diện kiến, thấy dáng hình tựa phật mà cúi người vái rằng:

- Chẳng hay là sư phụ đã cứu tôi tới đây.

Vị sư ấy mải miết từng hạt cơm trắng muốt, hòa nước cho đủ thanh mát rồi vội vàng đưa vào phía trong. Phía bên trong chùa, tượng lớn Phật tổ Bồ đề Đạt ma tay cầm một chiếc hài, bên trái là tượng phật mẫu Ma – ya, cùng bên phải là tượng Bồ tát quan âm ngự đầu rồng, tất cả đều sạch sẽ bụi trần.

Tọa thiền dưới đó là một vị tăng, dáng người mảnh khảnh, đôi ta lớn trĩu xuống hai bên cằm. Bốn người bước chân vào, tăng ấy chẳng hề nhúc nhích. Chẳng nói chẳng rằng, Lập Đức đặt bát cơm cùng chút rau thanh đạm rồi cúi người bước ra. Sĩ Giao cất lời hỏi:

- Bọn thí chủ chúng tôi bái kiến sư phụ.

Không một lời đáp lại, Tồn Thăng quát lớn:

- Này cái tên tăng nhân kia! Dám khinh thường bọn ta sao?

Đỗ Đại ôm lấy Thăng mà kéo ra ngoài. Lập Đức hòa thượng liền nói:

- Các vị thí chủ xin mời qua gian hữu, bần tăng sớm bày cơm chay các vị cùng dùng bữa.

Cơm bày lên, hai niêu cơm rời cùng mẹt rau luộc mềm. Tồn Thăng gắt gỏng:

- Cơm này chúng ta ăn làm sao! Sáng giờ chẳng có gì ăn. Vào chùa thì đánh đấm với bọn tăng nhân ăn thịt uống rượu mệt gần chết. Rượu đâu mang ra đây cho ta.

Sĩ Giao can Gã Quỷ lại:

- Dương Diện đệ hãy trật tự. Chốn xuất gia không được ăn nói bừa bãi.

Chí Liệt quan sát vị tăng tọa thiền kia vẫn chẳng nhúc nhích. Lập Đức nhỏ nhẹ, chắp tay trước ngực mà nói:

- Nam mô a di đà phật! Thí chủ bỏ xá cho. Tăng chúng tôi lấy tu tâm làm đầu, chay tịnh ấy là điều chẳng thể khác được. Nếu vị tướng quân này mong cầu rượu thịt thì thật ngại tăng tôi không thể giúp được.

Lời nói phật rót tai khiến Dương Diện mềm lòng mà ăn lấy cho hết một niêu cơm trắng. Cùng bữa, Chí Liệt hỏi Lập Đức:

- Sư ấy là ai sao mà đến lạ. Chẳng nói chẳng rằng.

- Sư lấy thiền tịnh tu tâm nên gọi là thiền sư. Tính tình Sư điềm đạm ít nói, nhưng thông minh, sáng suốt ấy thế mà gọi là Vô Ngôn Thông. Từ ngày sư về đây chỉ có ngồi một chỗ mà thiền, chẳng nói lấy một lời.

- Cơm nước thì ai chăm?

- Là bần tăng.

- Ngài ấy có nói gì với Lập Đức sư phụ hay chăng?

- Từ khi ngài ấy về đây cũng đã hai mùa xuân hạ mà chưa được nghe.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Có nghe tiếng thiền sư mà nay được hạnh ngộ. Ấy sao dân chúng ngoài kia kêu rằng thiền sư giảng đạo, lũ tăng nhân kéo tới nườm nượp? Thật là có điều gì không phải?

- Chùa lớn bên này là Đại Đường Nam tự. Ba năm trước quan sứ cho dựng lên, cạnh Kiến Sơ tự này. Ban đầu ta được mời sang tự ấy mà tu cùng với những tăng từ Quỳnh Châu tới. Sau này ta thấy kẻ ra người vào tự toàn là những bậc quan nhân, quân tướng. Ta e điều không hay nên đã cùng tiểu đệ tử tọa thiền nơi gốc thị kia hướng về Tiên Du Sơn ngày ngày đọc kinh.

Nói tới đây, có vị tiểu hòa thượng khi nãy xuất hiện. Tiểu hòa thượng này nghiêm trang hành lễ mà bái Ngôn Thông, Lập Đức cùng bốn người.

Đỗ Đại thảng thốt:

- Là vị tiểu sư phụ này chẳng?

- Bẩm quan đúng thế. Đây là đệ tử của tôi tên là Phong. Sáng này có thất lễ với các vị quan nhân mong các vị bỏ quá cho.

Dương Diện ăn xong niêu cơm trắng, chỉnh lại miếng da dê trên mặt mà nói:

- Cái tên tiểu tử này, sáng nay đánh với ta lại còn khống chế cả thiếu chủ. Tội ngươi đáng phạt trăm roi.

Tiểu hòa thượng lém lỉnh nói:

- Là thí chủ mặt quỷ kia gây sự trước.

Chí Liệt cười lớn nói:

- Vị tiểu sư phụ này nghệ công thật chẳng dám chê. Lập Đức sư phụ vừa có nói đến việc tu tại gốc thị ấy, ngày ngày lấy đọc kinh mà tu hành. Chẳng hay sao lại không vào ngôi chùa nhỏ này?

Tiểu sư phụ nhanh nhảu đáp:

- Đất này là của vị hương hào họ Nguyễn. Trước ở núi Tiên Du đã mến mộ đức hạnh của sư phụ từ lâu, nay lại thấy người tu nơi gốc thị ấy mà lấy tâm tình để mời sư phụ ta dựng chùa tính từ gốc thị trở về Tây nam chừng hai trăm trượng. Thoạt đầu, sư phụ ta không dám nhận. Đêm ấy nằm cạnh sư phụ dưới gốc thị lại hiện lên thần nhân mách rằng: “Theo ý của họ Nguyễn, chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn.” Sau ấy nghe lời thần nhân, sư phụ mới đồng ý với vị hương hào ấy. Họ Nguyễn ấy dỡ nhà lập chùa tỏ lòng, lại cho người đắp tượng, đúc chuông…

Lập Đức từ tốn nói:

- Tâm tức là Phật. Đệ tử chớ khoe khoang.

Lại kể rằng Đại Đường Nam tự kế bên ấy bọn tăng lữ vốn không phải người Nam, đến đây lấy tiếng là Đại thiền sư, ngày ngày giảng kinh pháp, lễ bái triền miên làm hao tâm tốn lực của bọn dân chúng Giao Châu ấy. Vị tăng nhân mặt đẹp tựa thần tiên, mặc áo cà sa khi sáng dẫn Đỗ Đại cùng Sĩ giao vào Đại tự hiệu là Giả Thường, nhận mình là Đại tăng, cũng là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải, có pháp lực hô mưa hoán vũ, lại truyền bá kinh phật, nhận cả trăm người làm đệ tử. Hai vị tăng kia hung dữ kia vốn cùng thiền sư Vô Ngôn Thông về Kiến Sơ này mà bị bọn chúng dụ dỗ sang tự ấy mà làm điều sằng bậy, tham tục rượu thịt. Lại được biết bọn ấy là tay sai của viên sứ Tượng Cổ nên Chí Liệt bàn với Sĩ Giao:

- Nơi này nhiều ẩn tình. Không thể xem thường được. Ta phải sớm về báo cho Tướng phụ biết.

Đoạn rồi, Chí Liệt bái biệt ba người rồi cùng mười người tùy tùng về La Thành báo tin cho Dương Thanh. Ba người ở lại chùa Kiến Sơ đợi quân tiếp viện lên núi Tiên Du truy quét bọn cướp Lục Hổ.

Mấy ngày ở lại chùa, không khí tĩnh lặng trầm mặc khiến ba người ấy như bỏ hết đi những phiền muộn, gột bỏ đi những bụi bặm chiến trường sau thời gian chiến đấu vừa qua. Vị Tăng kia không nói gì mà chỉ ngày ngày ngồi quay mặt vào bức tường thiền. Sĩ Giao lại thấy sư Lập Đức ngày ngày chăm chút cho vị thiền sư ấy chẳng có lấy một thiếu xót. Sớm gánh nước tưới rau, cùng đệ tử ra sông giặt giũ áo cà sa, chiếu nệm. Trưa lại cơm trắng cùng rau hai niêu mang cho thiền sư. Chiều tới gánh nước từ kênh đun lên mời thiền sư tắm. Tối đến ngồi thiền cạnh sư rồi nâng giấc cho Tăng ấy.

Đêm cuối ba người tại tự, bỗng nhiên có ngôi sao sáng rực phía nam, lửa dưới bếp cháy phừng phừng. Sĩ Giao thấy vị tiểu hòa thượng đang lúi húi dập lửa thì Lập Đức lấy vạt áo mà dập lửa liên hồi lại ôm lấy vị tiểu hòa thượng mà chạy ra. Chẳng mấy chốc vạt áo cháy lẹm đến vai. Tiểu sư vẫn lấy nước mà dập. Mắt lệ rưng rưng, miệng vẫn liên hồi nhẩm rằng:

- Nam mô a di đà.

Tiểu hòa thượng kia khóc nấc lên, dập đầu liên tục xuống nền đất:

- Là tại đệ tử bất cần. Trông nồi nước mà đề tử lại ngủ quên mất.

Lập Đức cháy mất vạt áo cà sa cũ, nhìn gian bếp ấy cháy mà lệ ròng ôm lấy đệ tử:

- Đệ tử chẳng có lỗi gì cả. Là ta phước mỏng chỉ là muốn chăm chút cho Thiền sư ấy mà lại ra như thế. Thật là đáng thương cho đệ tử của ta.

Nói rồi, từ gian tự bước ra, vị Tăng kia bước tới, khoác lên Lập Đức áo cà sa. Dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt thanh tú, nước da ngăm ngăm khắc khổ, gò má hóp vào, đôi mày bạc trắng rủ xuống hai bên đuôi mắt, râu bạc tựa tiên, giọng nói thanh điện, Tăng ấy nói, nước mắt chảy ra:

- Bấy nay, ta thật cảm kích với tấm chân thành của ngươi. Nay nhận ngươi làm đệ tử, truyền tâm giáo cho ngươi. Gọi ngươi là Cảm Thành. Áo cà sa này, sư tổ Hoài Hải tặng ta. Nay ta tặng cho ngươi.

Lập Đức lấy làm vui mừng, vội cùng đệ tử bái ba lạy để tỏ lòng tôn kính. Sư dắt tay Lập Đức vào mà bàn rằng:

“Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sư tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:

Các nơi đồn đại

Dối tự huyên truyền

Rằng Thủy Tổ ta

Gốc từ Tây Thiên.

Truyền pháp Nhãn tạng

Gọi đó là Thiền

Một hoa năm cánh

Hạt giống liên miên.

Thầm hợp lời mật

Muôn ngàn có duyên

Đều gọi tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên cõi này

Cõi này Tây Thiên

Xưa nay nhật nguyệt

Xưa nay sơn xuyên.

Chạm đến thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai đó hào ly

Mất đó trăm ngàn.

Ngươi khéo quán sát

Chớ lừa cháu con

Ngay như hỏi ta

Ta vốn không lời.

Chư phương hạo hạo

Vọng tự huyên truyền

Vị ngô thủy tổ

Thân tự Tây thiên.

Truyền pháp nhãn tạng

Mục vị chi thiền

Nhất hoa ngũ diệp

Chủng tử miên miên.

Tiềm phù mật ngữ

Thiên vạn hữu duyên

Hàm vị tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên thử độ

Thử độ Tây Thiên

Cổ kim nhật nguyệt

Cổ kim sơn xuyên.

Xúc đồ thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai chi hào ly

Thất chi bách thiên.

Nhữ thiện quán sát

Mạc trám nhi tôn

Trực nhiêu vấn ngã

Ngã bổn vô ngôn.”

Nghe xong bài kệ, Cảm Thành liền lãnh ngộ. Sĩ Giao lấy đó làm điều đáng mừng, liền sai người tu sửa ngôi chùa để Tăng Sư cùng ngồi nói về kinh đạo.

Sớm hôm sau, Sĩ Giao cùng Đỗ Đại, Tồn Thăng lên ngựa hướng Tiên Du mà tiến, để lại chùa ba chục lính tráng khỏe mạnh để sửa lại chùa.

Lời bàn:

Xưa ta nghe chuyện tiên thần

Long Ngư xuất hiện chúng dân nương nhờ

Ấy rồi tai họa bất ngờ

Con dân đỏ máu lững lờ nước trôi

Sứ quan nhấp nhổm đứng ngồi

Xứ biên nổi loạn, bề tôi hận lòng.

Người sông đục, kẻ nước trong

Bao năm oán hận thầm mong có ngày

Cờ ai đang phất trao tay

Vượt sông thành trống, người ngay kẻ hèn

Quyết tâm sống mái một phen

Rửa oan quê cũ được khen anh hùng

Ấy còn giặc cướp bên sông

Quá sơn gặp tự tấm lòng thanh tao

Tâm người rộng lớn biết bao

Sớm trưa, chiều tối chẳng nao núng lòng.

Đêm thanh gió thổi nhà không.

Lửa kia thiêu đốt vàng ròng chẳng phai.
 
Last edited by a moderator:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ ba:
Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.
Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người
.​
Đang lúc đi diệt bọn cướp Lục Bạch Hổ, Dương thiếu chủ quay trở về La Thành khiến Thiên thanh Dương tương không khỏi ngạc nhiên. Dương thiện tướng bẩm báo sự việc tại Đại Đường Nam tự cho cha nghe. Dương Thanh tỏ vẻ không hài lòng. Lại sai người giả làm tăng lữ về chùa ấy để theo dõi thêm tình hình ở chùa ấy. Chí Liệt cầm thêm hai trăm lính nữa hướng núi Tiên Du tăng viện cho Sĩ Giao, mưu diệt sạch lũ cướp khét tiếng vùng ấy.
Cầm lính đi qua Đại tự ấy, Chí Liệt không ghé lại nữa mà truyền lệnh cho hai trăm lính hợp quân với Sĩ Giao, hơn trăm quân lính của Si Giao trú tại thành Luy Lâu, được lệnh cho đóng quân tại chân núi phía nam Tiên Du. Quân không mang theo cờ xí, không dựng trại mà ở núp dưới những gốc cây, tảng đá lớn mong đánh nhanh bọn cướp. Ngày hôm sau, đám lính người ôm bụng, kẻ ôm ngực đau đớn suốt cả ngày. Chí Liệt mới hỏi Sĩ Giao:
- Không hay nơi này khí hâu thế nào mà quân sĩ lại biểu hiện như thế?
Sĩ Giao đáp rằng:
- Núi này vốn là núi thiêng, hay ta đi dò hỏi cho ra lẽ.
Nói rồi, Sĩ Giao sai Tồn Thăng cùng mười tên lính đi quanh núi, gặp một nhà dân cùng một ngôi chùa đã cũ. Sĩ Giao lại nhớ rằng vị hòa thượng Lập Đức tại Kiến Sơ tự có nhắc đến ngôi chùa này. Đêm ấy, Sĩ Giao sai năm tên lính soạn sửa trái cây, xôi nếp cùng với đó là nhang thơm cả thảy là chín nén, lại thêm đăng sáng. Chí Liệt kêu đám lính tráng kiện di dời các pho tượng ra mà lau rửa, sau ấy đặt lại uy nghiêm chỗ cũ. Đám Đỗ Đại, Tồn Thăng vào rừng gần đó chặt được chín cây gỗ lim cùng bảy cây gỗ táu mang về dựng lại cột chùa. Đến gần sáng thì đám lính tráng cũng tu sửa xong mái chùa thì tự dưng đám lính không còn thấy đau bụng tức ngực nữa. Chỉ riêng Sĩ Giao thấy trong người mệt lả, thiếp đi dưới gốc cây si trước cổng chùa.
Sĩ Giao thấy người nhẹ như bay, nhún chân một cái đã lên đến trên đỉnh núi. Áo của Bá Nam quân sư bị mắc tại đám thông. Chàng gỡ một hồi thì chân chạm xuống mặt đất. Đang bước chân đi, quân sư thấy muôn vàn thú đá chạy quanh núi. Chàng lại ra hiệu cho đám thú ấy biết sự có mặt của chàng. Chúng chạy từ Nam ngược Bắc dường như không hề biết sự có mặt ấy của chàng rồi tan vào mây trên đỉnh núi.
Lấy làm lạ, Sĩ Giao bèn bước thêm vài bước nữa thì thấy một khung cảnh chốn tiên thần. Đi qua cổng dựng bằng trúc, chàng thấy ao rồng, tường thạch. Sân ấy có phiến đá nứt gãy lớp lớp những đường kẻ như bàn cờ. Chàng bay vút vào trong thì thấy hai ông lão râu tóc bạc phơ đang đánh cờ. Chàng lại nhìn thấy một anh tiều cầm búa gác gốc thông đứng nhìn hai ông lão đánh cờ. Một lát sau cây búa mục lúc nào chẳng hay, hai lão tiên ấy biến thành khói cuộn vào mây bay lên trời để lại bàn thạch hai chữ Lạn Kha. Chàng tiều phu ban nãy cũng biến mất vào rừng sâu hun hút.
Sĩ Giao tiến tới bàn thạch, lấy tay chạm vào. Thạch trơn nhẵn bóng, chàng vuốt ve phiến đá ấy, nhắm mắt hình dung tựa chạm vào bồng lai. Chàng mở mắt ra thì có nàng tiên đang nằm trên ấy, trên người chẳng một mảnh lụa. Chàng vội vàng rụt tay lại thì cánh tay của nàng tiên ấy kéo lại, Sĩ Giao gục mặt vào phiến đá lúng túng cởi chiếc áo trên người mình mà khoác lên cho nàng ấy.
Từ phía xa bỗng có đám con gái từ chân núi đi lên nói cười khúc khích, chàng nhìn ra phía ấy. Có cô thôn nữ tuổi chạc tuần trăng cất giọng trong trẻo mà ghẹo chàng:
- Chàng ơi! Tiên nữ giáng trần.
Tay run đờ đẫn như đần như ngu.
Tới đây tiết mới sang thu.
Thạch bàn vững chãi, đánh đu hỡi chàng.
Sĩ Giao nhìn ra phía đông thì có cây đu dựng bằng đá, mấy cô gái ấy đang chơi trên ấy nhí nháu gọi chàng. Chàng quay ra nhìn bàn đá, nàng tiên khi nãy không còn nằm ở đấy, chàng ú ớ gọi nhặt lên một mảnh vải hồng thơm thơm mùi trầm. Ấy rồi tay chàng thấy có dính ướt từ bao giờ chẳng hay. Gió lên, mây đen từ phía nam kéo đến ùn ùn, mấy cô con gái cũng không còn lưu lại đấy. Chàng giật mình tiếng sét bên tai.
Sĩ Giao choàng tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn xunh quanh. Thấy đám lính hớt hải chạy mưa, mang sơn cùng gỗ vào phía trong mái chùa vừa dựng. Chí Liệt gọi lớn:
- Bá Nam quân sư. Còn đứng đó mong chờ điều chi? Tay quân sư, mảnh vải hồng từ đâu mà có?
Sĩ Giao đầu óc mơ màng, tay dính ướt dụi mắt, chàng nói:
- Bẩm thiếu chủ. Là đệ vừa mơ giấc mơ thật lạ. Tỉnh dậy đã thấy khăn hồng trên tay.
- Chạy vào trong chùa rồi kể lại cho ta nghe.
Chàng kể lại cho Thiện tướng, Thiện tướng cho đấy là điềm mừng liền sai lính đi sửa soạn lễ vật, nhang đăng chính ngọ ngày mai lên đỉnh núi làm lễ. Sĩ Giao mở miếng lụa ra, tiếng sét xé tan tiếng mưa rào rả rích, ánh sáng hắt vào hiện lên trên mảnh vài chín chữ thành một hàng sắp xếp theo đúng lối: “Dương Tử Tiền Cao Hưng Bá Ngô Vương Chủ”, phía dưới còn đề một bài thơ:
“Dương gian hỏa ánh hồng
Tử ngục thủy thành giang.
Nhất chí đồng cam khổ
Quảng nhân chính dị sàng.”
Chí Liệt hỏi trên đó đề gì, Sĩ Giao ấp úng:
- Dạ bẩm, chỉ là vài nét nguệch ngoạc chắc khi tối Gã Quỷ nghịch ngợm rồi nhét vào tay ta. Lát nữa ngủ dậy sẽ phạt đệ ấy.
Vội vàng Sĩ Giao ném mảnh vải ấy vào đống lửa đốt đi. Dương Chí Liệt quay lại thấy vải cháy còn một góc chữ Dương, lại thấy Sĩ Giao ấp úng, liền hỏi:
- Có chắc là không có gì trên đó hay không? Sao lại là chữ Dương. Mau gọi Gã Quỷ dậy.
Gã Quỷ bấy giờ trong cơn say mê mệt gọi ba tiếng không thấy dậy. Chí Liệt nhìn mặt Sĩ Giao lấm lét mà sinh nghi, gọi cho bằng được Gã Quỷ tỉnh dậy. Chí Liệt xách một thùng nước mưa vừa hứng được dội vào mặt Gã Quỷ. Gã Quỷ tỉnh dậy cầm lấy dao quắm cạnh người mà quát tháo:
- Là kẻ nào hắt nước vào ta?
Chí Liệt phủi tay cho khô đáp:
- Là ta gọi ngươi dậy đấy.
Sĩ Giao không kịp cản thì Gã Quỷ cầm lấy dao dương lên xông thẳng về phía Chí Liệt. Chẳng chút nương tay, gã ra đòn sấm rền đất rung. Từng chiêu xuất ra như nghìn cân giáng xuống. Chí Liệt không đánh lại mà chỉ dùng cây gậy chống những đòn ấy. Gã Quỷ hung tợn không khiến Chí Liệt nao núng. Đám lính cạnh đó xô vào giữ lấy gã Quỷ. Gã gồng mình lên, chiếc áo giáp đứt bung ra tứ phía. Bọn lính sợ hãi lui ra cả đám. Chí Liệt cười lớn:
- Để nay ta sẽ cho ngươi tâm phục khẩu phục.
Nói rồi, Chí Liệt dùng gậy đánh thẳng vào cánh tay cầm dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ người như đá sắt, không hề hấn gì quay dao mưu chặt gãy côn của Chí Liệt. Thiện tướng nhanh như sóc thu cây gậy về, mình quay năm vòng trên không liên tiếp vụt trúng lưng và gáy Gã Quỷ. Gã quỷ đứng yên, gầm gào trong tiếng sấm, mắt liếc nhìn thiếu chủ. Gã vứt bỏ giáp áo, mình còn lại chiếc khố sờn rách. Từng vết sẹo trên người hắn nổi lên như những tổ kiến, tổ mối khiến cho người khác phải khiếp sợ. Chí Liệt bình tĩnh múa côn, lộn tiếp ba vòng dùng sức đầu gậy đánh thẳng vào ngực Gã Quỷ. Gã quỷ hết sức bình sinh ném thẳng dao quắm về phía thiếu chủ. Thiếu chủ né nhanh, dao ấy cắt đôi cột lim, mái chùa phía ấy rơi xuống vài ba viên. Dương thiếu chủ dùng gậy đánh với gã quỷ hai trăm hiệp thì trời sáng. Gã Quỷ đứng ra phía trước gậy của thiếu chủ khiến thiếu chủ không nỡ ra tay. Chí Liệt hỏi:
- Nhà ngươi nhận thua hay sao?
Gã cười lớn, mặt méo xệch:
- Ta đói quá! Từ đêm qua đến giờ uống rượu mà không được ăn gì nên đói. Ăn xong ta lại đánh với ngươi.
Tất cả lại cươi ồ lên. Đỗ Đại sai người mang xôi thịt lên cho hắn ăn. Chí Liệt vỗ vai hắn trêu trọc hắn:
- Nhà ngươi võ thuật không có, thậm chí không bằng đứa trẻ con. Chí có cái khỏe và liều là ta không bằng ngươi.
Dường như gã chẳng quan tâm đến lời thiếu chủ nói. Gã hỏi:
- Nhà ngươi gần sáng hắt nước vào mặt ta có ý gì?
- Ta thấy nhà ngươi đi đánh nhau mà uống rượu đến say sưa, chẳng may địch đến đánh bất ngờ nhà ngươi ứng phó thế nào.
- Ngày trước ta làm tướng cướp trên núi Yên. Nửa đêm có mấy đứa định chém ta nhưng rồi chúng nó chết trước ta. Nhà ngươi khỏi lo.
- Đấy là bọn lâu la không tính.
- Ngày trước ở Đỗ Gia Trang, ta đánh nhau với bọn lính người Bắc cũng vậy thôi. Chẳng khá hơn là mấy. Có Sĩ Giao quân sư chứng kiến đó.
Chí Liệt như nhớ ra chuyện khi đêm hỏi Sĩ Giao, lại hỏi Gã Quỷ:
- Nhà ngươi ngày qua lên núi kiếm gỗ củi có thấy gì hay không?
- Ta thấy thú rừng đi chơi, chim ca nhảy nhót và khe suối nhỏ ở đằng kia.
- Còn gì nữa hay không mà ngươi đi từ chiều đến khi mặt trời khuất núi mới về?
Thấy gã ấp úng, Chí Liệt giật lại niêu xôi về phía mình mặt nghiêm nghị hỏi:
- Nhà ngươi còn giấu giếm điều gì hay không?
Gã nhìn Sĩ Giao lắc đầu liền lắp bắp:
- Ta… ta có gặp mấy đứa con gái lên núi hái quả nên đi theo bọn nó.
- Hái quả ở đâu? Nhà ngươi hung tợn như quỷ dữ, ngươi đi theo bọn ấy chúng thấy ngươi chẳng chạy mất à?
- Ơ hay. Ta thì sao? To khỏe như ta bọn con gái đứa nào chẳng thích.
- Cái mặt nhà ngươi ấy, ta là con gái thì ta chạy trốn cho nhanh chứ to khỏe gì. Nói mau. Bọn nó lên đấy làm gì? Rồi có chuyện gì xảy ra.
- Thì ta theo bọn con gái ấy đến đỉnh núi, thấy có mấy gã ở đấy đợi bọn ấy đến. Thế rồi bọn nó giao hợp với nhau ở cái bàn đá trên đỉnh núi cao kia. Đợi bọn nó giao hợp xong, có đứa con gái mặc áo hồng mặt đẹp như tiên nữ đi sau cùng ta bắt được rồi giao hợp với nàng. Nàng chẳng chống cự gì lại còn nũng nịu ta ở lại chơi với nàng ấy nên ta mới về muộn. Nàng còn tặng ta mảnh vải hồng làm tin, hẹn ta chiều nay quay lên đỉnh núi gặp nàng.
Bọn lính tráng xì xào bàn tán, Chí Liệt mặt nghiêm nghị:
- Việc quân tình không lo, lại còn đi chơi bời, trai gái. Quân sư ghi lại phạt hắn trăm roi để hắn nhớ cũng là để cho những kẻ khác lấy đó làm gương.
- Đợi ta ăn xong rồi hãy phạt. Đánh ta hai trăm doi cũng được.
Gã cười hả hê. Ăn xong Gã tự mình sai hai tên lính to khỏe nhất cầm roi mây đánh lên người hắn hai trăm roi. Đánh được một trăm roi thì hai tên lính tay mỏi rã rời, hai tên khác ra thay. Đánh hai trăm roi đã rồi, Gã như được giãn gân cốt đứng dậy vươn vai cạnh đó là chục cái roi mây đã nát vụn. Bốn tên lính mệt nhoài vội chạy đi sợ gã nhớ mặt lại rước họa về sau. Gã kéo một tên lại nhấc cổ lên, mặt tên ấy tái xạm như con gà vừa bị cắt cổ xin gã thả xuống. Gã cười lớn rồi thả tên lính tội nghiệp kia xuống đất:
- Bọn bay lính tráng mà đánh người như gãi ngứa vậy đánh giặc, bắt cướp làm sao? Bọn cướp vốn hung tợn, máu liều chém giết không ghê tay. Chỉ e thấy chúng các ngươi co vòi mà trốn chạy.
Nói rồi Đỗ Đại sai đám lính dựng lại cột chùa vừa gãy, tên nào tên ấy mệt mỏi rã rời sau một trận mưa đêm. Thấy bọn lính uể oải, Chí Liệt nói với Sĩ Giao:
- Rừng thiêng nước độc, càng ở lâu e rằng bọn cướp lợi thế hơn. Sĩ Giao có kế gì hay chăng?
Sĩ Giao nhìn về phía chân núi có mấy cây gỗ mục và đám lá khô, một con cáo đuổi theo một con gà tre. Cáo vồ nhanh về phía con gà, gà nhảy lên cành cây phía trước thì cáo bị thụt sâu dưới đám lá cây cố ngoi ngóp lên trong vô vọng. Sĩ Giao nhoen miệng cười gọi Gã Quỷ lại gần nói nhỏ vào tai gã, xong rồi bàn bạc với Chí Liệt một hồi. Đám lính khi đó chạy ra bắt lấy con cáo xẻ thịt nấu cháo sang chia cho được gần hai mươi người ăn.
Nắng lên xiên qua ngọn cây, Chí Liệt vẫn mải miết luyện binh và không ngừng nghĩ về mảnh vải hồng mà Sĩ Giao sáng nay đã đốt. Không yên lòng nhân lúc Sĩ Giao đi thám thính tình hình, Chí Liệt lại gọi Gã Quỷ tới dò la. Gã Quỷ nghĩ là Thiếu chủ muốn đánh nhau bèn ra chiêu trước nhưng được hai chục hiệp thì Thiếu chủ khóa thế dừng đánh, lại rót vào tai Gã Quỷ lời dụ:
- Sáng này đương dở câu chuyện. Ngươi hãy kể tiếp cho ta. Cô gái kia đưa mảnh vải ấy rồi thế nào?
Gã Quỷ cười lớn:
- Mảnh vải hồng ấy à? Nàng ấy viết tên ta lên đó. Nàng ấy hỏi tên ta, ta bảo nàng ấy viết tên ta và nàng ấy lên mảnh vải ấy để làm tin. Chiều nay ta sẽ dắt huynh đệ qua đó gặp bọn con gái ấy..
- Có thật là như thế chăng?
- Là thật. Nhà ngươi không tin thì chiều nay ta dẫn người đến đó. Ngươi chọn lấy một nàng.
- Ta không hỏi chuyện đó. Là những chữ trên mảnh vải kia. Nhà ngươi họ Đỗ tên Thăng, cớ sao lại có chữ Dương trên đó?
- Ta không biết chữ nên mới nhờ nàng ấy. Mà tên ta là Dương Diện hộ sư tướng Đỗ Tồn Thăng. Có chữ Dương đấy.
- Dương Diện là mặt dê chứ đâu phải chữ Dương kia.
- Xằng bậy. Quân Sư huynh nói với ta, Dương Diện là mặt trời sáng rực giác ngộ tâm ta u tối.
Nói vậy, Chí Liệt mới chẳng nghi ngờ nữa. Đỗ Đại đi tuần núi nửa ngày, báo lại cho Chí Liệt thiếu chủ :
- Bẩm Thiếu chủ. Xung quanh phía nam núi này có nhiều hố sâu, ong lấy nó làm tổ đến cả trăm. Sĩ Giao sai ta cùng đám lính đi kiếm lá có, cành khô mục đánh đủ hai đống cao ở kia. Xin thiếu chủ liệu việc.
Chí Liệt nói với Đỗ Đại sai hai chục tên lính dọn sạch cỏ bụi dẫn đường đến những tổ ong ấy, cho người đi lại thật nhiều để đất ấy phẳng nhẵn như đường đi đã có từ lâu. Chí Liệt chia cứ hai lính một hố sâu đầy ong phủ lên lá khô và cành mục, lại lựa ra miếng gỗ dày mỏng khác nhau đi qua mỗi hố ấy. Một lối đi chắc chắn người giẫm lên cũng không rơi xuống, một lối đi chỉ cần giẫm nhẹ cả người sẽ rơi xuống hố đầy ong.
Sau giờ mùi, Chí Liệt cho quân phục tại mỗi hố ấy như đã định từ trước. Đỗ Đại cùng Gã Quỷ cùng hai mươi tên lính cởi bỏ hộ giáp, người nào người nấy bôi đất lên người, nhem nhuốc. Kẻ đóng khố, người áo quần xộc xệch, tay mang theo đoản đao, giáo ngắn hướng đỉnh núi phục sẵn ở đấy chờ đám con gái lên chỗ ấy giao hợp.
Đến giờ thân ba khắc, như lời Gã Quỷ nói đám con gái ấy đến lưng núi thì đám lính xô ra tóm lấy mỗi người một cô gái, còn hơn hai chục đứa túm tụm với nhau sợ hãi. Đám con gái thấy người lạ mặt hốt hoảng la toáng lên. Gã Quỷ nhảy ra dùng đoản đao kè cổ cô gái đi đầu, dọa lớn:
- Lũ con gái các ngươi. Im lặng! Không ta cho một đao chết cả lũ bây giờ. Ngoan ngoãn chiều theo ý bọn ta thì sẽ được sống. Đừng có để ta mang tiếng giết đàn bà.
Bọn con gái thi nhau cúi vái xin tha mạng. Nói rồi, Đỗ Đại ra hiệu cho mấy ả. Đỗ Đại giọng vang vang nói:
- Lũ con gái các ngươi. Không ở nhà lo liệu việc nhà, khăn nhung áo lụa thơm tho đến núi hoang này là cớ sao?
Có người con gái chỉnh lại áo tóc, dáng thướt tha, nước da trắng ngần như tuyết đỉnh Mẫu Sơn, tóc đen nháy tựa mun gỗ, đôi mắt ngọc xanh biếc bước tới, giọng yểu điệu sướt mướt :
- Bẩm các huynh đệ. Bọn tiểu nữ chẳng dám giấu. Ngày trước làng phía chân núi Đông Bắc trù phú, màu mỡ. Từ khi quan sứ Hành Lập về Giao Châu này, bắt trai tráng trong làng đi lính, đánh giặc Chà Và, Lâm Ấp, mọi rợ Man Hoàng, cả đám thanh niên trai tráng phải đi, số về thì thương tật, còn lại thì ở trong quân ngũ. Còn lại lũ con gái chúng tôi. Nơi đây, cả mấy vùng xung quanh đây cũng như vậy.
- Thế nên các ngươi đến đây tìm bọn cướp cho thỏa khao khát làm vợ hay sao? Bọn ta cũng là cướp đây. Đi theo bọn ta, có cơm ăn áo mặc, khỏi phải chốn chui lủi ở xó núi này. – Gã Quỷ trêu ghẹo đám ấy rồi cười ngặt nghẽo.
Cả đám cười lớn. Đỗ Đại quắc mắt nhìn khiến bọn lính im bặt.
- Ấy thế mà các ngươi bán mình cho giặc cướp hay sao?
- Nói ra chỉ sợ các anh hùng khinh bọn tiểu nữ. Bọn này cũng là chân yếu tay mềm. Đương đêm bọn chúng vào làng cướp phá. Lũ con gái chúng tôi cùng với người già, trẻ con sao có thể chống lại được. Thôi đành ngậm ngùi theo bọn chúng. Nay chẳng thể rời được.
Đỗ Đại toan thả bọn gái ấy ra. Thì thầm vào cô gái ban nãy nói điều gì đó rồi cho lệnh thả đám con gái ấy đi. Mặt nàng kia đon đả, lẳng lơ gọi bọn con gái ấy lên núi. Gã Quỷ thấy lạ hỏi Đại :
- Miếng ngon đến miệng, sao anh nỡ thả bọn chúng đi.
Mấy tên lính bứt rứt trong người toan đuổi theo đám con gái ấy. Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính lui lại. Mỗi người tìm lấy một gốc cây, tảng đá lớn để núp. Chưa đây một khắc sau, toán con gái ấy cởi bỏ xiêm y, mỗi người chọn cho mình một chỗ như đã định sẵn từ đầu. Có một cô gái còn chần chừ không cởi. Đỗ Đại sinh nghi theo dõi từng động tĩnh của cô gái ấy. Còn đám lính kia chằm chằm nhìn về bọn con gái đang ở trần với ánh mắt thèm khát.
Từ phía sườn trái xuất hiện chừng trên chục tên cướp kè kè bên mình là giáo dài, trường đao. Có tên dáng vẻ thủ lĩnh đi từ sườn núi phải sau đấy là mười mấy tên lâu la.
Bọn lâu la toan cởi quần áo chọn lấy cho mình một cô gái thì tên thủ lĩnh ấy gọi một tên khác lại gần bàn bạc to nhỏ. Ánh mắt đong đưa của cô gái ban nãy khiến Gã Quỷ không kiềm chế được tạo tiếng động lớn, cây thông gãy xuống. Cô gái khi nãy chưa bỏ xiêm y hét lớn lên :
- Các anh ơi. Bọn cướp vặt kia định giở trò đồi bại với tụi thiếp.
Hô lớn, Đỗ Đại cho đám lính nhảy ra, tay giữ chắc đoản đao cùng giáo ngắn. Gã Quỷ thét lớn :
- Lũ giặc cỏ các ngươi còn không chịu đầu hàng. Ta là Dương Diện Lão Quỷ Đỗ Tồn Thăng đây.
Tên thủ lĩnh đứng lên đầu ra hiệu cho đám lâu la tập hợp gươm giáo như muốn ăn tươi nuốt sống Gã Quỷ cùng bọn lính. Y cười lớn :
- Ra là gã mặt quỷ! Chui rúc đám quan lại Tống Bình mà làm tướng đây à! Ngày trước đánh nhau với huynh trưởng ta ở bến Bình Than chẳng suýt mất mạng, nay tới đây nạp mạng chăng.
Gã Quỷ gào thét khiến cây rung, chim bay toán loạn. Đỗ Đại quát lớn :
- Lũ cướp các ngươi còn không mau đầu hàng.
Nói rồi hai chục tên lính xông lên phía trước khua múa đao kiếm vờ như đánh. Bấy giờ đám lâu la giương gươm giáo toan đánh lại thì Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính chạy tứ phía theo đường mà Thiếu Chủ đã tính từ trước đó. Chạy được một đoạn thì cứ mỗi nhánh đường thêm hai lính chạy ra, chẳng mấy chốc số lính đông gấp đôi bọn cướp.
Nhìn vậy, tên thủ lĩnh huýt sáo cho bọn lâu la chạy lại. Có tên dáng người thấp tẹt, mũi to như quả cà chua, đầu quấn khăn vàng, mắt híp tiến đến thủ thỉ vào tai tên thủ lĩnh :
- Ta mắc bẫy chúng rồi.
Hắn cười lớn:
- Cái tên thất phu nhà ngươi! Phàn Du trước giờ dùng mưu giết chết bao nhiêu kẻ. Nay các ngươi dùng mưu cũ rích ấy đừng hòng giết được ta.
Nói xong, từ hai phía sườn núi bọn cướp từ đâu ra đến cả năm chục người. Đỗ Đại tỏ vẻ rụt rè hỏi :
- Các ngươi ai dám xông lên trên kia bắt cướp.
Cả đám lính bước lùi lại một bước, duy chỉ còn một tên lính còi cọc miệng há hốc. Dương Diện dùng sức hẩy hắn lên ngã dụi mặt xuống đất. Dương Diện thét lớn :
- Hèn quân. Hãy xem ta đây.
Gã Quỷ lao lên như tảng đá lăn ngược dốc, gã dùng dao quắm cắt đứt đôi cây thông lớn. Bọn lâu la cướp vẫn tiến lên, tên thủ lĩnh cầm cây nỏ bắn xuống phía dưới sượt qua đầu gã quỷ. Gã giật mình thấy tóc rơi xuống, hét lớn :
- Lũ cướp khốn nạn. Cậy trên cao lại có nỏ bắn. Có giỏi thì xuống đây đấu với ta so cao thấp, mạnh yếu.
Tên thủ lĩnh hò hét đám lâu la chạy xuống phía dưới hòng truy giết. Đỗ Đại cho quân rút lui như khi nãy trốn chay. Tên thủ lĩnh cười lớn, chạy đuổi theo, vừa chạy vừa nói lớn :
- Giờ thì xem các ngươi còn mai phục bằng gì ?
Tên lùn khi nãy gọi thêm một đám lâu la nữa đuổi theo trợ giúp tên thủ lĩnh. Đám lính chạy toán loạn, lựa đường chạy qua đám cỏ khô, lá khô. Bọn cướp đuổi theo khắp ngả ấy chạy đến những chỗ ấy, thấy bọn lính chạy qua được cũng đuổi theo qua đấy. Đám lâu la không biết chạy qua chỗ yếu, ngã thụt xuống những hố đầy ong. Được nửa canh giờ, bọn cướp người chết vì ong đốt, kẻ thoát được lên hố được thì cũng bị quân lính cầm đuốc từ xa ném vào mà chết cháy. Còn lại chừng mười tên lâu la và đám con gái chạy xuống núi toan tìm lối thoát thì bị đám lính chặn giữ lại. Hai tên cầm đầu bị trói dắt xuống chân núi.
Đêm ấy, Chí Liệt cho người tra khảo bọn lâu la bị bắt, không tên nào chịu khai đường vào động cướp. Chí Liệt cho giết bảy tên. Hai tên thủ lĩnh cứng đầu luôn miệng nói :
- Cha mẹ chúng mày. Dám lừa ông mày. Đại ca ta sẽ giết chết hết lũ chúng mày.
Hai tên ấy gào thét đến nửa đêm thì đói lả đi. Gã Quỷ uống rượu rồi đùa giỡn với một đứa con gái mà gã giữ lại, trước mặt hai tên thủ lĩnh. Gã rót rượu vào bát rồi đưa lên miệng đưa cho tên thủ lĩnh người cao lớn. Y nhổ nước bọt vào bát ấy, Gã Quỷ giận lên đập bát vỡ, lấy mảnh vỡ lên rạch vào lưng y. Y không nhúc nhích, mặt căng lên như sắp nổ, đôi hàm nghiến chặt ken két. Gã Quỷ hét lớn vào mặt y :
- Là nhà ngươi muốn vậy. Lính đâu lôi ả người tình của hắn kéo lên đây.
Gã Quỷ định lột sạch quần áo trên người ả xuống thì Chí Liệt dùng gậy gõ vào đầu hắn :
- Ngươi lại định làm điều xằng bậy gì nữa đây ? Còn không mau đi kiếm quân sư về đây. Nửa đêm rồi, chưa thấy đệ ấy về. Không biết là có xảy ra điều gì không nữa.
Có tên lính hớt ha hớt hải chạy từ phía Bắc về, chân tay lẹo khẹo vấp phải gốc đa nổi trên mặt đất. Mặt tím tái tên ấy thở không ra hơi nói :
- Bẩm chủ tướng ! Quân sư chở vàng bạc châu báu qua chân núi phía bắc thì bị toán cướp ấy xông ra cướp. Cả người và ngựa giờ không thấy tăm hơi.
Chí Liệt đấm vào tay mình, tự nói với mình :
- Quả nhiên, Sĩ Giao liệu tính như thần. Giờ chỉ còn…
Đỗ Đại từ phía chùa dưới chân núi chạy về báo:
- Bẩm thiếu chủ. Khi tối, đám lính dò đường đi cùng hai đứa con gái và tên lâu la đã tìm được đường vào động cướp.
- Thế tên lâu la ấy đâu?
- Ta dọa hắn, hắn sợ quá ngã xuống núi mà chết rồi. Còn hai ả kia ta tha cho về làng cũ rồi.
- Vậy ngươi cùng ta đi ngay lối đỉnh núi rồi sang bên động. Mở một lối để tướng sĩ rút thật nhanh. Chúng ta đột nhập động ấy mà bắt sống bọn cướp. Gã Quỷ cầm một trăm lính tức tốc đến chân núi phía bắc cùng Sĩ Giao giải vây đánh hai mặt vào động ấy. Ắt chúng sẽ bại.
Nói rồi, Chí Liệt dẫn theo một trăm lính mở đường lên đỉnh núi từ sườn nam, đến đoạn có nhiều bàn đá thì chia đôi đường. Đỗ Đại dẫn năm mươi lính đi sườn phải, Chí Liệt dẫn năm mươi lính đi sườn trái. Tay cầm đuốc, tay cầm đoản đao, giáo ngắn bọn lính hô hào, chí khí ngút trời.
Bọn cướp trong đêm bị tập kích bất ngờ, không kịp trở tay, nháo nhác tìm vũ khí chống trả lại. Đám lính lại ném đuốc vào những chỗ dễ cháy, gió đông nam theo sườn núi khiến lửa bén nhanh, chẳng mấy chốc đã thiêu rụi toàn bộ lều tranh của bọn cướp. Chí Liệt giương cung bắn hạ cờ xí của toán cướp trên đỉnh núi. Cờ rơi xuống đống lửa mà cháy tiêu tan. Lúc ấy có hai tên mặt dữ như cọp chạy tới chỗ Chí Liệt, một tên hơi thở còn nồng nặc mùi rượu, ria mép lếch thếch như con mèo ăn vụng, mồm méo xệch nói giọng của người phía tây sông Đáy, đều đều mà không phân biệt nổi thanh tiếng:
- Cái lũ kia ! Đang đêm dám xông đến đây đốt phá. Bọn mày không muốn sống nữa chăng?
Chí Liệt nói lớn :
- Ta là An Dương thiện tướng, người Hoan Châu dòng dõi Dương gia. các ngươi còn không mau mau đầu hàng.
Cái tên mặt lông mày rủ xuống quặp lấy hai bên sẹo ở đuôi mắt, mặt lúc nào buồn rười rượi nhìn như chó vùng Tây Lương, hắn nheo mày càng hiện lên nhiều nếp nhăn, giọng nói huênh hoang :
- Cái lũ phản chủ họ Dương. Chúng mày không biết bọn này là thế nào không mà dám đến đây phá phách. Ta đây là Đại Bạch Hổ Ngũ Tử Hùng.
- Lục Bạch Hổ. Cả cái vùng Lĩnh Nam này chỉ nghe thấy tiếng thôi là tỉu ra quần rồi. Bọn trẻ con quấy khóc chỉ cần nhắc đến cũng nín thinh. Ta đây đại danh Nhị Hổ Giang Hoài – Cái tên mặt như mèo vụng vỗ ngực, mặt vênh vênh.
Chí Liệt cười lớn :
- Lục Bạch Hổ á? Nghe lục súc thì hợp với bọn bay hơn. Bọn bay thằng thì lùn thấp, mặt con lợn, đứa thì lạch bạch, giọng quang quác như gà vịt. Lại thêm hai cái mặt nhà các ngươi nhìn khuyển hoang, mèo dại. Hổ cọp cái nỗi gì !
Đỗ Đại cùng đám lính ùa theo cười hả hê.
Có tên lâu la đứng cạnh ấy, cái khố đùm còn lộ nguyên đôi mông trắng, chổng lên trời mà khoe :
- Mẹ chúng mày. Có biết đây là gì không?
Đỗ Đại xông lên, đạp thẳng vào mông hắn một cái dúi dụi. Tên thủ lĩnh mặt nhăn lấy dao găm trong tay áo, rạch phanh áo ra mà khoe từng thớ vằn trên người. Hắn gầm gào, đôi tai nhúc nhích. Đôi tay mang đôi Lưỡng long thần trảo sắc lẹm chém tảng đá vỡ làm năm mảnh. Hắn lại gầm gừ, đôi mắt sọc lên như hổ dữ xông thẳng vào Chí Liệt mà chém giết.
Chí Liệt lùi lại, rút gươm ra đấu với hắn. Đánh qua đánh lại hai chục hiệp thì gã xô Chí Liệt ngã ra đất. Tên còn lại dùng cung toan bắn Chí Liệt thì Đỗ Đại xông cầm đoản đao phi trúng gãy đôi cây cung. Tên ria mép lệch xệch ấy lại dùng Hỏa phụng trượng xông tới đánh với Đỗ Đại.
Chí Liệt đứng dậy xuống tấn dùng xà quyền lựa theo thế võ của tên thủ lĩnh kia mà đánh. Đánh được gần trăm hiệp thì Chí Liệt nhặt kiếm lên chém thẳng vào đôi Long thần trảo. Ánh kiếm trong lửa sáng lòa đôi mắt của tên thủ lĩnh kia, hắn đứng thế tựa hổ ngồi đỡ đòn. Kiểm sắc gẫy đôi khiến Chí Liệt giật mình. Chí Liệt nghĩ trong đầu chẳng thể đấu lại hắn, toan tìm kế mà trói hắn lại. Chí Liệt chạy tới một gian nhà tranh còn chưa bị cháy trốn đi. Hắn gầm gào đuổi theo nhanh như cọp rình mồi, gã đạp thẳng cửa xông tới. Đôi chân găm năm móng sắt, hắn trèo nhanh nhẹn lên kèo nhà toàn tìm Chí Liệt. Chí Liệt từ trên mái nhà dùng giáo đâm thẳng xuống vai hắn. Hắn né được, dùng chân với vuốt sắt toan đạp trúng bụng Chí Liệt. Thiếu chủ rơi nhanh xuống dưới tránh được đòn hiểm. Chàng dùng đoạn kiểm gãy, toàn bộ sức lực dồn đầu kiếm chặt gẫy cột nhà khiến bờ tường vỡ vụn. Hắn ngã làm cái rầm, phía bên ngoài Đỗ Đại dùng gậy vụt trúng đầu hắn thì tên thứ hai dùng trượng nhảy tới đánh sượt qua vai Đỗ Đại. Hai người cùng chạy ra ngoài, trước sau hợp nhất tạo thế Long Phượng tụ quần. Hai tên cướp hung tợn miệng méo xệch nhìn với ánh mắt dữ dằn lại xông tới muốn giết ngay Chí Liệt và Đỗ Đại. Bốn người đánh qua đánh lại thêm hai trăm hiệp nữa vẫn chưa phân thắng bại.
Lửa cháy mỗi lúc một lớn hơn, Chí Liệt cho quân rút theo đường đã mở từ trước. Đoàn quân rút đến sườn núi phía nam, bọn cướp cũng kịp chạy tới chỗ đấy. Có tiếng hô hào lớn từ chân núi phía Đông chạy sang, nghe ra giọng Gã Quỷ, Đỗ Đại cho quân dạt về hai bên. Toán cướp nghĩ là quân lính trốn chạy, viện quân của mình chạy đến đứng lại cười lớn :
- Lũ quan quân hèn nhát. Phen này bọn mày sẽ biết Lục Bạch Hổ thế nào!
Có tên lâu la hớt hải chạy lại, cầm đuốc ném thẳng vào chân tên Đại Hổ. Hắn lắp bắp hoảng sợ :
- Là… là gã Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng.
Tên Đại Hổ biết chẳng còn đường lui sai đám lâu la quyết liều chết một phen. Đánh được nửa canh giờ thì toán cướp chết đến hơn nửa. Số còn lại đầu hàng, quân lính bắt giữ trói lại giải về thành Luy Lâu đến tám chín chục tên. Tên Đại Hổ cùng với Nhị Hổ đánh với Chí Liệt cùng Đỗ Đại được năm mươi hiệp thắng thế, toan chạy trốn thì bị Lão Quỷ giật bẫy tóm gọn cả hai. Thừng thít chặt đến mức nghẹt thở khiến bọn chúng không thể nhúc nhích. Sáng ngày sau, Chí Liệt sai lính giải hai tên ấy cùng hai tên bị bắt khi chiều trên núi.
Lại nói về Sĩ Giao, đêm ấy, chàng cùng đoàn tùy tùng khoảng chục người vờ vận chuyển vàng bạc đi đường qua chân núi phía bắc. Lại sai năm mươi lính phục sẵn dưới con kênh gần đó, hễ toán cướp đi từ phía bến Bình Than thì chặn đánh. Năm mươi lính mai phục từ dòng kênh phía bắc khi nào lửa đốt trên núi Lạn Kha thì xông ra đánh giết cướp. Còn lại bốn mươi lính phục dưới làng giữa khe núi chờ lệnh.
Đêm đó, Sĩ Giao bị tên thủ lĩnh sẹo xẻ ngang vai, đám lâu la gọi là Hống Sửu bắt. Sĩ Giao bị trói vào gốc cây thông lớn chân núi phía Bắc. Một tên lính vờ đau bụng đi tiện thì nghe tiếng hô hào từ trên đỉnh núi giữa đêm. Đám lâu la toán cướp hỗn loạn. Tên lính ấy dùng dao cắt đứt thừng trói Sĩ Giao. Sĩ Giao ra hiệu cho quân lính đánh từ phía bờ kênh lên chân núi, chém giết một trận. Đến giờ thìn trời sáng, nửa núi phía bắc cháy rụi, bọn cướp, đứa bị cháy, đứa bị lính dùng thương đao chém bốn phần chết ba. Hai tên thủ lĩnh đứng đầu bị Chí Liệt bắt sống. Bốn tên thủ lĩnh bị bắt, đứa nào đứa ấy mặt giữ tợn như cọp, lại có bớp trắng từ cổ lên đến gáy, vằn đen như da hổ nên mới gọi là Bạch Hổ. Sáu tên cả thảy, còn hai tên kẻ đã chạy trốn. Đả bại toán cướp ấy, Dương Chí Liệt được dân vùng ấy tụng là Đại hổ Bình Nam, ngày rằm mồng một lên chùa chân núi phía nam thắp hương thờ sống, dân chúng vùng ấy có bài thơ mà khấn rằng:
”Bình Nam đả hổ cứu người
Uy vang lừng lẫy khắp trời Lĩnh Nam.
Kể rằng dân đói lầm than,
Thương nhân khiếp hãi, quân quan ngậm ngùi.
Làng trên xóm dưới lửa thui
Núi cao sông lớn dập vùi dưới chân
Gái trai lớn bé xa gần
Hễ nghe tiếng ấy mà dần chạy xa
Lúa còn son sắt lụa là
Trâu thời bú mẹ, đàn gà còn thơ
Hôm nào sáng sớm tinh mơ
Một đàn hổ quạ chẳng chừa một ai
Cô nàng yếm áo sờn vai
Anh chàng khố rách soạn bài thơ hay.
Cầm cày, hái lúa mỗi ngày
Chuối kia em bón, bòng này anh chăm.
Ở đâu hổ báo, rắn trăn
Ngày qua phá ruộng, nong tằm cháy khô.
Chuối chưa chín, bòng chưa to
Giặc kia kéo đến xéo cho nát nhừ
Dòng trong nước chảy lững lờ
Tay chèo, tay kéo những giờ trăng lên
Líu lo trên bến dưới thuyền
Cá tôm tanh tách chim khuyên mừng lòng.
Bỗng đâu ngạc quái giữa dòng
Xô người chèo lái, lại hòng cướp ngư.
Than ôi cái phận thủ từ
Sớm chiều quét lá cùng sư kinh thiền
Chúng dân thương xót cùng quyên
Trăm đồng, một nén chút tiền nhang hoa.
Ấy rồi hổ báo lại qua
Phật rơi nước mắt, lệ nhòa đôi vai.
Liệu ai đủ dũng đủ tài,
Đánh tan hổ báo ương tai bớt dần?
Bình Nam chẳng quản tấm thân
Ngày đêm phục kích đỡ dần tiếng than
Đêm kia động cướp hoang tàn.
Quân sư mưu trí, Bình Nam nghệ tài
Tồn Thăng võ dũng giương oai
Lão ngư Đỗ Đại sức ai địch bằng.
Lưỡng hổ cậy dũng hung hăng
Bình Nam khéo bẫy san bằng núi Tiên.
Nay thời giặc cướp đã yên
Thành tâm kính bái dâng lên thánh hiền.”
Diệt xong giặc cướp khét tiếng vùng đông du, dân chúng vùng ấy hả hê lắm. Trẻ con, người già đi lại thấy yên lòng. Những con buôn, thổ hào cũng thở phào vì đường gần dễ đi mà chẳng sợ cướp. Vàng bạc của cải bọn cướp cất giữ Chí Liệt đem chia hết cho người dân vùng ấy. Chùa chiền, đền miếu không kể lớn bé cứ quanh đó năm mươi dặm cũng được tu sửa bằng tiền ấy.
Ngày đẹp cuối tháng tám, Đỗ Đại nhận lệnh về huyện Chu Diên nhậm chức. Sĩ Giao ngồi dưới gốc thị chùa Kiến Sơ nhìn về núi thiêng ấy mà thở dài. Chí Liệt hỏi :
- Thù nhà nợ nước đã trả. Quân sư sao vẫn thở dài?
- Chẳng giấu gì huynh tướng. Từ ngày Đỗ Gia Trang bị thảm sát, tám anh em chúng tôi chia đôi ngả đường. Sĩ Giao tôi, huynh trưởng Đỗ Đại, em trai Sĩ Hoàng cùng tâm phúc Đỗ Dụng ngược dòng Vân Cừ thì bị cướp. Đỗ Đại cùng ta chạy về được Giao Châu, lấy đất Luy Lâu làm ruộng, chài lưới nơi sông Cái, sông Thiên Đức cho đến nay cũng đã quá ba năm. Sĩ Giao may mắn được qua lại La Thành, ra vào trị sở Tống Bình. Lúc nguy nan lại được chủ công cứu giúp. Nay nghĩ về Đỗ Dụng và em trai thiếu may mà thấy buồn thay.
- Chí trai muôn phương vùng vẫy. Sinh ly tử biệt biết mấy thì. Quân sư chớ phiền lòng. Cùng ta lên núi Tiên Du vãn cảnh kiếm vui chăng?
Sĩ Giao cùng Chí Liệt thúc ngựa đến núi ấy, ngắm cây hoa, cây liễu làm vui. Trên đoạn đường về, hai người gặp đám hòa thượng đang cùng kéo mấy xe gỗ nặng trĩu, lại cả đá thạch kỳ quái. Chí Liệt dừng lại hỏi đám ấy :
- Chẳng hay những thứ này các tăng chở đi đâu?
- Chúng tăng đi từ Tiên Du mang về Đại tự hương Phù Đổng. Núi ấy nhiều dị thảo kỳ hoa mọc trên đá, sư phụ kêu chúng tôi tới đó mang về.
Sĩ Giao đi một vòng quanh đám tăng nhìn thấy tảng đá dáng hình như đầu Rồng, lại có hai cây mọc ra như râu Rồng. Thạch diện có những nếp đỏ kỳ quái như văn tự cổ. Sĩ Giao hỏi đám tăng ấy:
- Đá này các tăng lấy ở đâu?
- Bọn tăng tôi lên đỉnh núi Tiên Du lấy xuống. Xưa có toán cướp ở đó dân chúng quanh đó chẳng ai dám lên núi ấy. Nay nhờ ơn Dương tướng quân diệt bọn ấy mà chúng tăng mới lên núi ấy kiếm về.
- Chẳng hay các tăng có thể tặng hai chúng tôi tảng đá này. Ta tặng các tăng một con ngựa đỡ sức kéo.
Đám tăng ấy bàn bạc một hồi, nói với Sĩ Giao :
- Hai vị thông cảm cho chúng bần tăng. Hay là hai vị cùng chúng bần tăng về Đại tự, trụ trì đồng ý thì sẽ tặng cho hai vị.
Hai người đi theo đám tăng ấy đến Đại tự kia, như đoán được trong đầu thì đúng là Đại Đường Nam tự. Sĩ Giao đứng xuống ngựa nhìn lại cảnh chùa một hồi lại hỏi :
- Có phải là Đại Đường Nam tự do vương tử Lý Đạo Cổ dựng chăng?
Có người bước từ hữu viên đại sảnh bước ra, giọng trầm mặc :
- Đại Đường Nam tự chính đây. Vương tử Đạo Cổ nơi xa không hay, quan sứ Tượng cổ chẳng còn thây. Chẳng phải hai người ngày nạp phật của Đại tự đã tới đây.
Chí Liệt giọng nói vang vang :
- Bọn giặc ấy, chữ vương tử nghe mà trướng tai.
Đám hòa thượng bảo nhau chạy vào hậu viên, chỉ còn lại vị cao tăng mặt đẹp như phật kia ở lại cùng hai vị tướng quân. Vị tăng ấy nói :
- Chốn phật môn, không phân biệt kẻ mạnh người yếu. Đức Phật từ bi có đức hiếu sinh mở lòng đón nhận mọi lòng thành.
Chí Liệt tức giận, mặt đỏ phừng phừng, tay nắm chặt dây cương quay ngựa ra phía cửa tự. Chí Liệt quay mặt lại mà hỏi:
- Ta nghe nói nhà ngươi là Đại thiền sư đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, tinh thông kinh phật, ngày ngày giảng giải đạo lý cho chúng dân phật tử. Cớ nào lại mê kỳ hoa dị thảo, sai đám tăng đi lên núi cao mà tìm kiếm thứ ấy.
- Nam mô a di đà phật. Phật tổ chứng niệm. Bần tăng đầu nào có tâm vị kỷ mê muội. Nơi ấy muôn thú chim muông hãi hùng đám giặc cướp, cỏ cây hoa lá chốn ấy cũng vì thế mà sinh ra kỳ dị. Chúng tăng mang chúng về đây chẳng có lòng khác, chỉ mong hướng chúng đến bản thiện như khi chúng được sinh ra, ấy rồi lại trả chúng về với nơi ấy cho muôn thú, chim muông có bạn có bầu.
Chí Liệt nói :
- Ra là như vậy. Ấy thế mà đám tăng đi lấy đá kia nói về hỏi sư ngươi đồng ý mới tặng cho ta đá ấy. Thế cớ làm sao?
- Đám đệ tử ấy là mong hỏi ý Phật. Tâm trong sáng Phật ý nghiêng lòng. Nay thấy Tướng quân khảng khái, tính tình bộc trực lại không mang xà tâm. Ý Phật đã nghiêng, mời hai vị tướng quân mang đá ấy về.
Như lời đã nói, Sĩ Giao tặng cho tự ấy một con ngựa khỏe. Hai người mang đá ấy về La Thành. Dương Thanh lấy làm kỳ lạ hỏi Sĩ Giao:
- Các ngươi mang mấy trăm lính đi bắt giặc cướp. Nghe rằng cũng hao tổn vài phần sức lực sĩ tướng.
Sĩ Giao bẩm lại :
- Giặc dữ trong thành, đồn trú thì dễ đánh. Bọn trộm gà cướp chó thì không đáng để bàn. Bọn cướp này tổ chức bài bản, kỷ luật nghiêm minh lại hung tợn hơn quân tướng nhà Đường gấp đến vài lần, lấy một mà địch được năm sáu, chém giết chẳng chút nương tay. Quân sĩ vừa trải qua chiến đấu ác liệt, bọn ấy lại dựa địa hình, thời tiết mà cản bước quân ta. Cũng vừa xảy ra chuyện hương Phù Đổng nên thành ra mới vậy. Mong chủ tướng minh xét.
Dương Thanh nghe Sĩ Giao phân trần cho là phải lẽ nên không dò xét. Sĩ Giao bàn tiếp với họ Dương:
- Sĩ Giao thấy rằng. Đám người đến Đại tự hương Phù Đổng kia, chẳng phải bọn tiểu nhân tầm thường. Chí Liệt thiếu chủ cũng đã nhìn thấy và báo lại cho chủ công. Mong chủ tướng sớm cho tra xét tránh hậu họa.
Dương Thanh cười lớn:
- Quân sư quá lo lắng rồi. Ta đã phái người giả làm chúng đệ tử để dò la tình hình. Chẳng hay viên đá này là như thế nào?
- Bẩm chủ tướng cùng thiếu chủ. Đá này bề ngoài có vẻ thô ráp xấu xí. Nhưng để ý kỹ một chút, dưới lớp ráp thô này là ngọc bích nảy mầm ra cây tạo thành râu rồng. Ấy là điềm lạ thứ nhất. Chủ tướng xem hình dạng nó, phía trên nhô cao như sừng của loài rồng, đôi mắt chính đây hai ụ lồi to, chỉ cần bóc lớp màng đá này ra sẽ là hai con mắt xanh ngọc. “Long Diện” lại có sọc thắng kẻ xuống đến “Long khẩu”, chính là chỗ này, ấy là mũi rồng. Mà rồng là biểu trưng của vương quyền. Chẳng phải chính là điềm báo tốt cho chủ công?
Dương Thanh nhìn lại viên đá ấy một lượt, hỏi Sĩ Giao :
- Có lẽ là Long Thủ, ấy nhưng lại có những nét nguệch ngoạc màu đỏ phía chính diện này có vẻ giống chữ viết của tiền nhân. Theo quân sư thì ta nên để viên đá này nơi nào?
- Phía cổng nam La Thành, đi hướng về hương Phù Đổng chừng hai trăm bước có kênh nước chẳng rõ nguồn từ đâu, có tự bao giờ nước trong vắt chảy vào trong lòng đất quanh năm không thấy cạn. Tiểu nhân nghe dân gian có huyền tích rồng trẫm mình chốn ấy mà tạo thành dòng nước ấy. Nay có đầu rồng chốn này, chọn ngày lành tháng tốt mời nhà sư đến, soạn sửa lễ vật, sai mười tám trai tráng trong thành ra ấy mà dâng lễ làm tế nhập thân cho rồng. Long này ngự ở cổng Nam La Thành vừa hợp với phận của chủ tướng.Ý rằng chủ công là người Nam, tổ tông lại ở phía nam đất ấy. Rồng phía nam ấy chính là ứng vào người đó.
Dương Thanh cười lớn. Hỏi Sĩ Giao :
- Chẳng hay mời sư thầy nơi nào? Ta có đọc chút thiên văn, thiên tượng nhưng vẫn muốn hỏi quân sư chọn ngày thế nào?
- Bẩm chủ công. Nay chủ công nắm Giao Châu, Đường triều xa xôi ngày một ngày hai chưa thể đến ngay, nhưng ắt sẽ đến nên không thể để lâu. Tiểu nhân bấm được ngày mùng tám canh ngọ là ngày hoàng đạo. Nhân dịp ấy mà thử lòng bọn tăng nhân Đại tự hương Phù Đổng.
- Quân sư thật hợp ý ta. Hai ngày nữa, Chí Liệt cùng quân sư soạn sửa lễ vật, chọn lấy lính tráng mà làm lễ tế. Nghe rằng từ Hát môn xuôi dòng Đáy chừng ba chục dặm đường, phía hữu ngạn có đất gọi là Phụng Châu, nơi ấy lại có thợ đục đá giỏi nhất. Sĩ Giao sai người mời người ấy về để tạc đá Long Thủ. Về phần sư thầy, ta cũng định mời đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng để xem lòng dạ bọn chúng thế nào.
Lại nói những ngày Chí Liệt diệt cướp ở núi Lạn Kha, Dương Thanh sai Triệu Hoằng cho người đóng giả kẻ học đạo về chùa Đại Đường ấy mà do thám tình hình để báo cáo lại cho Dương Thanh. Triệu Hoằng bản tính tham lam, yêu vàng bạc châu báu nên mấy tên quan lại ngày trước dưới trướng Lý Tượng Cổ đút lót cho hắn mỗi người mấy lượng vàng để được về chùa ấy nghe ngóng.
Nghe tiếng chùa ấy lớn, gỗ, gạch sơn ngói đều được rát vàng, thếp bạc, lại có vị cao Tăng tu ở đấy, nên đám dân chúng, con buôn khắp Giao Châu này về lễ lạc thật nhiều. Thấy như miếng thơm ngon nên càng có nhiều kẻ tranh nhau xin đi tới đó. Triệu Hoằng nhận lời, phái đi cả thảy bảy người. Được hai ngày, kể từ ngày Chí Liệt dẫn viện quân hai trăm lính đến Tiên Du, ba người bị chùa ấy từ chối không nhận làm phật tử, không cho nghe giảng kinh phật.
Triệu Hoằng bẩm báo lại cho Dương Thanh, Dương Thanh cho gọi ba người ấy đến dò hỏi:
- Các ngươi làm việc gì sai trái nơi cửa chùa mà để chùa ấy không nhận.
Có tên người mập mạp, da trắng bủng beo tiến lên mà bẩm :
- Bẩm chủ công. Chúng tôi tới chùa ấy cả thảy bảy người. Sau khi khai danh báo tên thì được một nhà sư nói giọng Quỳnh Châu dẫn ra một lối sau chùa dặn dò. Nói rằng chùa nhỏ, phật tử đông, xin chúng tôi về, sau này có dịp thì tới báo danh lần nữa.
- Hay bọn ấy tham của đút lót mà các ngươi không cho tiền bọn ấy?
Một tên dáng thư sinh bẩm lại :
- Triệu Đại nhân có dặn dò chúng tiểu nhân nhưng khi ở chùa, bốn người kia được nhận vào chùa thì nói lại với chúng tiểu nhân là không cần phải đút lót cho bọn ấy. Sau khi biết không được vào chùa học kinh, tiểu nhân cũng có gặp riêng vị sư ấy đút lót cho chút tiền nhưng vị ấy không nhận. Lại nói, có nhận tiền cũng không thể giúp được.
Ngày hôm sau, lại có một tên trốn khỏi chùa ấy về báo lại cho Triệu Hoằng. Hoằng bẩm lại với họ Dương. Dương cho gọi kẻ ấy lên. Giọng nói tên này không phải người Tống Bình, mặt mũi thâm tím như vừa mới bị đánh đập, Dương Thanh hỏi hắn :
- Nhà ngươi dò la tin tức gì chăng? Mặt mũi tại sao lại ra như thế?
Hắn lấm lét mặt, giọng run run :
- Bẩm Thiên thanh tướng quân. Bọn chúng nhiều kẻ không ăn chay, uống rượu, lại luyện võ suốt ngày. Đêm qua, tiểu nhân còn nghe được bọn chúng thì thầm to nhỏ thì bị bắt đánh cho thâm tím mặt mũi. Cũng may có vị tiểu hòa thượng cứu giúp nên mới chạy được ra ngoài.
- Nhà ngươi là người ở đâu? Tên họ là gì? Làm việc gì ở Tống Bình.
- Bẩm tướng quân. Tiểu nhân họ Ngô, tên Dụ, thân mẫu sinh tiểu nhân vào ban ngày nên vẫn gọi là Nhật Dụ, hiện đang là đốc mã Giao châu. Được giao quản lý số lượng trâu ngựa vùng Giao Châu này. Tiểu nhân sinh ra tại đất Đường Lâm. Tổ tiên ngày trước người quận Nam Hải, đất Phiên Ngung của Việt Vương thời chiến quốc, đến Ái Châu cầy cấy đến nay cũng được năm đời.
- Ra là thế. Ngươi có sợ chết không?
- Bẩm chủ tướng. Làm người ai chẳng sợ chết. Tiểu nhân cũng có gia đình, trên cha mẹ già, lại chưa lập gia thất, càng không muốn chết.
- Sao lại phụng sự dưới trướng tên ác nhân Tượng Cổ?
- Là phận tôi tớ, tiểu nhân không dám bàn.
- Ta nghe lời người khác nói Triệu Hoằng ăn đút lót của mấy người đến Đại tự hòng kiếm lợi vậy? Ngươi nghĩ làm sao?
- Là chủ tướng xin chủ công chớ vì những lời rèm pha mà nghi kị kẻ dưới.
- Nhà ngươi có hay không đút lót cho Triệu Hoằng. Hắn nói với ta nhà ngươi lòng dạ thật thà. Nhưng hắn lại sợ ngươi là người từng dưới trướng Tượng Cổ nên cũng có phần e dè.
- Nếu là Triệu đại nhân có lòng nhận của đút lót thì kẻ nào hám lợi cũng nhìn thấy điều ấy mà đút lót. Còn phận làm tôi tớ, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh trên.
- Thế trên ngươi còn có ai ?
- Bẩm chủ tướng ! Trên tiểu nhân còn có Liễu tá đại nhân Đặng Khả.
Dương Thanh nghĩ một lúc, cười lớn :
- Là tên Liễu tá giữa chợ La Thành, một mình mắng chửi hai thằng cháu của Tượng Cổ mà tên quan sứ ấy chẳng thể làm gì được? Ngươi làm đốc mã, động cơ gì muốn đến nơi Đại tự ấy.
Tên ấy lúm khúm bẩm lại :
- Là Đặng đại nhân nói với tiểu nhân. Lần này đến ấy, có cơ may thì tiểu nhân sẽ trúng lớn. Ấy thế mà tiểu nhân xin đi.
Dương Thanh mặt nghiêm nghị, nói lớn:
- Ta biết dạ nhà ngươi rồi. Thưởng cho ngươi hai lượng bạc. Cho nhà ngươi lui. Hễ có gặp họ Đặng ấy thì chuyển lời cho hắn như vậy là hòa vốn rồi.
Thấy dáng vẻ cậu ta có vẻ đường hoàng, trả lời những câu hỏi của Dương Thanh đâu ra đấy, đáo để đến kinh ngạc, Thanh lấy làm mến mộ lắm.
Dương Thanh hỏi Triệu Hoằng về cái tên Nhật Dụ này. Hoằng cho biết, ngày hôm trước, Dương Thanh sai Triệu Hoằng đi dò la Đại Đường tự thì Đặng Khả đại nhân có đến giới thiệu cậu ta cho Hoằng. Cậu ta năm nay mới tròn mười lăm mà dáng người vạm vỡ lớn hơn những thiếu niên tuổi ấy, tinh thông tính toán từ khi lên mười, được cha cho theo học ông thầy người Trung Nguyên tại hương Sơn Ổi, huyện Quân Ninh, Ái Châu. Nghe nói ngày trước, đất ấy có ông thầy người Trung Nguyên đến, thấy đất linh ứng mà mở lớp dạy học. Sau này học trò nơi ấy có vị tiến sĩ làm tới Tể phụ Đường triều thời Bố Cái Phùng Hưng.
Dương Thanh trộm nghĩ "Tuổi trẻ mà đã có tài, sau này ắt có tương lai sáng lạn. Hy vọng trời giúp ta, cho ta nhiều hơn những nhân tài như vậy."
Chợt nghĩ, Dương Thanh nhận tin quân báo về:
- Bẩm chủ tướng. Ngoài trấn Hải Môn báo về, quân sĩ nhà Đường đã lui về Ung Châu, một phần lớn lực lượng đã rút hẳn về Quế Châu.
Dương Thanh cười sảng khoái, giọng đầy hào khí :
- Đúng là đám thối nát, rụt cổ rùa. Còn việc gì nữa hay không?
- Bẩm chủ tướng. Phía Đường triều cho sứ ban chiếu sắc phong chủ tướng làm thứ sử Quỳnh Châu. Hiện viên sứ Lỗ Hạo đang bị giữ lại ở trấn Hải Môn.
- Các ngươi mau dẫn quan sứ ấy tới đây. Các ngươi không được thất lễ. Trên đường tới đây, các ngươi đối xử tử tế với y chứ?
- Bấm chủ tướng. Thiếu chủ Chí Trinh đã có dặn dò lũ tiểu nhân. Hiện viên sứ ấy đang cùng thiếu chủ ở Hải Môn trấn.
Nửa ngày sau, Chí Trinh dẫn y về tới phủ. Dương Thanh sai lính giăng đầy giấy vàng mã khắp từ bờ bắc sông Thiên Đức qua cổng nam La Thành vào đến tận phủ. Thêm đó là các nhà trong thành đều treo cờ rủ trước cửa nhà. Viên sứ ấy thấy điều ấy làm lạ, liền hỏi Chí Trinh :
- Dương tướng quân này. Sao thành phủ lại giắc đầy vàng mã như vậy?
- Đại nhân không biết đấy thôi. Những ngày qua tướng phụ mắc bệnh lạ, người lúc nào cũng rầu não mà suy nhược đi nhiều. Người lại sợ trong thành có nhiều linh hồn chưa siêu thoát nên sai bọn tiểu nhân làm vậy để nhẹ thấy thanh thản với những người đã chết, cũng là đuổi trừ ma tà trong dân. Người hiện giờ đang ốm o nằm một chỗ, e là chẳng thể ra tiếp đón được ngài từ phía xa.
Viên sứ ấy cùng Chí Trinh vào trong phủ thấy Dương Thanh nằm trên giường, miệng há hốc, đôi mắt đờ đẫn, môi thâm sì. Y lại gần định hỏi thì Chí Trinh gàn lại :
- Ấy Lỗ Đại nhân. Người đường xa tới đây. Hãy cứ nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Bệnh của tướng phụ là kiểu phong hàn xứ nam, người từ xa tới rất dễ mà bị truyền sang.
Lỗ Hạo nghe vậy liền lui ra. Kéo Chí Trinh ra một góc mà nói :
- Bệnh này chờ trị xong có lâu hay chăng?
- Sớm nhanh chóng khỏi thì cũng phải ba ngày, mà lâu cũng đến cả tháng. Các lang sĩ nói với tiểu nhân tướng phụ có khỏi cũng phải hai tuần nữa mới dậy được. Tướng phụ lại chẳng chịu ăn uống gì nên là…
Chí Trinh thở dài. Lỗ Hạo lắc đầu, lại gọi tên tùy tùng vào mà bàn. Bàn xong, Lỗ Hạo lại hỏi:
- Dương Thanh như vậy thì ai cầm đất Giao Châu này?
- Chẳng giấu gì. Tướng phụ lại giao hết việc chính sự cho Đỗ quân sư. Còn việc Binh tướng là tiểu đệ của tiểu nhân Chí Liệt.
Lỗ Hạo ghé tai thì thầm với Chí Trinh:
- Dương Thanh thế kia thì chẳng biết có thể qua khỏi hay không. Hai người kia ta nghe nói cũng chỉ là hạng tầm thường, chẳng thể sánh được với Chí Trinh huynh đệ. Nay bản sắc phong này trong tay ta. Đêm nay canh ba…
Bỗng có tiếng ho sặc sụa từ phía giường trong. Chí Trinh quay vào nâng gối cho Dương Thanh. Lỗ Hạo chạy tới nói lớn :
- Này Dương Thanh kia. Triều đình có chiếu ban tước cho ngươi.
Dương Thanh hắng lên một hồi rồi thều thào trong vòng tay của Chí Trinh:
- Thật là thất lễ với Lỗ Đại nhân. Xin Đại nhân tha tội cho. Thanh tôi nào có tài cán gì mà triều đình sắc phong.
Thấy Dương Thanh yếu ớt, nói chẳng ra hơi. Lỗ Hạo chẳng vui vẻ gì nhưng vẫn miễn cho Dương Thanh, không phải bái lạy nhận chiếu. Dương Chí Liệt quỳ sát giường, mặt hướng về Dương Thanh, sau đấy nhận chiếu chỉ thay cha. Họ Lỗ ra ngoài phủ, vỗ vào cánh cửa ba cái rồi nói lớn :
- Ta về phòng trọ.
Đêm ấy, canh ba gà gáy, Chí Trinh cùng hai tên tùy tùng chạy tới quán trọ. Thấy đèn phòng trọ Lỗ Hạo còn sáng, cửa lại để hé, Chí Trinh gõ cửa ba tiếng. Lỗ Hào khệnh khạng chạy ra mở cửa, Chí Trinh nhanh chóng lẻn vào, ra dấu cho hai tên tùy tùng đóng cửa đứng ngoài quan sát. Lỗ Hạo hỏi Trinh:
- Dương Thanh nhận chỉ ý thế nào?
Chí Trinh lúi húi thò tay vào trong áo lấy ra ba thỏi vàng lúng túng nhét vào tay áo họ Lỗ. Họ Lỗ run bần bật nhận chúng rồi làm rơi một thỏi xuống dưới sàn gây tiếng động lớn. Tên tiểu nhị chạy tới thì bị hai tay lính giữ lại. Hắn nhanh nhảu hỏi vọng vào :
- Chẳng hay Đại nhân có chuyện gì không ạ?
- Không có gì đâu. Chỉ là ta đọc sách khuya mà ngủ quên mất, đánh rơi thẻ tre xuống đất. Có hai người đứng gác rồi, nhà ngươi cứ yên tâm mà lui xuống.
Tên tiểu nhị lui xuống đi ngủ. Không gian yên ắng trở lại, Chí Trinh thủ thỉ với viên sứ:
- Tướng phụ nói với tiểu nhân người yếu lắm, e là không qua khỏi. Chẳng thể đi Quỳnh Châu nhậm chức được. Đây có chút lòng thành của ta, mong Đại nhân giúp đỡ ta về bẩm báo với triều đình.
Lỗ Hạo nói khẽ khẽ :
- Được được ta hiểu.
Ngày sau, giờ thìn hoàng đạo, Lỗ Hạo được Chí Trinh tiễn đến tận trấn Hải Môn. Đi gần hết đất Lục Châu, đám quân lính An Nam cũng dần xa, tên tùy tùng mới nói lại với Lỗ Hạo:
- Đại nhân ở xa chắc chưa hay. Tên Dương Thanh biến hóa thần thông. Xưa Tượng Cổ Đại nhân cũng bị hắn vờ ốm, dọa cho kinh hãi.
- Nhà ngươi sao không nói từ trước với ta.
- Đại nhân quả nhiên từ xa tới không biết. Ban đầu tiểu nhân cũng nghĩ lời tiểu tử Chí Trinh kia là đúng. Những xét lại mới thấy nhiều điều không đúng. Ngay bản thân bọn lính tráng, quan lại cũng không hề có ý qua lại phủ thăm hỏi. Lại nghe rằng, sau Dương Thanh giết chết Tượng Cổ, treo đầu thị chúng, hắn còn minh mẫn chỉ đạo Đỗ Sĩ Giao đi dẹp giặc cướp. Ngày qua người trong thành còn kháo nhau rằng mồng tám tới bọn chúng còn lập lễ tế nhập Long, mà chính Dương Thanh là người chủ tế.
Lỗ Hạo khen lập luận của tên ấy mà nghĩ thầm trong bụng:
- Triều đình chẳng qua cũng chỉ là vờ cho hắn đến Quỳnh châu mà trừ khử hắn. Chuyện đã thế, nay về báo với triều đình là Dương Thanh không chịu nhận chiếu, kháng chỉ lại có ý làm phản, triều đình sẽ chẳng trách tội ta mà sẽ mang quân đến mà diệt hắn.
Đến cửa ngõ Ung Châu, có toán người phi ngựa chặn đầu xe. Lỗ Hạo mở cửa xe nhìn ra là đám trọc đầu dữ tợn, tay chắp trước ngực. Y hỏi bọn chúng:
- Lũ trộm cướp các ngươi. Sao dám chặn đường ta.
Có một tên cưỡi ngựa lại gần khiến Lỗ Hạo thất kinh :
- Ta là sử giả triều đình. Các ngươi chớ có làm bừa.
Tên ấy xuống ngựa, tay chắp phía trước quỳ xuống, giọng đầy giận dữ :
- Mong đại nhân minh xét. Trả lại công lý cho chúng tiểu nhân.
Cả đám ấy, dăm người đều phục xuống mà vái lạy, đồng thanh. Lỗ Hạo lại hỏi :
- Các ngươi là ai? Có điều gì khuất tất. Ta thì giúp được gì cho các người.
- Chúng tiểu nhân là người của Đạo Cổ vương tử. Trước cả nhà bị giết bởi tên họ Dương kia, căm phẫn lắm thay. Nay được Vương tử tin tưởng tập hợp quân lính ở Giao Châu. Mong đại nhân về báo với triều đình, chúng tiểu nhân đã tập hợp được số lượng lớn quân ngũ để chống lại họ Dương ấy. Nay mong triều đình mang đại binh tới, trong ngoài ứng hợp giết chết họ Dương. Trước là lấy lại uy danh triều đình, sau là rửa hận cho vương tử Đạo Cổ.
Lỗ Hạo về bẩm báo lại với triều đình, vua Đường bấy giờ là Hiến Tông Lý Thuần ra chỉ lập Quế Trọng Vũ làm Đô hộ sứ An Nam. Lại điều binh từ các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến các cửa ngõ vào Giao Châu, số quân lên đến hơn mười vạn binh.
Trong thời gian viên sứ hộ Lỗ trở về kinh thành bẩm báo triều đình cũng chừng hơn một tháng, Dương Thanh ra lệnh tất cả các quân doanh khắp Giao Châu luôn trong t.ư thế sẵn sàng chiến đấu. Chí Trinh thừa lệnh Dương Thanh sai đám quan lại từ Phúc Lộc đến vùng biên thùy Thang Châu, Chi Châu đóng chặt cửa thành, không giao du với đám buôn bán từ bên ngoài, đóng chặt các quan ải ngăn chặn mọi sự di tản có dấu hiệu gây nguy hại cho tình hình Giao Châu.
Tháng tám, ngày canh ngọ, như đã định từ trước, Dương Thanh cho lập đàn tế nhập Long ở phía nam cổng La Thành. Nghe trong lễ có đại thiền sư cầu tế nên dân chúng xung quanh Tống Bình đến tham gia rất đông. Đám quan lại, thổ hào địa phương có dịp để tỏ lòng với chủ tướng mới. Dương Thanh cho lệnh, hễ có quan lại nào mang vàng bạc của cải trên năm lượng bạc thì xung hết tiền ấy vào ngân khố, chia cho đám dân Giao Châu nên đám quan lại, thổ hào nhiều kẻ cho là Dương Thanh không chuộng kẻ sĩ, trở mặt không đến tham dự nữa.
Chính ngọ ngày ấy, mười tám lính tráng khỏe mạnh lên đàn tế mặc áo đỏ, vàng chia làm hai cánh từ đông sang tây dọc theo hai bờ dòng kênh về đến chiếc đài đá ở chính giữa đầu con kênh. Hai bên đài là vị sư thầy mặc áo cà sa vàng, đi vòng vòng lẩm nhẩm những lời khấn tiếng Phạn. Chốc chốc lại thấy hai vị ấy tung vạt cà sa phát tiền lễ rơi xuống xung quanh. Đám dân lại xúm vào tranh nhau vồ lấy được tiền lễ ấy.
Được nửa canh giờ, đám lính tập trung dâng đá lên nơi gọi là "Long Lãnh" để nhập Long Thủ. Bỗng có một cơn gió nổi lên, mây đen che kín cả bầu trời. Đám quan lại, dân chúng lấy làm thất kinh chạy toán loạn. Vị tăng kia đứng trên bục giọng rung như loa truyền âm :
- Gió mưa vẫn vũ, thiên long độ thế. Bản mệnh tại giá. Nhập hồn.
Nói rồi, tảng đá ấy nhẹ bỗng, một tên lính dâng lên đài, "Long Thủ" vừa vặn với "Long Lãnh". Tên lĩnh ngã ngửa ra sau., tay hắn còn đang cầm chiếc khăn phủ Long Thủ. Long Diện hiện ra, đôi mắt chói lóa như ánh dương, nét mặt vừa thanh tú lại uy nghiêm toát lên khí chất để vương. Đám quan lại, dân chúng trông thấy quay lại vội dập đầu xuống mà quỳ lạy.
Nhìn từ phía xa, Dương Thanh nhận thấy rõ mình rồng uốn lượn dưới lòng đất, đầu rồng nhô lên khỏi mặt đất. Dương Thanh chạy tới gần, tay chạm vào Long Thủ, từng nét chạm trổ tinh tế, gương mặt thần long hiện lên càng thêm uy nghi, chân thực hơn. Sĩ Giao sai người mang cho Dương Thanh cầm lấy nghiên mực đỏ và bút lông để họ Dương điểm những vảy đỏ và miệng rồng. Dương Thanh đặt nghiên ấy lên đài chênh vênh, có một làn gió nhẹ thổi khiến mực đỏ chảy xuống trán rồng, chảy theo những vân chạm trổ. Có một chữ Vương (王) hiện lên chính giữa Long Diện. Đỗ Đại chạy vội lên đài nhìn thấy nói nhỏ vào tai Dương Thanh rồi quay ra giọng uy vang như sấm rền:
- Trời xanh ứng báo! Người làm chủ đất này ấy là bậc để vương. Không ai khác nữa chính là Thiên thanh Dương tướng đây.
Ba quân đứng dưới, bọn quan lại cùng đám dân nghe vậy mà nhí nháu bàn tán, nhiều kẻ không ưa lời đấy ra về. Dương Thanh giọng như chuông đồng:
- Ta là quan triều đình, ăn lộc triều đình nào có lòng khác. Thấy đám vô lại, cậy quyền, cậy thế hiếp kẻ yếu mà thấy giận thay nên mới giết lũ ấy. Nay làm lễ này trước là cảm tạ trời đất, sau là nghĩ đến muôn dân Giao Chỉ này mà nhìn hướng Đông bái vọng Long Vương cho dân chúng được mưa thuận gió hòa.
Đàn lễ được tổ chức đến đầu giờ mùi thì xong. Bọn dân chúng người hoan hỉ, kẻ u rầu bước đi. Dương Thanh cho gọi Sĩ Giao vào hỏi:
- Lòng dân chưa mong ta xưng vương. Quân sư nghĩ thế nào?
- Bẩm chủ tướng. Dân ta bấy lâu vẫn coi Triều đình Trường An là thiên tử. Lại thêm bấy nhiêu năm bị người Hoa Hạ dựng kế đồng hóa người Nam. Chủ tướng giết chết họ Lý, dân chúng kẻ mừng, kẻ lo. Ấy nên chuyện xưng vương lúc này thật chưa nên. Trong dân gian lại lắm nhiễu điều cho chủ công vì danh mà làm ra điều như vậy thì dân chúng lại càng lánh xa. Gương cũ anh em họ Viên thời Tam Quốc, chủ công hãy suy xét cho kỹ. Lại thêm triều đình Trường An còn đang thịnh, bọn quan lại vẫn còn một lòng trông về ấy. Chi bằng ta hãy xây dựng quân đổi vững chắc, người dân hướng về chủ công. Chủ công hùng cứ một phương, trong lúc thiên hạ có loạn thì nhắc lại chuyện ấy cũng chưa muộn. Nay vì muôn dân Giao Chỉ, mong chủ tướng soi xét.
- Sĩ Giao nói quả thật là hợp ý ta. Khi trưa nay trên đàn lễ, Đỗ Đại nói chuyện ấy ta e nhiều kẻ không vừa lòng. Nay ta cho ban bố trong toàn đất Giao chỉ bảy mươi điều dân nên làm, chín mươi điều phạt tội. Lại sai cho đám thổ hào phát ruộng đất cho dân để cấy trồng nuôi binh thêm thời gian nữa, để khi đủ mạnh rồi thì sẽ chẳng có kẻ dám động đến.
Sĩ Giao nghe vậy cũng thấy mừng. Hai người bàn thêm chuyện quân một lúc lâu. Trời ngả sẫm màu, Gã Quỷ xong thẳng vào phủ, xô ngã đám lính và lũ gia nhân cản hắn chạy vào thưa:
- Quân sư huynh!
Sĩ Giao ra hiệu cho Gã Quỷ chào Dương Thanh. Gã Quỷ cười hề hề :
- Cúi chào Dương tướng chủ.
Dương Thanh nghiêm nghị hỏi :
- Nhà ngươi có chuyện gì tới đây mà lại vô phép tắc như vậy?
- Bẩm tướng chủ! Là khi nãy ở ngoài đài tế, ngài có làm nghiêng nghiên mực rơi xuống mặt rồng. Bây giờ mặt ấy hiện lên nhiều vân màu đỏ. Bọn lính ngoài ấy nói là có chữ ở trên ấy.
Dương Thanh nhăn nhó nói lớn:
- Đó là chữ Vương. Đỗ Đại khi nãy chẳng nói trước toàn thể mọi người đấy thôi. Nhà ngươi hết chuyện tìm đến đây để gặp quân sư hay sao?
- Nào có chuyện ấy.
Sĩ Giao hẹm giọng. Gã Quỷ nghe vậy, thu mình, hạ giọng:
- Dạ. Bẩm tướng chủ. Là vị sư ấy từ lúc bái xong không chịu đi. Lại ngồi đó niệm chú điều gì đó cùng đám đệ tử. Đám dân thấy thế cũng lán lại. Có làn gió lạnh thổi từ hướng đông bắc khiến tiểu nhân gai cả người. Quay lại thì thấy bọn tăng ấy chỉ trò vào đầu rồng bằng đá ấy. Tiểu nhân hỏi thì một lão nông chỉ về phía đầu rồng nói là ở trên mặt ấy có bài thơ bằng văn tự cổ.
Dương Thanh liền thúc ngựa ra cửa nam thành, thấy đám tăng vẫn ngồi niệm ở chỗ ấy. Dương Thanh chạy ngựa lại gần hỏi đám tăng ấy:
- Các ngươi sao còn chưa đi?
- Sấm rằng thiên mệnh khó cưỡng. Bần tăng ngồi đây để phó lại lời sấm ấy.
- Khó cưỡng làm sao? Ý của nhà ngươi là điều gì?
- Bần tăng xuất gia chỉ mong điều an lành đến với sinh linh. Vì thế ngồi đây khấn trời, cầu phật cho sinh linh điều ấy.
- Ta nghe các ngươi ngồi đây đã hơn hai canh giờ. Có cần phải như vậy hay chăng?
- Niệm kinh phật đâu tính thời giờ. Nếu như đại nhân không mong chúng tăng ngồi đây thì chúng tăng xin nghe theo mà xin lui.
Sĩ Giao nói với Dương Thanh:
- Bọn tăng này niệm kinh phật chỗ đấy cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ta. Có chăng đây là cơ hội tốt bọn ấy muốn khoe khoang với đám dân. Hãy cứ kệ chúng vậy.
Dương Thanh lại hỏi đám tăng ấy :
- Trên đầu rồng viết chữ gì nhà ngươi có biết chăng?
- Bẩm tướng quân. Bần tăng xưa học chữ, đọc kinh chưa từng biết qua chữ này. Nhưng bần tăng biết có người biết chữ đó.
- Người đó thế nào? Hiện ở đâu?
- Cạnh Đại tự có ngôi chùa nhỏ. Sư ở đấy chính là người biết chữ này.
Dương Thanh sai Sĩ Giao đến Phù Đổng tìm ngôi chùa đó tìm vị tăng ấy. Dương Thanh cũng cho gọi tay thợ đục đá đến dò hỏi:
- Nhà ngươi chạm đá ra đầu rồng kia, chắc biết chữ trên ấy chứ?
- Bẩm tướng quân. Khi tiểu nhân đến chạm đầu rồng đã thấy những vân lạ trên đó. Dùng búa đẽo đi không được. Khi tiểu nhân khắc đến mắt rồng thì đá tự vỡ ra tạo thành hình mặt rồng như vậy. Những chữ trên đó, tiểu nhân không được biết.
- Thế nhà ngươi đọc được chữ này chứ?
Dương Thanh ném một mảnh giấy trước mặt thợ đá. Hắn nhặt lên nhìn một lượt, nheo mày, đáp lại lời Dương Thanh :
- Tiểu nhân không biết loại chữ này.
- Nói láo. Nhà ngươi đục đá, khắc ra những chữ ấy lại nói là không biết.
Dương Thanh cho là hắn nói dối, sai lính tạm giam hắn vào ngục. Trời đá tối sầm, đám tăng nhân phía nam cùng mấy người đi từ trong thành ra cũng đã về Đại tự. Chưa thấy Sĩ Giao về, Dương Thanh lòng nóng như lửa đốt, lại thúc ngựa đến Phù Đổng mà tìm Sĩ Giao cùng vị tăng.
Trời tối tĩnh lặng, không gian thanh tịnh nơi cửa chùa khiến Dương Thanh như bớt đi cái mệt mỏi. Thanh tự nhiên cảm thấy thanh thản đến lạ. Dương Thanh trói ngựa chỗ gốc thị, chạy vào trong chùa tìm người. Thấy Sĩ Giao đang thiền cùng hai vị tăng nhân ăn mặc đơn sơ. Thanh hỏi:
- Ta sai quân sư đi tìm vị tăng ấy. Sĩ Giao đã thấy người hay chưa mà còn ngồi đây thiền.
Không thấy Sĩ Giao nhúc nhích, Dương Thanh quát lớn :
- Đỗ quân sư. Nghe thấy ta hỏi gì không?
Sĩ Giao giật mình tỉnh lại như vừa trong cơn mê. Sĩ Giao nhận ra sự có mặt Dương Thanh ấp úng mà thưa :
- Bẩm chủ tướng. Tại hạ tới đây chẳng thấy người, dưới không gian yên ắng của cảnh chùa thành tâm nhắm mắt lại mà chẳng biết mình đã lạc vào cõi mơ từ bao giờ. Mong chủ tướng tha tội.
- Người nào trong hai người này biết chữ của người xưa?
- Dạ bẩm. Đây chính là vị thiền sư họ Trịnh mà tại hạ đã từng nói qua với ngài. Còn đây là hòa thượng Lập Đức, chủ trì Kiến Sơ tự. Chính Lập Đức sư phụ đây là người đọc được chữ ấy.
- Nghe danh hai vị từ đã lâu. Nay có cơ hội diện kiến. Có lời mời hai sư phụ về phủ để luận văn tự, sau đấy là mong được thỉnh giáo về phật pháp.
Dương Thanh ngỏ lời mời hai vị ấy về cũng luận giải bài thơ trên đầu Thạch Long. Hai vị tăng ấy đứng dậy cúi chào Dương Thanh, Lập Đức thay lời sư phụ mà thưa :
- Nghe tiếng Dương tướng quân từ đã lâu, nay được tướng quân đích thân tới mời. Quả là vinh hạnh cho bọn tiểu tăng. Chúng bần tăng xin cùng ngài tới phủ để cùng luận giải.
- Sao vị tăng ấy không nói gì?
- Dạ bẩm. Sư phụ trước giờ tính tình hòa nhã, dung dị hết mức, lại không hay bàn việc. Mong tướng quân thông cảm. Xin tướng quân dẫn đường về phủ.
Cả bốn người cùng lên xe ngựa về Tống Bình trong đêm ấy. Dương Thanh háo hức hỏi Lập Đức những chữ ấy viết gì. Lập Đức lớn tiếng đọc những vần thơ, giọng đầy suy t.ư:
« Chốn trần gian đỏ lửa
Cõi chết chảy thành dòng
Một dạ cùng cam khổ
Kẻ quân tử khác lòng. »
Buông lời xong, Ngôn Thông nói Lập Đức xin ra về. Dương Thanh lên tiếng có ý mời hai vị tăng nhân ấy ở lại. Ngôn Thông từ chối xin về kẻo trời khuya sương rơi. Dương Thanh tiễn hai người ấy đến cửa phủ thì Đặng Khả liễu tá gọi Dương Thanh trở lại mà bẩm:
- Bẩm chủ tướng. Luận viết bài thơ này ra lên giấy. Mong tướng quân xem qua.
“Dương gian hỏa ánh hồng
Tử ngục thủy thành giang.
Nhất chí đồng cam khổ
Quảng nhân chính dị sàng.”
Ba chữ Quảng, nhân, chính, ghép lại chỉ thay đổi nét này thành chữ Định. Tại hạ thấy có điều gì đó ám chỉ ở đây.
Sĩ Giao cũng nhẩm được bài thơ ấy vừa ứng với bài thơ khi trước Sĩ Giao có được tại núi Lạn Kha. Sĩ Giao đứng một lúc không nói lên lời gì. Dương Thanh mặt giận dữ, ném mảnh giấy ấy cho Sĩ Giao:
- Thế này là ý gì? Kẻ nào to gan dám ám chỉ ta sẽ chết?
Sĩ Giao nghĩ một hồi, bất giác trả lời :
- Dạ bẩm. Điều này quả nhiên trùng hợp.
Dương Thanh nóng giận, hất tung chiếc bàn nghị. Lại hỏi Sĩ Giao:
- Nhà ngươi còn đứng đấy làm gì nữa! Mau đi dò xét, đứa nào dám cả gan viết lời ấy tới đây. Nhà người nói trùng hợp điều gì? Sĩ Giao!
Đặng Khả lúng túng, áo quần chưa gọn chạy đi gọi đám lính đuổi theo hai vị hòa thượng, cùng giải tên thợ đá đến. Sĩ Giao lấy lại bình tâm mà đáp Dương Thanh:
- Ngày trước, đi diệt cướp núi Lạn Kha, tiểu nhân nằm mộng có đám con gái gần núi ấy nhét vào tay tại hạ mảnh vải đề bài thơ này. Tỉnh dậy thì thấy Chí Liệt thiếu chủ đang đánh lộn với Dương Diện Lão quỷ. Hai người tranh cãi về mảnh vải kia.
- Mau gọi gã điên ấy tới đây ngay.
Dương Thanh đùng đùng nổi cơn giận tra hỏi hai vị tăng và người thợ đá. Hai bên quả quyết cho rằng họ không hề dính líu tới việc này. Dương Thanh không kìm được cảm xúc liền cho giải ba người ấy vào lao tra tấn ép cung. Hai người tăng nhân không hề nói thêm điều gì từ khi bị giải vào ngục mặc cho vị thợ đá kia kêu gào thảm thiết trước những cung hình tra tấn. Mệt lả người đi, đám cai ngục mới lôi ba người ấy về phòng giam cho hồi sức để chờ thẩm vấn tiếp.
Hai vị tăng nhân lại ngồi thiền trong lúc tay thợ đá kia lao vào vồ những miếng ăn mà bọn cai ngục ném vào cho. Tay thợ đá kia hỏi đau đớn, miệng run run, mái tóc xõa quá vai bù xù, móm mém nhai những miếng cơm nguội vừa nhặt từ đất lên. Nước mắt giàn giụa hỏi hai vị tăng :
- Hai cao tăng là phật chốn nào? Tra tấn cực hình như vậy mà vẫn ngồi đấy thiền?
Ngôn Thông cất lời đáp :
- Phật tại tâm, tâm sáng phật rọi. Những thứ ấy chỉ là bề ngoài, sao cản được cái tâm sáng trong.
Tên ấy nghe chưa giác ngộ hết đã nằm lăn ra mệt nhoài. Lập Đức lời lẽ chân tình hỏi sư phụ Vô Ngôn Thông:
- Sư phụ thấy người này có phải là người có tội?
- Cái tâm không tối tự mà thấy mệt theo bản năng. Kẻ tâm gian trá sẽ lắng lo sợ hãi, chẳng thể ngủ yên. Con tự quan sát người ấy mà phán xét.
Lập Đức nghe lời thầy cùng thiền đến lúc nửa đêm. Có tiếng mở khóa, Lập Đức tỉnh giấc nhưng chẳng mở mắt ra, lại nghe thấy người bước tới gần. Người ấy nghe giọng khá quen khiến vị sư phụ mở mắt ra. Nhận ra Sĩ Giao, Lập Đức hỏi:
- Chúng tăng nghe lời ngài tới đây, nay lại bị trách phạt nơi ngục tối này. Chúng tăng tôi ngày ngồi thiền chốn chùa nhỏ, không màng những chuyện như vậy. Ngài tới đây khuyên nhủ chúng tăng thì cũng không có gì để khai với ngài.
Sĩ Giao từ tốn trả lời:
- Chủ tướng chỉ là cả giận mà như vậy. Ta sẽ dùng lời mà khuyên giải ngài ấy. Chỉ là ta có đôi điều chưa rõ tỏ. Nghe rằng, ngày trước ở núi Tiên Du, Lập Đức đọc kinh chẳng hay ai dạy cho sư chữ ấy? Có nhiều người biết được chữ ấy chăng?
- Chẳng giấu gì ngài. Ngày bé ta ở núi Lạn Kha, có một vị thầy họ Phạm về làng dạy học, có dạy cho ta chữ ấy. Nhưng thầy chỉ nhận ba người để truyền thọ. Ta mồ côi từ nhỏ, tính lại ham đọc nên thầy quý nhận dạy. Một người tài đối đáp giỏi võ nghệ thầy cũng nhận làm đệ tử. Một người khéo tay, thông minh nhanh trí, quyết đoán cũng là con của vị hào trưởng hương ấy. Dạy bọn ta được hơn một năm thì thầy bị bắt giết. Bởi vì một lẽ thầy ta dạy chữ của tiền nhân - chữ cổ của người Nam ta, là thứ mà triều đình cấm lưu hành. Những người ai dạy, học chữ ấy đều bị bắt bớ. Đám quan lại đem đốt hết sách vở viết bằng chữ ấy đi nên giờ chẳng còn ai biết.
- Vậy hai người kia sư có biết giờ họ đang ở đâu không?
- Khi thầy bị bắt, ta cùng với hai người kia theo cứu thầy. Sức nhỏ, lực mọn chẳng cứu được thầy lại bị bắt giam cùng với thầy. Một người bị chết trong ngục do không chịu nổi đòn roi. Ta được gửi về làng quản giáo ba năm. Còn một người sau khi vào nhà lao, ta lấy hết tiền của ta đút lót cho bọn quản ngục thả người ấy ra một cách lặng lẽ bởi ta thương nhà y chỉ có mình y là con trai, cha hắn lại làm hương trưởng sợ làm ảnh hưởng đến cha hắn.
- Thế giờ người ấy làm gì, ở đâu?
- Hơn mười năm trước, triều đình có lệnh xung quân. Khi ấy ta đã nương nhờ cửa phật, người ấy cùng vợ con chạy trốn đến vùng man di phía tây bắc, dọc theo Đà Giang. Cha bị cách chức, bị quan quân đày đến Phúc Lộc. Bọn Lâm Ấp khi ấy đánh nhau to với quân triều đình ở Hoan Châu. Ông ấy bị đạn lạc của quân triều đình bắn trúng mà chết. Sau đấy, người ấy hận quân triều đình mà hẹn với dân Hoàng Động nghe lời Nam Chiếu mang quân chiếm đóng Phong Châu. Khi Dương tướng quân nhận lệnh làm Nha môn tướng lại đánh lui bọn Man Hoàng. Người ấy trốn biệt tăm, nghe đâu ra nhập toán cướp trên núi quê cũ.
- Ra là vậy. Không biết người ấy chữ nghĩa ra sao? Có tài nghệ gì nổi bật chăng?
- Ngày trẻ cùng làng với y, tiểu tăng thấy y cái gì cũng khéo, lại có tính quyết đoán. Tuy chỉ có điều là suy nghĩ không được chín chắn mới dẫn đến như vậy.
- Hai vị tăng ăn chút đồ chay ta mới cho người làm. Chuyện ta đã rõ. Chỉ mai mốt là hai vị sẽ được thả. Cảm phiền hai vị cao tăng.
Vô Ngôn Thông ngồi nghe hết câu chuyện chẳng hề nói điều gì. Lúc Sĩ Giao bước khỏi nhà lao, vị cao tăng ấy mới ngỏ lời răn:
- Kẻ tu hành hiếu sinh làm đầu. Những vương bụi trần còn chưa gột sao tu thành chính quả.
- Lập Đức con xưa có làm việc tốt cứu người nhưng người ấy lại trở thành người có tội với chúng sinh. Kể ra con đây cũng là kẻ có tội. Con nói ra việc ấy cũng chỉ mong vị tướng quân ấy không làm liên lụy người khác nữa cũng là rửa cái tội ngày xưa vậy.
Sáng ngày sau, Sĩ Giao cho gọi hai vị tăng ấy lên kể lại chuyện ấy cho Dương Thanh. Dương Thanh chưa thông đầu óc, giọng cáu gắt hỏi:
- Cái đám đầu trọc ở Đại tự đã có mặt ở đây chưa? Cho giải bốn cái tên cướp trắng lên đây cho ta.
- Dạ bẩm chủ tướng. Hiện đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng đang có mặt ngoài kia. Bốn tên thủ lĩnh Bạch Hổ cũng đang chờ ngài xét hỏi. Chủ tướng cứ hỏi lần lượt đám tăng rồi hãy hỏi đến bọn tướng cướp ấy.
Dương Thanh hỏi đám tăng trước, sau đó lại hỏi bốn tên thủ lĩnh kia. Tất cả như loạt, không ai nhận biết tảng đá ấy có từ đâu. Dương Thanh hỏi Sĩ Giao :
- Cái tên Giả Thường chủ trì Đại tự ấy, quân sư có thấy điều gì khác hay không?
- Vị ấy thoạt đầu nhìn tựa phật giáng thế, nhưng khi nghe vị ấy nói về pháp hạnh tại hạ e thấy có chút tâm không được dung dị. Nhưng dân chúng tung hô đám tăng như Phật. Lại thêm khi nhận đá ấy, tăng ấy chẳng chối mà lại tặng ngay cho thiếu chủ về mừng công với chủ tướng. Tại hạ thấy có một người đáng nghi ngờ. Đó là người…
- Ta thấy có một kẻ dung mạo uy nghi, dáng vẻ cương mãnh, da lại màu xanh vương giả tựa Kim Cương Thủ Bồ Tát. Nhưng mắt hắn đảo qua đảo lại liên hồi. Người nhà phật nhưng hắn toát lên sự dữ dằn kỳ lạ. Cái tâm bất minh tự khắc thấy hồi hộp sợ hãi. Nhà ngươi có phải nói đến người ấy chăng?
- Dạ đúng. Quả nhiên hắn có chút gì đó khiến tâm không yên, vẻ lo lắng toát lên khuôn mặt. Tại hạ đã từng nhìn thấy hắn. Khi ở Đại tự, tại hạ cùng thiếu chủ đã nhìn thấy hắn vác tượng phật nghìn cân mà chẳng chút nhăn nhó.
- Lại có kẻ khỏe đến như vậy sao ? Gã Quỷ em ngươi sức có bì được hắn hay chăng?
- Tại hạ e là có chút kém phần. Gã Quỷ mình đồng da sắt, sức khỏe vô lượng nhưng chút nào đó vẫn thua sức hắn.
Sĩ Giao bàn bạc với Dương Thanh một hồi lâu, lại cho gọi Lập Đức sư phụ vào trong trướng mà bàn. Canh tỵ hai khắc, Chí Liệt cầm một bức trướng khổ lớn ra ngoài công đường. Bọn tăng nhân phía dưới bàn tán xôn xao về bức trướng. Lúc đó gã quỷ Tồn Thăng chạy tới, mặt mày giận dữ, tay cầm chắc dao quắm gườm gừ đám tăng ấy, quát tháo ầm ĩ. Bọn tăng nhân ấy vẫn chẳng hề có phản ứng gì khả nghi. Sĩ Giao bèn phải cho người thả đám ấy đi.
Cùng lúc thả đám tăng nhân, Dương Thanh sai Chí Liệt cùng Dương Diện giải bọn cướp Lục Bạch Hổ ra pháp trường phía thành Luy Lâu để hành quyết. Mỗi xe ngục, Dương Thanh nhờ thầy Lập Đức viết lên ấy những lời kể tội lỗi của bọn chúng bằng văn tự cổ và cho Liễu tá Đặng khả đi cùng lớn tiếng đọc lên những lời ấy. Chí Liệt cầm bức trướng lớn khi nãy đi trước đoàn.
Đoạn đến phía đông cổng La Thành chừng năm dặm, xuất hiện từ đâu có một gã mình cao lớn, uy nghi, lại nói giọng rất giống người xứ Tiên Du một mình xông tới nhảy lên xe ngục của tên Đại hổ Ngũ Tử Hùng. Chí Liệt sai lính thắt chặt vòng vây không đám ấy cướp tù. Dương Diện gã quỷ xông tới đánh với kẻ lạ mặt.
Sĩ Giao sai cho lính chạy vội về phía La Thành. Chí Liệt tay cầm chắc cây thương hướng về kẻ lạ mặt kia hỏi lớn:
- Là kẻ nào dám cả gan cướp tù?
- Lũ quan quân các ngươi! Tất cả chỉ là đám chó gà. Các người nghĩ dùng chữ viết kia mà mắng chửi hạ nhục bọn ta thì sẽ tìm được người các ngươi cần tìm.
- Ra chính là ngươi! Ngươi nghĩ là nhà là ai mà dám cướp tù? Còn không mau mau chịu trói.
Tên thủ lĩnh thấp lùn, bủng beo mặt hớn hở:
- Tứ đệ. Mau mau cứu bọn ta.
Chí Liệt mặt mày nghiêm nghị, quát lớn :
- Thì ra là tên cướp chạy trốn. Cuối cùng thì cũng chịu tới đây nộp mạng.
Chí Liệt đốc ngựa chạy tới, vung thương đâm hắn. Tên ấy nhanh như sóc, nhảy lên đạp vào một tên lính áp nha đương cưỡi trên ngựa ngã nhào xuống đất. Chí Liệt đuổi theo chạy đến bờ sông Thiên Đức thì gã đột nhiên quay lại, cúi người xuống phản đòn khiến Chí Liệt bất ngờ. Thiếu chủ kéo cương khiến ngựa nhảy bổ lên cao, hý vang. Tên kia tay cầm trảo hét lớn:
- Thanh Long kim cương trảo.
Đôi tay hắn giương lên hai móng vuốt vảy xanh ánh ngọc, dùng uy lực sấm sét của đôi tay ra đòn khiến ngựa của Thiếu chủ ngã dúi dụi, máu chảy lênh láng.
Chí Liệt thoát nhanh khỏi yên ngựa, cắm thương xuống mặt đất để lấy lại thăng bằng. Chí Liệt lớn tiếng hỏi hắn :
- Nhà ngươi là người từ đâu đến? Danh tính thế nào? Võ ấy ngươi học được từ đâu?
Hăn cười lớn, lại quất ngựa xống tới sát chỗ Chí Liệt mà nói:
- Nhà ngươi muốn danh tính người sẽ cho ngươi chầu trời, xuống âm ti mà bảo với Diêm Vương là người giết ngươi tên Tứ Hổ Long Trạch.
Nói rồi, hắn rút song câu toan chém Chí Liệt, Chí Liệt lấy mũi tên dương cung bắn trúng tai ngựa, ngựa lồng lên khiến hắn không thể kiềm chế được. Hắn quắp lấy hai chân vào cổ ngựa, ghì chặt khiến ngựa lăn ra chết. Hắn nhảy xuống đất, đôi vuốt sắc lóe lên trong ánh nắng ban trưa. Chí Liệt giương cây thương lên quát lớn:
- Cái tên thất phu. Tên thì rồng không ra rồng, trạch không ra trạch. Cướp gà trộm chó không xứng chết dưới cây long phượng huyền thương của ta, lại còn ở đó to mồm hay sao.
Long Trạch mặc áo một màu nâu sẫm, mặt quấn khăn kín mít. Đôi mắt xanh ngọc đảo liên hồi, Chí Liệt dường như nhận ra đôi mắt đó, liền hỏi:
- Ta và ngươi dường như đã gặp ở đâu?
- Khỏi cần phải hỏi. Ta chẳng quen cũng không thèm biết lũ chó quan các ngươi. Mau mau thả anh em ta ra. Không thì đừng hòng sống sót.
- Được. Để ta xem nhà ngươi là kẻ nào!
Chí Liệt hét lớn, tiếng vang dội sóng vỗ bờ. Cây huyền thương lao vút xé toang hạt nước còn vương trên ngọn lau. Tên cướp nhanh chóng dùng vuốt sắc đỡ chiêu của Thiện tướng. Hai bên giằng co đến giữa trưa canh ngọ, chạy đến chục dặm đường tả ngạn sông Thiên Đức. Dưới cái nắng của buổi trưa mùa thu, Chí Liệt ướt đẫm mồ hôi, mượn chiêu của tên cướp lao vào xé toang manh giáp trên người. Từng bắp cơ của chàng nhẫy bóng dưới ánh nắng. Chàng ném cung xuống đất như trút bỏ gánh nặng, dồn sức vào cây thương mong hạ sát tên cướp.
Đúng lúc hai bên giao đấu đến hồi gay cấn, Bình Nam đại hổ dùng thương ghì chặt trên vai Tứ hổ toan lấy mạng hắn thì có tiếng vó ngựa chạy đến. Tồn Thăng vội vã lao tới dùng cây gỗ to thúc thẳng vào mạn sườn phải của tên cướp. Tên cướp thấy sức lực gã Quỷ vô thường định bụng chạy trốn. Chí Liệt dùng thương truy sát, hắn chạy nhanh thoăn thoắt chỉ trong nửa khắc đã thoát khỏi sự truy đuổi của thiếu chủ. Gã Quỷ đuổi theo dùng dao quắm chém ngang cổ tên cướp. Tên cướp né được nhưng mảnh vải che mặt lại bị dính vào dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ cười lớn:
- Thì ra là gã đầu trọc mặt xanh. Ta trở về báo lại cho Sĩ Giao anh ta mới được.
Nói rồi, Tồn Thăng thúc ngựa quay lại gặp Chí Liệt chạy đuổi theo. Gã Quỷ vội vàng khoe :
- Nhà ngươi có biết gã là ai không? Tên hòa thượng mặt xanh.
- Hắn đâu?
- Hắn chạy đường kia.
- Sao nhà ngươi không đuổi theo hắn.
- Thì là ta quay lại báo cho Sĩ Giao huynh hắn là gã đầu trọc mặt xanh.
Chí Liệt tức tưởi:
- Cái tên ngốc nhà ngươi. Không đuổi theo bắt hắn mang về lại còn quay về báo.
Chí Liệt giằng ngựa của Dương Diện thúc ngựa về phía Long Trạch chạy. Đến bờ sông Thiên Đức, cách phía nam hương Phù Đổng tám dặm đường, Chí Liệt hô lớn:
- Thuyền kia dừng lại. Trên ấy có tên cướp Bạch Hổ.
Thuyền đi vội về phía đông nam, rồi cập bờ phía ấy. Phía sau Chí Liệt có hai vị hòa thượng đi tới, họ Dương hỏi :
- Lập Đức có việc gì qua đó?
- Là sư phụ ta muốn tới đây để cảm tạ vị hương hào họ Nguyễn khi xưa đã dựng tự.
- Sông lớn, lại chẳng có đò qua. Để cướp kia chạy trốn, ta chẳng thể an lòng.
Lập Đức ném một cục đá lớn xuống mặt sông, dòng nước cuốn mạnh viên đá ấy. Lập Đức nói :
- Sông sâu khó qua. Mong thí chủ lượng sức mình tránh điều tai ương.
Tồn Thăng kéo tới ba cây gỗ lớn, buộc lại thành bè nói:
- Mời thiếu chủ qua sông.
- Hay lắm. Kẻ ngốc đôi vẫn có lúc sáng suốt. Ta sẽ dùng bè của ngươi để qua sông.
Nói rồi, ngựa cùng Chí Liệt bước lên, Tồn Thăng dùng sức mạnh phi thường đẩy bè ấy quá nửa sông. Bỗng có gió lớn, nước sông liền chảy mạnh. Tồn Thăng níu thừng giữ chặt bè. Không thể cưỡng lại được sức nước, thừng đứt, bè chống chếnh giữa dòng.
Vị hòa thượng họ Trịnh ngồi thiền cạnh đó chẳng mảy may đến điều đương xảy ra khiến gã quỷ nóng giận quát lớn :
- Thiếu chủ chống chếnh giữa dòng. Ông còn ngồi đấy thiền với tụng.
Lập Đức cản lại :
- Thí chủ bớt nóng giận. Sư phụ sẽ có cách để cứu giúp Dương tướng quân.
Sư thầy họ Trịnh lẩm nhẩm trong miệng, tiếng gió bỗng dừng lại, nước sông lại hiền hòa. Từ phía sông có làn gió ấm thổi ngang sông đẩy đò trở lại bờ. Chí Liệt lấy lại bình tĩnh cho ngựa bước trở lại sông. Chí Liệt chạy lới bái lạy vị cao tăng :
- Quả là phi phàm. Đệ tử đội ơn công cứu mạng.
Phía bên kia sông lại có tiếng vọng sang:
- Quả các ngươi có thần tiên phù trợ. Thù này ắt trả. Các người hãy nhớ lấy ngày hôm nay.
Gã Quỷ ngấp nghển nhìn sang, giọng nói dữ dằn:
- Rồi bọn ta sẽ tìm ra ngươi.
Từ phía bên kia sông, mặt trời chói chang rọi xuống mặt sông lấp lánh, bóng người khuất dần theo những ngọn cỏ lau phía đó. Lập Đức thở phào nói:
- Dị tà chẳng thể thắng nổi chính đạo. Người đó dùng tà pháp sai khiến hà bá, thần gió toan dìm chết ngài.
Chí Liệt nhìn theo dáng người phía bên kia sông, giọng còn ngậm ngùi:
- Cao tăng chính là quý nhân của ta. Chỉ tiếc rằng kẻ ấy dùng dị tà mà thoát mũi huyền thương này.
 
Last edited:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng
Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ t.ư:


Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.
Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.
Dương Thanh nghe tin quân triều đình đến biên giới phía bắc liền sai Chí Trinh dẫn quân đến thành Nà Lữ vùng biên ải đóng quân tại đó để nghênh địch. Lý Do Độc được tăng viện năm nghìn binh mã từ các vùng Ái Châu, Hoan Diễn cùng với thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều mềm dẻo với đám dân Man Hoàng ngăn không cho bọn Nam Chiếu nhòm ngó khi quân triều đình chưa đến lấn đất của người Lão, Lý. Các vùng Hoan, Ái, Diễn Châu đều được lệnh đóng cửa biên giới, quân đội sẵn sàng. Vùng trọng điểm trấn Hải Môn là con đường dễ đi, Dương Thanh sai Sĩ Giao, Triệu Hoằng trấn giữ. Chí Liệt nắm trung quân cùng dân ấp Chu Diên của quan huyện úy Đỗ Đại tạo phòng tuyến dọc từ cửa biển Nam Triệu đến cửa ngõ sông Nhị.

Quế Trọng Vũ được triều đình họ Lý sung quân ở các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến hơn chục vạn quân đóng tại biên giới xứ An Nam. Lại cho đạo thủy quân gần ba trăm chiếc thuyền chiến lớn nhỏ đi từ bờ biển đất Quảng Châu, Quỳnh Châu đi vào cửa biển các sông Vân Cừ, sông Nhị.

Được lệnh đóng cửa biên giới, quan quân xứ An Nam cắt đứt mọi liên hệ với bên ngoài, cố thủ tại các thành trì kiểm soát gắt gao kẻ ra người vào. Đương mùa còn nước đang lên, lúa còn chưa chín hết ngoài đồng, quân lính vội vàng gặt lúa để chở vào các thành trì, kho quân lương để dùng. Chẳng đến một tuần, các cánh đồng đã không một bóng người, chẳng còn một gốc dạ. Trâu bò cũng được thu về dắt thả trên núi, tránh họa chiến tranh. Dân chúng gói ghém đồ đạc, kẻ ngược người xuôi tìm cho mình chỗ ẩn náu an toàn chờ đợi cuộc chiến sắp tới.

Trong lúc quân tình cấp bách, Dương Thanh nhận được thư của viên Liễu tá Đặng Khả tấu trình. Trong thư viết rằng:

« Lão là kẻ ăn lộc trên ban ở Tống Bình này cũng đã được hơn hai chục năm, cũng là dân xứ An Nam này, bằng tất cả tim gan này kính lên Dương tướng quân, mong tướng quân minh xét. Ngoài đồng lúa còn chưa kịp vụ, vội vã gặt lúa ấy là điều chẳng nên làm. Nay thấy dân chúng vừa qua cơn lầm than, quân lính còn chưa thoát cảnh đao thương đã phải chuẩn bị cho cuộc chiến mới mà chưa biết là kẻ thắng được gì, người thua mất gì. Mà chỉ thấy thương thay dân Lão, Lý, người Giao Chỉ, người Hoa Hạ, tất cả đều là con dân xứ An Nam này, đều chịu cảnh khói lửa binh đao. Gốc dạ còn chưa kịp ải, đồng lúa còn chưa kịp cày. Quân lính no vụ này, người dân chắc gì đã không đói. Ấy rồi còn mùa sau, mùa sau nữa,… Thật là không nên.

Kẻ tôi mọn không dám bàn việc thiên hạ. Chỉ mong Dương tướng quân rộng lượng với chúng dân. Nếu tướng quân không chịu nghe lệnh triều đình thì cũng chớ nên lấy máu của dân ra tắm. Xót thay, xót thay.

Bằng ấy lời mong tướng quân thấu hiểu tâm can. »

Dương Thanh nổi giận đùng đùng, gọi Đặng Khả vào phủ. Dương Thanh hỏi:

- Kẻ nào xúi ngươi nói những lời sằng bậy ?

- Tự tâm can tại hạ thấy điều ấy! Đâu phải kẻ nào xúi lòng?

- Đừng nghĩ lão già cả mà ta không dám làm gì lão. Kẻ quân tử sao phải luồn cúi, chui rúc những kẻ tiểu nhân. Ta thà chết chứ chẳng thể chịu nhục được hơn nữa.

- Chừng ấy năm làm quan làm tướng chắc tướng quân thừa hiểu. Ngậm bồ hòn làm ngọt ấy cũng là thương dân. Nằm gai nếm mật nuôi chí lớn, ắt sẽ thành.

- Nhà ngươi chớ có múa mép khua môi. Dòng dõi ta mười mấy đời làm thứ sử, lãnh cả một vùng đất phía nam. Đám quan lại triều đình ô nhũng, nhiễu nhách như vậy là quá đủ rồi. Giết Tượng Cổ, đánh Lục cướp ấy cũng là thỏa nguyện ý dân. Nay triều đình kia cho là ta phản phúc, mang quân lính đến bờ cõi ta, ý là nghĩa thế nào.

- Tại hạ không can ngài chiến đấu vì dân, chỉ dám mong ngài suy xét trước sau. Kẻ biết nhún nhường, lựa thời cơ mới làm lên đại nghiệp. Gương Hán Liệt Đế, Tấn Tuyên Đế còn sáng. Kẻ tức giận vì kỉ xưa có Sở Vương, sau có Dạng Đế lấy máu dân tắm mình vẫn còn đấy. Triều đình trước có ban chiếu phong tước cho tướng quân. Mà chuyện cũng đã rồi tại hạ không bàn nữa. Nay triều định nổi giận cho là ngài khi quân, kháng chỉ. Lỗ Hạo cũng chẳng phải kẻ quân tử mà xàm tấu. Tội ấy triều đình nào lại không xét. Chi bằng ngài thuận lòng dân, vờ đầu hàng, đút lót cho họ Quế kia, việc này chẳng coi như đã xong hay sao.

- Bì La Cáp dựng Quy Nghĩa kia vẫn sáng. Đại Lễ giờ hùng mạnh kém ai. Đất nam ta dân chúng đông đúc, tàu bè qua lại giao thương cũng nhiều. Há lại kém nơi kỷ ho cò gáy ấy. Việc hèn hạ ấy ta không thể nghe theo. Nếu còn lời lẽ sằng bậy làm nhiễu loạn lòng quân dân, cứ theo chín mươi điều cấm mà nghiêm trị.

- Vậy ngài hãy giết chết ta ngay tại phủ này.

Dương Thanh chẳng quay đầu lại, gọi lính giải họ Đặng vào ngục tối. Cùng lúc đó, Gã Quỷ Dương Diện chạy tới báo tin:

- Bẩm tướng quân. Theo dò la, tại hạ đã biết tên mặt xanh ngày trước cướp tù toan giải cứu cho bốn tên thủ lĩnh chính là vị hòa thượng ở Đại Đường tự. Kẻ này cũng chính là kẻ khắc chữ lên đá ở trên núi Tiên Du. Tiểu nhân đã sai người cho bao vây tự, không để kẻ nào chạy thoát.

- Ta nghe nói hắn là bạn tâm giao của Lập Đức sư phụ. Nhà ngươi có biết chăng?

- Là cái gã đầu trọc ở chùa nhỏ kế bên. Tại hạ biết hắn.

- Bắt giải hết chúng về đây. Không cho kẻ nào chạy thoát. Kẻ nào chống lệnh giết ngay tại chỗ.

Tồn Thăng tuân mệnh vội vã chạy ra cửa, hắn lại quay lại hớt hải hỏi :

- Lão già họ Đặng làm điều gì đắc tội với tướng quân? Bọn sai nha lôi lão đi như lôi một thằng què vậy?

- Việc ta giao cho nhà ngươi không lo. Lo chi chuyện ấy!

Tồn Thăng lẩm bẩm trong miệng , bước từ từ ra cửa. Dương Thanh quát lớn khiến hắn giật mình :

- Trời sáng, còn chưa đi mau.

Sáng sớm ngày sau, khi còn gà gáy, Tồn Thăng hý ngựa, ngựa chạy tới, hắn nhảy vút lên ngựa hướng thẳng Phù Đổng lưỡng tự. Tới nơi, hắn la lối om xòm, mắng chửi thậm tệ người trong chùa. Lập Đức nghe thấy bước ra khỏi chùa, giọng từ tốn hỏi:

- Tướng quân không biết có nỗi niềm gì lại tới đây mắng mỏ đám sư trong Đại tự ấy.

- Ra là ngươi. Lão trọc đầu đồng đảng với cướp. Bay đâu bắt hết giải vào nhà lao phủ Tống Bình.

- Vị tướng quân này bớt nóng giận. Ta đã kể hết sự tình với Sĩ Giao quân sư. Ngài về bẩm lại với Dương Thanh tướng chủ giúp bần tăng.

- Thôi đừng có nói nhiều. Bay đâu bắt hết về phủ.

- Tướng quân đã nói vậy thì bần tăng xin được tự đi tới đó.


- Đừng có thấy ta ngốc nghếch mà giở trò. Bọn bay bắt cả lão trọc đầu họ Trịnh kia giải về phủ.

Bọn lính tráng chạy vào trong chùa nhỏ bắt giải vị hòa thượng họ Trịnh. Từ phía Đại tự chạy ra, cả một đám tăng nhân, người cầm trượng, người cầm gậy gộc, đòn gánh đứng bao vây đám lính. Vị hòa thượng Giả Thường mặc áo cà sa óng mượt bằng tơ lụa nghiêng mình cúi chào Tồn Thăng. Tồn Thăng nói lớn:

- Các người còn không mau giao nộp tên cướp mặt xanh. Không thì đừng có trách ta không nương tay.

- Chốn cửa phật mong thí chủ chớ buông lời thóa mạ. Để bần tăng giải thích.

- Đừng có nhiều lời nữa. Đến phủ rồi giải thích với Dương tướng quân.

Nói rồi, đám lính xông thẳng vào đám sư sãi chùa ấy mà đánh. Được lệnh của Tồn Thăng, đám lính càng hung hãn vung gươm giáo thẳng tay. Hai gã hòa thượng bặm trợn cùng vác cây lớn nhằm ngựa của Tồn Thăng. Tồn Thăng kéo cương ngựa quay đầu lại rồi nhảy xuống ngựa, tay rút kiếm chém chẻ đôi cây lớn. Vị chủ trì Giả Thường lùi lại vào Đại tự đóng chặt cửa chùa, nói lớn ý cho hai kẻ mặt mày hung tợn kia:

- Giả Không cùng Giả Thanh ở lại gắng chống cự bọn chúng.

Đám lính của Tồn Thăng mất hàng ngũ, kéo cả đoàn vào nơi hỗn loạn mà đánh đám tăng kia. Sau nửa canh giờ, Tồn Thăng cho bắt trói tất cả đám tăng. Tồn Thăng lại cho người mắng mỏ đám tăng trốn trong chùa. Suốt một canh giờ không thấy động tĩnh gì, Tồn Thăng cho người phá cửa chùa nhưng không thể phá. Tồn Thăng gạt đám lính sang một bên, tự mình dùng sức lao vào cánh cửa đồng. Gã Quỷ chợt nghĩ :

- Là đám tăng trốn trong tự mà cửa chùa lại cứng nên ta mới phải chịu. Ta về báo lại cho lão họ Dương kia như thế liệu có sao không ?

Gã Quỷ suy nghĩ một hồi quyết định cho thu quân về, cùng với đó là đám hòa thượng bị trói. Đi được đoạn nửa đường, từ phía nam đi tới là một đoàn quân người ngựa dũng khí ngời ngời chạy tới. Giáp hoa, cờ thêu chữ vàng óng ánh trên lụa bay phấp phới trong gió. Gã Quỷ thấy lạ liền hỏi:

- Các ngươi là lính từ đâu đến? Kẻ cầm đầu là ai?

Có một tên cưỡi ngựa, hắn bịt kín mít khuôn mặt chỉ lộ ra hai đôi mắt. Giọng nói giống người xứ Quảng bắc Lĩnh Nam, hắn đáp :

- Ta là Trương Sang, là tướng kỵ binh của Chí Trinh thiếu chủ. Về đây có tin cấp báo.

- Chí Trinh hắn đang ở Nà Lữ phía bắc, chống quân triều đình. Nhà ngươi đi từ phía nam lại cho quân lính mặc hộ giáp về phủ e có điều gì không phải.

- Thiếu chủ bảo ta mang hai trăm binh kỵ về tăng cường cho trị sở. Nhận lệnh ta gom thêm quân ở Chu Diên, vượt sông Thiên Đức tới đây thì gặp ngươi.

- Ra là thế. Tại sao quân lính lại bịt mặt hết thế kia?

- Bẩm tướng quân. Bọn tôi là lính mật nên mới ăn mặc như vậy tránh khỏi sự tò mò của kẻ khác.

- Cờ thêu chữ gì? Nắng quá, mắt ta không có đọc được.

- Bẩm là chữ « Dương ».

Gã Quỷ cho một tên lính chạy tới đám lính kỵ ấy thì gã đọc lớn :

- Là chữ Trương, không phải chữ Dương.

Có tên bắn lao vút ra, tên lính ấy ngã xuống tại chỗ. Gã Quỷ ra lệnh toàn quân giữ vững đội hình chuẩn bị chiến đấu.

Sang cười lớn, ra hiệu cho đám lính kỵ chạy tới vung gươm giáo mà chém đám lính bản bộ của Tồn Thăng. Thăng thấy lính không thể chống cự được liền ra hiệu cho đám lính chạy về phía con kênh gần đó. Tồn Thăng cưỡi ngựa dùng dao quắm chém chết năm tên lính kỵ rồi bỏ chạy về phía con kênh. Đám hòa thượng nháo nhác chạy thì tên đứng đầu lính kỵ quát lớn:

- Tất cả đứng lại. Nghe ta chiến đấu với đám lính của họ Dương kia thì sống. Kẻ nào chạy ta giết chết kẻ ấy.

Bọn hòa thượng được đám lính kỵ cởi trói, phát vũ khí cho. Hai đội quân hợp một truy đuổi lính của Tồn Thăng. Gã Quỷ chạy tới bờ kênh sai cho đám lính dừng lại, gào thét:

- Đứa nào xông lên giết chết thằng cầm đầu sẽ được thưởng hai trăm lượng.

Có một tên áo quần xộc xệch chạy đến, tay cầm giáo dài xin ra trước đón đám ấy. Tồn Thăng bảo tên giám quân nhường ngựa cho hắn. Tồn Thăng hô lớn lấy sĩ khí quân lính:

- Giặc ở phía trước, cái chết phía sau. Mau mau mà giết giặc.

Tên lính tiên phong chạy lên trước, chém chết hai lính kỵ, Tồn Thăng cho ngựa lao lên. Bọn lính thấy thế cũng liều mình lao lên phía trước. Giao chiến hỗn loạn, đám lính kỵ ngã ngựa liên hồi. Tồn Thăng ra lệnh người nào bắt được ngựa thì quay lại chém giặc. Sau nửa canh giờ, đám hòa thượng chạy trốn hết loạt. Lính kỵ còn lại phân nửa, phía quân Tống Bình chỉ còn Gã Quỷ một mình một ngựa. Tên thủ lĩnh cười lớn:

- Bọn tiểu nhân phản phúc. Ăn lộc trên lại trở mặt giết người trên. Nay ta thay mặt cho vương tử Đạo Cổ trừng trị các ngươi.

Tồn Thăng lấy làm giận lắm nhưng gã không thể làm gì, toan ném dao quắm về phía tên thủ lĩnh. Ngựa của tên thủ lĩnh thất kinh khiến hắn ngã ngựa. Tồn Thăng cười lớn:

- Ra chỉ là thằng cưỡi ngựa chưa vững mà cũng đòi đánh với ta.

Tay thủ lĩnh bỏ mạng che mặt xuống. Đôi tay vuốt vảy rồng nhảy lên ngựa lao về phía Tồn Thăng. Gã Quỷ tay không vũ khí bỏ chạy về hướng Tống Bình. Gã còn quay lại nói lớn:

- Cái loại quỷ da xanh nhà ngươi. Đừng hòng bắt được ta.

Long Trạch cho đám lính kỵ đuổi theo Gã Quỷ hòng giết chết gã. Có mũi tên bắn ra, trúng phía lưng phải gã. Dương Diện nén đau thúc ngựa thục mạng chạy nhanh hơn. Đến cổng La Thành, Dương Diện cho gọi mở cửa thành. Thấy hồi lâu không có người mở cửa, Gã Quỷ chạy lòng vòng quanh thành gọi ầm ĩ. Đến cửa phía Đông, có bóng người đi lên thành Gã Quỷ hớn hở gọi :

- Này tên kia. Mau mở cửa thành cho ta vào. Có đám người định truy sát ta.

Người trên cửa thành nói lớn vọng xuống:

- Nhà ngươi còn không mau chịu trói.

- Ra là gã hòa thượng thối nhà ngươi. Giả Thường giả dị cái gì. Ta phỉ nhổ vào.

Lúc ấy, gã hòa thượng da xanh cũng đuổi kịp tới nơi. Quân lính vây quanh Tồn Thăng. Gã Quỷ gầm gào hung dữ, mọi thứ dị tật trên người gã lại hằn lên. Đám lính thần hồn nát thần tính lui lại. Gã chạy ngựa tới một tên lính kỵ cầm thương, rút mũi tên trên lưng hắn mà phi cắm giữa trán tên lính ấy đoạt thương.

Gã cầm thương chém tứ phía, ngựa xông thẳng tới chỗ Long Trạch. Long Trạch dùng song câu giao chiến với Gã Quỷ Dương Diện. Giao đấu được ba mươi hiệp, biết mình không thể chống cự được Gã Quỷ thúc ngựa chạy thẳng vào vòng vây, lấy hết uy lực chém chết cả chục lính kỵ thoát về hướng Tây Bắc. Long Trạnh thúc ngựa đuổi theo đến bờ sông Nhị đoạn có bãi bồi giữa sông, bên kia có bóng cây đa lớn rủ xuống sông Nhị thì không thấy Dương Diện đâu nữa, chỉ thấy toàn cây lau mọc cao hơn đầu người lớn. Nhìn một hồi xung quanh không thấy người đâu, Long Trạch toan trở về La Thành.

Có một trận mưa vần vũ kéo đến nhanh, Long Trạch quay đầu trú dưới một lều tranh gần bờ sông. Trận mưa ào qua chỉ trong chớp mắt đã tạnh. Long Trạch thấy có xoáy nước giữa dòng đang tiến lại gần bờ chỗ Trạch đang trú. Trời nắng gắt trở lại, Long Trạch chạy ra ngoài lều tranh có tiếng vọng lớn từ túp lều :

« Đông hải kình trắng

Ngạc ngư vũng lầy

Chớ có tới đây

Phạm vào sát tội»

Lời vọng vừa dứt thì túp lều cùng cả bờ đất bị xoáy nước cuốn trôi. Hoảng hồn Long Trạch thúc ngựa chạy thẳng về La Thành, không dám ngoảnh đầu lại. Từ bụi lau, có bóng người lấp ló bước ra. Tiếng ngựa hý vang không khiến người này lo lắng. Anh ta bước ra gọi lớn:

- Này vị tráng sĩ kia. Bước đường cùng còn đi đâu nữa. Chi bằng qua sông với ta.

- Việc công còn dang dở, tướng chủ còn lưu lạc. Thăng ta phải đi tìm.

Gã Quỷ thúc ngựa chạy đi về phía trước, một lát ngựa lại chạy lại chỗ cũ. Nghĩ trong đầu đường ấy là sai đường, Dương Diện lại cho ngựa rẽ về trái đường, đi lòng vòng một hồi lại trở về chỗ cũ. Cứ như vậy, đến lần thứ t.ư Dương Diện quát lớn:

- Là kẻ nào dùng tà thuật?

Chàng trai khi nãy bước ra, dáng người gầy, đôi tay dài sải, đôi bàn chân bè ra như chân vịt mặc chiếc khố màu nâm sậm. Làn da ngăm đen, mái tóc xõa ngang vai, trán anh ta buộc một dây vải vòng ra phía sau. Mũi gãy, tai nhỏ như chuột, đôi mắt đượm buồn đen nháy. Anh ta cười mà mặt trông chẳng thấy vui hơn, môi dưới trề ra nói :

- Ta nghe có vị tướng quân ghé thăm, lại muốn nhờ ta xem trí tài người ấy thế nào. Hóa ra chỉ là một tên ngốc.

- Ngươi là kẻ nào? Đừng có đứng đấy già mồm. Có giỏi đánh với ta một trận.

- Tại hạ là người làng Chèm đất bên kia sông, tên là Lý Toàn, người làng vẫn gọi là Nga Tú Du Thủy. Tướng quân xin bớt giận. Người làm tướng, khi đánh trận đâu chỉ lấy sức mạnh mà còn phải dùng cả cái này.

Chàng thanh niên cầm một cây sậy chỉ vào đầu y. Tồn Thăng lại nói :

- Cái bộ tóc của nhà ngươi thì làm được trò trống gì.

Anh chàng lại cười phá lên. Tồn Thăng mặt phừng phừng tay cầm cây thương dí vào cổ anh chàng. Chàng ta không tỏ gì lên khuôn mặt, lại lấy lá sậy vờn ria mép mà nói :

- Dũng tướng xin chớ nóng giận. Ta đây chỉ là muốn cứu ngài đấy thôi.

Tồn Thăng rút thương lại, có tiếng cười lớn từ lòng sông vọng tới:

- Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng. Còn chưa chịu nhận mình ngốc sao.

- Ra là nhà ngươi, Đặng Hoài. Không lo giữ thành lại lạc đến đây chơi để cho đám đầu trọc kia cướp thành.

- Lão Quỷ lên thuyền, rồi cùng ta qua sông. Chủ tướng đang ở bên đó đợi huynh đệ.

Đặng Hoài kể cho Tồn Thăng mọi chuyện. Thì ra đám tăng kia chẳng phải là dạng tầm thường. Đại Đường tự, ngày thắp hương thờ phật qua mắt chúng dân và quan lại, đêm thờ tiết độ sứ mới chết. Ngày luyện khí công, gánh nước trồng rau, đêm rèn binh đao nơi hậu viên, chờ ngày báo thù cho tên tiết độ sứ họ Lý. Ngày trước có ba kẻ Triệu Hoằng sai đi dò la lọt được vào chùa thì hai trong số ba kẻ ấy là người Hoa Hạ, một tên là Tăng thống phủ Tống Bình thời Đô hộ Tượng Cổ tên gọi Hoành Trinh, một tên là Quận châu mục Quản Đồ, một người nữa là đô đốc Thang châu Mã Tước. Đám ấy xưa được Tượng Cổ yêu mến, cất nhắc cho giữ những vị trí hiểm yếu. Sau khi hắn chết, những kẻ ấy thân cô thế cô, bắt buộc phải đầu hàng theo Dương Thanh.

Nghe tin Triệu Hoằng tuyển người dò la Đại Đường tự, chúng liền đến đút lót cho Triệu Hoằng. Vào đấy, chúng vượt qua những thử thách đầu tiên của đám giả tăng kia. Chúng được tin tưởng giao phó về Tống Bình dò la, tập hợp lực lượng để chờ ngày hôm nay, toan giết chết họ Dương cùng những người thân cận.

Đến ngày hôm qua, giữa đêm khuya, có người lấm lét chạy vào phủ bị bọn lính bắt được. Dương tướng quân cho xét hỏi thì Triệu Cường con trai Triệu Hoằng chạy tới bẩm báo người này chính là Mã Tước, một trong ba kẻ đã trà trộn được vào Đại Đường tự. Dương tướng quân hỏi hắn làm gì trong suốt thời gian ở trong tự. Hắn khai hết những gì hắn thấy và được biết cho Dương Thanh nghe. Nghe xong, cả giận Dương thanh toan cho người đến tự ấy mà đốt sạch bọn phản loạn. Mã Tước cản lại mà báo rằng nếu Dương Thanh ra ngoài thành trong đêm là sẽ có kẻ ám sát ngay. Nói vậy, Dương Thanh cẩn thận hơn, sai người mặc áo choàng, cưỡi ngựa đỏ đi ra ngoài phủ. Tiếng ngựa hý cất vang trong đêm, Dương Thanh nhận thấy lời của Tước là thật.

Dương Thanh hỏi Tước:

- Vì đâu nhà ngươi có ý quay lại giúp ta?

- Không phải là vì ngài khảng khái chính trực thì tiểu nhân chẳng nói ra điều này cho ngài. Chẳng giấu gì. Nhà tiểu nhân xưa ở đất Kiến Nghiệp, Giang Nam, ba đời làm quận úy đất Giang Lăng, đến đời ông nội tiểu nhân vì loạn An Lộc Sơn mà chạy về đất này. Đám quan lại ở Tống Bình hay qua lại nhà tiểu nhân, cha tiểu nhân mới giới thiệu tiểu nhân vào phủ, lại được tiết độ sứ yêu mến nên được giữ đất Thang Châu. Tiết độ sứ không được lòng dân chúng và các vị tôn trưởng người Nam như ngài nên bị giết. Thoạt đầu tiểu nhân có chút nghi ngại, nhưng sau những lời nói và hành động của ngài đối với đám quan lại chỉ chăm chăm nịnh trên lừa dưới kia đã thay đổi suy nghĩ của tiểu nhân. Ngài không ghét bỏ đám quan lại cũ còn sót lại mà những người được việc, có khả năng được ngài tận tâm nâng đỡ, gỡ những trói buộc trong đầu. Thật là đấng chủ tốt vậy. Khi vào Đại tự dò la, tiểu nhân như những người khác bị bọn ấy dò xét. Qua mắt được đám ấy thì tiểu nhân được thu nạp. Đám người ấy là tay chân của vương tử Đạo Cổ, trước lập chùa ở chốn đấy để đám quan lại Tống Bình có chỗ đi lại nương cửa phật. Sau khi Tượng Cổ chết, bọn chúng tối đóng chặt cửa, mưu bàn việc quân tình, lại cho người vào thành dò la, đút lót bọn quan, tướng hòng có được thông tin để dễ bề ra tay. Danh sách những người thân tín của ngài bị mua chuộc tiểu nhân có đây. Nhưng không phải tất cả nhận được tiền đều bán rẻ tướng quân. Đặng Khả là một trong những người như vậy, vì thấy tướng quân cho quân đóng tại biên giới nên mới ngăn cản. Sợ tướng nơi xa không thể cứu giúp binh biến bên trong Tống Bình. Đêm nay, tin biết ngài cho các tướng đi biên ải, chỉ để lại một viên tướng không mưu lược là Tồn Thăng nên mới có ý định ra tay cướp La Thành. Trong ứng, ngoài hợp e là không dễ để ngài thoát khỏi tay bọn chúng. Tiểu nhân bị bọn chúng nhìn thấy có lòng dạ khác nên bị bắt trói ba ngày nay, chẳng cho ăn uống gì. Đến sáng nay có vị hòa thượng tên Lập Đức vào tự ấy giúp tiểu nhân trốn ra ngoài, tiểu nhân vội đến đây báo với tướng quân.

Thấy lòng dạ người này không phải người xấu, Dương Thanh hỏi cách nào để thoát ra ngoài một cách an toàn thì Tước nói với Dương tướng chủ rằng Dương Diện lão quỷ là người có thể cản bước bọn chúng. Lại sai Gã Quỷ đuổi khéo Lập Đức cùng Vô Ngôn Thông để tránh tai họa cận kề. Cũng vì Gã là tướng soái có sức mạnh và đầy dũng cảm nhất còn lại ở Tống Bình nên việc cản bước lũ giặc trong nhà không ai phù hợp hơn.

Dương Thanh sai người hầu cận đóng chặt cửa phủ, lại mặc áo lính tuần đi cùng với đám Đặng Hoài, Triệu Cường dùng quân bài ra khỏi cửa thành phía tây, chạy đến bờ sông Nhị. Còn lại đám lính trung quân thì giao hết cho Dương Diện đi đối phó với đám tăng nhân Đại tự. Dương Thanh nói với Đặng Hoài :

- Thật là cực chẳng đã mới phải làm ra điều như vậy. Chẳng biết tên ngốc Tồn Thăng có thể chạy thoát mà tới chỗ này không.

Đặng Hoài đáp lời :

- Nếu Tồn Thăng là kẻ dũng, không mưu lược gì thì ắt sẽ như lời Mã Tước nói với tướng chủ.

Y lời Đặng Hoài, sau khi qua sông cùng với Lý Toàn, Đặng Hoài dắt Tồn Thăng vào diện kiến Dương Thanh. Dương Thanh lấy làm mừng lắm. Gã Quỷ máu chảy ngang lưng xuống đến gót chân. Dương Thanh sai người lấy áo khác thay cho Gã Quỷ, tự tay băng bó vết thương cho hắn. Dương Thanh hỏi gã:

- Vết thương này vì ta mà có. Ai nói cho nhà ngươi biết ta ở đây mà đến?

Gã cười :

- Nam tử hán, có chút này chỉ là gãi ngứa. Tiểu nhân từ Phù Đổng đến Tống Bình, thấy trên cổng thành có treo bốn chữ : « Dương Tây Trinh Đông » ý là tướng chủ phía tây, thiếu chủ đang ở phía đông.

- Vậy mà Triệu Cường và Đặng Hoài cho rằng ngươi chẳng thể hiểu được ý đấy.

- Là Lập Đức hòa thượng tới thành biết trong thành có biến nên đã nhắc ta đi về phía tây.

- Thế sư ấy đâu rồi?

- Sư bảo thế loạn không ở được lâu, lại đi cùng họ Trịnh hướng Đông Nam. Khi ấy, bọn giặc mặt xanh đuổi tới, tiểu nhân liền chạy đi tới đây. Tên tiểu tử tên Toàn giúp tiểu nhân tránh được giặc cướp mặt xanh kia. Chẳng biết hắn dùng tà thuật ra sao mà khiến xoáy nước dưới sông nói được, lại cuốn phăng bờ đất chỗ tên Long Trạch ấy đứng.

Lý Toàn tay cầm ria mép, giọng nói ba hoa:

- Toàn ta vốn cháu ba mươi đời của lưỡng quốc Đại tướng Lý Ông Trọng. Xưa tại bến này, ta bắt thủy quái chốn sông sâu, hà bá thủy tề có thá gì đâu. Bọn ấy nghe thấy tên ta mà rụt đầu sợ hãi.

Tồn Thăng nhìn Toàn với ánh mắt ngưỡng mộ. Gã Quỷ vỗ vai Toàn:

- Người thì bé loắt choắt, tay dài lều nghều như cái sào chọc…

- Ấy, ấy. Nhà ngươi đừng có nói thế. Áo con trai ta mặc đây là da của thủy quái, đôi giày ta đi cũng là da của thủy quái ấy mà may thành. Chiếc vòng này toàn là răng của thủy quái.

Tồn Thăng cười lớn, chỉ vào lưng hắn đầy vết sần sùi cứng ráp:

- Còn mái tóc bù xù cùng với cái lưng cứng ráp kia của ngươi cũng bắt chước theo thủy quái đấy. Ta hình dung con thủy quái của ngươi giống ngươi lắm.

Mấy người lại cười ùa theo Gã Quỷ. Dương Thanh can lời :

- Là Lý Toàn từ nhỏ đã sinh ra lưng đã bị vậy, chẳng thể khác được. Ngươi xem lại mình xem có khác gì quỷ sa tăng không. Mái tóc kia của Lý Toàn làm nghề sông nước để vậy cũng là cho tóc ấy nhanh khô, đầu không mọc nấm. Ngươi xem nhà ngươi thuở đầu đến với nghĩa quân của ta, chấy rận đầy đầu, lại suốt ngày lòa xòa chẳng chịu búi lên. Đánh nhau với đám quân triều đình, bọn ấy chẳng sợ khiếp vía mấy phần vì điều đó.

Lý Toàn cười nắc nẻ, còn Tồn Thăng mặt chẳng vui quay mặt đi bỏ qua chuyện. Gã hỏi Dương Thanh :

- Chủ tướng cớ sao bỏ thành để cho đám giặc cướp kia chiếm được.

Dương Thanh đập bàn, mắng trách:

- Là do ngươi! Ta nói ngươi đi sớm về sớm, ấy nhưng không chịu đi lại để đến sáng hôm sau mới chịu đi. Người không bắt được, lại bị chết đám trung quân.

- Theo ý của tướng quân, trời sáng gà gáy, tại hạ đã cầm lính đi. Nào ngờ bọn giặc ấy đứa nào đứa ấy giáp khiên đầy đủ, vũ khí ngắn dài đều có, cưỡi ngựa thuần thục. Thân tiểu nhân người không manh giáp, bọn giám quân được ba con ngựa, đám lính đi chỉ bắt người chứ nào đâu có chủ định đánh giết. Đã không bắt được đám giả tăng, lại bị cái tên mặt xanh kia dẫn quân đến. Thoát chết là may lắm rồi.

- Ai bắn ngươi?

- Là cái tên gì đó tên là Trương Sang. Hắn bảo là quân tiếp viện của Trinh thiếu chủ. Nào ngờ đọc tên hiệu trên cờ hắn thì bị bọn ấy bắn tên.

- Các ngươi giết được bao nhiêu lính, đám ấy có bao nhiêu người.

- Cả thảy giết được gần trăm, còn hơn nửa nữa. Thoát đến thành thì thành không mở. Trong thành hò reo ầm ĩ, quân lính đến cỡ bảy tám nghìn đứa.

- Nhà ngươi còn thấy ai đứng trên thành.

- Là tên hòa thượng Giả Thường, hai tên bặm trợn Giả Không, Giả Thanh, có đô úy Tống Bình Khương Nho, đám áp nha đô sứ đến bảy tám người.

- Thật là nuôi ong tay áo.

Đặng Hoài thấy vậy vỗ về họ Dương, Triệu Cường lại cho người soạn rượu thịt lên. Dương Thanh uống rượu mà lòng nóng như lửa đốt chờ tin báo về. Bữa tối tàn cơn, Dương Thanh ngà ngà nằm trên trõng tre thiếp đi.

Trong cơn mê sảng, Dương Thanh mơ thấy có một lão ông mình cao hai trượng ba thước, khí chất đoan dũng khác thường, giọng nói vang vang như sấm rền đang giảng đạo cho một người học trò nghe. Chàng thanh niên kia mải mê chăm chú nghe lời lão ông bàn về việc trị nước an dân, lại giảng giải kinh thư, luận sách Xuân thu kể chuyện nhân đức, trung nghĩa của những gương tiền nhân.

Dương Thanh bước nhẹ tới, ngồi cạnh chàng thanh niên mà anh ta không hề biết, Dương Thanh ngồi chăm chú nghe cùng. Anh chàng ngồi cạnh gù gật trên đống sách, gục mặt xuống bàn, Dương Thanh thảng thốt nhận ra người ấy là Triệu Xương, tướng chủ cũ của Giao Châu. Dương Thanh lay Xương dậy thì thầy chẳng trách phạt lại nhẹ nhàng dặn dò:

- Trước con là người chủ công minh, sau y là dũng tướng vì cái tội của kẻ trên mà diệt kẻ trên tự lập lấy danh. Tuy rằng y dũng mãnh, khí chất còn vương nhiều nóng nảy nên người dưới lắm kẻ không ưa. Vãn bình sinh mà thoát nạn.

Dương Thanh ngẫm thấy lão ông nói mình. Vội vàng cúi lậy nghe lời dạy. Lão ông đứng lên bục đá, mặt nhìn hướng tây bắc ngược dòng sông trước mặt nói rằng:

- Đất Bạch Hạc trước đời ta Vương họ Hùng chọn đất ấy mà lập ra nước Nam. Khí chất ở đấy vượng sung. Từ phía núi Hy Cương xuôi về đến ngã ba con nước long phượng cứ hùng. Nhà ngươi lui về đất ấy ắt tai họa lui dần.

Dương Thanh cúi lạy hỏi:

- Chẳng hay tên họ thầy là chi.

Dứt lời, lão hóa thành luồng sáng vàng bay lên trời, chỉ còn lại mây khói mịt mù ngang trời, sông nước mênh mông. Triệu Xương dắt Dương Thanh đi qua con đương rêu phong đầy đá, bước qua những lụi cây hoang tàn, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng. Triệu xương chỉ tay lên bầu trời nói với Dương Thanh:

- Nhà ngươi nghe lời Phụ tín Đại vương nói đấy. Nhà ngươi vì ghét bỏ kẻ tham tàn mà tàn sát. Nay đại họa cận kề, y lời thần nói mà theo. Gặp người họ Lý thì dựa người ấy, có lúc cần nhờ đến. Gặp Vương thì bái lạy ắt sẽ gặp điều lành. Từ đất đình lớn này, lấy thuyền nhỏ vượt cửa Nhuệ giang sang bên kia là làng nhỏ Thị Điềm. Đất ấy có đền thờ Đại vương. Nếu hương lên, nhang cháy một nửa có cành tre gãy thì là ngài ứng báo. Còn không thì số nhà ngươi đến vận suy tàn.

Tỉnh dậy mơ màng, Dương Thanh nhận được tin báo về từ biên giới. Quân tình cấp bách, xé toang mơ hồ, Dương Thanh cùng Triệu Cường vượt sông sang đất Phong Châu. Tại đây Dương Thanh hợp hai nghìn quân phòng đông của thứ sử Vương Thăng Triều tại cửa Hát Môn. Trong đêm cho người bí mật về La Thành dò thám tình hình.

Lúc bấy giờ, Chí Trinh sau nhiều ngày cố thủ thành Nà Lữ đã phải bỏ thành khi quân triều đình được tù trưởng động Hổ dẫn đường. Sau khi mất thành, Trinh chạy vào núi, sai quân đóng tại đèo Mã Phục. Đêm đến sai lính đi đốt trại lính quân triều đình, cho thứ độc bẩn vào nguốn nước ăn của quân triều đình. Lại có kẻ phát hiện ra chỗ thiếu chủ họ Dương, Trọng Vũ sai năm trăm tên lính đi vây núi, đốt cháy cả núi. Chí Trinh cùng hơn một nghìn lính liều chết chạy theo đường núi chạy đến đất phía đông châu Bình Nguyên, đóng quân tại núi Hiếu Sơn, lại cho hai trăm lính đi đến bờ đông Lô Giang. Tại đây, Chí Trinh mượn lương thực của tù trưởng người Mèo là Giàng A Kha. Nhờ có một người trong vùng ấy biết tiếng người Lão, Chí Trinh cho người đó đi theo, dẫn đường xuôi sông Lô về đến đất huyện Thừa Hóa châu Phong.

Lúc mất thành Nà Lữ, tả tướng của Chí Trinh là Triệu Túc dẫn năm trăm lính vượt sông Nam Bình (Sông Thương) hội quân với cha và Sĩ Giao tại Hải môn.

Đương lúc nguy bách, Triệu Hoằng tự ý mang quân đến Hải Môn quan nghênh chiến với tướng địch là Thôi Kết. Phó tướng của Quế Trọng Vũ thấy Hoằng là kẻ ham sống sợ chết lại hám tiền bạc của cải, sai sứ giả sang vờ cầu hòa. Sĩ khí quân lên cao, thấy Kết sợ hãi mà nộp tiền vàng của cải, Triệu Hoằng lại sai con trai Triệu Túc mang thêm quân đến để hòng dọa Kết.

Đêm rằm tháng chạp, Kết lại sai sứ giả bí mật đến chỗ Hoằng chở theo rượu thịt trăm cân, vàng bạc nghìn lượng, vải lụa nhiều vô kể. Sứ giả nói với Hoằng:

- Triều đình có ý tốt muốn công nhận Dương Thanh tướng quân. Nhưng khi phong chiếu, hắn lại vờ ốm không nhận. Nghe Triệu Hoằng tài đức phần nào cũng vượt hơn họ Dương ấy, lại biết lắng nghe lòng dân được lòng đám sĩ tướng xứ Giao Châu. Trọng Vũ tướng quân thấy cái uy của người hùng tài lấy làm kính nể. Chút quà mọn này coi như chút quà gặp mặt. Trọng Vũ muốn cầu hòa với Triệu Công, phần sau sẽ trở về báo với Triều đình phong tước, cấp thổ cho ngài.

Lời ngon ngọt khiến Triệu Hoằng mơ tưởng. Vàng bạc châu báu lụa là không thể không lay lòng. Triệu Hoằng cho thân tín giấu kín chúng ở phía sau trại hướng về Tống Bình. Hoằng hớn hở khoe với Sĩ Giao :

- Dương Thanh nói quả không sai. Đám quân ô hợp triều đình cũng chỉ có vậy. Lũ rùa rụt đầu. Thấy con trai ta đã kinh hồn bạt vía.

Sĩ Giao lấy làm lạ, hỏi Hoằng :

- Triệu Túc là tả tướng quân dưới quyền Trinh thiếu chủ cố thủ Nã Lữ. Sao hắn lại trở về đây?

Hoằng ậm ừ:

- Thành Nà Lữ đất ở chỗ hiểm dễ thủ khó công. Xung quanh lại có bốn gò đất cao, quân lính đóng tại đó mà giữ thành được dễ dàng. Đất trọng yếu Hải Môn như ta và ngài giữ ở đây mới là thật hiểm nghèo. Thêm một dũng tướng như con trai ta trấn thủ đất này chẳng phải thêm phần an tâm hơn hay sao.

- Tại hạ nghe nói tiên sinh cầm quân nghênh chiến ở quan ải. Cớ sao lại cho quân lui về. Túc là dũng tướng cũng là người có mưu lược, há chẳng phải nắm thêm phần thắng hay sao.

- Là đám quân lính triều đình nhổ trại lui quân. Ta mới cho lính ra hù dọa ba ngày đã khiến bọn đó thành rùa rụt cổ. Thấy thế nên ta cho quân tập kích trở lại chỗ này.

Sĩ Giao thấy bất an trong lòng, sai người đi tìm hiểu xem thực hư. Biết được chuyện có sứ giả đến cầu kiến Triệu Hoằng, vị quân sư không hài lòng gọi Triệu Túc đến. Túc bị Sĩ Giao xoay vần liên tục, hỏi câu trước câu sau lời không giống nhau nên cuối cùng phải khai thật với Sĩ Giao. Sĩ Giao thở dài ngao ngán, đuổi Túc ra ngoài, hạ ba cấp làm lính quân nhu, cấp phát lương thảo.

Triệu Hoằng thấy điều đó mà không thèm nhìn mặt Sĩ Giao, lại cho người rêu rao Sĩ Giao cấu kết với địch, vì t.ư thù mà lấy việc công để trị tội, chia rẽ lòng quân lúc sĩ khí lên cao. Bọn giám quân cũng bị bọn Thôi Kết, Trọng Vũ điều đình mà có ý đồ trốn bỏ quân doanh nhiều vô kể. Sĩ Giao bấy giờ dùng binh quyền đuổi khéo cha con Triệu Hoằng về Tống Bình để tránh hậu họa chia rẽ quân tâm. Có hai vạn quân trong tay so với bảy vạn quân lính kỵ của họ Quế, lại không có võ tướng dũng kiệt, Sĩ Giao cho quân lui về tuyến phòng thủ phía sau, chờ viện binh từ các Châu phía nam.

Chí Liệt nghe tin đám quân tướng trong phủ Tống Bình cấu kết với giặc chiếm được La Thành gấp gáp cho quân lính lui về theo đường thủy đến sông Thiên Đức phía nam thành Luy Lâu. Đỗ Đại hợp quân với Sĩ Giao giữ chắc phòng tuyến phía đông. Từ Ái Châu, Tồn Thành dẫn hơn vạn rưỡi binh mã đi dọc bờ biển, đóng quân tại Đa Cương, Võ An châu. Các châu Võ An, Trường Châu không thấy có lính đến tiếp viện. Chí Liệt cho gọi Sĩ Giao bàn chuyện:

- Nay tuyến được dọc từ La Thành, Cổ Loa thành đến thành biên giới đều nằm trong tay triều đình. Tướng phụ không biết rõ thế nào, Sĩ Giao có ý kiến gì hay không?

- Thật là không thể ngờ tới. Chủ tướng đối tốt với bọn thứ sử, châu mục các nơi. Nay cần người đối phó với đám quân triều đình lại chỉ có riêng Ái Châu góp quân giúp sức. Mặt phía tây Phong Châu cũng là mặt hiểm yếu, quân Nam Chiếu lúc nào cũng nhăm nhe. Không thể để hổng chỗ đó được. Quân triều đình lại chiếm được nhiều nơi quan trọng, có thể tấn công bất cứ lúc nào. Nếu bọn chúng thủ thành chờ ta phản công lại thì sức quân ta cũng chẳng thể làm gì hơn.

- Chi bằng sai sứ giả sang đất Nam Chiếu giữ mối hòa hảo, đánh vào đất Vân Nam, Quảng Châu. Khi thắng được quân triều đình, hai bên chia đất.

- Đất Ngũ Lĩnh, Đại Lý bọn Nam Chiếu đã nhăm nhe từ lâu, sau loạn An Lộc Sơn, quân triều đình càng giữ vững hơn đất đó. Đất xứ nam ta mới là miếng mồi lớn. Ta e rằng khi quân Đường Lâm, Phong Châu, Bình Nguyên, Nam Tà đánh Tống Bình thì bọn Man Hoàng nhân đấy mà chiếm luôn của ta.

- Vậy như, Hoan Châu, Diễn Châu mang quân một vạn ra đến đây chẳng biết ý quân sư thế nào.

- Đất bắc Hoành Sơn, Lâm Ấp cũng đã bình. Người đất ấy xưa mang phúc của chủ tướng mà thanh nhàn bấy lâu. Nay chỉ có thể nhờ người xứ đó vậy. Cũng nhân bọn Trọng Vũ, Thôi Kết chưa vào Tống Bình, thiếu chủ sai người đến dò la đám thân tín của chủ tướng tại Tống Bình tình hình thế nào.

Chí Liệt lập tức nghe theo. Tại Tống Bình khi ấy, La Thành, Long Biên, Cổ Loa đều có lính giáp hoa, giáo dài ngày đêm canh giữ. Hai tên Giả Không, Giả Thanh làm dũng tướng giữ hai thành bên ngoài, Long Trạch giữ La Thành chờ quân triều đình đến thì dâng binh quyền lên.

Long Trạch cùng với Giả Thường sai bọn đệ tử đi dán cáo thị ở khắp nơi, treo thưởng đầu của Dương Thanh vạn lượng bạc, lại kể tội Dương Thanh:

« Thanh phản phúc giết chết quan sứ là Tượng Cổ, có dã tâm chiếm đoạt. Khi đến Tống Bình lại giết cả nghìn người vô tội. Ấy là hai tội đáng chết.

Chùa Đại Đường xưa là nơi dân chúng trong vùng đến cầu phật, nay hắn lại sai người đốt tự khiến đám hòa thượng lầm than, bao nhiêu công đức xứ Giao Châu đều tiêu tan. Chốn linh thiêng hắn cũng chẳng có chút tâm đức nương tay. Ấy cũng là tội lớn với đám dân. »

Chí Liệt nghe tin mà cả giận, đêm cho người đi xé hết cáo thị xuống. Có hai chục tên lính bị bắt, một nửa đám đó khai Chí Liệt đóng quân ở Luy Lâu. Đêm ngày sau, doanh trại ngoài thành của Chí Liệt bị tập kích, số lính chết đến phân nửa. Chí Liệt dẫn năm nghìn quân chạy về phía nam. Sĩ Giao cùng Đỗ Đại biết tin mang quân đến tiếp viện thì Trọng Vũ nhân thời cơ đó vượt Hải Môn quan đánh tan quân phòng thủ, số đầu hàng lên đến vạn rưỡi quân. Họ Quế rộng đường đến Tống Bình. Đỗ Đại anh dũng phá giặc bị trúng nhiều mũi tên của địch, khó lòng qua được. Sĩ Giao cầm hai nghìn lính chạy về phía biển đến hạ lưu sông Nhị - đất làng Gia Viễn.

Đỗ Đại quay lại cùng một nghìn lính liều chết cản bước địch đang đuổi theo Sĩ Giao. Đỗ Đại thấy tên cầm cờ phía quân lính mình bị chém chết, Đỗ Đại chạy tới mà cầm lấy cán cờ giương cao, hét lớn:

- Quyết không để cờ rơi. Thà chết cũng không được để dũng khí quân ta rơi xuống.

Đỗ Đại tay cầm cờ lớn, tay phải giữ chắc Xích Đao chém chết cả trăm tên giặc. Phá tan thế giặc vây, Đỗ Đại trao cờ cho một tên lính khỏe mạnh giục hắn cầm cờ đi theo quân của Sĩ Giao xuôi về phía nam. Cờ vừa rời khỏi tay thì Đỗ Đại bị bộ tướng của Quế Trọng Vũ là Bùi Chiêm chém chết.

Nhận tin dữ Đỗ Đại liều mình quay lại cản bước địch mà chết, Sĩ Giao chẳng thèm ăn uống đến ba bốn ngày, chỉ nằm một chỗ quay lưng ra ngoài mà nhìn vào bức tường. Nước mắt ròng ròng không sao cho hết nỗi đau thương. Sáng ngày ra nhìn về phương bắc nghe tin, chiều muộn lại quay về hướng tây mà ngóng ngóng người. Việc quân tình báo về bỏ bê hết thảy. Lại sai người quay lại tìm xác của Đỗ Đại, đám lính quay về mặt người nào người ấy rệu rã chẳng có hồi âm. Quân lính thì chạy khắp vùng để xin lương thực từ trong dân. Có đến cả ba bốn chục lính đảo ngũ, cởi mũ giáp mà bỏ đi.

Ba ngày để tang Đỗ Đại qua đi, Sĩ Giao cho tập hợp quân lính tại trước cửa nhà vị hào trưởng đất Gia Viên Nguyễn Tất. Mặt mày còn thất thần nhìn đám lính, giọng thều thào chẳng ra hơi, tay cầm mảnh giấy đọc trước linh cữu giả của Đỗ Đại, tay run run mà khóc rên như cha mất, mẹ mất:

- Ôi hỡi Đỗ Đại huynh trưởng ơi!

Thuở hàn vi huynh trưởng dắt tiểu đệ đến gặp Anh Sách tướng quân. Đại huynh được lòng Anh Sách mà em được xung làm quân tướng Tống Bình. Thấy bất bình chốn trường phủ hai huynh đệ về xứ Quảng Yên sống cuộc sống ngư chài. Sóng gió ấy thế mà chẳng qua đi, kẻ tham lam lại chèn ép ngư gia, khép dân mình vào tội chết. Thật là đắng cay, chua xót lắm. Huynh trưởng lại dắt bọn chúng đệ về phủ Tống, nhận đất Luy Lâu, làm nha môn áp sứ. Thế rồi tên Lý sứ ép ta phải bỏ quan, không thể nào sống chung được với lũ nịnh hót, trắng đen bất phân. Anh em ta được Dương tướng quân nhận về phục vụ dưới trướng. Bao nhiêu kế sách, trí lược được mang ra cho tướng chủ dùng. Xuân hạ hai mùa, bao nhiêu chiến công ghi tên lẫy lừng.

Khi họ Lý kia tham bạo, hung tàn, ta với huynh cùng tướng chủ lật đổ viên sứ nát. Lại được nghe giặc Lục cướp mà đi dẹp chúng. Đến nay cũng đã được nửa năm.

Huynh còn chưa yên bề dân đất Hồng, đã lại phải cùng bọn đệ dẫn lính chống quân Trung Nguyên.

Dẫu biết rằng, thắng thua là điều tất yếu của nhà binh. Nay thắng, mai thua đó là lẽ thường tình. Quân triều đình đông nhưng lại không ưa khí hậu xứ nam ta, lại thêm đường xá xa xôi, quân lương tiếp tế từ Ích Châu, Vân Nam, Quế Châu đâu phải chuyện ngày một ngày hai. Tên xứ Hành Lập cũng đang chôn chân miền biên viễn với đám lính Nam Man, cũng chẳng ưa gì họ Quế kia mà tiếp viện binh lương cho hắn. Thế nên ta và chủ tướng đã thống nhất giữ chặt phòng tuyến, tử thủ để bảo vệ Tống Bình, đợi khi quân lính triều đình phương Bắc rệu rã, lương thiếu, bệnh nhiều ắt tự sẽ tan. Ấy vậy mà đám quan lại Tống Bình, các tướng dưới lại chẳng chịu nghe lời. Kẻ thì điều đình qua lại với họ Quế, ăn đút lót, dối giục lòng dân, lại sai bọn tốt lính đầu hàng họ Quế. Kẻ làm tướng tiên phong, đóng quân đồn trại miền biên giới, chẳng hay lẽ sau trước t.ư thông với địch, dẫn rắn về cắn gà nhà để huynh phải oan nghiệt nơi đây.

Ôi kể sao cho hết những ngày ! Bao nhiêu đau đớn, thân gầy hao yếu, tâm này thật xót xa.

Đây chén rượu này xin được chia ba, chén mời thiện địa, chén hòa hồn huynh. Ta xin uống nốt chén rượu này để tỏ ý tình. Kẻ ở người đi, đôi dòng lệ tuôn, kính mong hồn huynh nơi chín suối ngậm cười độ thế cho chúng dân.

Sĩ Giao lấy lại tinh thần, truyền cái lửa sôi sục cho đám lính còn đang nguyện sống chết đến cùng với họ Đỗ. Sĩ Giao liền cho ba mươi tên lính đi khắp vùng dò la. Hai ngày sau, việc chôn cất Đỗ Đại đã hoàn thành, nhận được tin Chí Liệt đóng quân ở phía tây bắc vùng đất Hiến. Sĩ Giao qua đất Cúc Bồ nhận thêm ba nghìn lính do người anh em họ Đỗ ở đất đó tập hợp từ hai năm trước. Cả thảy đến nửa vạn quân đến đất Hiến hội quân với Chí Liệt. Từ hương Đa Cương sang đất Hiến chỉ cách có dòng Nhị, một vạn rưỡi quân lính do Tồn Thành dẫn ra từ châu Ái cũng đã có mặt tại đây. Tồn Thành cho thuyền nhẹ qua sông dò la. Chí Liệt lấy làm mừng rỡ, sai quân chia làm hai ngả dọc theo sông Nhị chờ thời cơ đánh lên Tống Bình.

Cùng lúc đó có mật thám báo tin về cho Dương Thanh, Thôi Kết đã dẫn năm nghìn quân tiên phong đi từ hướng Bắc phá vỡ vòng vây tại mặt trận phía bắc thành Cổ Loa. Đi sau là hai vạn rưỡi binh mã đóng tại Cổ Loa hướng ra đông bắc. Dương Thanh đến đất Bạch Hạc, sai Tồn Thăng ở lại đất Thị Điềm làm như lời thần nhân mách bảo.

Gã Quỷ ở lại đất Thị Điềm, nhờ Lý Toàn biết lễ nghi vùng ấy soạn sửa lễ vật dâng lên đền xưởng cao lầu thờ thần nhân Lý Ông Trọng. Lý Toàn sửa soạn áo đẹp, mũ mão rồi khấn sớ trước điện. Tồn Thăng không thích không khí trang nghiêm chốn đền miếu nên đi ra ngoài vãn cảnh, thấy đôi chim hót ríu rít trên ngọn tre cao. Tồn Thành thấy có tổ chim non xua xua đôi chim bố mẹ đi, bẻ cong cây tre xuống để lượm lấy tổ cho đám trẻ con đang đứng đó chơi. Bỗng nhiên có tiếng mũi tên bắn ra, cây tre cạnh đó gãy đôi khiến Tồn Thành giật mình quát lớn :

- Có kẻ dùng ám khí. Các cháu mau chạy đi.

Tồn Thành nhặt mũi tên lên thấy có chữ khắc trên mũi tên, chạy vào hỏi Lý Toàn. Lý Toàn nói :

- Đây là chữ Phùng. Ngày trước nghĩa quân của Bồ Phá Cần tướng quân đóng tại đất này, có dùng loại mũi tên này để chiến đấu với quân Phùng Hải. Từ khi thiếu chủ Phùng An bị đày đi xứ đất Quy Nghĩa thì đất này không ai dùng nữa sợ bị quân triều đình bắt được sẽ xử tội chết.

Lý Toàn cùng Tồn Thăng chạy ra phía ngoài toan tìm người dùng ám khí. Đi ra phía sau miếu cũng không thấy người. Lý Toàn huýt sáo, tiếng sáo ong ong trong đầu khiến người ta khó chịu. Tồn Thăng chạy vào trong miếu, tránh cái âm thanh kỳ quái. Lúc bấy giờ đám trẻ con kéo hò hét :

- Chú Lý Toàn giỏi quá. Tiếng huýt sáo cũng có thể làm kẻ gian ngã gục.

Lý Toàn mặt vênh váo :

- Chuyện nhỏ dễ như ăn trầu thôi. Các cháu đi đi. Không lát nữa hắn tỉnh dậy lại đánh cho.

Tồn Thăng đầu óc còn lấn cấn, loạng choạng bước ra, bám vào vai Toàn. Toàn cười trọc ghẹo Gã Quỷ. Gã Quỷ liều xiêu cầm dao quắm chém vu vơ. Toàn nhìn cây tre bị gãy thấy điềm báo đã linh ứng vội chạy vào khấn vái trong đền. Tồn Thăng bước tới đám trẻ con vừa đứng nói chuyện với Lý Toàn thấy một tên cầm nỏ nằm sõng soài dưới đất. Thăng hẩy nhẹ người cho hắn nằm ngửa ra, đột ngột người hắn hất tung lên đạp trúng tay cầm dao của Thăng khiến dao bay xa vài chục thước cắm thẳng vào cây bưởi. Thăng lùi lại một chiêu khóa chặt được người đó. Lý Toàn bước ra, xoa xoa vào vết thương của Gã Quỷ, gã thấy gai người, lấy tay gãi ngứa. Toàn dùng dao nhỏ phi trúng cây bưởi, dao quắm của Thăng rơi xuống. Tên kia đứng lại, cúi chào hai người.

- Chẳng biết cao nhân chỗ này. Đã đắc tội.

Lý Toàn mắng hắn :

- Cái tên trộm vặt nhà ngươi. Đừng có nghĩ là bọn này không biết. Ta thấy ngươi len lén lút lút theo bọn ta từ lúc ở đất đình bên kia. Định ăn trộm phải không?

- Dạ. Tiểu nhân không dám.

Dương Diện trợn mắt dọa hắn :

- Nhà ngươi là ai, từ đâu đến đây? Ngươi biết bọn ta là ai không mà dám theo dõi bọn ta lại dùng nỏ kia bắn suýt trúng người ta? Muốn sống khai ra mau.

- Tiểu nhân là Liêu Đức Thinh, người ở Đỗ Động. Tiểu nhân được nghe phía Tây bắc La thành có ngôi đền rất thiêng. Hễ ai có việc gì khó khăn cần cứu giúp thì cứ đến chỗ đó thì sẽ được toại lòng. Được người ta giới thiệu tới đây, lại gặp hai vị khí chất khác thường nên đành theo bước dò la. Tiểu nhân nhìn thấy ngài định bắt chim non trên cành tre nên chỉ dám phóng tiễn để đánh lạc hướng ngài, chẳng ngờ lại trúng cây tre.

- Ta bắt chim non thì liên can gì mà phải đánh lạc hướng.

- Sinh linh muôn loài đều được trời ban tặng cho sự sống. Loài chim cũng như chúng ta. Chúng có cha có mẹ, con cái, tổ ấm gia đình sao nỡ đành chia cắt chúng, để chúng phải mồ côi, cha mẹ lạc mất con. Nếu như kẻ nuôi chim non có tâm thì bọn chúng có thể sống, nhưng không có ai dạy chúng hót, dạy chúng nhảy chúng bay thì chim ấy cũng như bỏ đi vậy. Còn không thì là giết chết chim non đó rồi. Như vậy thật là đáng thương. Xin ngài lượng thứ cho tiểu nhân không biết trước sau, đắc tội với ngài.

Gã Quỷ nhìn qua Thinh, dáng người khúm núm, mặt cúi gằm, đôi chân vững trãi như cây gỗ cắm chặt đất, có vẻ hắn ta không hề e sợ như cái vẻ mặt ấy của hắn. Mái tóc quăn rối được búi gọn củ hành đầy những dấu vết của gió bụi cuộc đời, khuôn mặt hắn vuông vức chữ điền, lớt phớt những mảng da trắng trên khuôn mặt toát lên thần thái của kẻ sĩ ẩn mình trong cái dáng hình lúm khúm của hắn. Dương Diện vòng ra phía sau toan đạp vào khuỷu chân hắn thì chân hắn cứng như đá thép, khiến Dương Diện thấy thật đau, hét lên :

- Chân nhà ngươi có nẹp đá hay sắt?

Hắn không trả lời mà còn giễu cợt Tồn Thăng:

- Là người đạp trúng gốc cây tôi đang đứng cạnh chứ đâu phải là chân tiểu nhân.

Hắn bước nhích ra một bước thì có cây gỗ trên đầu trạm khắc hình rắn hổ ở đó. Dương Diện thấy kỳ lạ, hỏi hắn:

- Rõ ràng là khi ta ra phía sau đâu có cây gỗ này ở chân ngươi.

- Là ngài có ý định đạp vào chân tôi?

- Ta muốn kiểm tra xem ngươi sức lực ra sao.

- Xin thất lễ.

Nói rồi, chàng trai tung chân, cây gậy đầu xà từ dưới đất mọc lên dài đến tám thước. Chàng ra đòn bất ngờ, Dương Diện không kịp trở tay bị đầu xà đánh vào ngực liên tiếp bảy tám chiêu. Gã Quỷ gồng người dùng sức đẩy gậy về phía Thinh. Thinh vận khí dồn toàn lực xuống chân hòng đỡ lại sức khỏe vô biên của Gã Quỷ. Cây gậy bị bẻ cong, dáng trông hệt mãng xà. Gã Quỷ bỗng thấy nhói ở trước ngực, lấy sức tay đập mạnh vào gậy nhưng cây gậy không gãy mà còn khiến ngực thêm đau. Thấy vậy, Gã Quỷ liền cố rút cây gậy ra khỏi ngực mình nhưng không thể nào rút ra. Cây gậy găm chặt vào ngực Gã Quỷ, phần đuôi của cậy quấn chặt vào tay trái của gã khiến gã kêu la thống thiết.

Lý Toàn lúc bấy giờ lấy cây tiêu ra thổi một điệu nhạc. Âm thanh phát ra khiến đầu óc Thăng điên đảo, Đức Thinh vội chạy đi, hai ngón tay bịt chặt lỗ tai. Cây cậy rơi xuống dưới đất, Dương Diện ngã nằm xuống đất. Thinh chạy đến bụi tre gần bờ sông thì Toàn toan gọi lớn:

- Người anh em xin dừng bước.

- Anh là thần tiên chốn nào? Đã đắc tội.

- Ta là Lý Toàn, hậu duệ của Ông Trọng – Phụ Tín Đại vương. Người vùng Từ Liêm này. Người anh em có phải là người của Liêu gia trang vùng Đỗ Động. Chiêu thức thiết giả mộc xà là một trong mười bảy bí thuật của trang ấy. Nay được chiêm ngưỡng mở to con mắt. Thật là vinh hạnh.

Thinh giọng nói khảng khái, tay khoanh trước ngực, hất miệng:

- Sao anh lại biết mười bảy bí thuật đó, lại có thể khắc chế được. Hẳn là đại cao thủ ẩn mình.

- Năm trước, ta may mắn được gặp thầy Liêu Hữu tiên sinh. Thầy dạy ta cùng Hữu Phương. Hữu Phương giỏi thơ văn, kinh sử thi đậu tú tài, lại tới tận Trường An thi thố. Còn ta ham võ nên đã được thầy truyền lại cho võ học. Học đến độ giác ngộ triết lý trong bí chiêu đó thì được thầy chỉ cho khắc chế những điểm yếu của Liêu gia võ học.

- Lấy tâm chế lực, lấy thanh chế hoạt. Anh quả nhiên hiểu rõ Thập thất Liêu gia bí chiêu. Nay gặp đây thật là hạnh ngộ.

Lý Toàn nhếch mép cười, tay dang rộng như đón chào Thinh. Thinh bước lại, tay bỏ cuộn dây sắt xuống đất, quỳ gối bái lạy Toàn:

- Anh quả là người tinh thông võ học. Cảnh giới võ thuật ấy chẳng phải kẻ thường có thể làm được. Xin nhận một bái của vãn bối.

Toàn nắm chặt lấy tay Thinh, từng thớ gân trên người Thinh nổi lên, mặt hắn vằn lên vết thẹo dưới cằm. Toàn kéo Thinh vào lầu phủ, lại gọi Gã Quỷ dậy. Thinh mừng rỡ bước theo, hai người hàn huyên chuyện trò đến cuối chiều. Hai người cầm kiếm, nỏ, côn, xích ra trước lầu luyện những chiêu thức kỳ quái. Tồn Thăng thấy trong mình kém cỏi võ thuật, chẳng hiểu những chiêu thức kia của hai người bọn họ. Gã lấy rượu ra tu ừng ực. Hắn say, cười vào hai người kia:

- Hai kẻ điên kia. Những chiêu thức ấy là để gạt người ta chứ sao có thể mang ra mà đánh trận.

Lý Toàn nhìn hắn say mèm, Toàn lấy một mảnh vải quấn vào tay Thăng, rồi thít chặt với cây lớn. Thăng hỏi :

- Sao lại dùng vải quấn tay ta.

- Nhà ngươi cứ thứ thoát ra khỏi chỗ ngươi đang đứng cho ta xem.

Thăng giật mạnh mảnh vải quấn tay mình, vải càng siết chặt khiến tay hắn trắng bợt. Hắn càng cố kéo thì càng không thể dứt ra. Tay kia cầm dao khía vào vải đó nhưng vải ấy không hề sờn sứt. Tay hắn giãy giụa mảnh vải bó thít tay hắn, bàn tay gã thâm sì. Gã tức giận lôi cả cây lớn lên khỏi mặt đất, dùng cước đạp gãy cây thành ba đoạn.

Bấy giờ, Lý Toàn dùng một cây kim luồn vào một đầu của sợi vải, Toàn xâu thật nhanh hết một vòng tay thì vải tự tuột ra khỏi tay Thăng. Tím tái mặt mũi, Thăng định ra đòn với Toàn, Toàn vuốt ria mép nói:

- Người đánh trận chỉ biết dùng sức chẳng phải tướng tài. Chỉ là võ dũng, vô dụng mà thôi. Gặp kẻ địch thì chỉ cần vài chiêu là mắc bẫy bị tóm sống, số chẳng may gặp người gian lắm mẹo thì khác gì nộp mạng. Lấy bình tâm mà kháng lại lực cường. Lấy trí tuệ để đuổi kẻ địch đi, khiến địch không thể thắng được, càng đánh càng thua, bấy giờ địch tự tan. Tên ngốc nhà ngươi còn chẳng thể thoát nổi một mảnh vải nhỏ, thì sao có thể thoát được khi bị kẻ địch bày thiên la địa võng. Kẻ dũng tướng, bất chấp cái chết là uy dũng, anh hùng đấy. Nhưng sao không nghĩ rằng khi ta chiến thắng thì được vang danh, nếu như mà có thua thay vì quẫn tiết mà chết chi bằng chẳng phải sống sót được thì sẽ có cơ mưu mà báo thù hay sao.

- Nhức đầu. Ta chẳng cần biết. Kẻ nào có giỏi thì đến đây mà giết ta.

- Trận ở Phù Đổng đến thành Cổ Loa, nhà ngươi may mắn còn sống sót chẳng phải là bài học quý giá hay sao.

- Thôi! Nhà ngươi không phải nói gì thêm nữa. Dương Thanh yêu cầu chúng ta ở lại đây làm cái việc thắp hương gì gì đó đã xong hay chưa.

- Việc đó đã xong. Đêm nay ta và ngươi đi dọc bờ sông này về phía Tây Bắc, đến Hát Môn bẩm báo lại với Dương tướng quân để ngài ấy yên tâm.

Đêm xuống, ba người bàn bạc rồi chia tay nhau thành hai ngả đường đi. Lý Toàn cùng Tồn Thăng xua mái chèo nhanh thoăn thoắt trên dòng Nhị ngược Tây Bắc hướng đất Bạch Hạc. Liêu Thinh thân thủ nhanh nhẹn chạy bộ về Tống Bình dò la tin tức của quan quân triều đình đã chiếm đóng ở đó.

Thinh đi qua bãi lầy phía bắc La Thành rồi nghỉ tại quán trọ bên cạnh dòng sông Tô Lịch. Đến nửa đêm, quán trọ có tiếng ồn ào khiến Thinh tỉnh giấc. Thinh gọi tên hầu bàn lên hỏi:

- Ngoài quán có chuyện gì mà lại ồn ào? Để ta mất ngủ thì đừng trách ông.

- Dạ thưa quan khách. Ngoài kia quan quân đang dò xét. Ngài không có gì giấu giếm thì xin ngài cứ lui vào trong nghỉ ngơi. Sau khi ông chủ nhà tôi làm việc xong với những người thì sẽ hết ồn ào.

- Dò xét điều chi?

- Tiểu nhân nghe nói là đám quan quân đi lục xét người của Dương tướng quân còn ở Tống Bình để đem về xét xử.

Thinh đánh mắt qua khe cửa nhìn ra phía ngoài, thấy một đám lính giáp, vũ khí giáo dài, kiếm ngắn đang nhăm nhe tìm người. Thinh cho tên hầu bàn một ít bạc vụn, sai hắn đi lấy một gầu nước sôi về phòng. Tên hầu bàn vội vàng nghe theo, chạy ra ngoài vẻ mặt sợ sệt đi lấy nước sôi về cho Thinh.

Một lúc sau, nghe có tiếng sột soạt áo quần cùng tiếng gươm giáo tiến lại gần, họ Liêu nhảy vội lên kèo nhà, mặt mũi bịt kín bằng vải lụa. Đám lính láu nháu bên ngoài tranh cãi với tên chủ quán và tên hầu bàn khi nãy. Bọn lính đạp cửa vào, tên áp nha cầm đầu sai đóng chặt cửa quán. Không thấy ai trong phòng, tên áp nha quát mắng:

- Rõ là cái thằng rách rưới này bảo khiêng nước nóng đến cho khách ở phòng này. Sao không thấy người đâu.

- Dạ dạ. Tiểu nhân vừa còn nói chuyện với vị ấy ở trong phòng mà. Tiểu nhân đâu có lòng nào dám dối đại nhân.

- Thế người đâu? Các ngươi định giấu giếm tội phạm trong nhà hay sao? Tội chết đấy con nhé.

Tên chủ quán vội vàng rút ba nén bạc khéo léo nhét vào ống tay áo tay áp nha. Chủ quán cười cười, lưng cúi xuống còng rạp thưa với tay áp nha:

- Thi Nguyên đại nhân bớt giận. Đại nhân bớt giận. Chắc là vị khách đó chỉ đi ra ngoài một chút. Để bọn tiểu nhân đi tìm vị đó về. Chứ quán khách trọ của tiểu nhân không dám chứa chấp tội phạm triều đình đâu.

- Cánh quán trọ các ngươi đừng có giở trò với ta. Đừng hòng qua mắt bọn ta. Hai tên môn khách cùng với chủ quán trọ Quán Tiên và Quán Sứ che giấu tội phạm bị Thôi tướng quân bắt giết rồi đó nghe chưa.

Có đám lính kéo xềnh xệch một người mặc quần áo lếch thếch, mặt mày bị bỏng rộp vào phía trong. Thấy ồn ào phía ngoài, tay áp nha chạy ra liền hỏi:

- Có chuyện gì ngoài đó.

Một tên lính bẩm lại với viên đô áp nha:

- Bọn tiểu nhân đi tuần nơi hậu viên thấy có một tên khả nghi đang lúi húi cầm cây đuốc chạy ra chuồng ngựa.

- Mặt hắn bị sao thế kia?

- Là hắn trốn đi không được, định chạy đi thì trượt phải phân ngựa, đuốc còn cháy dữ dội rơi vào mặt hắn khiến hắn bị phỏng rộp.

Thi Nguyên tiến lại gần người kia hơn. Mùi phân ngựa khiến hắn tỏ ra khó chịu, hắn giương đèn cầy lên soi kỹ mặt người đó. Đang ôm mặt do đau rát, người đó thấy xô nước ở dưới chân tên hầu bàn liền chạy tới úp nguyên nửa khuôn mặt vào đó. Viên áp nha cho người kéo hắn ra. Hắn kêu la thảm thiết:

- Sao lại là nước sôi thế này. Nóng quá. Rát quá. Đau quá.

Hắn sờ lên khuôn mặt hắn thì thấy loang lổ vết cháy, vết bỏng nước sôi, hắn tung lên vật xuống, gào thét khiến Thi Nguyên nghĩ thầm trong bụng :

- Đúng là kẻ điên dại. Đang bỏng lại đi úp mặt vào gầu nước sôi.

Thi Nguyên hỏi hắn:

- Nhà ngươi là ai? Từ đâu đến? Tại sao đêm tối lại trốn ở phía sau quán trọ.

Hắn lạc giọng, người run run nói:

- Tại hạ là Lưu Trình, người Đỗ Động. Ngày qua, làng mạc bị tàn phá nên nay đi đến Tống Bình kiếm cơm. Nghỉ chân tại quán trọ này, nửa đêm tỉnh giấc thấy tiếng xì xào phía ngoài, thấy mỏi người nên tiểu nhân gọi tên tiểu nhị cho một gầu nước ấm để xông người cho thư giãn. Chờ mãi không thấy tên đó mang đến nên tiểu nhân ra phía sau hâu viên đi tiểu tiện thì gặp mấy anh lính hung dữ dọa giết tiểu nhân nên mới thành ra như thế này. Thật là đau quá, đau quá.

Viên chủ quán nhanh nhảu tiếp lời:

- Là đúng người này ở phòng trọ này đó Thi đại nhân. Chắc là hắn ra ngoài gặp lính của ngài hốt hoảng quá nên mới như vậy.

Thi Nguyên lại hỏi:

- Đỗ Động à. Thế nhà ngươi biết họ Liêu đất đó chứ.

- Dạ. Ngày nhỏ tiểu nhân được cha gửi đến Liêu gia học võ nhưng Liêu gia nghiêm khắc với học trò, tiểu nhân lại nghịch ngợm nên bị trả về. Từ bấy tiểu nhân không có qua lại với họ Liêu.

- Ngươi có biết người tên Liêu Thinh hay chăng?

- Dạ bẩm. Con có biết. Người ấy là cháu ruột của Liêu Hữu tiên sinh, gọi Hữu Phương tú tài là chú, Người ấy ngày qua bị bắt giết cùng với người Liêu gia.

- Nói láo. Tên đó chạy trốn mất rồi. Ta nghe nói hắn chạy trốn tới phía tây Tống Bình phủ. Chẳng hay hắn đi cùng các ngươi. Nhìn bộ dạng nhà ngươi thật giống hắn lắm.

- Dạ. Xin Đại nhân minh xét. Người nhà tiểu nhân còn đang chờ ở bên kia dòng Tô Lịch. Đại nhân có thể đối chứng.

Thi Nguyên quan sắt người đó thật kỹ. Thi nguyên quay ra phía sau, nhìn dáng chân vửng trãi quen quen, liền đạp hắn một chiêu thật mạnh vào phía khớp khuỷu chân hắn. Hắn ngã nhào, mặt bỏng rộp va vào chuôi giáo của tên lính. Hắn lúi húi đứng dậy, dường như còn choáng váng, hắn loạng quạng xô ngã một tên lính vào gầu nước. Viên chủ quán mắt sáng như mở cờ trong bụng, miệng cố nhịn cười, lại mon men đỡ tay lính lên rồi dìu gã bị bỏng kia vào phòng.

Thi Nguyên thầm nghĩ tên đó yêu ớt, chân tay như đàn bà liền cho quân rút đi. Tay chủ quán không quên đon đả chào họ Thi:

- Đại nhân đi mạnh giỏi. Lần sau lại nhà.

Thi Nguyên quay lại quắc mắt, tay chủ quán sợ quá chạy vào trong, sai người dọn dẹp quán rồi đóng chặt cửa. Chủ quán quay vào hoạnh họe vị khách:

- Chẳng phải là ta thương ngươi không thì nhà ngươi đã đi đời nhà ma rồi. Đêm khuya thanh vắng, nhà ngươi ra phía sau chuồng ngựa làm gì.

- Ta đi qua chỗ đó để tiểu tiện. Nhà ngươi không nghe rõ hả.

- Chỗ ấy đâu phải chỗ để nhà ngươi tiểu tiện.

- Ta buồn quá không chịu nổi nên đành mới phải ra phía sau. Sợ va mặt phải bọn lính.

- Nhìn nhà ngươi cũng đường hoàng. Đâu đến nỗi mà phải sợ bọn chúng, rồi phải bỏng như thế kia. Ở đây có thuốc bỏng, nhà ngươi cần thì cứ gọi tên hầu bàn lấy cho ngươi. Ngày mai nhớ thanh toán thêm tiền cho vụ lộn xộn tối nay không thì đừng trách ta.

- Được. Cho nhà ngươi này.

Thinh ném hai nén bạc trắng vào đầu hắn rồi dùng cây gậy đầu xà quấn lấy cổ hắn. Thinh nói giọng khác khiến hắn ngỡ ngàng, cổ bị bóp chặt hắn không thể nói thành lời. Thinh dặn dò :

- Nhà ngươi cầm lấy bạc này thì im ngay cho ta. Tiền này là tiền nghỉ trọ và mua con ngựa phía sau. Nhớ lấy, nhà ngươi càng giãy giụa thì cái trên cổ ngươi càng quấn chặt.

Thinh vội vàng xoa thuốc bỏng lên mặt rồi lấy một mảng bì lợn từ phía bếp đắp lên. Chàng chạy ra phía sau dắt con ngựa đen chạy ra bờ sông gọi đò qua bờ bên kia sông. Chàng gặp hai người cùng làng thì dặn dò:

- Nếu quan binh có sang bên này dò hỏi thì các ngươi nhớ nói ta là người nhà của các ngươi, tên là Lưu Trình. Bằng không sẽ bị giết tất cả đó. Tên áp nha đó chính là Thi Nguyên, là tà đệ tử của Liêu Hữu tiên sinh ông nội ta. Hắn nay là tay sai cho giặc Thôi Kết, cho là Liêu gia ta đồng lõa với với họ Dương, đến trang bắt giết người vô tội. Nay ta vào trong La Thành dò la. Các ngươi khéo léo mà đối đáp, hay là trốn chạy đi, kẻo mang họa vào thân.

- Bọn ta tự lo liệu được. Thiếu gia cứ yên tâm. Người Liêu gia giúp đỡ cha con ta. Nay Liêu gia gặp nạn, bọn ta sao có thể đứng nhìn.

Đêm vắng ngày cuối tháng, trời đen như mực đổ, Đức Thinh chạy ngựa tới phía nam La thành, đến một cái gò đất cao nhìn về phía La Thành. Hai người đồng hương với Liêu gia ở lại quán trọ, có đám quan binh chèo thuyền sang cho bắt bớ người trong quán trọ.

Thi Nguyên mặt đằm đằm sát khí, tay cầm kiếm sáng loáng dưới ánh đèn đuốc. Nguyên cho lính ép cung lấy lời khai từng người. Thi Nguyên nói lớn gian trước của nhà trọ :

- Những kẻ nào là dân buôn bán thì bắt nộp năm lượng bạc, nộp hai phần hàng hóa lại để làm chứng thì mới được thả ra. Kẻ nào là người qua đường thì phải cho xem giấy thông hành từ địa phương cư trú đến. Kẻ nào không có giấy tờ thì đưa về nhà lao xét hỏi. Kẻ nào chống cự thì đánh cho năm mươi roi ngay tại chỗ. Các ngươi lục soát cho kỹ. Kẻ nào khả nghi chém ngay.

Nửa canh giờ sau, Đám lính giải đi bảy tám người không có t.ư trang và giấy tờ thông hành. Có hai người chống đối lại đám lính thì bị đánh cho tơi bời, chỉ biết nằm rạp ra sàn than khóc rồi bị lôi xềnh xệch đi. Có tên lính nói lại với Thi Nguyên rằng có hai người đến từ vùng Đỗ Động, không phải họ Liêu. Thi Nguyên cho gọi hai người đó lại gần. Nguyên mở lời :

- Các ngươi có người nhà nào tên là Thinh qua sông từ lúc xế chiều hay không?

- Bẩm quan. Bọn con không có quen người nào tên Thinh.

- Người Đỗ Động mà lại không biết người nào tên Thinh à. Để ta dùng kiếm này cho các ngươi biết.

- Bẩm quan. Chúng con chỉ nghe người ấy là cháu trai của Liêu Hữu tiên sinh. Ngày qua bị bắt giải cả trang đi.

- Vậy các ngươi lại nói là không biết. Có người bảo ta các người dẫn hắn đi trốn. Có phải chăng?

- Chúng tiểu nhân chỉ là đám dân nghèo, Nay tới Tống Bình được nhận vào phủ quan Liễu tá Đặng Khả để làm gia nô, nhận đất cày ruộng thôi.

- Ra là vậy. Cái lão gia Đặng Khả đó chẳng hiểu vì sao từ quan sư Hành Lập, Tượng Cổ và tên mãi võ Dương Thanh đều không xử tội lão. Nay lại được Thôi đại nhân tin dùng. Các ngươi có cái gì làm bằng cớ không?

- Dạ. Bọn tiểu nhân có khế bán thân đây ạ.

Thi Nguyên giật lấy hai mảnh giấy lụa, đưa lên ngọn lửa đuốc cháy rụi. Họ Thi cười một cách nham hiểm:

- Cho các ngươi xuống chầu Diêm Vương cùng với họ Đặng, để bán thân cho họ lão già ấy.

Nói rồi, hai người bị đám lính dùng gươm giáo đâm chém tơi tả, máu bắn tung tóe lên mặt đám dân buôn đang quỳ ở đó. Thi Nguyên gắt gỏng giọng đe dọa:

- Kẻ nào điêu ngoa sẽ xử như vậy đó. Còn tên nào không khai thật nữa chăng.

Đám khách trọ người nào người ấy sun soe đưa giấy tờ, hàng hóa, bạc vàng dâng tiến để tránh tại họa ập đến. Tên chủ quán trọ bên kia sông bị đám lính giải sang tới đây, cổ còn nguyên đầu xà quấn lấy. Thi Nguyên ngồi trên ghế, ngắm vuốt con dao găm, mắt diều hâu nhìn tên hai tên chủ quán:

- Ta nghe nói hai người này là họ hàng với Lưu Trình, đến Tống Bình này đi ở. Mà thấy trong người tên Lưu Trình có bạc nén đúc tại Liêu gia trang. Hai người các ngươi thông đồng với đám Liêu gia định qua mắt ta có phải chăng?

Tên chủ quán bị đầu xà quấn chặt cổ không nói được lên lời, ư ử trong họng vài tiếng kêu như chó sắp chết. Tên chủ quán trọ bên này ấp a ấp úng:

- Tiểu nhân không dám. Hai người này tới đây nghỉ trọ, nói ngày mai vào Tống Bình đi ở. Họ lại trả tiền trọ sòng phẳng, không hề có điều gì bất trắc, định bụng tiểu nhân nghĩ rằng hai người đó không có gì. Tiểu nhân không biết, mong đại nhân nương tay.

- Không biết thì không có tội. Nhưng nhà ngươi biết có biết có một tên đi cùng bọn chúng hay không?

- Tiểu nhân quả nhiên không hay rõ. Khi họ đến chỉ có hai người, họ nói cũng không chờ thêm người nào. Khi tối chỉ có một vị khách qua sông, ngồi cùng bàn với họ rồi lại đi. Người đó dáng vẻ lum khum, đôi chân không thấy khép. Sau đó tiểu nhân lại thấy người đó đi về phía nam. Tiểu nhân chỉ biết có vậy. Mong đại nhân soi xét.

Thi Nguyên chẹp miệng, lắc đầu đứng dậy bước ra khỏi quán trọ nhìn về phía nam có một con đò đang chống chếnh trên sông, liền cho người đuổi tới đó xem có phải là Liêu Thinh đang tìm cách chạy trốn. Có tên lính chạy tới hỏi Nguyên:

- Đám khách trọ cùng hai tên chủ quán kia, đại nhân có chủ kiến gì không?

Thinh đưa dao găm lên cổ lưa lưa. Tên lính nhanh nhảu chạy vào quán trọ sai đám lính dùng gươm giáo giết sạch. Trong chớp mắt hơn hai chục mạng người nằm lăn lóc dưới sàn lênh láng máu. Thi Nguyên quay lại cả giận:

- Kẻ nào giết người. Ai cho

Đám lính ấp úng nói:

- Là tên Hầu Bảo nói bọn tiểu nhân giết chúng.

Hầu Bảo mặt cúi gằm bước tới:

- Đại nhân ý không phải là giết chúng hay sao.

- Ta dùng dao gãi chỗ ngứa trên cổ, có con muỗi đốt ta chứ đâu có sai ngươi giết bọn chúng.

Nói rồi, Thi Nguyên thẳng chân đạp vào cằm Hầu Bảo. Bảo ngã ngửa ra phía sau, đôi hàm răng rơi ra năm sáu chiếc. Móm móm ngậm máu trong miệng, Hầu Bảo ôm chân Thi Nguyên:

- Mong đại nhân tha mạng. Đại nhân tha mạng.

- Được. Bọn bay giải nó về nhà lao để Thôi đại nhân xét tội.

Trong lúc đó, Đức Thinh trốn được vào La thành, đêm khuya sương giáng mà người trong thành chẳng thể ngủ yên. Đức Thinh đứng trên nóc nhà của Gia Hân lầu quán, chốn ăn chơi của đám quan lại Tống Bình. Thấy trong lầu người nâng, kẻ đỡ những lời mật ngọt khiến Thinh trướng tai. Thinh chọn cho mình một góc lầu phía bắc, nhìn xuống thấy đám lính chạy vào từng nhà tra hỏi. Cứ chốc chốc lại thấy có người bị lôi ra cửa nhà nhận những cú đánh trời giáng của đám lính.

Thinh ôm mặt mà giận trong lòng :

- Bọn ác bá. Đến người già chúng cũng chẳng tha.

Thinh chạy tới một gian nhà nhỏ ở góc phía đông nam La thành. Có ông lão lưng còng ho lụ khụ trong nhà. Thấy động ông lão soi đèn bước ra. Thinh luổn vào trong nhà, từ phía sau bịt miệng ông lão, lấy tay ra hiệu cho lão yên lặng. Thinh hỏi:

- Ở phía ngoài quân lính đang lùng sục những người ủng hộ Dương Thanh. Ông lão chớ có ra.

- Anh là ai. Sao lại lẻn vào nhà tôi. Anh có biết ba con trai ta làm sai nha trong phủ, con gái ta là con dâu của Đặng Liễu tá. Ta chỉ cần ho một tiếng là có lính vào đây mà bắt anh ngay.

- Lão đừng ho. Ta chỉ vào đây xin ở nhờ lão một đêm thôi.

- Ta với anh không quen không biết. Nhà anh bụng dạ thế nào ta chẳng hay. Sao có thể tin anh được.

- Lão ơi. Xin lão cứu mạng. Mặt mày ta biến dạng hai phần, còn một phần cũng vết chém đớn đau. Ta quỳ xuống xin lão cứu ta.

- Thôi được được. Anh hãy đứng lên. Thấy anh cũng không có vẻ gì là người xấu. Kể ta nghe chuyện thế nào.

Thinh kể lại chuyện cho Lão nghe. Lão giảng giải cho Thinh hiểu sự đời. Thinh lấy làm vui lắm, lại không có biết lấy gì báo đáp liền dập đầu vái lão ba cái.

Có tiếng lùng sục ngoài kia. Lão ra mở cửa. Thấy lính tráng, lão hỏi:

- Các anh có chuyện gì chăng?

- Tô Nguyên Hiền lão bá. Đêm khuya thanh vắng xin làm phiền lão bá.

Nói rồi, đám lính chạy xộc thẳng vào nhà. Không lời nói lại đi ra. Hiền lão bá đóng vội cửa, cho gọi Liêu Thinh ra mà dặn:

- Trong thành này không phải chỗ an toàn để nhà anh trú. Sớm ngày mai, ta đi câu cá, anh nằm trên xe rơm cùng ta ra bến Đen. Ở trong thành, từ trước khi Thôi Kết đến Tống Bình nắm binh, đêm nào bọn lính cũng đi lùng sục hỏi từng nhà. Người nào lạ mặt, không biết ám hiệu của chúng sẽ bị bọn chúng đánh cho đến chết. Như ở bên cạnh nhà tôi đây. Ba mẹ con bà ta đều bị đánh cho đến chết chỉ vì không biết trả lời bọn chúng thế nào. Chúng hỏi nhà các người thù ghét Dương Thanh hay yêu quý hắn. Nếu trả lời là yêu quý thì sẽ bị giết ngay. Nói là thù ghét cũng bị giết ngay.

- Lại có chuyện kỳ lạ vậy sao. Thù cũng giết, yêu cũng giết. Vậy ta phải nói thế nào.

- Là mật lệnh của Trọng Vũ, hắn muốn mượn danh Dương Thanh để giết người. Đám lính đi dò xét mặc áo lính của quân Tống Bình, lại cậm quân bài họ Dương. Nếu ai trả lời là yêu Dương Thanh thì đám lính sẽ cho là người đó có lòng khác mà không chạy theo phò giúp Dương tướng quân, ở đây nghe lời sai bảo của họ Quế. Giết. Nếu trả lời là ghét Dương Thanh thì bọn chúng lập tức giết ngay. Chúng nói là Dương tướng quân sai chúng đi hỏi để thử lòng đám dân Tống Bình. Thế nên, bọn chúng đã thực hiện được âm mưu cho đám dân Tống Bình ghét bỏ Dương tướng quân. Ấy vậy mà nhiều người bị họ Quế lừa bịp dốc hết của cải, công sức để tìm giết cha con Dương Thanh báo thù. Trong thành có ba ngàn hộ, hơn ngàn hộ đã bị đám lính đó bức cho chết từ trước khi Thôi Kết về nắm quyền, cho nên dân trong La thành thù ghét họ Dương kia lắm.

Đức Thinh nằm dài trên mái nhà nghĩ về những điều ông lão Tô Hiền nói. Chàng nghĩ về quá khứ, hiện tại và cả tương lai rồi thở dài :

- Thời thế thế thời, lòng người ngay thẳng, thẳng ngay sao mà lường hết cho được. Những hạt sương vương trên khóe mi chàng, nặng từng giọt chảy vào vết những bỏng trên khuôn mặt phỏng rộp của chàng. Cái mệt dường như khiến cho chàng quên đi những đau đớn trên khuôn mặt chàng. Chàng ngủ ngon như chú mèo khoang đang nằm ngủ ở mái nhà bên cạnh, chốc chốc nó lại liểm vào bộ lông óng mượt của nó mặc cho phía dưới kia tiếng ồn ã la thét của đám lính, tiếng giáo gươm liểng xiểng xen lẫn tiếng người la ó đớn đau.
 
Last edited:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng
Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ năm:

Núi Long Tuyền, tướng người Hoa đuổi hổ.
Thành Bạch Hạc, Vương thứ sử cứu ưng .


Từ khi Chí Liệt thua trận tại Luy Lâu, chàng chạy về đất Hiến chờ tiếp viện từ các châu phía nam hội quân cùng phản công lại quân triều đình. Chàng nghe tin tướng phụ đã rời Tống Bình từ trước khi Thôi Kết chiếm được, đến này vẫn không có tin tức, chẳng biết còn sống hay đã chết. Ngày đêm chàng thao binh luyện mã nung nấu quyết tâm đánh bại quân triều đình tại Tống Bình lấy lại uy chấn họ Dương cùng quân đội người nam.

Chàng sai người đến vùng đất Ba Lạt mời thầy lặn giỏi để dạy cho đám lính thủy, chọn ra sáu mươi người dũng mãnh, bơi lội thật giỏi đến năm cửa biển hòng diệt trừ đội thủy quân hàng đêm đi qua cửa đó tiếp viện quân lương cùng binh mã cho quân triều đình. Sau hơn một tuần lễ liên tục hơn bảy mươi chiếc thuyền gỗ nhỏ to của quân triều đình bị đánh đắm tại năm cửa sông. Biết bao nhiêu quân giới, lương thảo bị chìm dưới đáy sông khiến Trọng Vũ tức giận sai đô đốc hải quân Quỳnh Châu là La Sùng Quán rình bắt nhưng không bắt được ai. Chí Liệt lấy làm vui mừng, sai người thu chiến lợi phẩm về khao binh sĩ.

Đêm rằm tháng ba, mùa xuân thanh minh năm canh dần (820), Chí Liệt cùng Tồn Thành hội đủ hai vạn rưỡi binh mã, soạn sửa trâu ngựa gà đến bảy tạ, gạo nghìn đấu, hoa quả trăm cân dâng lễ tế thần hai bên bờ sông Nhị. Chí Liệt ra hịch kêu gọi quân sĩ nhất lòng hướng về Tống Bình giết quân triều đình lấy lại uy danh của quân sĩ người Nam. Giọng nói vang vang của Tồn Thành khiến sông nước rung chuyển, sóng nước dồn dập vỗ đôi bờ dòng Nhị :

« Hỡi ba quân tướng sĩ!

Xưa tổ tiên người nam ta lập đất này.

Bao năm vun bón, bấy tháng chắc tay cày

Mỗi năm mưa gió thuận hòa, cây cối tốt tươi ngày ngày đơm hoa kết trái.

Đất ngàn dặm chim bay cánh mỏi miết hoài chẳng hết.

Tổ Hùng Vương dẹp trừ Sơn Quỷ, Thủy Quái

Cháu con giữ đất, giữ sông, vững bờ Đông Hải chia làm hai ngả.

An Vương, Triệu Tổ hùng cứ đất này, gian khó chẳng quản ngại điều chi

Há sao chó ngựa rầy quấy muôn dân

Nghìn năm đói khổ, hận lắm thay,

Vạn ngày đau đớn, kẻ anh hùng này xót xa

Chó cọp phương bắc trơn trắng lụa là

Người Giao Chỉ lầm than, trũi tróc nước da bạc màu

Trưng nữ vương, Triệu Ẩu bà gương sáng mãi về sau

Lý Bôn anh dũng, Bố Cái uy danh vang tiếng, vàng nào sánh

Giặc Hán, giặc Ngô, xô bồ bọn triều đình họ Lý

Tham vét của muôn dân cá tôm, thóc lúa

Đẩy dân nam xuống vùng bùn đen nhão,

Bắt dân ta lên núi cao vời vợi đầy rẫy thú hoang, cây độc

Cống cho chúng nào là ngọc quý, đồi mồi, nhung hươu, vỏ hến sò, dị thảo, kỳ thạch…

Nào có biết, đói khổ của ta.

Đêm đông giá buốt xương đắp da.

Ngày hè nắng cháy, thơm tho hương vị xác thịt dân đen

Xót lắm thay. Đau đớn lắm thay.

Kẻ nam nhi nhẽ nào lại cúi đầu, khác chi loài cầm thú chó ngựa bò trâu.

Thanh thiên tướng quân nguyện theo lòng dân, ý muôn vạn người

Giết kẻ tham bạo, lật đổ hà khắc bạo tàn, biết bao anh mắt hả hê rạng ngời.

Người thẳng, kẻ gian ăn cơm đập bát, qua sông đốt thuyền

Mời cọp báo lấy thịt chúng dân

Ta đêm chẳng ngủ, tâm can phừng phừng một màu đỏ lửa

Ngày mở to mắt nhìn đám bạo ngược trà đạp mà đôi dòng lệ chẳng thể dừng.

Nghĩ đến trăm vạn người đất nam đang bị giày xéo, sống mũi còn cay nhức

Nay cùng các ngươi nguyện mang tài dốc sức

Lấy tâm đức mà diệt lũ chó, lũ lang sói báo bạo tàn

Thành tâm dâng lễ vật, hương hoa lên trời đất, thần sông Nhị Hà

Ba quân tướng sĩ đồng lòng. Quyết diệt sạch lũ Bắc phương thối nát. »

Lời nói Tồn Thành dội xuống lòng sông, tiếng hô vang ba quân như những ngọn sóng dữ dội, ầm ầm như thác đổ:

- Dẹp giặc họ Quế! Dẹp sạch lũ Bắc phương thối nát!

Ba ngày sau, đoàn quân tiến áp sát Tống Bình phủ. Quân tướng triều đình phương Bắc lo lắng vội vã điều binh từ các lộ Lục Châu, phía bắc huyện Chu Diên, đông Bình Nguyên đến phía bắc Tống Bình phủ hội quân với Thôi Kết, số binh lên đến năm vạn. Trọng Vũ cho gọi đô đốc thủy quân Quỳnh Châu La Sùng Quán tới Giao Châu để hội bàn. Họ La kiêu ngạo nói với Trọng Vũ :

- Đám dân man di Giao Chỉ là những kẻ nhát gan. Từ trước tới nay chỉ trông cậy vào những thủ lĩnh kém cỏi. Chúng chỉ biết chờ lúc quân đội triều đình nhất thời lỏng lẻo mà mưu cướp trị sở của quan quân triều đình. Nay ta binh hùng tướng mạnh đều hội đủ đất này. Với chỉ hai vạn rưỡi lính quèn đánh sao lại năm sáu vạn tinh binh, thủy quân một vạn tám nghìn lính của ta.

Trọng Vũ cho lời đó là phải, nhưng trong lòng đã nghĩ điều khác. Để đề phòng quân của Chí Liệt tập kích bất ngờ, hắn sai các tướng mạnh nhất trông giữ những nơi trọng điểm. Thủy quân triều đình được lệnh rút ra khỏi cửa biển lui về đất Quảng Châu, Quỳnh Châu, chỉ lại toàn lính bản bộ và kỵ mã. Sùng Quán buộc phải tuân lời mà không dám chống đối.

Thôi Kết giữ hai vạn quân ở phía bắc Cổ Loa thường bị đám người gần vùng Phong Châu cướp phá, hắn lấy làm tức giận. Đêm đến hắn cho người mai phục đám người hay đến cướp phá, bắt được ba bốn mươi người. Bọn ấy khai là người của họ Đỗ đóng tại đất của châu Long và châu Vũ Lặc phía đông nam Bình Nguyên châu.

Thôi Kết bắt tên dẫn đường cùng hai trăm lính đến chân núi Ngọc Bội, dân nơi này gọi là Yểm Nhĩ Sơn. Suốt dọc từ Yểm Nhĩ Sơn theo dòng sông Lệ Thủy ngược bắc đến núi Long Tuyền chưng ba bốn mươi dặm đường. Thi thoảng cứ qua hai nhịp kè sông lại có túp lều dựng bằng tre, phía trước là cửa rèm mây đan thô sơ. Phía trong có vài ba người mặt mũi nhem nhuốc, treo toàn ngư cụ trên tường.

Thôi Kết hỏi tên dẫn đường có biết những nhà này sao lại có ở đây, hắn ta không biết. Đi qua chục dặm đường thấy trong lòng bất an, Thôi Kết cho người dừng thuyền ghé vào một nhà mé phải dòng Lệ Thủy. Thấy có người lên ghé vào, hai người trong nhà lẻn ra phía sau có ý muốn chạy trốn bị bọn lính của Kết bắt được. Hai người mặt lấm lét lắp bắp. Thôi Kết mặt gian xảo cười :

- Có việc chi mà các ngươi sợ hãi đến vậy. Há chăng có điều khuất tất.

- Bẩm bẩm các quan. Tiểu nhân còn có mẹ già trẻ nhỏ trong nhà. Mong các ngài tha cho.

- Ta đâu có làm gì các ngươi mà lại xin ta. Người không mang tội sao lại xin tha.

- Dạ bẩm, bẩm…

- Sao nhà ngươi còn run sợ chưa nói.

- Bẩm quan lớn. Suốt mấy tháng nay ngày nào cũng có đám quân đến đây lùng sục từng nhà một. Nhà nào có thóc, có lúa, cá tôm đều bị đám quân lính đó vơ vét cả. Nhà bây giờ không còn thứ gì trong nhà.

Thôi Kết nhìn đám người trong nhà. Trẻ con ba đứa, một bà lão nhem nhuốc,thân gầy guộc, tóc hoa râm, da đen nhẹm. Mình trần, tay run run đang cầm chiếc bát mẻ, đôi đũa dài ngắn không đều gắp lên miếng tép cho đứa trẻ nhỏ nhất nhà. Được một miếng, đứa thứ lớn hơn mặt mũi lấm lét, vải không một mảnh che thân đôi mắt rưng rưng nhìn tay bà gắp cho đứa nhỏ. Đứa lớn nhất là cũng là con gái, tóc nó dài xõa xuống che đi bầu ngực mới nhú của đứa trẻ mới lớn, có manh vải rách quấn làm khố cũng chẳng thể giấu đi được phần thân dưới héo hon như cây hoa dại của nó. Thôi Kết nhìn chăm chú vào đứa lớn, không rời mắt khiến nó cảm thấy sợ hãi, quay ra phía sau nhà. Tiếng nài nỉ của cha đứa trẻ văng vẳng bên tai. Thôi Kết giật mình hỏi lại:

- Ra là nhà các ngươi đang dùng bữa. Thấy bọn ta ghé vào bờ có điều gì mà hoảng hốt.

- Là tiểu nhân nghĩ là quan quân lại đến.

- Bọn ta là lính triều đình. Trước giờ không làm những việc đó. Đặc biệt là với những hoàn cảnh như các ngươi.

- Dạ dạ. Tiểu nhân không có ý nói ngài.

- Thế bọn quân lính kia dáng vẻ thế nào. Nhiều hay ít người. Nhà ngươi có biết kẻ đứng đầu là ai hay không.

- Lính thấp, chân đeo rơm. Mặc áo giáp giấy, vũ khí ngắn dài đều có. Cỡ đến ba trăm người đi dọc sông cả ngày.

- Các ngươi vương vấn điều chi mà còn không bỏ nơi này.

- Bẩm quan. Chỉ là cực chẳng đã. Quanh năm quen nghề lưới chài, nghĩ chẳng thể làm được việc khác. Vả lại dân chài quen sông nước nên làm nhà gần sông cũng tiện bề thuyền bè đi.

- Các ngươi có thể lui vào qua chỗ đất cao kia dựng nhà. Trẻ con gần sông không nhẽ để bọn chúng rơi xuống sông mà chết đuối, rồi người già cả.

- Từ thời Cao Chính Bình đến giờ, đám thổ hào vùng này tác oai tác quái, chiếm hết đất phía cao. Chúng tiểu nhân mà vào đất đó dựng nhà thì bọn đó lại sai đến cả chục người đến đánh đập, phá bỏ. Còn những đất vũng, mé sông, mỗi nhà đắp lấy một kè đá mà nhận khoảng sông, lấy kè ấy làm ranh giới giữa các hộ.

- Đã đánh nhau với đám thổ hào giành đất hay chưa?

- Đã từng có. Khi đầu nhất chí đồng lòng, sau lại có kẻ hai lòng theo chúng mà đánh lại dân chài.

- Ta nhận đứa lớn nhà ngươi làm nghĩa nữ. Khi chiều gọi người đứng đầu vùng này đến đây ta có chuyện cần bàn.

- Bẩm. Vùng này đất không chủ. Thân ai biết nhà nấy. Gái lớn biết việc, xin đại nhân tha cho nó ở lại.

- Lời ta đã định. Nhà ngươi chớ có bàn thêm.

Kết lắc đầu bước ra. Sai lính lấy hai đấu gạo đổ vào hũ vỡ nát góc nhà. Tên lính to khỏe kéo gái lớn ra khỏi nhà. Ban đầu thấy nó giãy giụa, tên lính gồng mình lên hết sức để nhấc bổng cô bé ra phía ngoài. Bà lão nước mắt ướt hai gò má :

- Cháu cứ theo quan. Thoát khỏi cái đói này.

Mấy chị em cô bé nhìn nhau, đứa nhỏ còn lơ ngơ chưa biết chuyện gì xảy ra. Người cha dặn dò, vỗ về nó :

- Con hãy theo quan. Ngoan ngoãn đi.

Kết bước xuống thuyền lớn, sai đám lính dồn hết lên thuyền đó, để lại chiếc thuyền nhỏ hơn. Kết nói vọng vào bờ :

- Thuyền này được thợ giỏi xứ Quảng Châu làm bằng gỗ Sao, tốt lắm đó. Tặng nhà ngươi.

Đoạn đi hết dòng Lệ Thủy, tên dẫn đường nói đi hết đoạn đường trên bờ nửa canh giờ là sẽ đến núi Long Tuyền. Trên ấy có động lớn, ngày trước có đôi cặp vợ chồng nên duyên ở động đó, từ bấy giờ người dân vùng này gọi là Động Hỷ. Núi cao ba trăm trượng, cây đá um tùm nhiều vô kể. Có dòng nước chảy quanh chân núi, từ lưng núi nhìn xuống phía nam mà thấy cảnh đẹp như tranh vẽ.

Thôi Kết cho đám lính dừng lại ở đó, sai tên dẫn đường vào nói với động chủ họ Đỗ là có quan quân triều đình đến bắt tội. Hắn chạy vào đến cửa hang thì có chục tên lâu la ra dò xét. Nhận ra người của mình, bọn chúng cho vào. Tên dẫn đường nói lại hết chuyện thì bị thủ lĩnh kêu người lôi ra treo cổ trước cửa hang.

Nghe tiếng ồn ào từ phía động, Thôi Kết ngước lên nhìn. Có một người chân thậm thụt bước ra từ phía động, quần áo lôi thôi, miệng rộng, mắt híp, dáng người mảnh khảnh cầm một cây đao mẻ bước ra quát lớn :

- Quan quân cái khỉ gió gì. Có giỏi lên đây đánh với tao một trận.

Đám lính cười khúc khích, Thôi Kết nói lớn :

- Cái loại nhái bén nhà ngươi lại đòi đánh với đấm. Chỉ e là nhái bén chưa kịp kêu đã bị bóp chết. Bọn lâu la chúng mày lấy cho hắn một cái gương để cho hắn soi, nhìn có khác chi thằng hầu phủ hay không.

Có tên lâu la đứng cạnh cầm gương giương lên. Tên thủ lĩnh quắc mắt nhìn khiến tên lâu la sợ hãi lui vào. Tên thủ lĩnh chạy vào nhìn xuống mặt nước tĩnh trong động, lấy tay bó gọn lại mái tóc, chỉnh lại quần áo. Y bước ra, giọng dõng dạc :

- Là ta đang ngủ có cái tên nhìn như chim quạ nhà ngươi đến đây hò hét. Nào giỏi thì lên đây đánh với ta.

Thôi Kết cho người xông lên, đánh nhau loạn xạ một lúc. Đám lâu la cùng tên thủ lĩnh thua chạy vào trong hang. Thôi Kết đuổi theo vào đến động. Động lớn, uy nghi có nhiều cột đá lớn như những cột trong các chùa phía bắc xứ Giao Châu. Tiếng vọng lớn từ phía hang khiến đám lính mất phương hướng, không nghe ra những lời nói của Thôi Kết và bọn chúng nói chuyện.

Thôi Kết cho người dò la thì tứ phía động đều có cửa lớn bằng đá như thể có vị tiên thần nào đã dựng lên kiến trúc trong động này. Thôi Kết thấy có bậc thang bước xuống lòng động sâu thăm thẳm hướng ra phía đông. Kết sai lính đốt đuốc để dò đường. Đuốc thắp lên, châm lửa vừa rời khỏi thì đuốc tắt. Lấy làm lạ, Kết tự tay mình thắp đuốc, cũng như những lần trước đuốc tắt ngay sau khi châm lửa vừa rời khỏi đầu đuốc.

Nghì là do thiếu không khí nên Kết ném vũ khí xuống đất chạy bước lên cao hơn, lần này châm đuốc đã cháy. Nghĩ vui trong bụng, Kết lại bước xuống cầm cây thương lên, đuốc lại tắt. Thôi Kết ném thương xuống đất, lần này không bước lên nữa mà vẫn đứng tại chỗ châm đuốc thì đuốc cháy. Kết sai năm mươi tên lính cầm theo vũ khí ra khỏi động bao vây bốn phía núi. Kết cùng đám lính còn lại đi bộ bước theo bậc thang xuống phía dưới.

Đi lòng vòng một hồi thấy gươm giáo rơi dưới đất la liệt, Thôi Kết cười lớn:

- Phen này các ngươi xuống âm phủ mà cướp. Nghĩ là ta không biết dùng đuốc xuống dưới lòng động để bắt các ngươi à.

Có ánh sáng hắt vào, Thôi Kết giật mình. Tên đi đầu thò đầu ra cái lỗ lớn nhìn ra phía ngoài, quay lại nói vọng:

- Phía này có dòng nước chảy ra ngoài. Dưới đây là ao nước lớn.

Kết chạy ra, tự đấm vào lòng bàn tay. Sai người nhảy xuống dòng nước để thoát ra ngoài. Nhìn về phía đông có mấy chiếc thuyền đang khua mái vội vã. Kết ném đuốc xuống dòng nước bực tức :

- Không được để bọn chúng thoát.

Kết cho người quay lại lục tìm khắp động, thấy lương thảo, vũ khí, áo giáp quân lính triều đình, tôm cá đầy ắp, lại có bạc vàng chất thành hai đống cao ngang đầu người. Kết cho dắt một tên cướp bị bắt sống tới động hỏi :

- Các ngươi là cướp gì, thủ lĩnh là ai. Khai ra mau thì được tha tội chết.

- Bọn ta không phải là cướp. Bọn ta chỉ đi ăn trộm của cướp và giành giật của cải bất chính. Thủ lĩnh ta người đứng đầu bọn ta.

Kết dập đầu hắn xuống nền đá, tóm lấy tóc gặng hỏi :

- Còn cứng đầu ta cho ngươi đi theo tên bị treo cổ kia.

- Ta đã nói rồi. Bọn ta không phải là cướp, chỉ đi lấy trộm của kẻ cướp. Thủ lĩnh ta là người khi nãy, đứng đầu bọn ta.

- Ý ngươi là bọn ngươi chỉ đi ăn trộm của lũ cướp. Vậy lũ cướp đó là ai. Thủ lĩnh ngươi tên họ là gì. Ta thấy tên bị treo cổ kia nói là họ Đỗ.

- Quanh đây không có cướp. Mà phía gần Tống Bình mới có. Bọn ấy đóng trại phía bắc Cổ Loa, còn thủ lĩnh đám cướp là người ở trong phủ. Thủ lĩnh ta họ Đỗ, ta cũng chỉ biết có vậy. Chớ có hỏi ta thêm nữa.

- Tên này láo. Lôi ra chém chết.

Hắn cười lớn :

- Lũ cướp các ngươi. Đừng mong chuyện tốt đẹp đến với bọn ngươi.

Có tên lính chạy tới nói với Thôi Kết :

- Đám này là Lục Bạch Hổ. Đại nhân nhìn này. Trong đống quần áo lính mà chúng cất giấu trong động có lẫn cờ xí của Lục Bạch Hổ khét tiếng.

- Nghe nói cái tên Long Trạch trấn giữ Long Biên là một trong những thủ lĩnh của đám người đó.

- Tại hạ có nghe nói. Hắn từng là một trong sáu thủ lĩnh của Lục Bạch Hổ bị Dương Thanh bắt giết bốn tên. Còn hắn và một người nữa.

- Tại sao lại để hắn sống sót, một tên làm cướp lại được làm tướng giữ thành.

- Tại hạ nghe nói vương tử Đạo Cổ trước đây thu nạp hắn để mưu đoạt lại Tống Bình. Hắn có chỗ để dựa vào, lại uy dũng khác thường nên được Quế đại nhân tin dùng làm nội gián ở Tống Bình. Thân phận làm cướp của hắn chỉ có hòa thượng Giả Thường biết. Sau này khi đám người dưới trướng Dương Thanh diệt Lục Bạch Hổ, hắn mới lộ diện.

- Ta cứ hỏi dò tên Long Trạch đó, có thể hắn sẽ biết tên họ Đỗ này.

Thôi Kết cho quân lục tìm khắp núi và các khu lân cận, chẳng nghe ngóng được tin tức, bóng dáng của đoàn người đó. Có người nhìn thấy đám người trên núi đi về phía tây nam dắt theo đến vài chục ngựa trâu. Thôi Kết chán nản cho quân lui về phía Bắc Cổ Loa. Chỉ sai một vài tên đi dò la thêm tin tức từ phía quân đội họ Dương và đám người ngựa núi Long Tuyền đi về phía tây nam.

Trong quân Thôi Kết, có người tên Đinh Tráng người Võ An Châu, dáng người nhanh nhẹn, đôi chân mỗi bước sải đến năm trượng, mọi người vẫn gọi tên ấy là Sóc Bay, hiệu là Hỏa Cước Tốc. Nhận lệnh của Kết, Tráng chạy tức tốc suốt hai canh giờ theo dấu chân đám người chạy trốn. Chạy đến chỗ đất bằng nghe có tiếng gió vi vu thấy lạnh người. Thấy có quán nước giữa đường vắng vẻ, Tráng bước vào với ánh mắt tò mò. Thấy một cô thôn nữ tóc dài quá lưng. Áo yếm lưng trần khoe làn bánh mật mịn mà, bờ vai hững hờ như đang chờ ai đó lại gần mà nâng niu. Trong người hừng hực, nhìn xung quanh đồng không hoang vắng, trong nhà lại chẳng có ai, Tráng chạy vội vào phía trong, lấy tay xoa lên đôi vai tròng ghẹo cô ta:

- Em là tiên nữ chốn nào. Sao lại lạc đến chốn kỷ ho gò gáy này.

Cô gái bình tâm, tay thoăn thoắt đưa trà vào ấm. Tráng đoán tâm tình mà nhả lời ngọt ngào dụ dỗ:

- Vườn hồng xa vắng, em có thấu chăng trái tim ta đang loạn nhịp vì người đẹp trước mặt ta. Theo ta về Tống Bình, nàng sẽ chẳng phải lo gì cả. Nơi này hoang vắng, hổ cọp nào có biết thương em.

Hắn luồn tay xuông phía dưới em định ôm cô gái đột ngột có gã lùn tẹt, người mập dáng heo nái xồng xộc chạy đến kéo Tráng ra ngoài. Không một lời giải thích, dao mài sẵn còn treo trên giá, gã lùn khứa khứa vài nhát lên viên đá mài. Tráng hoảng hồn ngất lịm. Cô gái bước ra, lớn tiếng cười :

- Mồi ngon dễ nhử. Lũ đàn ông các người chỉ có chết vì râm sắc.

- Đến phụ nữ mang thai mà hắn cũng dê. Lũ đầu voi đuôi chuột. Ăn thịt hắn chắc chẳng dậy mùi ngon.

Dáng người nhỏ nhắn, chân thậm thọt một người nữa bước ra. Ria mép con kiến vểnh lên, miệng ngậm lá tre đi một vòng xuôi, lại ngược một vòng ngược quanh người Tráng đang nằm trên bàn. Chàng lấy ngón út trái chọc vào lỗ mũi lấy ra một miếng bôi lên cửa miệng Tráng. Tráng tỉnh dậy, mơ màng, thấy miệng dính chút mềm liền ói thông thốc. Tráng khóc lóc van xin:

- Xin các gia gia tha mạng. Là con không biết phạm phải người trên. Xin gia gia tha mạng. Xin bà tha mạng cho. Tội con không biết buông lời chòng ghẹo, đắc tội với bà.

- Nhà ngươi cúi xuống ăn lại hết đông ngươi vừa nôn ra. Ăn xong ta sẽ tha mạng. Nếu không thì nhà ngươi sẽ giống con lợn đang treo trên bếp kia.

Tráng nhìn thấy trên giá bếp có ba cái xỏ lợn cùng hai dải thịt móc hàm. Cạnh đó là hai miếng thịt đùi to cỡ đùi trâu, da trắng mịn không lông. Tráng run rẩy cúi xuống dùng miệng liếm sạch đống vừa ói ra. Cô gái nhìn ra phía khác mà không dám chứng kiến cảnh tượng đó. Tên nhỏ người, chân thọt túm tóc Tráng, lại đưa tay vào mũi bôi lên miệng Tráng. Tráng sợ hãi, miệng run run:

- Xin gia gia tha tội. Con biết lỗi rồi.

Gã kia trợn mắt, tay cầm dao bầu dí vào mặt Tráng, gã hỏi:

- Mày có biết bọn này là ai không?

- Dạ dạ. Con không biết. Xin các ngài tha mạng.

- Đồ chó. Quân lính triều đình mà hèn nhát như con chó. Chó nó còn biết kêu gào cắn càn khi người khác động vào nó. Mày không thể bằng chó được.

- Dạ dạ. Con không bằng chó. Không bằng cầm thú. Mong gia gia tha tội.

- Liếm sạch thứ trên môi ngươi.

Tráng nhắm mắt, nhắm mũi liếm sạch cái thứ nhớp nháp phía ngoài môi. Phía dưới quần hắn đã ướt từ bao giờ. Tên béo lùn dáng lợn cười lớn:

- Thôi được. Ngoan ngoãn là tốt. Ngươi nằm lên, tự trói mình vào.

Tráng ngơ ngác nhìn hai tên đó. Tên kia ngước đầu ra hiệu Tráng làm theo lời gã béo. Người phụ nữ quay đầu lại gọi lớn:

- Anh Lục. Có quan quân đang tiến đến.

- Cứ như nãy hành sự. Còn tên kia lên bàn trói mình vào. Nghe lời Mai muội. Không ngươi sẽ phải chết.

Hai người lại trốn ra phía sau gian lều, chui xuống một cái hố lớn, lấy cành lá khô phủ lên miệng hố. Cô gái bước vào đập vỡ ấm chuyên cùng bát nước, khứa miếng bát vỡ vào tay vừa chấm nước sôi. Cô gái xé toang yếm ngực, kéo váy đụm bốn bức lên cao quá gối ngã ngồi trong t.ư thế sợ hãi. Tiếng ngựa hý vang, cô gái nằm ngất ra sàn.

Có vị quan nhân mặt mũi khôi ngô, trán cao vuông vức, đầu đội mũ quan thứ sử, mặc áo lụa tím. Người này vai rộng sáu tấc, mình cao bảy thước, dáng người trang nghiêm, giọng nói nền nã ấm trầm bước vào lều nhỏ. Nhìn thấy cô gái dường nằm dưới sàn, nước nóng còn đương sôi khói nghi ngút trên mảnh vỡ của chuyên nước. Vị quan nhân giọng ân cần hỏi:

- Cô gái kia ơi. Sao cô lại nằm dưới đất.

Có tiếng nói từ phía sau:

- Có vẻ như cô ta vừa bị ngã. Máu còn vương trên tay.

- Này cô gái! Mau mau tỉnh lại.

Cô gái từ từ mở mắt ra, hoảng hốt cô gái co rúm người, tay vội kéo váy xuống qua chân, kéo lại vạt yếm. Cô gái la hét lớn:

- Lũ cướp ngày. Lũ cướp của, giết người. Trả chồng ta đây.

Vị quan nhân giọng ôn tồn:

- Cô gái hãy bình tĩnh. Ta là Phong châu thứ sử, đi qua đây thấy có quán nước nhỏ liền ghé lại. Cô gái chớ có sợ hãi. Hãy ngồi lên ghế, kể lại ta nghe. Có chuyện gì đã xảy ra.

- Không không. Lũ cướp, các ngươi hãy giết ta và con ta trong bụng đi. Ta không muốn ô uế chỗ này. Ta không muốn con ta phải chứng kiến cảnh này.

- Cô gái. Bình tĩnh nào. Ta là thứ sử Phong Châu. Kẻ nào đã đến đây. Người nhà cô đâu.

Thứ sử cởi chiếc áo choàng ra khoác lên người cô gái. Hơi ấm tình người khiến cô gái như bừng tỉnh, bình tĩnh lại cô gái lại trần tình:

- Vừa xong có đám quân lính ghé qua đây. Bọn chúng bắt trói chồng thiếp. Đập phá lều quán, lại định giở trò đồi bại với thiếp. Thiếp đang rót nước pha trà thì có tên ôm thiếp từ phía sau giở trò đồi bại. Thiếp bị bọn chúng đánh một đòn nằm ngất.

- Là lính như thế nào.

- Trông giống mấy người này.

Thứ sử nhìn xung quanh, đám lính cúi mặt không dám nhìn. Thứ sử lại hỏi :

- Chắc có kẻ gian đã mượn cớ chúng ta mà làm ra chuyện đó. Chồng cô bị chúng bắt đi rồi chăng.

- Dạ không. Chồng thiếp bị bắt trói ở chiếc bàn mạn phải lều quán.

Có tên lính nói vọng từ phía ngoài đó vào:

- Vương đại nhân. Có người bị bắt trói ngoài này.

Trấn an cô gái, thứ sử chạy ra phía ngoài thấy một người mặc lính phục ở phía ngoài. Thứ sử hỏi :

- Anh là chống cô ta. Anh là lính quân doanh nào.

Hỏa Cước Tốc còn chưa hết kinh tởm với những thứ anh vừa phải nuốt, ói vội ra ngoài. Chàng nói với thứ sử:

- Đại nhân! Đại nhân! Cứu ta.

- Có chuyện gì. Anh và vợ vừa bị đám người nào bắt trói đến mức kinh hãi như vậy

Tráng ói xong, thở không ra hơi. Anh hổn hển:

- Là ả ta. Ả ta.

Từ phía sau, cô gái chạy ra ôm lấy Tráng, khóc lóc thảm thiết:

- Chàng ơi. Thật may quá. Có vị Đại nhân này cứu giúp chúng ta kịp lúc. Không thì thiếp chẳng còn mặt mũi nào mà sống nữa.

Vương thứ sử còn mông lung chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra. Anh chàng lại hổn hển kể tiếp:

- Là ả ta cùng đồng bọn toan giết ta. Ta được lệnh từ Tống Bình đến đây để lần theo tung tích của bọn cướp. Chạy đến chỗ này thì gặp ả cùng hai tên cướp nữa bắt trói ta. Ả dựng chuyện để lừa gạt đại nhân. Cái bụng kia chỉ là cái thai giả.

Cô gái ngã xuống đau đớn, ôm lấy cột hiên mà than khóc:

- Đại nhân minh xét. Chồng con chắc hắn đã có người khác nên mới dựng chuyện hòng đuổi mẹ con thiếp đi. Nay lại không nhận cả vợ con thiếp nữa. Thiếp còn thiết sống làm gì nữa.

Đám lính giữ lại cô gái không để cô gái làm điều dại dột. Tên béo phía sau nhà núp dưới hố định bụng chạy lên, tay người nhỏ gầy giữ lại ra hiệu cho hắn im lặng quan sát, hãy tin tưởng cô gái đang diễn trò thật tốt.

Có tiếng vó ngựa hý vang. Giọng cười lớn sảng khoái:

- Vương Đại nhân. Hóa ra ngài ở chốn này. Nơi đồng không mông quạnh này lại có gái đẹp. Đại nhân cũng có cái thú vui thanh nhã đấy. Ta nghe lời tướng quân đi tìm ngài bấy lâu..

Vương thứ sử nghiêm nghị:

- Sằng bậy. Công chuyện ta đi ngang qua chỗ này. Chớ có nói điều không phải.

Hỏa Cước Tốc nhận ra người này. Anh ta lên tiếng nhận người quen:

- Có phải Dương Diện tướng quỷ.

- Anh là kẻ nào sao biết tên ta.

- Là Hộ sư quân tướng. Dưới trướng Thanh thiên Dương tướng. Chẳng phải là anh đã chết sau khi bị Long tướng quân truy sát.

- Cái tên mặt quỷ trạch trạch lươn lươn đó tài nghệ gì mà giết được ta. Nhà ngươi là ai.

- Tiểu nhân chỉ là lính tốt. Ngài chắc chẳng thể biết được.

- Ra là lính Tống Bình. Vậy ta phải chém ngươi vì cái tội phản phúc.

Dương Diên cầm dao lớn chém người hắn. Vương Thăng dùng kiếm cản lại. Mặt không thay đổi sắc thái ra hiệu cho Tồn Thăng lùi lại. Gã quỷ hậm hực bước lui ra, mắt liếc lại nhìn cô gái bụng mang dạ chửa còn đang nằm trên đất. Nét mặt nghiêng nghiêng xinh xắn khiến gã thấy trong người mình rạo rực, nhớ lại khi ở đất Tiên Du bắt cướp Lục Hổ. Vương Thăng Triều lệnh không cho gã được gây sự, gã đứng yên mà dạ chẳng yên.

Cô gái nhìn thấy dáng người cao lớn, mặt mày hung dữ, giọng nói như đã từng nghe, thảng thốt cô gái hét lớn :

- Có ma! Anh Lục ơi. Cha ơi! Có ma!

Vương Thứ sử ngạc nhiên hỏi:

- Cô vừa gọi tên ai. Ma nào?

Cô gái mặt nhăn nhó mếu máo, tay chỉ vào Gã Quỷ:

- Là hắn. Chính hắn.

- Đó là hầu tướng của ta. Sao cô lại gọi hắn là ma.

Gã Quỷ quay mặt lại nhìn cô gái. Có chút gì đó khiến Gã Quỷ mất phương hướng, trái tim gã loạn nhịp, chân tay bủn rủn, nghẹn đắng trong cổ họng. Dường như cái cảm xúc đã khiến gã quỷ mềm yếu như đứa trẻ gặp lại mẹ, muốn ôm lấy mẹ mà rúc ngay vào lòng. Gã buông dao rơi xuống đất, mặt vô hồn, miệng lắp bắp:

- Là nàng. Chính nàng rồi. Tiểu Mai.

- Ta không quen ngươi. Chồng ta đã chết rồi. Tại sao lại là ngươi.

- Chính là nàng rồi. Nàng còn nhớ buổi chiều hôm đó trên núi Lạn Kha. Cả đời này ta chưa từng với ai. Nên ta chẳng thể quên.

Đám lính không bảo với nhau mà cười. Có tiếng động từ phía sau lều quán. Hai tên lính chạy ra phía sau thì bị dao chém trúng chân ngã khuỵu xuống đất. Vương thứ sử ra lệnh bao vây.

Hai người đó buông vũ khí bước lên. Gã Quỷ hào hứng chạy ra phía sau nhà để xem hai kẻ đó là người nào. Mái tóc rũ rượi cùng áo quần lôi thôi, Gã Quỷ nhìn tên gày gò mà khiêu khích:

- Một tên thì như nhái bén, bồn thằng trông như ễnh ương.

Tên người nhỏ gầy cúi gằm mặt, đi qua chỗ Thăng đứng mà thưa với Vương thứ sử:

- Bẩm quan. Chúng tiểu nhân chỉ là những dân người hiền lành tốt bụng. Khi nãy có kẻ gian đến cướp phá. Chính tên mặc áo lính này là kẻ đã hăm dọa em Mai. Bọn tôi phải đứng trốn ở phía sau. Còn con bé không kịp trốn nên toan bị hắn dở trò. Thấy quan quân đến, hắn tự trói mình vào đó, giả như người bị hại. Có đại nhân tận mắt chứng kiến. Con bé là bị hắn ép buộc phải khai ra như vậy. Mong đại nhân minh xét.

Thứ sử đắn đo :

- Thôi được rồi. Nhìn các ngươi bộ dạng chẳng phải dạng tốt lành. Cho giải các ngươi tất cả về thành phủ. Đưa vào nhà lao chờ ngày phân giải.

Tồn Thành cản lại:

- Không được. Nàng ấy là của ta. Chớ có động đến nàng.

Cô gái khóc thút thít, ngồi xuống sàn đất, nước mắt đầm đìa:

- Đỗ Thăng chàng ơi. Chàng trên trời có linh thiêng thì tha tội cho thiếp. Phận thiếp quá trớ trêu. Chưa được một lần gặp chàng mà đã phải biệt ly. Giờ lại thành ra như thế này, thiếp còn thiết sống để làm chi nữa.

Tồn Thăng chạy tới đỡ nàng ta dậy, nàng ta hất mạnh cánh tay. Gã Quỷ ngã lăn ra đất. Gã đứng lên, xốc lại áo quần. Tên người nhỏ gầy, nhìn thấy vết xăm trên hông. Tay rút đòn gậy dựng cột nhà nhằm người Tồn Thăng mà đánh:

- Cái tên mắc dịch nhà ngươi.

Những đòn chí mạng đánh thẳng người gã Quỷ, hắn chẳng kịp chống đỡ, đau đớn hắn nằm cuộn tròn trên đất như đứa trẻ vừa bị cha dạy cho những đòn roi. Thăng Triều cho người giữ hắn lại. Hắn gào thét:

- Đồ khốn nạn. Kẻ vô ơn. Chính mày đã khiến tao phải ra như thế này. Chính sự ngu ngốc, trẻ con của mày mà khiến cả trăm người xóm chài Đỗ gia bị chết. Chính mày khiến anh em bọn tao phải đôn đáo chạy trốn khắp nơi. Kẻ sống người chết mà chẳng hay tin. Đến khi biết mày làm cướp núi Yên, tranh giành địa bàn với Lục Hổ, tao phải cản cấm đám lâu la giết mày. Mày lại xung quân triều đình chém giết huynh đề tao. Nay mày còn định làm cái điều hèn hạ là cướp vợ của người đã khuất hay sao. Một góa phụ mà mày cũng chẳng tha. Cái tên thú tính. Sao họ Đỗ ta lại có loại người như mày. Tao phải giết mày. Đồ máu lạnh vô ơn.

Tồn Thăng sựng người, nằm im, nhìn đăm đăm vào đôi mắt sáng rực đang tuôn ra hai dòng chảy trên khuôn mặt kham khổ. Hắn ậm ừ, không nói nên thành lời :

- Anh là…

Tên kia hất ngã đám lính, dùng sức lấy kiếm trên người Vương thứ sử chém thẳng xuống chẳng chút nương tình.

- Ta giết ngươi để trả thù cho Đỗ gia, giết ngươi để trả thù cho anh em ta. Giết ngươi để anh linh Đỗ Dụng ở trên được yên lòng. Tất cả là vì ngươi.

Ánh kiếm sáng lóa, không một âm thanh ngoài tiếng lạnh dựng sống gáy của thanh kiếm chém mạnh. Tiếng khóc nức nở, đôi mắt thẫn thờ, anh ngồi xuống thở hổn hển. Cô gái đập đầu thật mạnh vào cây cột. Máu chảy qua đuôi mắt rớt xuống cằm, cô gái nằm bất tỉnh. Thăng Triều cho người sơ cứu cô gái, đưa lên xe ngựa chạy thẳng về phía Phong Châu thành phủ. Dương Diện gã quỷ, nằm dưới đất, mở mắt khe khẽ, miệng nhoe nhoét một màu đỏ như nước bã trầu. Rút thanh gươm còn cắm đầu dưới đất, hắn gượng dậy, tay chống vào chuôi kiếm, đầu gối quỳ thấp, dập đầu ba cái, giọng nói méo xệch như bò rống:

- Anh Sĩ Hoàng. Tha lỗi cho thằng em ngu ngốc, khờ dại. Bao năm qua khiến các anh nằm gai nếm đắng ngậm cay. Ba vái này kính anh.

Hoàng mắt rưng rưng, xua đám lính bước ra ngoài, tự trói mình vào thừng. Nuốt cơn giận giữ vào trong, Sĩ Hoàng phục gối xuống đất, mặt hướng về phía Đông, chẳng nói lấy một lời. Anh nhắm mắt, đôi tay trói đưa lên ngực trái rồi chỉ cúi đầu. Bọn lính tráng đeo gông vào người anh, lấy xích mà trói chân anh lại. Anh từng bước chậm rãi theo đám lính ngồi trên lưng ngựa.

Thăng chạy theo, dùng vạt áo lau những giọt mồ hôi. Gã lúng túng quệt vết máu lên mặt Sĩ Hoàng. Gã Quỷ gạn lời hỏi han mà Sĩ Hoàng chặng cậy miệng nói lấy một lời. Gã Quỷ lấy làm tức tối, chạy lòng vòng gào thét, chốc chốc lại ra lệnh cho bọn lính dừng lại để cho Sĩ Hoàng bớt mệt. Đám lính dừng lại nhưng anh vẫn không chịu dừng, chỉ lầm lũi bước đi.

Đoạn qua sông tiến vào cửa thành Bạch Hạc, Tồn Thăng không được bước lên thuyền. Sĩ Hoàng bước vội lên thuyền. Thăng nhìn theo lòng nóng như lửa đốt. Gã Quỷ nói với một tên lính áp nha theo dõi rồi báo lại tin cho Gã. Khi đầu, tên áp nha không chịu, Thăng đút lót cho hắn một lượng bạc thì hắn nở nụ cười chịu ngay.

Thăng về trại vết máu còn vương trên mặt, quần áo tả tơi như kẻ ăn mày. Dương Thanh hỏi :

- Ta sai nhà ngươi đi theo tìm gặp Thăng Triều, chẳng hay có gặp được mà người ngợm tả tơi như vậy.

- Bẩm tướng chủ. Họ Vương không cho ta qua sông vào thành. Cứ ở bên này có ngày quân triều đình đuổi đến thì chúng ta sẽ chết mất.

- Thật khó cho Vương thứ sử. Chỉ là tại ta khi trước không đối xử công minh mà khiến hắn thù ta đến vậy.

Triệu Cường ngắt lời:

- Khi ấy tướng quân không làm như vậy, liệu Thăng Triều có thể ổn yên tại đất Phong Châu được hay chăng. Chẳng là hắn có chút nghi ngại về, về…

- Sao nhà ngươi lại lắp bắp. Hắn có e ngại điều gì mà chẳng thể giúp ta. Không phải ta cho Do Độc nắm binh phòng Đông nên hắn mới nghi ngại hay sao.

Đặng Hoài cười khẩy:

- Nghe nói cha con Triệu Hoằng dẫn địch đánh thiếu chủ Chí Liệt. Trong quân ta lại có người là con trai của Hoằng. Chẳng phải họ Vương e ngại chính là điều ấy.

Dương Thanh cản lời:

- Nếu không phải Triệu Cường đưa Mă Tước đến thì có lẽ đầu ta đã bêu cửa La Thành rồi. Đâu có ở đây cùng các người. Trước khi bàn chuyện thì hãy nghĩ trước sau. Chớ có hàm hồ đặt điều.

Triệu Cường không mở miệng bàn thêm, anh bước ra phía sau. Lý Toàn từ ngoài trại đi vào, giọng nói hớn hở:

- Thăng Triều cho người đưa thư tới hỏi thăm Dương tướng quân. Ngài có biết người đó là ai chăng?

Dương Thanh nạt nộ:

- Là ai mà mặt mày nhà ngươi mếu máo.

Tồn Thăng cười lớn:

- Cái mặt của hắn khi cười có khác nào khi trẻ con mếu máo đâu. Là cái tên Tre Độc đó có phải không?

Dương Thanh cho gọi Do Độc. Thanh mừng rỡ, vội vàng ân cần hỏi chuyện:

- Là Do Độc. Tướng quân từ ngày đi giữ đất Lâm Tây, sắc mặt thật tốt hơn khi ở Tống Bình. Chẳng hay Vương thứ sử còn điều gì nghi kỵ mà chẳng cho chúng ta qua sông vào thành.

Do Độc cúi chào mọi người, chưa nói ngay câu chuyện mà Dương Thanh hỏi. Do Độc hỏi han hết tình hình của mọi người rồi mới đáp lời Dương Thanh:

- Là Thăng Triều đại nhân có ý muốn giúp ngài, nhưng không thể ra mặt nói trực tiếp. Nay ta một mình tới đây để báo cho ngài một việc.

Thấy Do Độc ấp úng, Dương Thanh nhìn xung quanh rồi cho đám cận hầu lui ra. Chàng trai trẻ cầm lấy tay vị tướng dạn dày sương gió trần mạc mà tỉ tê suốt nửa canh giờ. Dương Thanh cười khoái chí, sai người soạn sửa rượu thịt. Do Độc cáo việc xin lui về Phong Châu báo lại việc cho Thăng Triều.

Dương Thanh cất cử Đặng Hoài cùng Tồn Thăng đến Phong Châu diện kiến Vương Thăng Triều. Thiên thanh tướng sai đám người Triệu Cường, Lý Toàn, Mã Tước sắp xếp binh lính, lên núi chặt gỗ đóng lấy ba mươi chiếc thuyền lớn nhỏ, ngược dòng nước đến chân núi Tản Viên. Bờ phía tây chỗ sông ấy là đất Lâm Tây có quân của Do Độc.

Do Độc dẫn Tồn Thăng cùng Đặng Hoài đến phủ thành Phong Châu. Hai người phải đợi tại quán trọ phía đông nam thành hơn một ngày. Tồn Thăng đi dò la tìm tên áp nha khi trước để hỏi tin của Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng đang bị giam tại nhà lao phía Nam thành Bạch Hạc.

Đêm canh ba, Tồn Thăng một mình mặt mũi kín mít chạy ra cổng phía Đông, thấy có tên lính tách đoàn đi tiện ở gần quán trọ. Tồn Thăng lấy gậy lớn đánh ngất tên lính lấy đi quần áo cùng lệnh bài. Gã quỷ vào quán trọ xin lấy một phần rượu thịt đi về phía nam.

Đến cửa lao, tên nha môn bổ đầu thấy Thăng áo quần xộc xệch, mặt mũi luyến thoắng liền xét hỏi:

- Đang đêm nhà ngươi tới đây có việc gì. Trong đó có gì.

- Tiểu nhân là Man Thắng, có người nhà bị bắt giữ trong này. Đây chỉ là chút đồ ăn. Mong các anh cho vào thăm hỏi.

Tên bổ đầu cho người ra soát người cùng suất rượu thịt bên trong chiếc gầu nước. Bổ đầu hỏi gã quỷ:

- Tên ấy phạm tội gì. Có quan hệ gì với nhà ngươi.

- Là Sĩ Hoàng ạ. Người đó là anh em với tôi. Trước đây hắn là người tốt bụng nhưng nhà hắn bị cướp, sau này đói quá đi làm cướp nên bị bắt nhốt vào lao. Nghe tin hắn bị nhốt nên tới đây mang chút món ngon gọi là… Mong các anh dùng, tôi vào tay không để thăm hỏi anh ấy cũng được.

Tồn Thăng cười cười nhưng không thể giấu đi được cái bề ngoài đáng sợ của gã. Tên bổ đầu sờ vào miếng da dê trên mặt. Mùi hôi rình khó ngửi, tên bổ đầu xua tay cho gã Quỷ vào trong. Có tên sai nha đi theo, thấy tiếng bạc lóc xóc từ người Tồn Thăng bước ra, hắn chạy lại báo cho tên bổ đầu. Tên bổ đầu gọi Thăng quay lại.

Thăng hỏi :

- Đại nhân có điều chi dặn dò.

Hắn chỉ tay vào túi bạc gã quỷ đeo bên người. Thăng lại hỏi:

- Cái này ạ. Túi này ạ. Chỉ là…

- Thì nhà ngươi cứ để đó. Ta sợ khi ngươi mang vào hễ có chuyện gì, ngươi đánh mất, lại đổ cho bọn ta lấy của ngươi, khi đó ai chịu trách nhiệm được cho nhà ngươi.

Tồn Thăng ngoan ngoãn nghe lời hắn, vội lấy túi đặt lên bàn. Tên bổ đầu cho hai tên sai nha đưa Gã Quỷ vào phía trong.

Thăng chậm rãi bước vào trong mặc cho hai tên sai nha liên tục giục giã gã quỷ nhanh chân hơn, anh đảo mắt hai bên như mong tìm kiếm điều gì đó. Tiếng tra tấn thé tai, âm thanh xích xiềng rợn người không thể khiến Gã Quỷ run sợ, anh chàng vẫn cố tìm kiếm điều gì đó mà ngay bản thân anh cũng chẳng biết. Những khuôn mặt dữ dằn, những ánh mắt thèm khát nhìn chằm chằm vào những bước chân chậm rãi, dáng đi khoan thai của anh. Có kẻ mặt gớm ghiếc hơn cả Gã Quỷ tiến sát song cửa, cầm mảnh bát vỡ cào xé dưới đất, gầm gào quát mắng. Chẳng một lời anh chàng tiếp tục thong thả bước đi, cổ quay tứ phía trông ngóng người nào đó xuất hiện.

Tên sai nha mở một cánh cửa được chằng chịt bởi vài cuộn xích lớn, chấn song to như cột nhà. Tay giữ chặt dây xích, đóng vội cánh cửa, tay sai nha nhắc nhở :

- Kẻ nhà anh cần gặp ngồi đây. Nơi này toàn là kẻ hung dữ, tội phạm nguy hiểm. Cẩn thận một chút thì vẫn hơn.

Phía bên trong, ngồi yên một chỗ, Sĩ Hoàng mặt quay vào phía bức vách hắt bóng chàng trên đó. Tay sai nha liên tục nhắc Gã Quỷ nói chuyện thật nhanh tránh điều nguy hiểm xảy đến. Tên còn lại cầm roi vút vào mặt kẻ dữ dằn ở gian đối diện, tiếng gào thét mắng chửi om xòm. Gã Quỷ hỏi nhỏ:

- Anh viết gì trên vách.

Sĩ Hoàng vẫn chẳng mở miệng nói một lời. Gã Quỷ xà vào lòng, năn nỉ như đứa trẻ lên ba nũng nịu cha. Sĩ Hoàng gạt anh sang một bên. Tay Hoàng chạm vào khuôn mặt thô ráp, từng giọt mồ hôi vụng rơi len vào những kẽ hở trên da của gã quỷ trong cái ngột ngạt của nhà tù. Mùa xuân tháng ba, tiết trời vào nồm, mảnh rơm ướt nhẹp, Hoàng nhặt lên một lá rơm vờn qua khuôn mặt của anh, lại khẽ hẩy nhẹ Thăng ra ngoài. Thăng nằng nặc nói:

- Anh Hoàng. Khi còn bé, anh thường hay bênh em bởi cái tội em ngốc nghếch, dại dột. Em chỉ muốn được như cái ngày thơ bé, bên con nước, anh chỉ em cách nói dối anh Thành để cha mẹ chẳng những không đánh em mà còn cầm roi đánh anh ấy. Anh chỉ em lừa đám trẻ con trong xóm chài để lấy được giỏ cá, tôm đầy thật đầy. Mà em ngốc nghếch khiến anh bao lần bị người lớn cho no đòn roi. Ôi những khờ dại mà em chẳng thể quên. Bấy nhiêu lâu anh đã ở đâu.

Sĩ Hoàng vờ như không nghe thấy những lời Thăng nói. Hoàng khẽ lẩm nhẩm những chữ viết trên tường:

« Ba xuân ngắn đoạn trường

Năm tháng cũ còn vương

Mặt quỷ đeo dương diện

Miệng cọp ngoác ễnh ương »

Tồn Thăng lơ mơ những lời Hoàng lẩm nhẩm, chàng ôm chặt lấy chân Sĩ Hoàng mà khóc:

- Anh Hoàng. Tha lỗi cho người em chẳng lớn này. Bao nhiêu giãi bày chỉ mong anh hãy nói với em một lời.

Hoàng túm lấy mái tóc vụn gãy của Thăng, dập đầu Thăng xuống dưới đất. Thuận tay, Hoàng lấy bát đập vào đầu Thăng, bát vỡ vụn. Tên sai nha giật mình nói vọng vào :

- Này tên kia. Chớ có làm điều dại dột. Nếu muốn chết thì để ta đâm cho một kiếm.

Sĩ Hoàng nhìn tay sai nha với ánh mắt hùm cọp, tay sai nha mặt kênh kiệu quay đi, miệng liên tục nhở Tồn Thăng đến lần hơn mấy mươi lần «Nói mau mau, mỗi thời khắc một tắc vàng».

Thăng ôm đầu, máu chảy từ tay Hoàng rơi lăn qua gò má rơi xuống miệng Thăng. Thăng nhấm nhấm đầu lưỡi, bật dậy mở bàn tay đang nắm chặt những mảnh vỡ của Hoàng mà nhiếc mắng:

- Cớ sao anh lại ra như vậy.

- Máu tao đấy. Mày uống đi. Kẻ khát máu kia. Tao không có kẻ anh em như mày.

Thăng giận dữ, đạp gãy song cửa. Đám lính nha môn chạy vào phía trong đao kiếm đủ đầy, xích dây sẵn sàng. Gã Quỷ thu mình, mặt lầm lũi bước ra:

- Xin thứ lỗi. Chỉ vì ta hơi quá chén nên mới ra như vậy. Chăm sóc tốt cho người anh em của ta. Túi bạc đó xin tặng cả cho các anh.

Sĩ Hoàng, lấy tay thoa lên cỏ ướt, từng giọt hồng hằn lên bức vách. Hai chữ Dương Diện đỏ rực, từng giọt chảy xuống chân tường thẫm ướt. Chàng nằm thiếp đi, người chàng ướt sũng mà chàng chẳng hay. Bọn lính nha chẳng dám lại chỗ chàng ngồi, chỉ dám dựng cả đống đá lớn che đi chỗ song cửa vừa gãy. Ánh sáng mập mờ từ cây đèn đang cháy những giọt dầu cuối chốc chốc lại lóe lên rồi phụt tắt. Tiếng gà gáy gọi sáng vang đó đây khắp thành phủ.

Từ tờ mờ sương sớm, Thăng Triều cho gọi hai người do Dương Thanh sai đến. Do Độc dẫn đường, trên đường đi chàng dặn dò Đặng Hoài:

- Vương thứ sử là người hiểu biết rộng, mọi chuyện thật khó mà qua mắt được, thường ngày không ưa việc xu nịnh, xúi bẩy. Xin anh lựa lời mà nói.

Đặng Hoài cẩn thận bước vào trong phủ điện. Có chút lạ lẫm, Đặng Hoài gặng hỏi Do Độc:

- Ta từng nghe xứ Phong Châu rừng vàng, suối bạc, chim muông thú dữ không gì không có. Phủ thứ sử lại chỉ sơ sài một mảnh vải thổ cẩm khoác lên chiếc ghế chẳng phải khắc chạm đến độ tinh xảo điêu luyện. Quả là có chút lạ thường.

- Nói ra xin anh chớ nói quê mùa. Thứ sứ thường ngày giản dị, thích đi thăm thú dân bản miền ngược, thường vỗ về những người mọi rợ các châu cơ mi mà không bắt cống nạp dị thú, kỳ thảo, sản vật quý hiếm trong dân gian. Những thứ các anh thấy ở đây đều rất tầm thường, nhưng đừng vì thế mà đánh giá thứ sử Vương là kẻ tầm thường. Cái phi thường thường không có vẻ bề ngoài khác thường, mà chỉ là bên trong cái có vẻ ngoài tầm thường luôn có nhiều những thứ tạo nên bao điều phi thường.

- Anh nói chuyện như thông lỗ tai, làm cho trí tuệ ta cảm thấy thật không bằng. Mới ở tuổi anh mà có thể khiến Dương tướng quân nể trọng, Vương thứ sử tin cậy. Quả nhiên hiếm có, hiếm có.

Tồn Thăng cười cợt nhả :

- Thường thường, thường. Thông thường thì ta thấy những cái gì thường thường đều rất bình thường, những thứ bình thường thì chỉ là những thứ thường thường mà thôi. Nói ra thật là đau đầu. Ta chỉ thích dùng cái này, cơ bắp và uy lực. Kẻ nào có thể chống lại được ta?

Có giọng nói hưởng ứng lời Gã Quỷ từ phía cửa điện bước vào :

- Quả nhiên sức khỏe vô địch. Ba ngày trước, ta thấy một kẻ sức khỏe vô địch nằm cù queo cho kẻ khác dùng gậy đánh liên hồi mà đứng dậy như chưa hề gì. Đêm qua lại nghe có kẻ mất cả hai chục lượng bạc chỉ để nhận một chiếc bát vỡ đập vào đầu. Có phải danh tiếng Dương Diện hộ sư quân tướng.

Phong thái ung dung, Thăng Triều từ tốn bước vào. Tồn Thăng cười sảng khoái:

- Ra là ngài, Thăng Triều đại nhân. Đã chờ ngài bấy lâu.

Đặng Hoài cúi mình chào họ Vương :

- Nghe danh thứ sử đã lâu. Nay được hạnh ngộ. Quả nhiên khí chất thật đáng để người khác ngưỡng mộ.

- Vị này là…

Do Độc chen lời giới thiệu:

- Vị này là Đặng Hoài, con trai thứ ba của Liễu tá Đặng Khả. Người dữ dằn mang miếng da dê này chính là Dương Diện hộ sư tướng quân gã quỷ Đỗ Tồn Thăng.

- Là Đặng Hoài, danh sĩ lẫy lừng khắp Tống Bình đó sao. Thật không hổ danh, tướng mạo hiền hòa mà lại mang cái uy nghi của kẻ sĩ. Nghe danh Đặng Hoài ngày trước trên điện luận tội đám quan lại cướp bóc của dân, kể tội đám nịnh hót khiến Tượng Cổ phải nghẹn ứ họng. Lại thêm cha ngài là Liễu tá Đăng Khả nổi tiếng trọng nghĩa khí, ưa người tài, từng lời nói ra rắn rỏi như ngàn mũi tên bắn, tiếng vang tựa cả chục chuông rền lan tỏa khắp đất Giao Châu này. Hương nào sánh được tiếng thơm đó, ánh hào quang nào chiếu rọi nổi. Gặp đây thật là vinh hạnh, vinh hạnh. Không thể tiếp đón hậu tình, mong Đặng Hoài huynh đệ thứ lỗi.

- Vương thứ sử mượn lời gió mà lay động rừng cây muôn thú, lại nghe ngài sáng suốt anh minh, thường không nghe chuyện thiên hạ rèm pha. Kẻ ba tấc lưỡi nào đáng bậc tráng kiệt. Người đời dè bỉu cho là kẻ uốn lưỡi bẻ đao. Vương thứ sử chớ nghe.

- Tống Bình phủ phồn hoa đô hội, kẻ tài không thiếu, tâm đức cũng nhiều. Cha con họ Đặng đã khiến bao đấng anh hào đất ấy phải cúi mặt khuất phục. Đăng Hoài đến đất Phong này phải chăng có điều chi dạy bảo. Thăng Triều xin rỏng tai nghe.

- Kẻ nam nhi nào đâu muốn thấy chuyện bất bình ngồi yên. Những lời trách kẻ sĩ hùng chỉ là chút lời mọn như dạy đám con trẻ. Đâu phải điều gì khiến đất trời chuyển rung, thiên hạ vẫy vùng. Làm người ai cũng có tôn chỉ của riêng mỗi người, tôn thờ một hình mẫu trong tâm trí. Đấng nam nhi không thể đứng ngoảnh mặt với chúng dân, với đồng loại, nhất là khi cảnh đói khổ bủa vây, khói lửa binh đao còn chưa dứt. Dương tướng quân vì dân nam, vì đất tổ tông người nam ta mà dấy binh dẹp lũ ác bá. Tâm theo hướng ấy, chủ tướng lúc gian nguy há lại ngồi yên xứ phồn hoa mà hưởng lạc.

- Nghe nói đạo binh mã sáu bảy vạn của triều đình đã chiếm hết một dải đất từ Ung Châu về đến miền xuôi sông Nhị.

- Túc hạ thật chưa thể hiểu ngay. Tống Bình Dương tướng quân đã định bình. Chẳng phải vì những kẻ ăn lộc mâm bạc lại nghiếc nhìn mâm son thì đâu nên nỗi.

- Phải chăng khi trước cùng Thiên thanh tướng, những kẻ ấy có điều gì bất bình, chưa thỏa đáng mà ra như vậy.

- Tâm dạ mỗi người một khác, ta không dám mạn bàn. Chỉ là con người không ưa hoặc đơn giản chỉ là lòng đố kỵ.Thăng Triều khi xưa có điều chi chưa hài lòng tướng chủ?

- Cùng là thứ sử một vùng, Dương Thanh nắm xứ Hoan Diễn, ta mang đất Phong Châu, Lâm Tây nào đâu có lòng khác. Khi đoạt Tống Bình, ngài ấy còn cho ta một hảo tướng như Do Độc. Thật như là chúa sơn lâm được tiếp viện thêm hổ dữ. Đất Phong Châu ta lương chẳng thể như châu Ái, đất rộng chẳng bằng Trường Châu, dân cư thưa thớt, núi cao, vực sâu. Chẳng hay ý Dương tướng quân thế nào.

- Trước nghe danh tiếng Thăng Triều nổi tiếng anh minh, khảng khái, trọng nghĩa khí. Chủ tôi nay đường cùng binh mỏng, lương ít. Mấy nghìn huynh đệ suốt mấy mươi năm chinh chiến cùng nhau từ thời đánh đuổi Hoàn Vương Lâm Ấp, đánh giặc Chà Và, dẹp ác bá nghĩ đến mà chẳng thể dứt ra được. Không mong ngày chiếm lại đất Hoan, Diễn, Mộng Giao Châu đành nhường cho kẻ hùng tâm tráng trí như Thăng Triều. Chủ tướng tôi nguyện mang đám binh tốt theo tập quán Phong châu, vỡ đất hoang cấy cày, dẫn con nước vào thung lũng mà lập xóm làng cũng như là thỏa chí người đứng đầu cả nghìn anh em vậy.

Thăng Triều nghe Đặng Hoài mà tâm can bấn rấn. Họ Vương thấy trong người không khỏe, liền sai Do Độc dẫn vào sảnh phía sau. Đặng Hoài và Tồn Thăng cúi chào lui về quán trọ. Thăng hỏi:

- Chẳng hay ý của người ta thế nào mà lại lui về.

- Sắc mặt của Thăng Triều thật đáng để người khác phải kinh nể. Ta nói nhà ngươi cũng chẳng hiểu nổi.

Hoài vội vã lên ngựa, hướng nam vượt sông về chân núi Tản. Tồn Thăng quay về quán trọ, miệng còn lẩm bẩm:

- Chẳng hay còn chuyện của anh ta. Ta chưa kịp hỏi. Chắc ta phải quay lại hỏi cho ra nhẽ mới được.

Được nửa đường về, Tồn Thăng quyết định quay lại phủ họ Vương. Nghe tiếng vó ngựa, Do Độc vội vàng chạy ra phía ngoài, dắt ngựa tạt vào một hẻm nhỏ. Do Độc thì thầm với Tồn Thăng:

- Canh ba đêm nay, anh quay lại chỗ này. Việc của anh em sẽ lo liệu. Bây giờ anh hãy cứ trở về quán trọ nghỉ ngơi. Đúng hẹn quay lại đây.

Tiếng từ trong phủ vọng ra :

- Phòng Đông đô úy.

Do Độc chạy vội vào phủ, Thăng Triều ngồi nghiêm nghị hỏi Do Độc:

- Khi trước ta nghe nói, nhà ngươi cùng Tồn Thành lập công lớn nhưng lại bị họ Dương kia để mặc cho Triệu Hoằng sàm tấu.

- Bẩm đại nhân. Là khi ấy, việc Tống Bình còn ngổn ngang. Cũng may có Sĩ Giao quân sư bẩm báo lại mà Do Độc được cất quân tới đây phò giúp đại nhân.

- Dương Thanh chẳng phải kẻ tâm can chim sẻ, dã tâm người này chẳng phải tầm thường. Ta chỉ e một điều..

- Nếu ngài lo sợ Dương tướng quân há chăng chỉ là dạng bạo tàn nhu nhược như Tượng Cổ. Lời thật lòng khó nghe mong đại nhân bớt giận.

- Trí lớn của Phương Hoàng thật không thể khinh suất. Nhà ngươi thấy đất dân Man Hoàng thế nào.

- Đất người Man mấy năm trước có lòng u uất với đám quan lại Tống Bình, sau khi Dương tướng quân dẹp bỏ đám quan lại đó, dân chúng xứ đó lấy làm hả hê. Nhưng đất Man Hoàng thường bị người Nam Chiếu nhòm ngó. Hai năm nay Bùi Hành Lập mang quân năm lần bảy lượt đều bị khuất phục. Đất chẳng có nổi lấy sự sống, núi cao hiểm trở, sông suối dòng chảy cuồng xiết, vách đá cheo leo, bệnh dịch triền miên. Lẽ nào…

- Ta hỏi là ý ngươi thế nào. Ta sẽ chuẩn y mà truyền lời đó đến Dương Thanh.

Thăng Triều bước vào phía trong. Lý Do Độc quay trở ra lấy giấy bút mà hiện ý lên giấy. Anh sai người đến phía nam, vượt sông sang chân núi Tản Viên báo lại cho Dương Thanh.

Dương Thanh nhận được thư của Do Độc, mừng rỡ nhận thư. Giở thư ra, Dương Thanh liền đặt ngay xuống bàn. Đăng Hoài ngồi kế bên nhặt thư lên đọc. Hoài thấy Dương Thanh ra phía ngoài trại hướng bờ sông phía tây ánh mắt trĩu nặng u hoài, Đặng hỏi:

- Liệu rằng đây có phải chủ ý của Thăng Triều muốn ta lui về phía Man Hoàng Động.

Họ Dương chỉ thở dài. Đặng Hoài tiếp tục bàn:

- Đất Man Hoàng đất eo hẹp, hiểm trở, dân chúng thưa thớt, quanh năm bệnh dịch triền miên. Phía Tây Bắc là quân Nam Chiếu luôn nhăm nhe hòng mở đường về chiếm Tống Bình. Ta ở đất ấy nào khác chi mang thân làm tấm khiên cho đám quân triều đình Tống Bình. Lại thêm đám tàn quân của họ Bùi nào có thể để chúng ta yên.

- Trước để ổn định tinh thần quân sĩ, sau là kế nuôi binh. Các ngươi cứ thực hiện theo lời ta đã bàn ngày hôm xưa. Đặng Hoài viết cho ta một bức thư cho Thăng Triều, xin tiếp viện thêm khí giới và quân lương cùng hai chục thuyền quân để ta ngược dòng Đà Giang về Man Động lập lũy ấp. Sau này khi binh đủ, sức quân mạnh hơn sẽ hoàn trả lương thảo, khí giới cho Bạch Hạc.

Đặng Hoài vội vàng lấy nghiên bút mà thảo ra những lời Dương Thanh đã dặn dò. Lời Đặng Hoài mềm mỏng lại đanh thép, luận cớ chẳng thể chối từ. Thăng Triều như cởi bớt được những nghi ngại, liền sai tiếp lương, tặng quân giới cho Dương Thanh. Do Độc huy động hơn ba chục thuyền lớn cùng hai trăm tay chèo khỏe mạnh trợ giúp Dương Thanh vượt dòng Đà Giang.

Bóng tối phủ khắp vùng Tản Viên, Hoài cất cử hai người vượt sông dắt theo hai ngựa khỏe, đến cửa phía nam thành Bạch Hạc đứng chờ ở đó. Ánh lửa lập lòe, có người vỗ vai khiến hai tên đó giật mình. Dáng người vạm vỡ, khuôn mặt đeo mặt nạ da dê khiến hai tên lính nhận ra ngay. Hai tên đó liền nghe theo lời Gã Quỷ, vội vàng cùng chàng đưa một người cưỡi ngựa vượt sông.

Tiếng quân lính sục sạo từ trong thành chạy ra, đám lính gác thành bàn bạc xôn xao. Đám sai nha hỏi mấy tên lính canh:

- Các ngươi có một kẻ vạm vỡ cao lớn, trông như quỷ dữ. Một kẻ tàn tạ, miệng ngoác như cóc nhái đi ra ngoài thành hay chăng.

Đám lính canh lắc đầu không biết, tên bổ đầu dẫn mấy tên sai nha chia làm hai đạo hướng đông nam và tây nam mà tìm người. Do Độc phi ngựa dừng trước cổng thành, dặn dò đám lính canh:

- Hễ thấy Kiều Chung Đạt đại nhân đến dò xét, các ngươi cứ thành thật trả lời. Chớ có ấp úng kẻo đầu lìa khỏi cổ. Rõ chưa.

Do Độc chạy về phía phủ thành, dắt ngựa vào hậu viên. Ánh đèn trong Vương phủ còn hắt bóng, Do Độc ghé qua thấy Thăng Triều còn đang thức. Nghe tiếng bước chân, Thăng Triều hỏi Lý:

- Việc phát lương, khí giới cho quân Dương Thanh làm đến đâu rồi.

- Bẩm đại nhân. Ba chục thuyền lớn, hai nghìn thạch lương cùng khí giới cho hai nghìn quân đã đầy đủ mang đến cho Dương tướng quân.

- Có điều chi khiến ngươi chưa thỏa đáng không.

- Dạ bẩm. Giúp Dương tướng quân là Phong Châu bớt đi nhiều hơn những mối lo, cũng là điều đáng nên mừng.

- Tại sao?

- Quân triều đình ở Tống Bình còn đang bị chống cự quyết liệt bởi đám quân của họ Dương tại các châu quận phía nam. Dương tướng quân nghi ngờ những kẻ đó có lòng phản trắc nên cũng không dám tin dùng. Nay bí mật tới đất Phong Châu, hòng nương nhờ chúng ta. Chúng ta vừa có chặn tuyến phía tây bắc, một mặt chúng ta hòa hảo với đám quan quân triều đình. Vẹn cả đôi đường.

- Có khi nào có người biết Dương Thanh ở chỗ ta.

- Người của Dương Thanh sẽ không để chuyện đó xảy ra được. Đám quan cận hầu còn chẳng hay, huống chi những kẻ khác. Dương Thanh không ra mặt, lại dùng đám hầu cận những kẻ xưa nay ngoài người ở Tống Bình thì không ai hay biết những kẻ ấy.

- Đám người Triệu Cường, Đặng Hoài, Đỗ Tồn Thăng, chẳng phải tiếng tăm khắp vùng hay sao.

- Những người đó tiếng vang nhưng dân chúng ngoài phủ Tống Bình thì nào ai biết mặt. Giờ đây những người đó càng phải tự biết giấu đi thân phận của mình tránh sự rèm pha. Ngày mai, mạt tướng sẽ đến bảy động người man mà truyền lại ý của Đại nhân. Xin đại nhân hãy cứ yên tâm.

- Có Do Độc hiểu được tâm ý ta. Nào có điều gì có thể mừng hơn. Khuya rồi, nhà ngươi hãy lui về nghỉ ngơi.

Do Độc bước lui ra, dắt ngựa thẳng hướng tây nam dưới ánh trăng lấp sau mây mờ. Tiếng cửa phủ cọt kẹt đóng lại, Thăng Triều buông rèm nằm chống tay cầm sách đọc. Tiếng gõ cửa khiến Thăng Triều tỉnh cơn buồn ngủ. Thăng Triều chỉnh chang lại áo quần, ngồi cầm sách tựa lưng gối tre, từ tốn hỏi:

- Chung Đạt, đếm khuya nhà ngươi còn chưa ngủ?

- Bẩm đại nhân. Toán bổ đầu báo tên Lục Hổ bị nhốt tại Nhà lao phía nam được thả ra. Phải chăng là ý lệnh của đại nhân.

- Kẻ nào to gan dám giả truyền lệnh ta cho thả hắn. Gọi Toán Hoa Tài đến đây ngay.

Hoa Tài nhận lệnh vội vàng chạy đến, quỳ sụp dưới điện. Chung Đạt hỏi lại Tài:

- Toán Bổ đầu kể lại chuyện khi tối cho Vương Đại nhân nghe.

- Lúc tối canh ba, Lý tướng quân cầm theo lệnh bài ra ý dụ của Thứ sử Đại nhân cho dẫn giải tên cướp Lục Hổ đày đến Man Hoàng động.

- Lý tướng quân khi ấy đi hướng nào.

- Là… là phía Đông.

Thăng Triều ném cuốn sách đang cầm trên tay xuống mặt đất quát tháo Hoa Tài:

- Nhà ngươi là bổ đầu mà trí óc như giống lợn. Đất Man Hoàng ở phía tây, há chăng Lý Do Độc lại dẫn hắn đi về hướng Đông. Phải chăng các người cùng một ruộc bầy mưu lừa ta. Nhà ngươi thấy Do Độc đi cùng mấy người về phía đó.

- Dạ. Có hai tên lính, đi đến đoạn gần quán trọ phía đông thành có thêm một người cao lớn, mặt mũi kín mít đứng ở góc phố phía đông. Sau đó thì Chung Hội đại nhân đi đến cửa nhà lao hỏi han thì tiểu nhân không còn để ý được nữa.

- Cho nhà ngươi lui ra. Sáng mai viết cáo trình cho ta. Phạt nhà ngươi hai mươi trượng, xung khố hai chục hộc gạo, nộp cho quân lương năm lượng bạc. Tạm thời treo chức bổ đầu của ngươi trong mười ngày cho đến khi sự việc được giải quyết.

Hoa Tài hậm hực đi ra. Do Độc được gọi đến đứng ngoài chỉ trực tiếng mở cửa mà bước vào. Chung Đạt thì thầm nhỏ to với Thăng Triều. Họ Vương hỏi Độc:

- Nhà ngươi lớn mật. Dám giả ý dụ ta thả tội phạm triều đình. Ta tin tưởng nhà ngươi hết mực. Nhà ngươi lại lợi dụng lòng tin của ta mà tự ý làm điều có hại cho chúng dân. Nhà ngươi còn lời nào giải thích hay chăng.

- Mạt tướng không dám. Mong đại nhân minh xét. Chớ nghe lời sàm tấu.

- Ý ngươi là ta vu khống cho ngươi.

- Tiểu nhân không có ý đó. Chỉ là có chút hiểu nhầm. Tại hạ nghe lệnh đại nhân tuyển mộ thêm lính tráng đi đất Man Hoàng tăng viện. Tại hạ xét thấy số tù nhân cũng có thể chiêu mộ để xung quân.

- Nhà ngươi biết tên Lục Hổ họ Đỗ đó phạm tội gì mà không tra xét phân minh? Làm ra điều tày trời.

- Tại hạ đã đọc qua án tội của hắn, chỉ hắn là tên cướp không ghi gì thêm. Án có ghi hắn là người mạnh khỏe, có võ lực nên tại hạ cho xung quân.

- Ngươi gây ra tội lớn rồi, Do Độc à. Y là tội phạm triều đình, trước bị Dương Thanh lùng sục bắt giết, sau đi cướp phá quân triều đình ở Cổ Loa. Nay nhà ngươi lại cho hắn xung quân của ta. Khác chi ta phủi vào mặt đám quan Tống Bình.

- Long Trạch cũng là cướp, là huynh đệ của hắn, cũng được Trọng Vũ tin dùng. Theo ngu ý tại hạ, cứ để kẻ này dưới trướng quân ta. Sau này ắt có lúc dùng đến hắn.

- Nhà ngươi. Thật là… Bay đâu. Tước bỏ mũ áo Lý Do Độc, giáng làm tham quân. Nhà ngươi nhận đám lính mới tuyển mộ về phía tây đất Lâm Tây, đến xứ Man Hoàng đóng tại đó, nếu có bất trắc thì nhà ngươi đừng mong thoát tội chết. Từ nay trở đi, không có lệnh điều động của ta thì chớ có vác mặt về thành Bạch Hạc.

Chung Đạt nói với Thăng Triều:

- Do Độc là ngựa bất kham, nghĩa khí ngời ngời, dũng mãnh uy vang nhưng hắn ưa những lời dụ ngọt. Đại nhân xin bớt cơn giận mà nghĩ lại.

- Ý ta đã quyết. Chẳng phải nhà ngươi thường ngày vẫn không ưa hắn hay sao. Đã tàn canh, ngươi còn không mau về phủ.

Do Độc cởi bỏ mũ giáp, ném thanh gươm xuống đất, hiên ngang bước đi. Vương Thăng Triều mặt thất thần nhìn theo bóng dáng chàng. Tiếng ngựa xa dần phía tây nam. Mưa phùn giăng lối phủ trắng màn đêm, tiếng mõ báo canh cũng lanh lảnh vang lên bốn hồi. Có ánh lửa bập bùng rồi phụt tắt phía nam, Thăng Triều thở dài rồi nhậm một tách trà, tay run run đổ cả ấm chuyên xuống sàn. Vị thứ sử ngã xuống, mắt nhắm nghiền mặc cho ngoài kia gió mưa cào xé.

Tiếng vó ngựa xé tan màn đêm ẩm ướt, có chiếc đò cạnh bến sông, Do Độc ngậm chiếc lá huýt vang. Có người trên đò dạt sát bờ nơi Do Dộc đứng chờ. Tiếng người ầm ầm như thác đổ vọng lại:

- Người anh em Do Độc. Đêm mưa phùn gió bấc lạnh, sao anh lại không manh giáp đứng bên sông.

- Là anh sao, Lão Quỷ. Anh còn chưa đưa anh Sĩ Hoàng hội kiến Dương tướng quân.

Gã Quỷ cười, giọng dí dủm:

- Dương Thanh đã cùng đám người kia bàn bạc xong chuyện từ khi nãy. Dương Thanh sai ta ở lại đón em. Đến đất Man Hoàng, chúng ta lại được bên nhau, dưỡng kế nuôi binh chờ ngày gây dựng nghiệp lớn.

Gã Quỷ đẩy nhanh mái chèo, bì bõm lênh đênh giữa dòng. Có đốm lửa sáng le lói xa xa phía tây. Do Độc giữ chắc tay chống, đò lướt nhanh lội ngược dòng lũ đầu mùa. Chốc chốc lại có chú cá nhỏ lấp lánh tung mình ngược nước nhảy trúng khoang đò. Ánh sáng buổi bình minh hắt xuống mặt sông, bóng người lái đò hiện lên lấp ló như bức họa kỳ ảo giữa muôn trùng núi sông kì vỹ xứ Lâm Tây.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng
Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ sáu:

Thành Đại La, Lý Nguyên Gia lo ốm.

Đất Đằng Châu, Tồn Thành đấu anh tài.

Hồi thứ sáu:

Thành Đại La, Lý Nguyên Gia lo ốm.

Đất Đằng Châu, Tồn Thành đấu anh tài.

Năm tân sửu, cuối tháng năm, mưa rào suốt tháng, nước sông miền tây bắc lên cao dữ dội đổ về đất đồng bằng đông nam. Đám quân lính triều đình viễn trinh đóng tại đất Châu Nam Tà, huyện Bình Đạo bị nước lũ cuốn trôi chết vô số. Thành huyện Long Biên bị ngập nước, xác gà, xác lợn nổi lềnh phềnh, bốc mùi hôi thối khắp ngóc ngách trong thành. Trọng Vũ gọi đám tả hữu đến trị sở mà bàn. Viên đô ngu hầu An Nam Vương Thừa Biện mách kế phá vỡ đập nước dưới hạ lưu sông Nhị, sông Thiên Đức để giãn nước thượng lưu cùng là kế ngăn cản đám quân lính của Dương Chí Liệt đang đóng tại đất Chu Diên.

Tháng sáu, ngày mồng hai, nước triều đã rút, Trọng Vũ sai quân lính dọc đê sông Nhị đất Chu Diên phá vỡ đê sông. Chẳng hay tin báo từ trước, dân chúng Chu Diên các dọc vùng con nước sông Nhị mất nhà cửa, bò trâu, ruồng lúa, của cải rất nhiều. Phía Đông là đất trấn Hải Môn, đất cây trồng cây vải úng rể hết loạt, đám dân cũng bỏ đất đó đi sơ lánh thật đến cả nghìn hộ.

Phía nam An Nam trị sở Tống Bình, dọc theo đôi bờ sông Nhị hai bên đất đai bẳng phẳng, ao chuông vũng hồ nhiều vô kể. Từ khi quân lính Trọng Vũ chiếm giữ trị sở An Nam, người dân quanh vùng đất phía nam bỏ đất ấy mà đi. Bạt ngàn ruộng lúa nay trở thành những đầm nước mênh mông.

Huyện lệnh Tống Bình là Từ Hãn Xương dâng biểu xin khất thuế ba vụ liên tiếp. Quân lính vì thế cũng bị thuyên giảm đi đến phân nửa. Những người còn lại trong quân cũng ngày đói bữa no, gia đình tha phương khắp chốn.

Tháng sáu, ngày rằm, nước thượng du bớt hung dữ, quân lính của Trọng Vũ bị quân của Chí Liệt đánh bại, thành Liên Thụ huyện Nam Định bị thất thủ. Đám lính bỏ chạy đến năm nghìn. Long Trạch giữ đất Long Biên cầu viện binh lương từ họ Quế. Thôi Kết bàn quân lương hai vụ rồi các huyện nộp chưa được một phần, hai phần xin khất. Các châu quận phía nam bị chia cắt, quân tiếp tế bị Bùi Hành Lập cho phát đi chậm trễ, khiến kho lương ngày càng cạn kiệt. Quế ra ý lệnh vượt sông Nhị cấp cho Long Trạch hai nghìn đấu gạo. Lệnh cho hai ngày sau chiếm lại đất huyện Nam Định, cướp lương thảo quân Dương.

Quân lương vừa qua nửa sông Nhị có đám cướp mặt mày hung tợn chèo thuyền nhỏ ra giữa sông chặn cướp. Đám quân chở lương nhảy xuống sông bỏ lại thuyền hết loạt. Đám cướp nhảy lên thuyền chở lương chọc ra thì thấy toàn là cỏ héo cùng đất mềm. Có báo động từ phía sông, Vương Thừa Biện giăng thuyền lớn bắt sạch lũ cướp. Chỉ có một chiếc thuyền nhỏ thoăn thoắt chạy xuôi dòng thoát được.

Một đội thuyền khác chất đầy bao tải lớn nhỏ chồng chất được Thôi Kết cùng hai tên Giả Không, Giả Thanh hộ tống cập bờ an toàn. Long Trạch lấy làm mừng, kêu gọi sĩ khí quân lính. Lính thủ thành được cấp một phần lương, lính tiên phong được cấp một phần cùng nửa suất. Được ăn uống no đủ sau nhiều ngày lương thiếu, Long Trạch dẫn tám nghìn quân áp sát thành Liên Thụ liên tục hò reo, trống chiêng, quát mắng. Tướng giữ thành quân Sĩ Giao là Trần Hoằng nghênh chiến, đánh được chục hiệp thì bị Long Trạch chém đứt đôi người. Đám lính trong thành hoảng hồn bỏ thành mà chạy.

Tồn Thành nghe tin Liên Thụ bị thúc thủ, mang viện quân hòng đòi lại thành trì thì bị đám quân của Thôi Kết vượt sông, kéo hết loạt lính thủ thành Long Biên đánh úp từ phía sau. Tồn Thành cho rút quân, đốt sạch kho lương tiền tiêu huyện Nam Định. Long Trạch giận dữ không trở về Long Biên mà cho quân đóng tại thành Liên Thụ, cho quân lính vào núi săn bắt, sai phụ nữ trong thành vào rừng hái quả. Thú dữ đất xung quanh bị bỏ đói từ lâu thấy người lên núi, vào rừng nhảy ra ăn thịt đến mấy chục mạng người. Long Trạch đành phải dày mặt xin tiếp lương thảo từ Tống Bình.

Quế Trọng Vũ nghe tin mặt mày tím tái quát tháo đám cận hầu :

- Cả vùng đồng bằng rộng lớn mà các ngươi không tìm nổi mấy nghìn thạch lương hay sao.

Thôi Kết bẩm lại:

- Thiên tai quái ác, đám dân cũng sợ hãi bỏ trốn hết loạt. Chi bằng ngài cho gọi tiếp viện từ triều đình.

Trọng Vũ nghĩ hồi lâu, Thừa Biện thêm lời:

- Bùi Hành Lập đóng quân tại đất Ung Châu được triều đình vun vén để dẹp đám Man Hoàng, nay hắn được lệnh giữ chặt Ung Châu, quân lính chưa dùng đến, quân lương lại đầy ắp. Ý của Thôi Kết tướng quân đại nhân có thể xem xét.

Ngày sau, Trọng Vũ cho người xin cầu viện từ phía quân triều đình. Hành Lập nhận được thư cười hả hê. Lập trả lời Trọng Vũ lương thảo còn thiếu, quân lính mấy vạn không thể đủ dùng trong nửa tháng, phải xin ý dụ từ triều đình.

Họ Bùi sai người xin ý dụ triều đình, trong bản tấu có kể tội Trọng Vũ chậm chạp tiến quân, hạ trại vùng quan ải quá lâu khiến quân tình rơi vào thế nguy cấp. Đường Mục Tông Lý Hằng ra chỉ cho gọi Quế Trọng Vũ cùng Thôi Kết về đất Ung Châu.

Thôi Kết nhận ý chỉ dẫn hai vạn binh mã cùng khí giới rút về Ung Châu. Bùi Hành Lập sai Kết trấn thủ Ung Châu, hễ có chuyện binh biến mà không xử trí hạnh thông thì còn nước đầu lìa khỏi cổ.

Hành Lập dẫn binh đi đến Trấn Hải Môn thì mắc phải bệnh lạ, người sưng mọng nhiều bọc nước. Mặt mũi lốm đốm như tổ ong, đám hầu cận gọi lang vùng đó đến ai cũng lắc đầu nhận tội xin chịu. Lúc hấp hối, nằm trên đống lá cây rừng, ngửi thấy mùi táo thơm hắn sai người hái lấy một quả. Phế tướng Hạ Hầu Biện t.ư quát lính:

- Đại nhân sắp không qua khỏi, ăn sao được thứ đấy. Còn không toan nghĩ hậu sự.

Một tuần sau, họ Bùi chết. Gia quyến đưa xác về giữa đường bị đám lính tay sai của Trọng Vũ dẫn đến hố nước sâu hoang vắng, đàn bà bị cưỡng hiếp đánh đập cho đến chết. Chúng ra tay chém giết ba mươi mấy mạng người. Xác rữa nhiều bọ trùng thì mới có người phát hiện ra, đem lấp hố đấy đi.

Lúc bấy giờ triều đình Trường An phong phó đô hộ Thôi Kết làm Kinh lược sứ Ung Châu, nắm quyền châu Ung. Trọng Vũ viết tấu sớ gửi triều đình, kể hết công tội Bùi Hành Lập cùng đám quân Ung Châu. Mục Tông đọc bản tấu sớ mà cả giận lệnh bắt hết gia quyến Hành Lập xử tội chết, lại cho Trọng Vũ điều quân đội Giao Châu thu về sát đất Ung Châu đề phòng người man đất Vân Nam mưu đồ nhăm nhe đất Ung Châu.

Thôi Kết nắm đất Ung Châu mà lòng nóng như lửa đốt, quân đội vừa kinh qua trân đánh mệt mỏi với người Man, người nam Chiếu vẫn còn lỏng lẻo. Với trọng trách tái lập quyền hành của Đường triều với lũ man di đất đó, Thôi Kết cho bắt bớ trong dân chúng nhiều người khi trước gây loạn ở Ung Châu. Đám dân thấy vậy mà rời bỏ đất Ung Châu đi đến phân nửa. Bọn quan lại thấy Kết là kẻ không biết trước sau, ai lấy đều không phục. Đám cận hầu của Kết khuyên Kết bỏ quyền binh Ung Châu mà dâng tấu đề bạt Trọng Vũ. Biết được tâm ý của đám quan lại đất Ung Châu, Kết đành cho gia quyến chạy về Ích Châu, thân ở lại đất Ung nắm quyền binh được hai tháng.

Trọng Vũ liên hồi thắng các trận đánh lớn vùng giáp ranh giữa An Nam và Nam Chiếu. Đám quân lính các châu quận phía nam nhiều lần đánh phá Tống Bình đều bị đám tay sai của Trọng Vũ đứng đầu viên đô ngu hầu Vương Thừa Biện đánh bại. Sau nhiều lần bị thất bại trong các cuộc tấn công vào đất bị người Nam Chiếu chiếm, Thôi Kết được quân Nam Chiếu gửi thư chiêu hàng, rồi phao tin khắp đất Ung. Thôi Kết thấy tình thế nguy bách đành phải dâng sớ với triều đình nhường lại binh quyền đất Ung cho Quế Trọng Vũ. Triều đình nghe lời kết mà thuận ý phong Quế Trọng Vũ làm Kinh lược sứ Ung Châu. Ung Châu từ bấy bớt loạn.

Thôi Kết lại được Trọng Vũ tin cậy làm phó sứ cho Vũ, Thừa Biện được dâng sớ phong làm đô hộ sứ đất An Nam. Chỉ trong vòng ba tháng, Thừa Biện bị đám võ tướng trị sở Tống Bình khinh kỵ cho là kẻ nho sĩ kém hèn nhiều lần chống lệnh không tuân, bèn dâng sớ tâu với triều đình cho người khác lên thay. Trong lúc đám võ quan Tống Bình còn đang tranh giành những lợi ích cá nhân, triều đình cất cử một người họ Lý tên là Nguyên Hỷ làm An Nam đô hộ sứ.

Nguyên Hỷ trước theo Điền Bố nổi loạn, sau Bố bị bắt giết. Hỷ được người họ hàng Phùng Cát là cận thần của Mục Tông nhận làm giám quân, nhờ bắt giết được tướng của phản quân Lý Nguyện mà được triều đình phong chức. Bọn người của Trương Bình Thúc biết được Nguyên Hỷ ngày trước theo giặc mà tấu với Mục Tông. Mục Tông nể mặt Lý Phùng Cát mà không giáng chức Hỷ. Phùng Cát nghe tin An Nam đô hộ sứ là họ hàng với Vương Thừa Tông tên là Biện không được lòng dân xứ nam mà xin với Vua cho Nguyên Hỷ về đất ấy.

Vừa mới nhậm chức, Nguyên Hỷ thấy La Thành ba phía là sông nước chỉ có phía nam lại là đất bằng phẳng nhìn về châu thổ đang bị người nam nắm giữ liền sai người chuyển lỵ sở về thành Long Biên. Long Trạch bấy giờ giữ đất Long Biên không thuận ý Hỷ, cho quân lính đóng ở ngoài thành. Nguyên Hỷ thấy vậy cho gọi Trạch đến hỏi:

- Nhà ngươi cớ chi mà lại cho lính đóng quân phía ngoài thành. Phải chăng có ý phản nghịch.

Trạch mặt rắn mặt đáp:

- Trước giờ các quan đô hộ đều lấy La Thành làm trị sở. Há chăng ngài là lũ chuột mà phải sợ đám người nam. Ta mang lính ra ngoài là trước là để trị sở rộng rãi, sau là để cho ngài thấy lũ giặc người nam đó chẳng kinh hãi như ngài nghĩ.

Hỷ không nghe, lệnh cho quân lính vào thành. Ngoài thành chỉ có hai nghìn lính do Long Trạch nắm giữ. Trong ba đêm, đám lính người nam họ Dương, họ Đỗ tập kích từ phía nam đều bị Long Trạch chặn đánh mà không hao tổn một binh mã. Bấy giờ Hỷ mới chịu trở về La Thành.

Trở về La Thành, Lý Nguyên Gia liền sai đám võ tướng Giả Thường, Giả Thanh, Giả Không mang lính ra phía nam thành đóng quân chặn dọc theo dòng sông nhỏ. Giả Thường bàn với Hỷ:

- Huyện lệnh Tống Bình Từ Hãn Xương nắm đám lính chinh chiến mấy năm nay với đám người phía nam đồng bằng. Chi bằng tăng thêm binh lương để Hãn Xương đánh giặc giải quyết dứt điểm mối lo trong lòng đại nhân. Cũng nhân đây ngài ra hiệu triệu các châu phía nam hội quân về Giao Châu đánh giặc để xem lòng dạ bọn chúng thế nào. Kẻ nào không tuân dùng võ lực mà uy trấn. Từ Trọng Vũ, Thôi Kết, Thừa Biện đều nhát như thỏ đế mà không dám thi hành điều đó khiến đám người đó càng thêm kiêu ngạo, không coi đô hộ sứ ra gì.

Nguyên Hỷ nghĩ rằng Long Trạch hữu dũng giết giặc dễ như trở bàn tay nhưng trong lòng không yên. E sợ đám người Tống Bình làm loạn như thời Tượng Cổ, họ Lý liền điều động binh mã từ các huyện Thái Bình, Bình Đạo, Châu Nam Tà, Vũ Lục Châu, đóng quân trải dọc từ hữu ngạn sông Nhị đoạn tiếp giáp với Ngọc Đường trang đến đất phía nam thành Đỗ Động. Phía tả ngạn sông Hồng, Nguyên Hỷ điều động Long Trạch làm tiên phong tướng, sai Binh mã sứ bấy giờ là Triệu Cam, cháu trai của Triệu Hoằng làm đốc quân đánh vào các đồn ấp của nghĩa quân người nam phía đông sông Nhị. Tin tức báo về quân Dương Đỗ phía nam Tống Bình liên tiếp đánh phá trại quân, thành ấp khiến họ Lý càng thêm lo lắng.

Nguyên Hỷ gọi đám cận hầu đến bàn việc, mỗi người một ý càng làm cho Hỷ bấn loạn. Hỷ tiếp tục gọi các tướng từ các châu Ung, Lục Châu, Bình Nguyên mang quân lính, lương thảo tiếp tế cho phía nam. Hơn một tháng trời, Hỷ hao tổn sinh khí, đêm nằm không yên giấc, ngày gù gà gù gật, chỉ nghe tiếng quân lính bộ hành phía ngoài thành cũng đủ khiến cho Hỷ giật mình. Cứ mỗi lần như vậy, Hỷ lại lấy tay sờ tai, sờ trán, giữ chắc chiếc mũ còn đội trên đầu mà thầm bụng « Đầu ta còn chưa rơi ». Đêm xuống, Hỷ cho hơn năm mươi lính thay nhau canh gác nghiêm ngặt phía ngoài phủ đô hộ đề phòng biến sự.

Có tin quân báo từ các đất huyện Nam Định, Chu Diên, Vũ Bình thắng trận trước nghĩa quân người nam, Hỷ lại vội vàng cho mang vàng bạc, lương thảo tặng ngay cho đám tướng sĩ để khích lòng quân sĩ. Khi thua trận, Hỷ chỉ sai người cho gọi các tướng về phủ vỗ về, an ủi. Viên Liễu tá họ Chu thấy vậy liền can :

- Đô hộ sứ chớ có như vậy. Tướng sĩ ngoài chiến trường phải thể hiện được cái quy của kẻ làm chủ tướng, không vì một trận thắng mà kiêu, bại một trận nản lòng. Nếu quân sĩ thắng trận ngài cho đám quân sĩ nhiều vàng bạc của cải. Sau này khi quân khố, kho lương sút giảm, không có thưởng cho bọn ấy khiến chúng tự kiêu cho là thưởng phạt không phân minh, lòng không muốn đánh tiếp ấy là điều họa thứ nhất. Mà khi thua trận ngài không những không xử theo quân pháp nghiêm minh, lại bao che cho bọn ấy, đó là cái kỵ lớn của kẻ cầm quân, là điều họa thứ hai. Đám tướng sĩ khi thắng thì thưởng, thua trận không bị nghiêm trị, những kẻ làm tướng ngoài xa thấy đó mà lơ là cảnh giác, đánh thắng được vài trận lại bỏ bê trách nhiệm khi chúng cảm thấy đã no đủ. Sau này ngựa quen đường cũ ắt gây họa lớn. Mong đại nhân minh xét.

Hỷ nghe lọt tai, sai người giữ lại vàng bạc, lương thực, sau này cứ mỗi tháng xét công tội mà ban thưởng. Sau ba tháng, nửa năm thì họp lại đám quân tướng để bình phẩm công lao, sau đó mới đưa ra những chủ trương, chiến lược mới cho phù hợp với thực tiễn quân tình.

Bớt lo lắng với đám sĩ tướng Tống Bình, mối lo của Hỷ lại dồn về các châu quận phía nam, vùng đất phía tây Tống Bình. Nguyên Hỷ cho người gửi thư lệnh thứ sử các châu Trường, Ái viện quân từ phía nam, các đạo quân từ các châu phía tây.

Thứ sử Trường Châu Đỗ Cảnh Tung nhận được tin báo liền dâng tám nghìn binh mã cùng hai mươi chiến thuyền điều đến cửa Đại An hô hào, lại cho người của Nguyên Hỷ tận mắt trông thấy uy dũng quân sĩ Trường Châu. Tên tay sai họ Liễu trở về báo cho Nguyên Hỷ, Nguyên Hỷ lấy làm mừng liền phong thêm đất Võ An châu cho Bính.

Thứ sử Võ An châu là Trần Hưng nghe vậy điều năm nghìn quân ra cửa Ba Lạt hướng thẳng Trường Châu toan đánh người em họ Đỗ Cảnh Tung. Bấy giờ có người nói với Nguyên Hỷ, Hỷ lệnh cho Hưng trở về đất Gia Viễn đánh úp nghĩa quân người nam từ phía sau, phong thêm đất Chu Diên, Yên Hưng, Lục Châu. Bấy giờ Hưng mới yên.

Đoàn Uyển nắm Ái Châu nhận lệnh hiệu triệu của họ Lý, lòng dạ lo lắng vội gọi các quan đến bàn. Lê Khoan bấy giờ là huyện lệnh huyện An Thuận chạy ngựa đến phủ thành bàn với Uyển:

- Tồn Thành hai năm nay nắm binh lính ngoài xa, không chịu nghe lệnh thứ sử. Nay lại biết hắn cùng Chí Liệt đánh Giao Châu mãi không thể thắng. Nay Tống Bình có lời hiệu triệu thứ sử các châu xem ra là để thử lòng vậy. Nếu ta tiếp tục để Tồn Thành nắm binh bên ngoài như vậy, Đỗ Cảnh Tung đã thuận theo ý Nguyên Hỷ mà soạn binh mã e rằng Ái Châu sẽ nguy mất. Lại thêm các Châu Hoan, Ái, Phúc Lộc, đất Hoành Sơn sau khi Dương Thanh mất Giao Châu không lúc nào không loạn. Chi bằng triệu hồi binh mã, một mặt để tỏ lòng với Nguyên Gia, mặt khác là để tránh hậu họa từ Tồn Thành.

- Nhà ngươi biết rõ lòng dạ của Đỗ tướng quân rồi. Hắn sao có thể bỏ tên Sĩ Giao mà đi cho được. Nhà ngươi có kế gì hay chăng.

- Chẳng phải gia quyến hắn còn ở Ái Châu hay sao.

- Ý nhà ngươi là…

- Chính vậy. Thà để dao trong bếp còn hơn là treo phía ngoài cho kẻ khác kè vào cổ ta.

Lúc bấy giờ, ở đất Hiến, Đỗ Tồn Thành cùng Chí Liệt nhiều lần đánh quân triều đình ở Tống Bình, thắng thua nhiều vô kể. Sĩ Giao bàn với hai người:

- Phủ đô hộ từ lúc tướng chủ bị kẻ dưới hãm hại đến giờ cũng đã ba lần thay sứ. Chúng ta kinh qua hết nạn đói, lũ lụt, dịch cúm, dịch tả… cũng hơn hai mùa giá rét. Bấy lâu khiến dân tình đói khổ, lầm than. Nay có viên đô hộ mới, muốn thử lòng đám châu mục, thứ sử mà sai bọn người đó điều binh để dẹp sạch cái gai trong mắt Tống Bình. Đất châu thổ nhỏ hẹp, lại không có thành trì kiên cố. Đám người Hoan Diễn theo ta nay cũng bỏ chúng ta chạy về đất phía nam mưu lợi cá nhân. Bốn phía nay đã theo lệnh của quân Triều đình, không những không giúp chúng ta mà có kẻ đã bắt đầu tấn công lại. Nay có ý xin thiếu chủ rút quân về phía tây. Ta sẽ dọc theo dòng sông Đáy chiếm đất huyện Vũ Bình, đoạt thành Đỗ Động, còn hơn một vạn quân đóng trại từ đấy về đến núi Tản Viên.

Chí Liệt như bừng tỉnh trong cơ mê muội:

- Quả là cao kiến. Dạo gần đây ta có nghe nói đất huyện Vũ Bình đám người Liêu Gia Trang quay lại đất đó tìm giết tên tướng giữ thành là Thi Nguyên để báo thù.

Tồn Thành cũng hưởng ứng:

- Đúng vậy. Chúng ta không có nhiều thành trì kiên cố, dẫu có muôn vạn quân thì cũng rất dễ bị tổn thương. Chỉ có điều đất châu thổ phì nhiêu, ta bỏ đất ấy đi thì cũng hơi uổng phí vậy.

Sĩ Giao cắt lời:

- Tồn Thành chớ lo nghĩ. Đất châu thổ đã mấy mùa nước lên dân chúng cũng đã di tản. Dấu chân ngựa của đám quân triều đình đi đến đâu là đất đó chẳng lấy một bóng người. Phía nam Tống Bình, đất bỏ hoang đã lâu. Lại thêm đất Vũ Bình tiếp giáp đất Phong Châu, Đường Lâm cùng các châu cơ mi lớn nhỏ vốn chẳng ràng buộc nhiều bởi chính quyền Tống Bình. Thành trì dọc theo Đà Giang xuôi đến đất Phong châu đều dễ thủ khó công. Phía đông đất đó là khoảng đất màu mỡ mà đám quan lại Tống Bình thường không hay để ý đến. Ta mang nhân nghĩa tới đất ấy, ắt sẽ được lợi nhiều hơn là hại vậy.

Nhìn vẻ mặt Tồn Thành còn phân vân, Chí Liệt vỗ vai chắc nịch:

- Nếu Tồn Thành còn e ngại về đám binh lính Ái Châu của chú thì sau khi lấy được Đỗ Động chú hãy mang hết lính Ái Châu giao lại cho Đoàn Uyển. Đất Ái Châu trước là do họ Đỗ nắm quyền, Uyển kia bất trung, bất nghĩa, bất hiếu trắng trợn mà cướp. Há lẽ người họ Đỗ như chú lại chịu nhục về dưới trướng hắn.

Sĩ Giao nhìn vẻ mặt Tồn Thành tỏ ra giận dữ, liền kéo tay Tồn Thành ra phía ngoài. Sĩ Giao lôi từng ngón tay đang còn nắm chặt chuôi kiếm. Hơi ấm từ bàn tay Sĩ Giao khiến vẻ mặt Tồn Thành bớt nhăn nhó. Bấy giờ Sĩ Giao mới ghé tai:

- Kẻ sĩ hùng chớ có vì nóng giận mà hỏng hết mọi chuyện. Biết nhẫn nhục mới là người hay. Chú hãy nghe ta làm theo như ý chí chú mách bảo.

Đêm đó, Tồn Thành tự mình cầm hai nghìn quân Ái Châu tập kích quân triều đình đóng tại phía tây bắc huyện Chu Diên, đốt trại lính quân Đường. Tướng quân Đường là Triệu Cam đón quân của Tồn Thành từ phía bờ sông đánh tan, lính Ái Châu chết hơn một nghìn người. Chạy đến đầm Dạ Trạch, có thần miếu Tồn Thành chạy tới đó mà ẩn mình. Triệu Cam thúc quân mã đuổi theo đến bờ sông Nhị thấy có đôi vợ chồng mặt mày khôi ngô, giọng nói thuần khiết. Cam hỏi:

- Giặc đánh quân ta có chạy qua đây. Hai người có trông thấy chúng hay chăng?

Người vợ đáp lời:

- Tướng quân hãy đi về phía đông, nếu thấy con nước, kẻ địch ắt ở chỗ đó. Cứ rong trống lên thì kẻ địch tự chạy ra. Tướng quân cho quân cởi bỏ mũ giáp, lấy hai mươi lính dùng lá cây chuối mặc lên người khi đó địch tự nộp mạng mình dâng cho tướng quân.

Cam theo lời người con gái kia nói. Đi về phía đông cách sông Nhị chừng năm chục thước, có tên lính thụt người xuống hố sâu. Bọn lính kêu la om sòm. Một tay đốc mã chạy đến bẩm lại với Cam:

- Đúng như lời ả ta nói. Phía này có con nước.

Triệu Cam bước lần từng bước dò dẫm. Hắn lấy kiếm khua khua đám bèo tấm, có con cá vảy sáng rực nổi lên. Cho là điềm lành, hắn ngoái lại nhìn hai vợ chồng còn đang đứng ở gần miếu cạnh sông. Cô vợ gật đầu ra ám hiệu cho Triệu. Cam xuống ngựa tay chạm vào chú cả, một luồng sáng phát ra từ phía bàn tay khiến Triệu Cam co giật. Phó tướng của Cam là Lã Thầm liền lấy dao ngắn đâm chết cá, ném xuống đầm nước, đám bèo bỗng nhiên tản ra, dòng nước trong vắt, đầm đìa mưa phùn trên mặt. Lã Thầm cho lính khua trống thì đám bèo lại dày trở lại, có bóng người cùng ánh sáng le lói hắt ra từ phía bên bờ đông của đầm.

Đầm nước rộng mênh mông, không biết cách nào để qua bờ đó cho nhanh. Lã Thầm bàn với Cam cho quân chặt chuối lấy mũi giáo đóng thành bè. Trong hai khắc, cả chục chiếc bè được đóng xong. Phía bên kia bóng người bên đó vẫn luẩn quẩn dường như không tìm thấy lối ra. Triệu Cam tiếp tục cho người đánh chiêng trống uỳnh oang. Những bẹ lá chuối được cắt thành những trang phục kỳ quái quấn lên người đám lính triều đình. Cam sai hai mươi lính mặc cùng nhảy lên bè vội vã chống chèo qua bên kia đầm nước.

Tới nơi, có một kẻ đứng bên bở nhảy ra. Đám lính kinh hãi, người đó liền trầm mình xuống đầm nước. Chỉ trong chốc lát các bè chuối tự tách nhau ra. Bọn lính cố gắng dùng sức để ghép lại những cây chuối mà không sao giữ được. Trời bỗng nhiên gió lớn, ánh đèn từ phía bờ đông phụt tắt. Ánh lửa từ những cây đuốc lớn của quân Tống Bình xô vào nhau ngã tùm tùm xuống đầm. Triệu Cam lệnh cho đám quân quay trở lại. Sau nửa canh giờ, Cam dạt được vào bờ. Hắn rút kiếm hòng lùng hai vợ chồng kia. Đến cạnh miếu, soi lên cửa miếu có đề chữ “Đền Hóa” lại có bia khắc chữ cổ. Có tên lính biết chữ ấy đọc cho Cam:

“Hùng Vương đời thứ mười tám, Đức Thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung công chúa, Hồng Vân Công chúa hóa tại đầm Nhất Dạ. Công đức muôn đời kể xiết.”

Có tiếng vọng vang vang như tiếng chuông lớn phát ra từ phía khuôn hồ trước miếu. Lã Thầm hô hoán đám quân:

- Là thần nhân họ Chử cùng nhị vị phu nhân giáng thế. Đã đắc tội. Mau mau mà chạy.

Triệu Cam cùng Lã Thầm hộc tốc chạy về đất Long Biên bỏ mặc đám lính toán loạn chạy khắp phía. Trời tờ mờ sáng, đám quân Tống Bình không một bóng, chỉ còn lại giáp áo cùng vũ khí ngổn ngang.

Bầu trời vần vũ, mây đen kéo đến ùn ùn như những cột khói đốt nương. Gió lốc nổi lên khiến đổ rạp cây cối xung quanh. Chỉ chừng nửa canh giờ, trận mưa lốc tàn ngay. Có ông lão đi qua đầm, nhìn vào miếu gọi vọng vào:

- Có cao nhân nào trong miếu. Sao còn ẩn nấp chưa ra.

Tồn Thành mặt mũi cay nhèm, tay còn dụi mắt bước ra. Nhìn xung quanh rũ rượi thảm thê, chàng liền cất tiếng hỏi han:

- Không hay bão tố khi nào mà cây cối ngã đổ.

- Vị tướng quân mặt vuông, trán rộng, mày cọp mắt trâu. Nhìn khí phách quả thật dị thường. Vừa xong có cơn lốc quét qua mà ngài không hề hay biết hay sao.

- Đêm qua khi tới miếu này, thân xác mệt mỏi, tay chân rụng rời chỉ lo mạng sống chẳng vẹn toàn. Sáng nay tỉnh dậy người nặng như cõng núi, mắt nhắm chặt như đổ keo, tai ù ù như sấm rền bên cạnh. Chẳng hay gió lốc, bão mưa.

Từ phía sau ông lão có đám người áo quần rách rưới, tay cầm mảnh gãy giáo thương lầm lũi hướng về chỗ Thành. Đầu óc chàng còn đang choáng váng, chưa nhận hết chuyện đang diễn ra. Có một tên chạy đến, mặt mày nhem nhuốc, tay đầm đìa máu đỏ, nước mắt lưng tròng:

- Tướng quân. Anh em đã chết phân nửa. Số còn lại chỉ còn hơn một nghìn đã lui về doanh trại. Đêm qua tướng quân dẫn chúng tôi chạy tới đây thì mất dấu. Sáng nghe người làng kể lại có đám binh mã chạy đến đây. Nghĩ rằng tướng quân không qua khỏi. Gặp tướng quân ở đây, đám chúng tôi thật thấy mừng.

- Cả nghìn anh em chết mà mừng nỗi chi. Các ngươi không bị đám quân Tống Bình đuổi giết hay sao.

- Bẩm tướng quân. Khi qua đoạn đầm này. Không hiểu sao đám người ngựa đó lại quay đầu không đuổi nữa. Thế nên chúng tôi mới quay lại tìm ngài.

Lão ông chống gậy, tay vuốt râu cằm cười lớn:

- Chẳng phải hồng phúc từ Đức Thánh Chử hay sao. Vị tướng quân hãy quay lại.

Tồn Thành quay lại thấy phía trước mặt là tường miếu uy nghi, cổ kính. Có bức tường cao hai thước được đôn từ dấu tích thành cũ. Phía trước miếu có lầu chuông lớn khắc họa tiết chim hạc, người cổ xưa sinh hoạt hàng ngày. Giữa lầu chuông và sân miếu là hồ bán nguyệt, nước xanh biếc soi bóng những tán lớn bủa quanh. Ba tòa điện tuy nhỏ nhắn mà khí chất vượng sung tỏa ra bốn phương khiến chàng không khỏi bỡ ngỡ.

Chàng hỏi ông lão, lão ông chỉ nhắc khéo đấy là cung điện của thần nhân. Phía trong là tượng cá chép lớn, cùng pho tượng cao lớn đầu mang nón, tay chống gậy độ thế nhân gian. Đỗ Tồn Thành sai người vào làng mua trầu cau cùng hoa quả dâng nên miếu nén nhang thơm. Khói nhang nghi ngút bay lên, có hình chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng hai cô gái xinh đẹp, mỗi người một vẻ hiện lên. Tồn Thành gọi người làng vào hỏi thì làn khói tan mất.

Chàng đem phát lộc cho người dân sống cạnh miếu. Trẻ con nhìn Tồn Thành mà cười khúc khích. Tồn Thành nhấc một cậu bé tóc ba chỏm, mặt mày sáng sủa hỏi cậu bé. Cậu bé chỉ cười rồi chỉ vào vết bợp trên trán Tồn Thành. Chàng lấy vạt áo lau đi, vết ấy càng hằn đỏ. Bấy giờ có người làng ra hỏi, Tồn Thành muốn mượn một tay chèo dẫn lối xuôi về đất Hiến.

Một người râu rậm, mắt nâu, tóc quấn khăn nâu, đóng khố da sạm chạy tới ôm cậu bé khôi ngô khi nãy. Giọng nói ấm vang, dáng người khỏe mạnh, tay cầm cây ba chạc lớn cỡ bắp chân người lớn. Tồn Thành thoạt nhìn ưng anh ta, liền cất lời hỏi. Anh chàng nhận lời ngay, mong góp sức cùng nghĩa quân. Tồn Thành hỏi han tên chàng trai, gia thế. Chàng nói:

- Tiểu nhân người Ngọc Đường trang, họ Phạm, tên Nô Đan. Vợ là Chử Thị, làm rể đất đầm Dạ Trạch. Có hai con trai, đứa lớn tên là Chử Minh, đứa nhỏ là Phạm Đình. Tiểu nhân nghề chài lưới, vợ bán cá chợ Hà Thị phía bên kia đầm Nhất Dạ.

- Khen cho khí chất của đấng nam nhi. Giọng nói ầm vang, rõ ràng tròn trịa, khiến người khác có thể lay lòng. Có điều ta chưa hiểu. Nhà ngươi họ Phạm, đứa lớn con ngươi họ Chử. Chả có lẽ…

- Chẳng giấu gì tướng quân. Tiểu nhân thân cô thế độc, ngày nhỏ cha mẹ mất sớm. Lớn lên trong gia đình họ Phạm làm nghề đan thúng mẹt, làm nô gia cho nhà đó, đám người nhà đó gọi là Nô. Còn người ngoài cũng hay gọi là thằng Nô Đan nên quen. Sau này cũng lão chủ đến đất Hà Thị buôn mẹt gặp cha vợ tiểu nhân là Chử Thái Công có con gái đến tuổi lấy chồng liền gả cho tiểu nhân. Sau này khi sinh đứa đầu lòng, Thái Công biết tiểu nhân là người không cha mẹ nên bắt lấy họ Chử đặt họ cho bé Minh. Bấy giờ ông tức giận đuổi hai vợ chồng ra bãi sông này. Khi đó chài lưới đương lúc vào mùa, vợ chồng chèo lưới mang ra chợ Hà bán được ít vốn, dựng được túp tranh, kèo cột vững trãi cùng với thuyền lưới đủ đầy. Dân các vùng cận đây nghe tiếng mà tới lập ấp cạnh miếu thần, ngày ngày chài lưới. Bấy giờ Thái Công thương con gái gọi về cho khoanh đất chợ Hà, nhận lại rể nhưng không cho bé Minh đổi họ Phạm. Sau này đứa thứ hai, Thái Công nghe lời anh cả là Chử Thoán mà cho lấy họ Phạm.

- Có miếu thần phò trợ, nghề chài lưới cũng phần nào thuận hơn. Cớ sao lại muốn bỏ mà theo nghĩa quân.

- Thật tình. Chuyện kể sao cho hết. Tiểu nhân cũng chỉ mong điều thật giản đơn, hai vợ chồng, mái tranh vách nứa, đàn con thơ lưới chài kiếm sống. Ngày ngày dâng tấm lòng thành lên miếu thần. Số phận chẳng may, thần nhân chẳng thể giúp nổi.

Tồn Thành mặt mày nhễ nhại mồ hôi, nhìn theo dòng nước mênh mông mà hỏi:

- Sông lớn, sóng dồn, lại mỡ màu, cá tôm ắt ắp đầy. Có chi mà nên cơ phận.

- Là hai năm trước, nghĩa quân Dương Đỗ đánh thành Liên Thụ. Quân Tống Bình chở lương tiếp viện bị toán cướp chặn giữa sông bị đánh tan tác. Sau đám cướp bỏ trốn xuôi dòng Nhị mà về đất phía làng dưới đóng tại chỗ ấy. Ngày dân chài đi bắt cá tôm, bọn người đó xua thuyền ra cướp. Hễ ai chống cự bọn nó cho lật thuyền cả người và cá tôm cùng rơi xuống dòng nước. Xóm ấp từ bấy mà kinh hãi, cá tôm bắt được nộp cho bọn nó một phần, nộp tô một phần, phần còn lại chỉ đủ miệng ăn, còn không thì thiếu đói. Có vài kẻ từ nơi khác cũng nhập bọn đó, chúng hung tợn mà chẳng người nào dám ho he đụng chạm bọn nó.

- Quan huyện Chu Diên chẳng thể lo cho các ngươi hay chăng.

Nô Đan thở dài:

- Huyện phủ xa xôi, lại cách trở bởi tranh giành giữa quân Dương Đỗ và triều đình. Bọn đó chỉ lo cho cái chỗ ấm thân của chúng, nào nghĩ đến cái phận nhỏ nhoi chài lưới.

- Cớ gì lại thu tô của các ngươi.

Có cô gái mặt trái xoan, nước da ngăm sạm, váy đụm, áo yếm nâu gụ đôi chân thoăn thoắt chạy tới, hớt ha hớt hải. Hàm răng đen, hai vai săm hình kỳ quái, đầu vấn khăn quấn thành lọn tròn quanh đầu. Nàng thở dốc, nói không ra hơi:

- Nô Đan chàng ơi. Bọn cướp lại đến. Chúng đang bắt thằng cu Đình. Em nói anh không có nhà, có điều gì thì đợi anh về mà chúng không chịu.

Tồn Thành nhìn thoáng một lượt, hai người này dáng vẻ thân quen. Chàng chưa kịp hỏi thì Nô Đan cầm chạc ba chạy vội vàng xuôi bờ về nam. Đến mái tranh có tiếng trẻ con kêu khóc, chàng vội vàng cầm lấy cây ba chạc choảng vào đầu tên lâu la giữ đứa trẻ. Tên lâu la ôm đầu, máu chảy loang rơi xuống đất. Đứa bé mới chừng ba bốn tuổi, không một mảnh khố mặc trên người. Đôi chân thon nhỏ, mặt mày mếu máo, nước mắt giàn giụa nó chạy lại chỗ mẹ. Chử Thị ôm chặt lấy nó, rung người mà dỗ dành nó. Nô Đan nói lớn:

- Các người không nghe vợ ta nói đợi khi ta về thì sẽ nói chuyện. Há chi lại bắt giữ con trẻ.

Có tên mặt mày dị dạng, môi dày như hai con đỉa chắp lại, cầm chiếc gậy tre đập mạnh vào ngực trần của Nô. Nô giật mình, dùng gậy ba chạc hất tung gậy ấy cắm xuống đất bãi bồi. Hắn vênh vênh mặt:

- Mày nói chuyện mà vỡ đầu thằng em tao. Vợ chồng mày muốn chết hay sao? Khôn hồn thì nạp tô cho đúng hạn.

- Tao đã hẹn với chúng mày đến tuần trăng nước lên, tao sẽ nộp đủ. Có khi nào tao khất thiếu chúng mày hay chưa.

Hắn nhặt que tre góc nhà vụt vào mặt thằng Minh, vết lằn ngang mặt. Nó gào khóc ầm ĩ. Nô Đan cả giận cầm cả gậy lớn lao vào tên đó. Chạc ba ghim cổ hắn vào cột nhà. Hắn cố thoát mà chẳng thể thoát. Mặt mày tím tái, chân tay khuờ khoạng mong tìm thứ gì đó để chống cự. Chử Thị ôm lấy hai con, nước mắt hòa mồ hôi đầm đìa, khóc lóc xin chồng:

- Chàng ơi. Anh thả hắn ra. Hắn mà chết, anh chết, em chết, hai thằng nhỏ cũng chết.

- Bọn nó quá đáng lắm. Mấy tháng nay, nhà mình có thiếu nợ bọn nó chút nào đâu. Cứ dăm bữa, ba ngày lại đến nhiễu nhách lại còn nạt nộ. Chẳng phải vì nàng, vì con ta đã giết chết bọn nó từ lâu. Nay đã thế này, có chết ta cũng phải giết bọn nó.

Tiếng khóc than của người phụ nữ cùng hai đứa trẻ không khiến anh có ý định thay đổi. Bọn lâu la cầm gậy gộc bao vây quanh nhà nghe có tiếng giáp giáo phía ngoài chạy liền hô hào.

- Có quan quân đến. Chạy đi chúng mày ơi.

Tồn Thành cho lính bao chặn bọn cướp. Đứa nào đứa đấy mặt ngắn tủn sợ hãi xin tha mạng. Tôn Thành chạy vào trong túp nhà tranh thấy có tên mặt mày xấu xí, nằm co quắp dưới nền đất. Đặt tay lên mũi dò thăm xem hắn đã chết hay chưa. Bỗng cánh tay hắn ghì chặt vào cổ Tồn Thành. Thành dùng khuỷu tay thúc vào mạng sườn phải khiến hắn nằm im trên đất.

Thành nhìn hai đứa trẻ khóc nấc trong vòng tay mẹ, rút trong vạt áo hai chiếc kẹo lạc dỗ dành, hai đứa trẻ mới chịu nín. Thành nhìn hai người một lúc thật lâu. Họ Đỗ lấy làm thân quen, hỏi dò hai vợ chồng:

- Là hai người khi tối qua đã giúp ta thoát khỏi đám lính truy sát.

Người vợ ôm hai đứa trẻ thu người lại. Phạm Đan đáp lời:

- Đám dân đen chúng tôi sức hèn lực mọn. Nào có thể đuổi đám lính tráng đầy sát khí.

Hai người bẽn lẽn nhìn xung quanh. Tồn Thành đoán được ý của hai vợ chồng. Tồn Thành cầm chiếc gậy tre trên dưới đất, lại nhìn mặt đứa trẻ lớn. Thành cười lớn:

- Ở đây toàn là lính của ta. Bọn cướp này sao có thể thoát được. Cây gậy gia phong. Vết lằn trên mặt cậu bé kìa, lại vết lằn trên chân nó giống hệt vết trên trán ta khi sáng bọn trẻ cười ta. Anh còn không chịu nhận sao.

Anh đành kể lại hết chuyện đêm qua cho Thành. Thành ôm lấy Đan, tay kia ôm bụng cười:

- Ra là thần nhân họ Phạm, vợ là họ Chử đã giúp ta thoát nạn. Xin nhận của tiểu tướng một lạy tạ ơn hai người.

Ông lão khi nãy cười vọng từ phía ngoài lối vào:

- Thần nhân ở tại quanh ta. Chỉ cần tâm hướng chính nghĩa thì con người cũng hóa thánh thần mà xua đuổi gian ác đi xa.

Tồn Thành ôm lấy Đan, giọng cười sảng khoái. Mặt mày Thành đã hơn hai năm nay theo Sĩ Giao cũng Chí Liệt đánh biết bao nhiêu trận mà chưa từng mừng rỡ như hôm nay. Thấy Đan còn lo lắng, Thành nói với Đan:

- Anh có lo lắng điều chi. Quân ta còn thiếu những người nghĩa dũng như anh, lại giỏi phá thuyền địch với tài lặn giỏi. Ta sẽ nói với chủ tướng, chắc chắn anh sẽ không phải nhận phần thiệt thòi khi về với nghĩa quân.

- Chẳng phải tôi lo lắng điều đó. Chỉ là tôi đắc tội với bọn cướp. Khi chúng tôi theo nghĩa quân, những người làng sẽ ra sao.

Tồn Thành kéo tên mặt mày xấu xí đang ôm bụng đau đớn hỏi hắn:

- Các ngươi có còn dám cướp của đám dân Nhất Dạ nữa hay chăng.

- Dạ dạ. Bọn con không dám.

Tồn Thành sai người bắt giải bọn cướp đi. Đan nói với Thành đám đó chỉ là lâu la. Còn rất nhiều tên nữa với đội thuyền lên đến hơn hai chục chiếc thoắt ẩn thoắt hiện. Biết bọn này bị bắt ắt chúng sẽ quay về thôn mà phá phách hòng báo thù. Thành liền hỏi tên xấu xí. Hắn nhất quyết không chịu khai tụ ổ của cướp. Thành cho người cắt tóc sát vôi lên đầu hắn cũng không chịu nói nửa lời. Thành tiếp tục lấy mảnh vỏ trai mà khứa lên khuôn mặt dị hợm của hắn rồi cho lính sát muối lên mặt. Hắn cũng không hé răng.

Lính dùng chuôi giáo đánh năm mươi roi hắn ngất lịm. Thành liền trói hắn cùng bọn lâu la lên chiếc thuyền của bọn chúng. Sai lính cởi bỏ giáp áo, lấy bùn đất chát lên mặt, xõa tóc đi lênh đênh dọc sông để dụ cướp xông ra.

Nô Đan dùng lá tre gọi đám thanh niên làng cùng già trẻ xóm chài giao cho Thành hơn một nghìn người ra nhập nghĩa quân. Chử Thái Công cùng con trai cả nghe tin rể bỏ đất chài theo nghĩa quân, tức tốc cho người chở xe ngựa đến. Chử Thoán nói với Thành :

- Nhà ngươi khi đêm qua mất hơn nghìn lính tráng. Nay em ta lại dâng cho ngươi cũng chừng ấy người. Nhà ngươi sẽ vì thế mà không chịu tội với tướng chủ. Mong ngươi hãy thương yêu hai em, các cháu của ta cùng với dân làng theo ngươi. Nay cha ta già yếu, không thể đi theo. Xin tặng nghĩa quân hai chục nén bạc trắng, hai trăm hộc gạo để góp sức với nghĩa quân.

Đôi mắt ứa lệ, Chử Thái Công vẫy tay từ biệt mọi người. Bụi cát tung bay trong gió chiều mờ đi đoàn người xuôi về phía nam. Đan quay lại vẫy chào cha vợ và anh cả rồi dáng người cũng khuất theo rặng tre ngà.

Thành dùng sai hơn trăm người làng cùng lính tráng khỏe mạnh lấy tất cả thuyền đi xuôi về đất Hiến. Hai thuyền đi trước trói giữ mấy tên lâu la để dụ đám cướp. Đội thuyền lướt nhanh xuôi dòng.

Mênh mông giữa trời mây sông nước, Thành cảm thấy trong lòng có chút bình yên đến lạ. Xanh xanh những lũy tre ngả xuống hai bờ, những luống khoai, lạc biêng biếc, có bến đò ngang kẻ đón người đưa bịn rịn đôi bờ. Dải cát phù sa trắng mịn tung lên trong gió, ánh nắng hắt xuống mặt nước lung linh rọi bóng những hàng cau. Như lạc vào chốn bồng lai, Tồn Thành thấy người nhẹ lướt trên sông. Bỗng nhiên có chục thuyền từ bờ trái lao ra, đám khách qua đò hoảng hốt nhảy xuống sông chết đuối đến bảy tám người.

Tồn Thành ra hiệu cho hai chục thuyền lớn nhỏ xông lên thì phía bờ phải lại có thêm một chục thuyền nữa xông ra. Hai bên gậy gộc, mái chèo, đao kiếm liểng xiểng đánh qua lại. Mặt trời ngả tây, đám lính cùng cướp lật thuyền nhiều vô kể. Đan dùng cây chống chèo đưa thuyền vào bờ. Lụp ngụp từ lòng sông, có một người tóc áo ướt sũng, sẹo lớn ôm trọn nửa dưới khuôn mặt, hắn cầm đao lớn đi lên bờ. Thành lớn giọng hỏi :

- Lũ cướp tên gì. Mặt mày như quỷ dạ xoa. Còn không giơ tay chịu trói.

- Ông nội mày tên họ chưa bao giờ thay đổi. Họ Lưu tên Trình. Người thành Đỗ Động. Không phải vì bọn quan quân chúng mày, tao đã chẳng phải đi cướp. Sẹo lớn trên mặt tao cũng là do chúng mày. Tao thề sẽ giết chết lũ quan chúng mày.

Chưa dứt lời, hai người lao vào đánh tên cướp. Chống trả sau hơn bốn mươi hiệp, Đan dùng lưới giăng ném vào đầu hắn rồi dùng vọt tre đánh liên tiếp vào lưng gáy. Gã quỳ xuống xin hàng. Lưng lằn nhiều vết như da rắn, bụng đau ựa ra máu đỏ tươi, tay mềm như bún để cho đám lính mọn chạy đến mà trói. Bọn cướp bấy giờ đều giơ tay xin hàng.

Tiếng gà lục cục đập cánh phía vườn nhãn gần đó, Tồn Thành lệnh hạ trại phía sau lưng đê, cho người thay nhau canh giữ đám cướp bị trói. Phạm Đan cười nói hớn hở, uống rượu đến sáng cùng Thành mà không hay vợ cùng con chàng chưa theo kịp. Mờ tinh sương, có người làng hớt hải chạy từ phía đê làng trên báo cho Đan làng cũ bị quan quân đến phá phách, bắt bớ hết người già, đàn bà trẻ con.

Đan nghe tiếng vang vang bên tai mà nhấc người không nổi. Anh bạn cùng làng dắt Đan dậy. Hai người cùng xin ngựa Tồn Thành mà quay về làng đón đám già, trẻ, đàn bà.

Giờ thìn hai khắc, chàng thanh niên Nguyễn Hợi khi nãy theo cùng Phạm Đan quay lại giục giã Tồn Thành mau mau cho quân chạy nhanh xuôi về phía hạ lưu. Đám quan binh Tống Bình mang hơn năm nghìn lính truy quét các thôn làng từ cửa Hàm Tử, bến Chương Dương đến đụn cát bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ.

Tồn Thành đang câu cá phía bãi sông vội vàng mặc giáp mũ, cầm thương dài lệnh cho hơn nghìn rưỡi lính cùng đám trai làng tức tốc chạy về đất Hiến. Tới đoạn có cả rừng nhãn thì cho quân lính dừng lại nghỉ mà lấy sức. Tiếng trống rong, cờ phất từ phía bắc khói bụi mịt mù. Thành nằm áp tai dưới đất, tiếng bước chân hành quân thúc vào màng nhĩ. Thành giật mình thức giấc. Có hơn hai mươi người dắt trâu ngựa bò dê cả từ phía bắc đến.

Người làng núp dưới bóng cây nhãn nhìn ra, chạy vào báo cho Thành đó là người dân làng Tảo, ở phía đông đầm Nhất Dạ. Thành cử năm mươi người ra xem có điều gì bất trắc, hai người quay về báo rằng vị hào trưởng huyện cũ Cao Lăng nghe danh tướng quân họ Dương mà chưa có dịp thể hiện lòng ái mộ. Nay nghe có thiếu chủ tướng quân đóng trại ở phía nam dòng Xích Đằng đến đất Đa Cương, Võ An góp trâu ngựa lợn gà cũng hai mươi trai tráng theo nghĩa quân. Thành cười lớn, nhận lấy tấm lòng từ vị hào trưởng, cho người gửi thư cảm tạ đến vị hương hào ấy.

Đến quá trưa, không thấy Đan về, Thành cho người đi dò hỏi, thì tin báo về đám quan quân quét qua làng cũ. Già trẻ, đàn bà đều bị bắt bớ. Đến khi chiều tối lại có thêm ba bốn chục đàn bà cùng trẻ con mặt mũi lấm lét chạy đến. Hỏi ra thì cả làng bị bọn quân Tống Bình đốt phá. Có người mách cho bọn chúng, người làng Nhất Dạ đã giúp giặc chạy trốn. Đám thanh niên nghe tin mà cáu giận cả trăm người, trời sắp tối la lối om xòm đòi quay lại làng cũ mà báo thù cho những người đã nằm xuống. Thành lệnh cho mọi người bình tĩnh chờ tin mới báo về.

Nửa đêm, tiếng vó ngựa cùng đoàn người rầm rầm. Thành cho đám lính phục kích, bắt được đám đà bà, trẻ con lên đến nghìn người. Đám thanh niên trai tráng hồ hởi tìm nhận vợ con. Có những kẻ chẳng may vợ con bị tàn sát mím môi, cắn lợi đi chặt tre làm mũi giáo liều chết chạy lại làng cũ. Thành không kiểm soát được, sai bọn lính chặn đầu. Giọng nói ầm vang từ phía bờ sông, Thành mừng vui chạy tới. Đan giục giã:

- Mọi người hãy mau mau chạy theo Đỗ tướng quân về đất Hiến. Còn những anh em này, mọi người hãy cùng ta đi phía sau chặn hậu cho mọi người. Đám lính cầm đầu là tên Long Trạch, dũng mãnh như hổ cọp, giết người không hề chớp mắt. Mau mau chạy đi.

Hơn ba nghìn người, già trẻ, gái trai nheo nhóc chạy đang đêm chạy xuôi theo dòng chảy Xích Đằng về đất Hiến. Hơn một trăm người ở lại hò hét quyết chặn đứng đám lính hung hãn từ phía Tống Bình chảy xuống. Thành còn ngập ngừng chưa đi, Đan giục giã :

- Tướng quân mau đi. Việc nơi này cứ để bọn ta lo.

Thành cáo biệt lui, thúc ngựa dẫn đoàn người chạy về đất Hiến. Đan sai đám người ở lại chặt tre vót nhọn cắm vào những cây chuối lớn cùng lá dứa gai ném ngổn ngang trên đường đi. Lại dùng lưới cụ, gậy gộc sẵn sàng núp vào các bụi gai ven đường chờ quân lính đến xông ra mà đánh.

Có một phụ nữ cắp theo hai đứa trẻ, chân dẻo bước trên đường. Đan nhận ra vợ mình vội vàng xua chỗ bụi gai gọi vào núp. Chử Thị hốt hoảng ú ớ kêu lên. Nàng nhận ra chồng, bình tĩnh trở lại. Đan hỏi:

- Còn ai ở phía sau không?

- Có. Toàn là lính.

- Cha đâu, anh cả, chị dâu, các cháu đâu. Còn Chử Minh nó đâu.

Nàng đặt tay lên ngực mà thở, hai đứa trẻ buống xuống ôm lấy chân Đan. Đứa con gái khóc lóc:

- Chú ơi. Cô ơi. Cứu ông nội, bố mẹ cùng em cháu. Bọn nó bắt ông nội và cha cháu đi rồi.

Thị nhìn hai đứa, tóc rũ rượi. Tiếng thở nhẹ dần, Thị ôm đứa bé vào lòng, tay vỗ nhẹ lưng nó mà trả lời Đan:

- Anh Thoán cùng cha bị bọn nó bắt đi cả rồi. Chị dâu dắt tay thằng Minh và thằng Thoan đi đến đoạn thành cũ huyện Cao Lăng thì bị một đám người bắt đi. Em mang theo hai đứa nhỏ chạy miết, tới chỗ này gặp chàng.

- Em cùng hai con chạy đi. Chỗ này ta lo.

Bọn trẻ con khóc thé xé toang không gian tĩnh lặng. Đan giương roi tre lên, hai đứa nín ngay. Thị nhìn quay lại nhìn chồng, nước mắn ngắn dài ôm hai đứa chạy cúi mặt chạy về đông nam.

Sáng ngày sau, đám lính đuổi đến đất nam Xích Đằng, dân gọi xứ ấy là Đằng Châu. Quân của Sĩ Giao chờ tại đó đánh tan đuổi được lính Tống Bình. Long Trạch liền rút quân theo huyện cũ Cao Lăng về huyện Nam Định. Sĩ Giao gặp chàng trai khi đêm đã chặn địch, liền xin ý dụ Chí Liệt phong cho chàng đất đó mà lập.

Chí Liệt nghe vậy mà lòng mừng vui khôn xiết, cho gọi chàng. Chàng tới nhận ý dụ mặt mày không vui. Chí Liệt hỏi:

- Anh lập được công lớn. Ta thưởng cho anh. Cớ sao mặt mày ủ rũ.

- Bẩm tướng quân. Cha tôi cùng huynh trưởng bị bọn người đó bắt đi. Chị dâu cùng các cháu còn chưa rõ nơi nào. Đánh đuổi được bọn nó nhưng lòng còn chưa dứt nghĩ.

Chí Liệt nghe liền sai người đi khắp nơi dò hỏi. Đến tối muộn, tin báo về có người phụ nữ cùng hai đứa trẻ được người Ngọc Đường trang bắt được. Đan liền thúc ngựa tìm Phạm gia để hỏi tin. Gặp được ba người đó, Đan đưa về ngay đất Đằng Châu.

Nhiều ngày trôi qua, không có tin tức về cha, và chồng. Đàm Thị bỏ hai đứa trẻ ở lại với Đan đi tìm chồng. Bọn trẻ con không có cha mẹ ở bên, cũng đi lang thang. Đan phải cho người kiếm về, ngày đêm coi xét kỹ càng.

Đan cùng vợ giữ đất Đằng Châu, ngày cùng đám trai tráng dẫn thuyền ra sông. Chàng đứng tấn đợi cá cắn câu, tung cước kéo cần. Thuyền đầy ắp cá tôm, thẳng hàng thẳng lối như dàn trận trên sông, khoảng cách đủ an toàn để các thuyền hỗ trợ cho nhau, cũng đủ xa để lưới giăng khoảng rộng. lưới cụ phía trên, giáo gươm đáy thuyền . Đêm về, kẻ thức người ngủ canh gác nghiêm ngặt, cá tôm đủ đầy, chẳng thất thoát một con nào. Những bà, những mẹ đi cùng trẻ con đi khắp các chợ Chu Diên đổi lấy thóc lúa, lợn gà, bò trâu chẳng khi nào thiếu đói. Bấy giờ dải đất đông nam đã yên.

Tiếng chim kêu trên rặng tre rủ bóng xuống dòng sông mát rượi. Bóng tựa cô gái đang buông tóc dài ghé xuống mặt nước lăn tăn những gợn nhỏ đang chảy về đông. Tồn Thành ném đá xuống mặt nước xua đàn cá nhỏ ddang bơi tung tăng phía sát bờ sông. Một chú cá nhảy lên khoảnh đất gần đó nằm im bất động. Chàng nghĩ rằng cá yếu sắp chết thịt sẽ chẳng ngon nên không bắt về. Chàng dùng sáo trúc thổi vang bài ca sông Mã khi xưa chàng cùng quân lính bộ hành khắp dải đất Ái Châu. Sĩ Giao cho gọi Tồn Thành tới trại bàn chuyện.

Dứt tiếng sáo trong veo, chàng đi qua chỗ con cá đang nằm. Kiến bâu đầy mình, trật ra cả thịt cá đỏ bên trong vảy đen đốm nâu đất. Chàng dùng que tre gẩy gẩy vào mình nó, nó quẫy mạnh nhảy xuống nước sông chỗ đám cá con đang bơi. Đám kiến bâu trên người nó theo người nó mà rơi hết xuống mặt nước. Đám cá con bơi lên mặt nước thi nhau ăn lấy ăn để dường như đã quá đói từ rất lâu.

Chàng mỉm cười, phủi bụi đất trên tay từ tốn bước vào phía trong trại quân sư. Sĩ Giao mặt mày nghiêm nghị, chăm chú đọc sách. Thành nhìn xung quanh, sách giấy ngổn ngang. Thành cười giỡn cợt vị quân sư trẻ tuổi:

- Lần cuối cùng ta thấy Đỗ quân sư lộn xộn thế này là khi ta còn nhỏ xíu. Khi đó cha anh theo Anh Hàn nghĩa quân mà để lại hai anh em huynh cho Đỗ Đại. Lúc đó Đỗ Đại oanh liệt khắp vùng bị tên trọc phú Văn Sình đổ cho cái tội đánh thằng con gã vì tội trêu gái làng. Ba người bị bắt nhốt, khi đó ta cùng huynh còn đang lục sách cũ ra đọc, bừa bộn hai gian nhà Đỗ Đại.Cũng may có người mách tin, Anh Sách sai người đến bắt họ Văn kia mà các anh thoát tội. Sau này Văn Sính con trai gã vẫn nhắc mãi chuyện đó. Hắn cưới được Bùi Thị xinh đẹp nhất vùng. Số hắn đúng là số sướng, trứng nước đã được cưng chiều, lớn lên lại lấy được vợ đẹp, con trai hắn nghe đâu cũng sành sỏi buôn buôn bán bán, lẻo mép chẳng kém cha và ông hắn. Đã lâu rồi không về lại đất cũ, bôn ba từ bãi bờ Đông Bắc, lại đi khắp Giao Châu, Ái Châu mà chưa hề biết một chữ yên bình nó ra sao. Chí trai chưa thỏa thật chẳng thể ngẩng mặt nhìn đám huynh đệ năm xưa.

Sĩ Giao vẫn chăm chú nhìn vào sách miệng lẩm rẩm. Dường như chàng không nghe thấy lời Thành vừa nói. Bá Nam hỏi lại:

- Khi này chú nói điều chi mà liên can đến Bùi Thị.

- Anh không nghe ta nói gì sao. Ta nói anh thật đang bừa bộn lắm đó. Có điều chi khiến anh còn đãng trí.

- Chú đến mà anh quên mất. Khi nãy có người nói giọng châu Ái đến tìm gặp thiếu chủ. Mà thiếu chủ chưa nói gì với ta. Lại cho người đó hai lượng bạc cùng ngựa đi rồi.

- Bình Nam thiện tướng có điều chi lại không nói ngay với anh. Trước giờ chuyện gì cũng nói ngay với Bá Nam. Phải chăng có chuyện cá nhân gì khó nói chăng.

- Vừa nhắc thì ngài đấy tới.

Có tiếng chân bước vội phía ngoài. Giọng nói Chí Liệt có vẻ nghiêm trọng. Chí Liệt xua Thành ra ngoài. Vị tướng nói Sĩ Giao:

- Ta nghe nói Tồn Thành trước tự ý mang quân đi đánh, thua trận bị chết hơn nghìn quân, trong khi đó Thành mang hai nghìn lính. Quân sư biết điều này chăng.

- Chẳng phải hai nghìn lính ấy là lính Đằng Châu hay sao. Giờ Phạm Đan đang giữ.

- Sĩ Giao quả thật không biết sao. Hắn bị đánh cho thua ở đầm Nhất Dạ, được Phạm Đan cùng dân xứ đó theo giúp nên mới được cơ sự như thế. Làm tướng nhất thời nóng giận mà suýt nữa bỏ mạng lãng nhách. Thật là đáng tội.

Sĩ Giao thầm nghĩ trong bụng « Rõ là khi trước, Chí Liệt cũng biết điều đó nhưng vì có công dâng tướng tốt Phạm Đan cùng đám lính thủy quân mà không nhắc đến tội của Thành. Nay hẳn có điều chi khuất tất. »

Thấy Sĩ Giao mặt mày thất thần. Chí Liệt lại hỏi chàng:

- Quân sư chớ niệm tình mà bỏ qua chuyện này. Dù hơn nửa số quân lính ở đây là quân Ái Châu của Thành nhưng cũng không thể để làm gương xấu về sau. Ta nghe Đoàn Uyển cho điều động quân lính Ái Châu để đề phòng đám người Trường Châu, Võ An. Không rõ bụng ý của Thành thế nào.

- Ra là anh lo lắng điều đó. Tồn Thành cùng ta đã kinh qua biết bao nhiêu trận mạc. Đánh bắc dẹp đông, bình định Giao Châu, lại dốc lòng mà mang quân Ái Châu phò giúp chúng ta. Chớ vì mấy kẻ rèm pha mà nghi lòng chú ấy.

Chí Liệt đưa cho Sĩ Giao lá thư của người nhà Tồn Thành ở huyện thành Cửu Chân. Lá thư viết « Thủ Trừng hai tháng nay mắc bệnh lạ. Sáng ra đứng trước chum nước mưa hò hét. Khi trưa nắng lên thằng nhỏ lẻn ra khỏi phủ mang lửa đi đốt các hàng quán trong thành khiến đám dân, quan lại bất yên. Tối đến nó lại mang kiếm của cha tặng nó đi dọa nạt đám trẻ con trong thành. Người nhà trói bắt thì Trừng cậy là thiếu gia mà nằng nặc không chịu, dọa rằng cha nó về sẽ bắt giết bọn nô tỳ nên chúng phải thả ra. Quan quân phải đến đứng vây chặt cửa phủ.

Hai tuần nay, Trừng không được ra ngoài nên khí tiết bức bối, gầy ốm sa sút. Các lang trong châu đến khám thì Trừng dùng kim đâm vào ngón tay lang mà không cho bắt mạch. Thuốc sắc lên đều bị thằng nhỏ hất đi. Bọn nô tỳ dỗ uống được thì nó ngậm trong miệng, phun lên mặt chúng rồi cười khach khách suốt ngày.

Ngày qua, thằng nhỏ không ăn uống được gì nằm mệt. Lang Mường nói nó đi chơi với lũ trẻ con vào núi bị dân ở đấy bỏ bùa mà như vậy. Lão quản gia cũng cho mời thầy cúng bắt ma trừ tà mà không thằng bé không dứt. Lại có người mách mời già làng trong núi ra cúng lá tre, đốt cùng lá mít hòa vào nước tiểu bò sắc với ruột ngựa trong vòng hai canh giờ cho uống thì sẽ khỏi. Uống được ba ngày thấy đỡ nhưng lại chẳng chịu uống, ăn thêm. Tình hình nguy cấp, chỉ có thể kể ra được chừng đó. Tướng quân sớm về Cửu Chân, chỉ e có chuyện xấu xảy đến với thiếu gia. »

Sĩ Giao cầm lá thư mặt mày sọng đỏ. Chí Liệt hỏi ý Bá Nam quân sư xem sự tình giải quyết thế nào. Sĩ Giao nói :

- E là Đoàn Uyển muốn Thành mang quân trở về châu Ái. Để em hỏi ý Thành. Khi đó thuận theo ý chú ấy mà làm, dù sao tướng lĩnh quân sĩ dưới trướng Thành đều là người của Uyển.

Sĩ Giao gọi Tồn Thành vào mà trần tình. Thành nhận ra chữ trên thư là của quản gia Thịnh Sầm. Thành lập tức xin với Quân sư Sĩ Giao trở về Ái Châu thăm thằng bé, kẻo chẳng có cơ hội mà gặp lại con trai. Sĩ Giao canh ba, đến ngỏ ý với thiện tướng Bình Nam. Chí Liệt hiểu ý liền tức tốc sai người cùng ngựa khỏe đưa Thành về Ái Châu.

Canh năm mờ sáng, Thành bái lạy từ biệt đám lính, một mình trở về với con trai. Qua đất Trường Châu, quan giữ thành Hoa Lư là Đào Quân tặng Thành một chiếc xe ngựa. Đường đi gập ghềnh, xe ngựa vỡ tan, Thành suýt nữa bỏ mạng. Ngựa rống chạy mất. Thành đành nén đau tập tễnh đi về phía nam gặp được đoàn lái buôn ghé nhờ được đến Cửu Chân. Cảm tạ đám dân buôn, Thành mời dân ấy ở lại huyện thành nhưng bọn ấy hẹn khi khác. Cuối cùng Thành cũng về đến phủ. Thương con trai, chàng vội vàng ôm thằng bé nhợt nhạt nằm trên giường. Nước mắt ứa ra, chàng nói khẽ vào tai Trừng:

- Cha đã về với con đây. Trừng bé nhỏ của cha.

Đám gia nô tất tả, nước ấm bưng lên, cháo thịt hầm kỹ, áo quần tinh tươm sạch sẽ. Nén hương trầm thoang thoảng, hai cha con nằm cạnh nhau ngủ thiếp đi bình yên mặc cho ngoài kia nhốn nháo, tấp nập kẻ vào người ra.

Bấy giờ phía bờ tây Xích Đằng, nghe tin Thành đã về tới Ái Châu, đám quân sĩ Ái Châu nghe vậy mà bỏ về phía nam theo họ Đỗ. Chí Liệt lo lắng gọi Sĩ Giao đến bàn. Sĩ Giao bàn:

- Trong số vạn rưỡi quân châu Ái phân nửa là người xứ ấy. Trước bọn đó theo Tồn Thành mà giúp ta. Nay Thành về châu Ái ta chẳng thể giữ được chúng. Mấy thuộc hạ của Thành từ lâu cũng đã nhiều lần muốn tách khỏi chúng ta. Ta cũng không nên giữ lại tránh đất xéo thành bùn lại chẳng thể rút chân ra được. Có Thành ở Ái Châu được lợi nhiều hơn là hại. Sự có mặt của Tồn Thành ở Ái Châu, ta sẽ yên tâm về Uyển, Uyển sẽ không dám nghe lệnh họ Lý mà mang đánh quân ta là điều lợi thứ nhất. Trường Châu, Võ An cũng vì thế đề phòng châu Ái mà không dám động binh đánh phía sau chúng ta là điều lợi thứ hai. Bọn Man Hoàng, Ai Lao có lính Ái Châu đồn trú vì thế chúng sẽ bị phân tâm, khi đó ta đưa quân về phía tây chúng ta sẽ thêm phần chắc thắng. Tồn Thành trước giờ không ưa bọn người Tống Bình, nay Thành không có mặt, anh có thể dùng chúng để giải quyết những vấn đề trước mắt về địa thế Giao Châu.

- Ý Bá Nam là những tên cướp mà Phạm Đan bắt giữ ở Đằng Châu đó sao.

- Bẩm anh. Ngày qua, ta cũng đã ghé vào nhà lao để dò xét đám cướp ở Xích Đằng. Bọn chúng khai ra là người huyện Tống Bình, Vũ Bình, quen thuộc địa hình, khí hậu đất đó. Tên cầm đầu Lưu Trình cũng là một kẻ không phải dạng tầm thường cũng có thể dùng được. Ngày qua, hắn đánh tên cai tù nghẹn cổ tím tái mặt mày chỉ bằng cây gậy đầu rắn nhỏ bằng ngón tay cái. Đám lâu la nói chuyện với nhau, hắn được học võ sư họ Liêu đất Đỗ Động.

Hai người đang bàn quân tình, phía ngoài trại có tiếng ồn ào. Có tên lính vào báo tên cầm đầu lũ cướp tự xưng họ Liêu, tên Đức Thinh là người Đỗ Động có việc gấp cần nói với vai vị tướng quân họ Dương, họ Đỗ. Chí Liệt nhìn Sĩ Giao, ánh mắt như đã hiểu, quân sư lệnh cho giải tên đó lên.

Mặt mày sẹo lớn nham nhở, tay bị trói phía sau nhất quyết không chịu quỳ gối. Một tên lính đạp vào chân hắn, cổ chân tên đó lập tức bị gẫy rời, bàn chân thẳng tuột. Bọn lính phải kéo ra ngoài. Sĩ Giao đi một vòng quanh nhìn phía dưới gót chân hắn có một khúc xương nhô thừa ra như chân gà. Gã nhìn theo Sĩ Giao, đột ngột Sĩ Giao dùng cành tre nhỏ quấn chặt lấy hông hắn. Chí Liệt dùng gươm kè cổ hắn. Sĩ Giao rút từ hông sau hắn một chiếc gậy gỗ rỗng ruột, phía trong luồn sắt cứng, phía cuối gậy có những khấc cùng sợi sắt nhỏ thò ra phía ngoài. Chí Liệt dọa hắn:

- Cái thứ võ bịp người đó nhà ngươi học từ đâu mà có. Muốn gặp người họ Đỗ, họ Dương có việc gì.

Mặt hắn vênh váo, chỉ nhếch mép cười. Thiện tướng dùng đầu kiếm vẽ lên khuôn mặt hắn chữ « Tử », máu dầm dề chảy xuống ria mép lún phún vài chiếc mọc lởm xởm quanh miệng. Hắn gồng mình, mắt nhìn theo kiếm, miệng lắp bắp:

- Tiểu nhân xin hỏi hai vị. Ai là Dương Chí Liệt tướng quân, ai là Đỗ Sĩ Giao tướng quân.

- Gặp hai người đó có việc gì. Nếu không gặp được thì sao.

Hắn vẫn nghênh ngang, phỉ nước miếng vào đầu kiếm. Mặt quay đi không tiếp chuyện. Chí Liệt liền dùng doi mây vút thẳng xuống bàn. Miếng thịt dê nát nhừ thành năm miếng. Gã sợ sệt nhìn hai người, thấy lệnh bài chữ Dương trên hông người cao lớn, mặt mày nghiêm nghị. Hắn mới hỏi:

- Trong quân, người làm tướng thường uy nghiêm, chính trực. Mặt mày khôi ngô lại toát lên vẻ đẹp của thần tướng. Lệnh bài chữ Dương giắt hông, ắt là Chí Liệt Bình Nam thiên tướng đả tứ hổ núi Tiên Du. Anh này nho nhã, dáng người thanh tao, nét mặt thanh tú, mũi thẳng dừa phù nam, giọng nói ôn tồn, lệnh bài chỉ ghi hai chữ Nam sư, hẳn là Bá Nam quân sư lừng lẫy chiến công giết Tượng Cổ, đốt cháy động hổ, lột mặt kẻ gian Hoằng, Túc.

Sĩ Giao nghe mà sựng người, quạt lông ném xuống. Tay chỉ vào Chí Liệt, mặt hướng về tên gã mặt sẹo. Giọng nói nạt nộ, Sĩ Giao quát hắn:

- Danh xưng của tướng quân không phải để nhà ngươi thích mang ra nói lúc nào cũng được. Nhà ngươi là…

- Tiểu nhân tự là Đức Thinh, họ Liêu người Đỗ Động. Ngày trước vì gia thù mà đến Tống Bình mưu sát hại họ Quế mà sức hèn không thể giết hắn. Được lão Tô Hiền trong thành cứu giúp chạy về đất Long Biên. Sau bị quan quân lùng sục riết quá, đành phải về đất huyện cũ Cao Lăng làm cướp.

- Kẻ làm cướp là tội với muôn dân. Nhà ngươi chẳng hay muốn tìm hai chúng ta có việc gì. Phải chăng muốn ta tha cho. Chớ có viển vông.

- Nghe danh hai vị đã lâu. Nay được hạnh ngộ quả là phúc lớn. Tiểu nhân làm cướp cũng có điều có lỗi với đám dân nhưng đâu có muốn vậy. Khi trước cũng làm ngư chài mà bọn quan huyện Chu Diên quấy nhách, lại thêm đám dân làng thấy ta dị dạng xấu xí mà xua đuổi tiểu nhân. Bấy giờ tiểu nhân hận đám huyện quan kia mà cướp phá phủ lỵ hắn hòng dạy cho hắn bài học. Ai ngờ đâu…

- Nhà ngươi chớ có dài dòng nữa. Một ngày làm cướp thì cả đời là cướp. Nói mau ! Nhà ngươi tìm gặp hai bọn ta có việc gì.

- Lũ quan lại Tống Bình, thử hỏi hai vị chẳng phải là cướp hay sao. Tôi đây chỉ là đường cùng. Bọn dân kia khinh ghét nên mới ra như vậy.

Chí Liệt bực tức, giọng quát tháo chói tai:

- Dài dòng. Ngươi còn không trả lời ta, ta chém bay đầu nhà ngươi bây giờ.

Thinh lấy tay áo lau đi mồ hôi cùng máu đọng trên mặt. Hắn nhìn Chí Liệt rồi rụt rè chắp tay mà bẩm:

- Đúng là cọp dữ sinh hổ oai. Tính ngài nóng giận không khác chi cha ngài.

Chí Liệt trợn mắt, kiếm giương ngang mặt:

- Lại còn già mồm hả.

Thinh rụi mắt, cổ kè lưỡi gươm. Ria mép chạm phải, đứt lìa ngay. Thinh cất giọng thách thức Chí Liệt:

- Đúng là kiếm tốt. Tiếc là vào tay ngài chỉ để giết gà, giết vịt như tiểu nhân thì quá uổng phí. Giá như kiếm này trong tay kẻ dũng mãnh như Dương Diện hộ sư quân tướng thì hắn đâu phải chịu nhục nương nhờ kẻ khác.

- Nhà ngươi vừa nói ai. – Sĩ Giao quay lại hỏi hắn.

- À. Dương Diện tướng quân là người dũng mãnh nhất mà tôi đã từng gặp. Chỉ tiếc là hắn chẳng có lấy một thanh kiếm đủ tốt để hắn giương oai, phải đi cúi nhờ kẻ khác. Nghe hắn là em của cái tên Tồn Thành gì đó. Mấy hôm trước đánh nhau với gã, chẳng phải là tên tiểu tử Phạm Đan giúp gã thì đâu có thể bắt được tôi. Uy dũng kém xa em hắn.

- Nhà ngươi gặp Gã Quỷ khi nào, ở đâu?

- Cũng đã chừng hơn một, à không, phải gần hai năm rồi. Khi đó, Quế Trọng Vũ chưa về đến La Thành, mà đám người Tống Bình làm phản đánh đuổi Thiên thanh Dương tướng. Gã Quỷ đó theo họ Dương chạy đến Bạch Hạc. Sau đó thì tôi cũng không được biết. Nay lại được gặp thiếu chủ Dương Chí Liệt ở nơi bãi sông này.

Chí Liệt buông kiếm, ánh mắt sắc lẹm trùng xuống. Đức Thinh luyến thoắng kể lại từng câu chuyện từ khi anh vẫn còn sống bình yên ở thành Đỗ Động đến khi anh chàng trốn chạy ở Tống Bình, làm cướp bên bến sông Xích Đằng. Sĩ Giao quanh đi quanh lại nhiều vòng quanh trại. Chí Liệt nghe xong câu chuyện hỏi Thinh:

- Ta vẫn chưa hiểu Thi Nguyên hắn theo học ông nội anh, là đệ tử mà ông nội anh hết sức yêu mến. Chỉ vì có bát canh hắt đi mà hắn trở mặt với họ Liêu. Phải chăng có điều chi khiến hắn hận thù đến vậy.

- Liêu gia nổi tiếng đất Vũ Bình, môn sinh theo ông tôi đến cả trăm người khắp đất Giao Châu. Kẻ yêu võ nghệ ông hướng dẫn luyện công. Người ham kinh sử, ông giảng bàn ngũ kinh tứ thư. Lại cùng luận bàn kinh bang tế thế cùng những bậc hiền tài như Phùng An thiếu chủ, Anh Hàn quân sư, Anh Sách phó kinh lược sứ. Tiếng tăm bay lan tỏa khắp An Nam. Cách đây mười năm trước, chú Hữu Phương cùng với Thi Nguyên thi tú tài Giao Châu. Năm đó chỉ có một người đạt, chú tôi Hữu Phương đậu tú tài. Thi Nguyên không giỏi thi văn nên bị trượt. Ông tôi yêu mến hắn ta mà lấy làm tiếc cho hắn, liền nhờ Nha môn tướng Vũ Bình là Bồ Cảnh Thực cho hắn xung quân làm phó tướng cho Thực. Chẳng hay hắn không thích làm tôi mọn lại nghe bọn tiểu nhân đàm tiếu rằng ông tôi nhờ quen biết với đám quan lại Tống Bình chỉ giúp người trong nhà, còn đám người ngoài thì cho về nơi đá sỏi rắn câng. Đêm đến cho người vào phủ cướp ấn của Bồ tướng quân bị Bồ tướng quân bắt được. Phần nể mặt ông tôi nên Bồ tướng quân trả hắn về cho ông. Ông tôi bấy giờ không nhận mặt hắn. Đuổi hắn ra khỏi thành Đỗ Động. Hắn lèo nhèo xin ông tôi tha tội. Nghĩ thương hắn là kẻ học trò ham hiểu biết lại không có thân thích, ông dùng gia pháp đánh hắn hai mươi roi, viết trạng bêu hắn trước toàn thể mọi người, phạt hắn chín chín tám mốt ngày không được phép vào thành, ngày ngày trồng rau, hái quả, chăn thả lợn gà ở trang. Chú tôi cùng ông đi Tống Bình nhận thư báo danh đến Trường An thi Tiến sĩ. Ông tôi già yếu ở lại An Nam. Những ngày ông ở Tống Bình, Nguyên giao kết với đám thanh niên quanh Liêu gia trang đi bắt con gái ở trong thành. Quan huyện bắt đám thanh niên, Nguyên trốn chạy được đến tây Tống Bình, cạnh sông Đáy gặp một người thợ đá bị nước cuốn trôi. Hắn lấy sào tre mà kéo người thợ đá vào. Người này quen huyện lệnh Tống Bình, nhờ ơn cứu mạng mà tiến cử hắn làm bổ đầu huyện đó. Sau này Dương tướng quân chiếm trị sở, hắn dâng tiền đút lót cho Triệu Hoằng, Hoằng dâng sớ chép công hắn, xung hắn làm Vũ Bình bổ đầu. Bấy giờ ở Vũ Bình, kẻ nói theo, người không phục Thiên Thanh tướng quân. Hắn vờ lệnh của Dương tướng quân đêm đến giết hết kẻ có ý không theo. Ngày sau hắn lên huyện thành Vũ Bình ép huyện lịnh phong hắn làm soái huyện Vũ Bình, tự mang bảy nghìn quân Đỗ Động đánh đuổi trại quân người Hoa Hạ châu Nam Tà, Vũ Định. Dương tướng quân ở trị sở nghe huyện lịnh Vũ Bình khi đó là Trương Lục dâng tấu kể tội hắn tự ý mang quân đánh trại binh người Hoa Hạ, lại cho người quấy phá đám quân của Bùi Hành Lập đang ở Man Hoàng. Dương tướng quân cho là hắn có ý giúp nên cho đuổi Lục đi. Hắn càng thêm kiêu ngạo, mang rượu thịt đến bày ở Liêu gia trang. Hắn cho gọi đám thanh niên khi trước, đám người ngày trước cùng hắn lẻn vào nhà của Bồ tướng quân cướp ấn đến trang. Ông tôi biết hắn có ý khoe mẽ, lời nói ngông cuồng, ý xỉa xói họ Liêu cậy thế quen biết, có kẻ học trò giỏi giang nay càng thêm rạng rỡ. Ông vốn không ưa những kẻ hênh hoang lại không ưa đám người nhộm nhoạm hắn mời đến nên trong tiệc khi hắn nhận làm đệ tử giỏi nhất của ông, ông đã hất thẳng mặt hắn bát nước xáo măng, mắng hắn là « Chó cùng dứt dậu. Ăn cây táo rào cây sung, Ngắm bông hoa cúc ở cùng hoa mai. Nịnh hót đám người Ăn biếu ngồi chiếu hoa mà nên công danh. Kẻ như ngươi không đáng mặt làm đệ tử của ta ». Hắn tức tối mà chẳng mang hận trong lòng. Khi Trọng Vũ đem của cải, danh phận để làm mồi nhử, hắn bắt đầu thay lòng đổi dạ, bị mờ mắt bởi danh vọng kim tiền. Nghe lời xúi giục của đám người thiển cận dưới trướng hắn điều đình với Quế Trọng Vũ, cho gọi lại những quân lính người Hoa Hạ, mật báo cho đám quân Đường để rộng cửa đón chúng vào La Thành. Sau này, hắn được phong làm đô úy nắm binh mã của hai huyện Tống Bình, Vũ Bình. Hắn cho nhổ bỏ cái gai trong mắt hắn từ bấy lâu nay là thành Đỗ Động, Liễu Gia trang. Ông nội tôi cùng người Liêu Gia bị bắt bớ, hắn còn bí mật sai người dựng chuyện mà đem giết bỏ hết người trong trang. Oán hận lắm thay.

- Liêu Thái Công danh tiếng một thời. Nay Hữu Nguyên vạn dặm xa xôi. Ta nghe nói chú anh cùng với Lý Phùng Cát hai người đó gắn bó. Nay Nguyên Gia là thân hữu của Phùng Cát, chẳng nhẽ không cậy đó mà trừ khử hắn báo thù cho Liêu gia.

- Than ôi. Họ Lý kia cũng vì vàng bạc, công danh. Chứ màng chi chuyện của đám người không là ruột rà, người trên chẳng phải. Hắn về làm An Nam đô hộ chẳng phải là do đám người của tể tướng Đường triều rèm pha hay sao. Cũng nhờ hắn là họ hàng của Phùng Cát nên mới mới cho đến đây nhậm chức, đó chính là may mắn cho hắn rồi. Hắn chỉ lo cho chiếc ghế của hắn còn chưa xong, huống chi đến lo chuyện của kẻ chẳng liên can đến mình. Thi Nguyên đe nạt đám người dưới là vậy nhưng với kẻ trên hắn tỏ ra e sợ, nịnh hót đến mủi lòng nên được lòng đám họ Lý đó. Nay nghe tin Dương Thanh lập đất ở Man Hoàng, thiếu chủ cùng Đỗ quân sư mưu đoạt Vũ Bình, Đường Lâm. Tại hạ lại nhớ Phong Châu thứ sử Thăng Triều có gửi bức thư nhận lời cứu giúp Dương tướng quân khi trước. Tiểu nhân định bụng đất Man Hoàng dưới quyền chỉ huy của Lý Do Độc người dưới trướng của Dương tướng quân từ khi cướp trị sở nên Thăng Triều có ý che giấu Giao Châu về sự có mặt của Dương tướng quân cùng bộ hạ ở đất phía sau Phong Châu.

Sĩ Giao như chợt bừng tỉnh, chàng lấy roi tre, dải tấm áo ra mà chỉ về những nốt thành trì điểm chấm trên đó. Chàng bàn với Bình Nam thiện tướng:

- Lời Đức Thinh rất có thể là đúng. Ta nghe nói khi trước Thăng Triều mang quân đóng trước thành Bạch Hạc như để phòng thủ quân triều đình lấn tới. Nhưng sau này khi có người từ Tống Bình tới mách kế trị Phong Châu, liền cho Do Độc về đất Lâm Tây trấn giữ Man Hoàng, lại cho người dâng cống thường xuyên nên đám quan lại Tống Bình lấy làm lơ là đất đó. Quả nhiên nếu tướng chủ thoát khỏi nạn phản quân Tống Bình thì Thăng Triều làm động thái đó chắc chắn là có ý nuôi giấu quân binh của Thiên thanh tướng chủ. Mặt khác, Thăng Triều trước mặt phó thứ sử Phong Châu Kiều Chung Đạt, bổ đầu Hoa Tài đuổi Lý Do Độc chỉ là che mắt đám ấy, ngầm cho Do Độc về đất Lâm Tây che chở Dương tướng chủ. Dạo gần đây lại có đám người từ Man Hoàng dẫn đầu là một người mang mặt da bò liên tục quấy phá đất phía tây Vũ Bình, Nam Tà Châu. Phải chăng đó là Gã Quỷ. Nghe rằng dân Man Hoàng xưa tết thường không dâng tặng gì vì không phải tục tết của đám man, vậy mà hai dịp tết gần đây, đám tộc trưởng xứ ấy lại dâng bánh chưng, bánh dày, trầu cau, gạo nếp, thịt gà nhiều vô kể cho quan quân Tống Bình. Phải chăng điều mà anh và ta bấy lâu vẫn bàn với nhau đó là sự thật.

Chí Liệt mặt giãn những nếp trăn trở, miệng cười tay mở. Chàng ôm lấy Sĩ Giao mừng rỡ, vội cởi bỏ những xích xiềng trên người Đức Thinh. Chàng phong cho Thinh hiệu Đầu Xà Bổng tướng, tả tướng chinh tây. Ba người đêm đó cùng mưu kế rời binh từ Xích Đằng tây tiến đóng trại dọc bờ sông Đáy đến núi Hương Sơn có suối Yến thì giấu quân lương ở chỗ đó. Cử Đức Thinh cùng anh em đi về đất phía tây huyện Vũ Bình kết nối với đám người Man Hoàng mang quân đánh phá Đỗ Động, chiếm làm căn cứ mưu đánh Tống Bình báo thù Giao Châu.

Tiếng cười nói vang vang từ phía căn lều nhỏ giữa đất trời im ắng của đất châu thổ rộng lớn. Mùi hương rượu nồng hòa quyện với đồng nội mùi đêm, ba người đó kéo cùng chiếc chăn mỏng mà mướt mát mồ hôi trong tiết trời se se. Đợt gió bấc heo may đầu tiên đóng lại những oi ả nắng cháy, khép lại những ngày mưa dầm dề mùa nước dâng cao, để thay vào những ngày tháng trái kết ngọt mọng.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ bảy:

Hội Phong Châu, Quỷ động Man rơi lệ.

Phủ Trường Châu, Đầm long tướng hàng Dương.

Ở hồi sáu, sau khi thiết lập quyền hành ở Giao Châu, Lý Nguyên Gia đã bị các quan tướng dưới trướng chưa thuận theo nên sinh bệnh trầm t.ư.
Trong khi đó Đỗ Tồn Thành bị Đoàn Uyển gạt rằng Thủ Trừng bị trọng ốm nên chàng phải rời về Châu Ái. Nhưng trước khi chàng trở về Ái cũng đã kịp dâng lên Dương Chí Liệt một tướng thủy quân Phạm Đan dũng mãnh, vốn là dân chài thiện lương.
Ở Xích Đằng, Tồn Thành cùng Phạm Đan bắt được Liêu Đức Thinh khi đó làm giặc cướp ngư phẩm ở ven sông. Sau khi Tồn Thành về châu Ái, họ Liêu tìm gặp đến Đỗ Sĩ Giao và Dương Chí Liệt, hai người bấy giờ đã biết được Dương Thanh còn sống và đoán được rằng Dương Thanh đang ở đất Man Hoàng, phía tây đất châu Phong.
Như vậy, liệu rằng có thật như Chí Liệt và Đỗ Sĩ Giao dự đoán hay không?
Hồi thứ bảy sẽ có câu trả lời cho độc giả.
Xin cùng thưởng thức.

Hồi thứ bảy:

Hội Phong Châu, Quỷ động Man rơi lệ.

Phủ Trường Châu, Đầm long tướng hàng Dương.

Sau hai năm với nhiều bộn bề, thứ sử họ Vương châu Phong đã âm thầm vun vén, xây dựng đội quân người Mường, Mán lên đến hơn hai vạn người cùng hơn vạn lính phòng đông đủ sức chống lại đội quân hùng mạnh của các tộc người man phía Tây Bắc, vốn được hậu thuẫn rất lớn từ triều đình đất Quy Nghĩa. Dương Thanh vào đất Man Hoàng cùng với Do Độc huy động đám lính đi theo từ khi trốn khỏi đất Giao Châu, tháng ngày sát cánh với dân trong các khê động đắp đập, xẻ núi lập ruộng, dẫn nước từ chỗ cao đến chỗ thấp, điều hòa con nước dữ dội Đà Giang. Chỉ trong hai mùa lá rụng, dân chúng khắp các vùng xung quanh đều no đủ theo về thất động Đà Giang rất nhiều. Vùng thung lũng dải núi Hoàng Liên trở thành hậu phương cung cấp quân lương cho đội quân ba vạn người của Phong Châu cùng hơn ba mươi châu cơ mi lệ thuộc vào châu Phong.

Những đối sách mềm dẻo của Thăng Triều với chính quyền Tống Bình giúp họ Vương có chỗ đứng và ảnh hưởng rất lớn ở An Nam. Hàng tháng Phong Châu đều dâng nộp đầy đủ thuế sưu, lại cho người tìm sản vật, thú hiếm cống nạp thường xuyên khiến Tống Bình càng yên dạ mà không có chút mảy may nghi ngờ quân dân châu Phong. Kiều Chung Đạt sau khi dùng mưu đuổi viên tướng trẻ tuổi Do Độc tới miền biên ải đã được Vương Thăng Triều tín nhiệm làm đến phó thứ sử được tự do ra vào phủ thành, ăn cùng bàn, ngủ chung lều trại với Thăng Triều khi có chiến sự diễn ra. Thấy sự mềm dẻo của Thăng Triều với quan đô hộ, Chung Đạt hỏi Thăng Triều:

- Thuế sưu ta không phải có dư thừa để nộp cho Tống Bình. Trong khi đó các châu quận phía nam mấy vụ nay đều tỏ vẻ bất tuân. Vậy mà ngài còn sai người tìm kiếm sản vật quý hiểm, chim trĩ, chim công, kỳ thạch dị thảo để cống nạp chẳng phải là để bọn đó nhờ vậy mà giương giương tự đắc hay sao.

- Chung Đạt nói phải. Nhưng những thứ kỳ hoa dị thảo đó, dân ta đâu có thể mang ra mà ăn, đâu có thể khiến lương thực đầy kho. Chi bằng mang thứ đó dâng cho bọn chúng mà dân ta được yên, Phong Châu tránh được nghi kỵ của Tống Bình. Xưa bao gương vẫn còn đó, chỉ vì chút cống nạp không vừa lòng bọn đó mà dân chúng bị xéo giày, kẻ cầm đầu còn bị mang ra chém vì tội khi quân. Nay thóc lúa còn chưa thể an định quân tình, nuôi dânt độ thế chúng sinh Phong Châu, dâng những thứ đó mà thay cho lương thảo, ấy là thượng sách.

Chung Đạt nhận thấy tấm lòng trượng nghĩa của Thăng Triều mà càng dốc lòng phò giúp Thăng Triều. Viên bổ đầu Hoa Tài là thân hữu của Chung Đạt nhờ đó mà được lãnh quân tinh nhuệ thành Bạch Hạc. Tài dẫn quân tinh nhuệ Bạch Hạc đã cùng quân đội Tống Bình đánh nhiều trận ác liệt bên bờ sông Lô diệt đám quân phản loạn người man từ dọc biên giới phía Bắc châu Bình Nguyên tràn xuống.

Phong châu bấy giờ trở thành tiền đồn chặn đánh mọi sự thâm nhập từ vùng biên ải phía bắc, một cứ điểm hậu phương vững chắc cũng là nơi mà An Nam đô hộ sứ Trọng Vũ hết mực tin tưởng. Lý Nguyên Gia tiếp nối cũng dựa vào sức Phong Châu mà lệnh các châu quận vùng châu thổ. Chỉ còn các châu quận phía nam phần nào còn nằm ngoài vùng kiểm soát của Tống Bình.

Hơn nửa năm trôi qua làm quan đô hộ đất An Nam, Lý Nguyên Hỷ thấy dân nam còn nhiều nơi hoang dã, thờ phụng thánh thần còn thiếu xót, chưa theo lệ người Hoa Hạ nên cứ dịp tiết lễ lại mở hội khắp nơi. Theo đó cứ ngày rằm, mồng một hàng tháng Nguyên Gia đến các huyện xung quanh Tống Bình cùng đám hương hào soạn sửa lễ vật, nhang đèn khấn vái sơn thần, thổ địa, hà bá. Các đền thờ, miếu mạo cho phục dựng trở lại thờ cúng như trước đây. Các quan địa phương, thổ hào phải để ra một phần sản vật cống nạp, thuế tô để làm lễ dâng lên thánh thần tại đất mình cai trị.

Ngày thất tịch mùa thu năm Quý Mão, đất Phong Châu, thành Bạch Hạc thứ sử Thăng Triều mở hội cho binh lính lâu ngày trở về đoàn tụ với vợ con, gia đình. Những người vợ có chồng đóng quân tại vùng biên ải xa xôi được đăng ký với quan địa phương mà tới gặp chồng. Tiếng trống hội tưng bừng, nô nức những khuôn mặt rạng ngời. Nước mắt, niềm vui vỡ òa tràn ngập không khí náo nhiệt vùng đất Phong thổ. Ai cũng kiếm cho mình một chỗ để hàn huyên, gắn kết thứ tình cảm mà bấy lâu nay chẳng có cơ hội được thể nguyện.

Biết bao nhiêu câu chuyện mà họ còn đang kể cho nhau nghe, bao nhiêu những món quà muốn gửi gắm tới người yêu thương. Tiếng cười nói huyên náo thành nhỏ Bạch Hạc. Những đôi dép gỗ, những chiếc áo gụ, khố bông, hay chỉ là cuộn chỉ màu, chiếc kim nhỏ làm tin. Tiếng vó ngựa, xe gỗ nườm nượp ra vào thành, ai cũng cố gắng bằng mọi cách thuê mướn dân trong thành và vùng lân cận một con ngựa hay chí ít cũng là một con lừa, con trâu để cùng người yêu thương tận hưởng ngày đoàn tụ.

Mấy cô gái đến tuổi cập kê cũng rủ nhau khâu áo mũ, túi thơm, khăn thổ cẩm, đan vỏ kiếm, bầu nước đến thành Bạch Hạc mong kiếm được một tấm nam nhi uy dũng. Một toán lính tráng chưa có gia đình tìm theo những điểm dấu mà đám con gái đó để lại. Bọn con gái mách nhau vào chơi mấy trò để tăm các anh lính nhìn khù khờ lơ ngơ thì bắn tiếng chạy đến bờ suối, bờ sông mà hẹn hò đôi lứa.

Trời gió mây vũ vần, đen kín bầu trời như thể sắp sập xuống. Có cô gái lặn lội một tuần trời, đội mưa đi từ đất huyện Thái Bình, tay xách nách mang nào mũ áo, khăn ấm, địu trên lưng đứa trẻ răng cửa còn chưa mọc đầy bốn chiếc. Ánh mắt cô long lanh, tiếng khóc nức nở nhìn thấy anh chồng mặt mũi khôi ngô, khỏe mạnh. Hai người ôm lấy đứa con trong buổi sáng lộng gió, mây đen kéo đến sầm trời như muốn ập cả trời nước xuống ngay.

Phía đông nam là những khuôn mặt sứt sẹo đẫm lệ, những đôi chân không còn vẹn nguyên, hay những cánh tay đâu đó bị thiếu khuyết của đám thương binh. Mấy bà, mẹ cùng lũ trẻ con dìu những người lính đó tìm hỏi xe ngựa hay dò xem có người nào chung đường về thì nhờ ké để về nhà. Những người khác, bám lấy bờ vai sờn chỉ, áo yếm vá chằng vá chịt, đầu quấn tóc tròn vành như bu thóc nặng trĩu, cà nhắc đi ra khỏi thành chẳng chút vấn vương.

Lặng lẽ một góc phía nam, ngồi cạnh chỗ con trẻ vui đùa có bà mẹ già dắt tay đứa cháu gái lơ thơ ánh mắt xa xăm nhìn len lỏi vào đám người mà ngóng trông người con, người cha của họ. Có anh lính nhìn thấy bà lão, anh ân cần hỏi:

- Bà tìm con trai hay chồng? Đóng quân ở nơi nào.

- Già tìm con trai. Lão dắt cháu từ Chu Diên tới đây. Ba năm trước nó bị bắt đi lính, quan huyện báo cho già là nó làm lính phòng đông, theo tướng họ Lý đóng ở đất Lâm Tây.

- Vậy già cùng bé hãy đến đằng kia. Chỗ có cây đu và đám người mặc áo thổ cẩm đó. Đấy là lính phòng đông, đất Lâm Tây.

Bà lão dắt đứa cháu mặt mày nhuốc nhem, đôi chân mảnh khảnh run run, bà đội nón rách, chống cây gậy đay kho giòn dắt đứa cháu đi. Đứa nhỏ nhìn xung quanh vui vẻ, nói cười, trẻ con nô nghịch mà đôi tay như muốn rời đi nhưng đôi tay cỗi già chẳng buông nên nó chỉ dám nhìn theo với ánh mắt thèm thuồng. Đôi chân nó lặng bước theo sức kéo của bà lão đang dắt nó đi phía trước. Bà nhìn thấy một vị tướng oai phong lẫm liệt, tóc tai lòa xòa như lông gấu, tay chân chằng chịt những thớ sẹo. Bà vỗ vai hỏi từ phía sau:

- Này vị tướng quân kia ơi. Cho già hỏi chút chuyện.

Vị tướng quân quay mặt lại, mặt mang miếng da bò, gớm ghiếc khiến bà lão cùng đứa trẻ kinh hãi. Đứa trẻ sụng sịu, sợ hãi thét lên:

- Bà ơi. Quỷ dữ.

Vị tướng quân nở nụ cười, mặt mũi càng thêm hung tợn. Bà lão lấy lại bình tĩnh mà hỏi:

- Tướng quân bớt giận. Trẻ con không biết điều, già xin về bảo ban nó.

- Bà lão có điều chi muốn hỏi ta.

- Già tìm con trai. Cha của đứa bé này. Ngài có phải tướng quân đất Lâm Tây họ Lý không.

- À, ta không phải họ Lý. Ta họ Đỗ tên là Thượng. Sinh ra có bớp dị dạng nên đeo miếng da bò, người ta gọi ta là Ngưu Diện. Già tìm ai, người đó tên gì. Mẹ đứa bé đâu mà lại để mình già đến đây.

Bà lão xin ngồi xuống để kể lại câu chuyện cho vị tướng quân. Bà lấy tay mà lau hai dòng nước mắt còn lăn dài trên má, miệng mếu máo lộ ra hàm răng đen lô nhô vài chiếc mọc xiên ngang dọc. Bà khóc như nhà có đám:

- Khổ thân cho già này lắm, tướng quân ơi. Cái giống gãi đĩ già mồm, lẳng lơ đó. Nghĩ đến thôi già chỉ muốn cầm dao giết quách nó đi. Con trai già là Lê Đáng, ba năm trước nó bị bắt đi lính. Quan huyện bảo nó đi lính ở đất Lâm Tây, theo vị tướng quân họ Lý. Mấy năm nay chiến tranh liên miên, chẳng có tin gì của nó. Người trong làng giải ngũ về thì báo nó chết rồi. Có người nói với già gặp nó ở thành Bạch Hạc khi quân họ Lý bị đám quân lính Dương gì đó giết. Rồi người trong làng bỏ đất mà đi, mẹ con bé không có chồng ở nhà gian râm t.ư thông với thằng cường hào họ Cẩu, theo bọn chó ấy mà đi. Bỏ lại đứa con gái cho lão.

- Ta có người anh em làm điểm quân đất đó. Để ta hỏi giúp già. Mà chẳng hay lão có một người con trai đó thôi sao.

- Lão có cả thảy sáu đứa con gái, đến khi đẻ ra được mụn con trai thì ông nhà tôi bị cướp giết khi đi gánh hàng cho dân thương người Hoa Hạ đi qua đất huyện Nam Định. Mấy đứa chị của bố đứa bé này gả hết cho nhà người ta. Còn hai đứa con gái cũng đành phải bán chúng nó làm nô tỳ cho nhà người ta. Khi cha nó đi lính, chẳng đứa con gái nào về nhà thăm hỏi mẹ chúng nó lấy một lần. Mỗi lần dỗ cha chúng nó, bọn nó lại vác cái mồm về ăn xong lại cắp đít mà đi, đứa lớn ganh tỵ đứa nhỏ, đứa này đứa kia nói nhức đầu inh tai. Bấy giờ già đuổi hết chúng nó đi, cấm cửa chúng nó quay lại. Bây giờ con trai già chẳng biết chỗ nào. Lại có đứa con dâu mèo mả gà đồng, thân cũi cực mà chỉ muốn trầm mình xuống sông sâu cho xong cái mạng. Mà nghĩ thương con bé, hai bà cháu đi xin ăn ở huyện thành này đã hai năm nay. Chỉ mong tin từ cha nó.

- Bà lão thật tội nghiệp. Nếu già không chê thì ta giới thiệu già đến người bạn ta ở bên kia Đà Giang, ở núi Tản có một nông trang.

- Già lớn tuổi rồi, không làm được việc gánh nước, cấy cầy. Giờ chỉ mong tìm được cha con bé, thân già mới nhắm mắt nằm xuống được.

Có một người nhỏ con, miệng ngoạc như ếch, mắt treo như cáo, cưỡi ngựa chạy đến chỗ vị tướng quân mặt mày hung dữ. Bà lão nhìn người đó, chữ trên cờ vai áo in chữ nhìn quen quen. Bà chỉ tay hỏi:

- Vị đó có phải Lý tướng quân không.

- Lão ơi. Tay họ Lý đó đã bị Dương Thanh thiên tướng giết từ lâu rồi. Cờ trên vai áo người đó đúng là chữ Lý, nhưng không phải tướng họ Lý mà lão tìm đâu. Mà đúng rồi, đó là anh bạn mà ta vừa nhắc đến. Người đó quản binh đất Lâm Tây. Để ta dò hỏi giúp già.

Gã khệnh khạng chạy ra, tay giữ chắc cương ngựa, miệng hớn hở mừng hỏi:

- Anh ba. Có việc này muốn hỏi nhờ anh ba.

Anh chàng trên ngựa tay bám vào yên ngựa, mắt liếc láo xung quanh. Quay lại rón rén hỏi gã, đầu liên tục lắc về phía trái có đám lính tráng của viên cựu bổ đầu Hoa Tài. Gã hung dữ hiểu ý, kéo ngựa vào một chỗ kín đáo. Anh chàng xuống ngựa phía bên phải lưng ngựa. Chân trái bước thọt, cất giọng hỏi gã hung dữ:

- Ta với chú không quen. Có chuyện chi muốn hỏi.

- Khe khẽ thôi anh. Anh quản lính Lâm Tây, cho em hỏi chút chuyện. Bà lão cùng bé gái kia đi tìm một người tên là Lê Đáng. Hắn đi lính đến nay đã ba năm rồi.

- Để ta về dò hỏi rồi sẽ báo lại cho ngươi. Mà Lý Do Độc cho tìm ta cùng Lý Toàn có chuyện quân cần gấp. Nhà ngươi và tên Hoa Tài sẽ ở đây đôn đốc đám lính trở về quân ngũ sau khi mặt trời xuống bóng núi tây. Mà nhà ngươi chớ có quen miệng mà một lời anh ba, hai lời anh Hoàng. Ta là Đỗ Thương. Tiên phong trung tướng Lâm Tây Đỗ Thương. Tính ra cấp bậc thì nhà ngươi còn kém ta một bậc. Việc quân tình, không có anh em. Nhà ngươi cũng chớ có uống rượu mà buột miệng Dương Diện, Tồn Thăng. Kẻo đầu chẳng còn trên cổ.

- Anh ba nhớ giúp bà lão. Ta sẽ không uống rượu đâu.

Đỗ Thương dắt ngựa ra khỏi ngách nhỏ, oai dũng bước lên ngựa thúc ngựa thẳng về phía tây. Bà lão nhìn mặt người này mà cúi chào. Bóng ngựa xa dần lẫn vào đám người xô bồ phía đó, bà lão dắt đứa trẻ lầm lũi dò dầm những ánh nhìn mong tìm được con trai. Ngưu Diện bước ra, giọng hồ hởi:

- Lão cứ yên tâm. Anh ta là người quản binh đất Lâm Tây. Ắt sẽ có tin mừng báo cho lão. Lão và cháu nhỏ hãy cứ về dịch quán phía tây nam. Chút bạc lẻ này bà lão hãy mua cho đứa bé chiếc bánh nướng để nó ăn. Nếu xét kỹ mà ưng đất núi Tản thì nhắn tiếng cho ta, ta sẽ giúp lão đến trang đó.

Đỗ Thượng dốc trong túi ra vài đồng bạc lẻ, gã cười sảng khoái, lấy manh giáp trên người mặc vào thân gầy gò của đứa nhỏ. Đứa nhỏ môi chề ra, mắt long lanh sáng rực nhìn Gã quỷ. Môi nó lại mím lại như chẳng thể khóc được. Gã Quỷ bái biệt bà lão để đi quản số thương binh được ra quân cùng đám lính được về thăm nhà. Bà lão đến góc chợ đông mua cho đứa nhỏ chiếc bánh nướng thơm phức mùi nếp, nhân đỗ bọc mật. Nó ăn ngấu nghiến, mắt bà lão nhòe đi vì nước mắt. Đứa nhỏ đưa lên cho bà nó mời bà:

- Bà ơi. Cháu ăn no rồi. Bà hãy ăn đi kẻo đói.

Bà lão mỉm cười thỏa lòng cầm lấy chiếc bánh còn một góc nhỏ bằng nắm tay của đứa cháu nhỏ. Bà dắt nó đi về dịch quán phía tây như lời Gã Quỷ. Gã Quỷ ngoái lại phía sau vẫy tay nở một nụ cười. Hắn cằm dao quắm thúc ngựa về bắc. Dặn dò giám quân điểm binh đầy đủ, gã sải bước trên phố, móc trong túi không có chút bạc nào, gã mượn mấy tên lính nhìn trong như đám ăn mày. Bọn đó lắc đầu, gã dọa dẫm chúng mới chịu đưa.

Gã cầm đống bạc vụn vội cho vào chiếc túi nhỏ trong tay áo. Có bóng người bước qua mùi thơm thoang thoảng. Hắn ngước lên nhìn vào xe ngựa, dáng người thướt tha, má đỏ hây hây, tóc bện cao ngồi trong xe ngựa. Nhìn qua tấm vải mỏng, gã quỷ sững sờ đứng lại nhìn theo. Một đứa nhỏ béo mập, tóc trái đào, mặc chiếc áo dài vải lụa màu gụ lao ra khỏi xe theo cây cù rơi ra từ trong xe ngựa. Cây cù lăn tới phía chân gã, xe ngựa dừng lại, đứa bé ngã dập mặt xuống nền đất. Đám gia nô xung quanh vội chạy tới ôm đứa trẻ dỗ dành. Nó không chịu nghe chạy tới chỗ Gã Quỷ cầm cây cù lên.

Gã Quỷ còn như trong cơn mê, đắm đuối nhìn theo chiếc xe ngựa. Cô gái quát mắng đám nô tỳ xung quanh. Giọng nói the thé, inh tai, gã quỷ mắt càng chăm chú nhìn theo cô gái. Vén màn vải nhìn ra, bốn mắt nhìn nhau như tóe lửa. Gã Quỷ vừa nhìn theo cô gái vừa cúi xuống nhặt cù cho đứa bé. Gã lại ôm đứa nhỏ lên vai tay quờ quạng phía dưới. Tay chàng chạm vào bãi phân ngựa. Đám nô tỳ khúc khích cười trêu ghẹo chàng. Chàng phủi phủi vội vào đám cỏ ven đường, mắt vẫn chăm chăm nhìn theo nhan sắc khiến hoa hờn kém hơn. Đứa nhỏ nhặt lấy cây cù lên đánh vào mặt gã, gã giật mình thả đứa nhỏ xuống khiến nó đau. Nó sụng sịu cầm cây dao Gã quỷ giắt bên hông đâm vào giầy chàng. Chàng cảm thấy máu chảy ướt chân mới giật mình tỉnh giấc. Tiếng cô gái nói vọng ra:

- Tồn Lăng, con đừng nghịch ngợm nữa. Mau đi theo cái đi về phủ.

Đứa trẻ cất tiếng nói ngây thơ:

- Con muốn đi xem hội. Muốn được quay cù như anh Thăng Bình.

- Con tránh xa gã đó ra ngay.

Thằng bé vẫn cầm chuôi dao đâm vào giày Gã Quỷ, miệng nói chọ chẹ vài chữ:

- Tên quỷ. Ta đâm một nhát. Lấy cù của ta.

Gã Quỷ để mặc cho đứa nhỏ giẫy giụa, chàng bế nó lên đưa tới xe ngựa. Đám nô tỳ thấy bộ dạng hắn mà sợ hãi không dám lại gần. Chàng đặt đứa trẻ lên xe, nhìn vào phía trong ánh mắt nặng trĩu, miệng không nói được thành lời. Nàng ta giục cho xe ngựa rời đi thật nhanh, Gã Quỷ nhìn theo mà không sao nói lên lời. Gã lẩm bẩm:

- Giá như… Ngựa đâu, ngựa đâu.

Gã vội vã lên lưng ngựa chạy đuổi theo cỗ xe phía trước. Chiếc xe đi thẳng về phủ thứ sử, đám nô tỳ dắt đứa trẻ còn đang nghịch ngợm, nằng nặc đòi đi xem hội vào phía trong. Nó giẫy nẩy, nằm lăn ra khóc lớn. Cô gái nhả những lời ngon ngọt dỗ dành nó, rồi tặng cho nó một chiếc trống cơm nó mới chịu vào. Nàng đứng lại, sai người dắt xe ngựa vào. Nàng quay lại nhìn Gã. Con tim gã như nhảy ra ngoài, ánh mắt rưng rưng ngước theo. Gã bước xuống ngựa hụt chân mà lăn kềnh ra đất một cái thật điếng người. Nàng ta tiếng lại gần, gã đứng dậy cười hề hề. Nàng ngoảnh mặt quay đi về phía cửa phủ. Gã dồn hết sức bình sinh cho đứng vững, tay run run đôi chân ê mỏi bám vào cương ngựa. Đầu ngựa bị kéo xuống khiến ngựa ngoẹo đầu liên tục rồi lồng lên, chàng một lần nữa bị ngựa hất tung nằm kềnh dưới đất. Thân hình to lớn của chàng lúc bấy giờ như cành tre trước gió, ngả nghiêng mà chẳng thể cưỡng lại được. Nàng quay lại nhìn theo, lòng như muốn cười ghẹo gã mà lý trí nàng không cho nàng cười. Nàng lại cúi mặt bước đi, một mảnh vải hồng rơi xuống bay phất phơ trong gió.

Gã quỷ toàn thân mềm nhũn như sợi nếp vừa nhào, tiến tới nhặt mảnh vải lên. Hương thơm dịu dàng, bàn tay mềm mịn lụa tơ. Chàng cất tiếng gọi:

- Mai. Nàng ơi. Ta là Đỗ Thăng đây. Tồn Thăng đây. Mảnh vải này đây, nó giữ những nét chữ của nàng lưu tên ta và nàng trên đó. Chính nó chứng kiến giây phút ta và nàng ân ân ái ái, thề nguyện biết bao. Vậy mà nỡ lòng nào nàng đánh rơi nó đi.

Nàng đứng quay lưng với gã, tay đưa lên trán chấm những hạt nước vương trên khuôn mặt nhỏ nhắn. Có làn gió thổi tung vạt áo, lộ ra lưng trần áo yếm khiến gã mải miết nhìn theo nốt ruồi son đỏ rực trên làn da mịn màng hông cao phía phải của nàng. Những ký ức ùa về, chàng ngẩn ngơ nhìn theo nàng, ánh mắt nàng liếc nhìn phía sau mà không thể ngoảnh cổ lại. Gã cởi mũ giáp, đặt đè lên mảnh vải bay phất phơ. Gã vụng về đặt xuống mà chiếc dao xuống gây tiếng động lớn khiến nàng giật mình quay lại. Ánh mắt trìu mến khiến chàng loạng quạng tay khứa vào móc dao, máu chảy loang ra khắp bàn tay. Có giọt rơi trên chiếc mũ chàng vừa đặt xuống. Chàng cất bước đi, bước chừng bảy bước chân chàng quay lại gào thét:

- Mai! Ta yêu nàng. Dẫu ta có là quỷ dữ thì ta cũng có trái tim. Ta mê đắm nàng, từng lời nói cử chỉ ân cần của nàng, ta chẳng thể nào quên được. Nàng gọi ta một tiếng chồng, ôi sao mà thân thương. Đến giờ ta vẫn còn lâng lâng. Nàng nói cho ta biết đi. Đứa bé là cốt nhục của ta. Nàng gọi nó là Tồn Lăng. Phải chăng nàng vẫn còn hình dáng ta trong tâm trí. Sĩ Hoàng đã kể hết cho ta. Ta thật không đáng mặt làm chồng của nàng, nhưng hãy để Tồn Lăng có một người cha.

- Đồ quỷ dữ! Nhà ngươi hãy mau tránh xa ta ra. Ta chỉ có một người chồng. Anh ấy là Đỗ Thăng. Con trai ta là con của chồng ta. Nhà ngươi không phải chồng ta. Ngươi lừa gạt ta. Tồn Lăng không có người cha như ngươi.

Gã chạy lại, nàng kinh hãi chạy vào cửa phủ đóng cửa lại. Chàng đứng ở phía ngoài quỳ gối, có hạt nước mưa bắt đầu rơi xuống. Chàng quay bước đi, chàng cúi xuống ôm chiếc mũ lên, trời đổ sập xuống. Những hạt mưa nặng trĩu rào rào chút xuống toàn thân thớ sẹo của chàng, nước cuốn máu đi nhạt dần theo những dòng nước. Chàng quay lại nhìn, khe cửa he hé, chỉ có ánh mắt trộm nhìn từ phía trong nhìn ra. Chàng quăng chiếc mũ lăn lóc dưới mưa đi đến quán rượu. Mai mở cánh cửa bước ra, nhặt lên mũ giáp, mảnh vải chạy vào trong phủ đóng chặt cửa, ôm lấy manh giáp mà khóc nức nở :

- Đồ ngốc. Thật ngốc. Kiếp phận ta thật chớ trêu.

Nàng ngủ thiếp đi, tay giữ chặt mảnh lụa, ôm lấy mũ giáp như thể ôm lấy thằng nhỏ con nàng. Cậu bé chạy lại, nằm cạnh mẹ nó còn đang ướt sũng gù gật ngủ theo.

Bước vào quán rượu, Gã quỷ đập bàn đập ghế gọi ra ba hũ rượu tu ừng ực. Chàng nằm lăn ra sàn. Một người đàn ông bước tới, lay lay gã tỉnh dậy. Gã nằm ngửa ra giữa quán, người đàn ông cầm chiếc ghế dài liên tiếp đầu vào đầu gã khiến người trong quán sợ hãi trốn nấp đi. Gã quỷ như tỉnh lại, đứng dậy gào thét :

- Là kẻ nào đánh ta. Là tên khốn nào đánh ta. Tiểu Mai nàng ơi.

- Tao sẽ giết mày. Tên khốn nạn, kẻ gian râm. Con trai ta chết vì mày, vợ nó cũng bị mày cướp đi. Cháu trai tao… cháu trai tao…

Ông ngồi sụp xuống, tay ôm lấy mặt. Rồi ông bừng dậy, túm cổ gã quỷ kéo lên. Lão gầm gừ:

- Mạng mày không thể trả lại con trai của ta. Cháu ta… Tao giết mày.

Gã quỷ liêu xiêu. Thấy cổ họng tắc nghẹn, gã dùng cánh tay giáng một đòn mạnh vào phía hông lão đang bóp cổ gã. Lão nằm lăn ra, thổ ra một xô máu. Gã quỷ giương dao quắm lên chém gãy đôi chiếc bàn gỗ. Mảnh vỡ đập vào vai gã. Gã quát tháo :

- Thằng nào vừa đánh vai tao.

Gã nhìn lão đang nằm ôm bụng đau đớn, mặt hoằm hoằm bước đến. Cô gái chạy từ cửa vào ôm đứa bé quỳ gối xuống xin tha mạng cho lão. Hắn nhìn cô gái một lúc, bốn mắt nhìn nhau thẫn thờ dưới cái nhìn ngây ngô của đứa nhỏ. Đứa nhỏ rung tay mẹ nó hỏi :

- Cái ơi. Gã quỷ hung dữ lấy cù.

- Hắn là cha con. Đó chính là cha con.

Nàng nhìn hắn đăm đăm, trách móc gã :

- Nhà ngươi đã thỏa mãn chưa. Xin hãy tha cho cuộc sống yên bình của chúng ta. Tha mạng cho cha ta. Ông ấy chưa đủ đáng thương hay sao. Ngươi hãy mang đứa bé đi. Hãy tha cho ông ấy.

Gã thở phì phò, hơi rượu tràn ngập quán. Có tiếng kiếm giáp loạt xoạt, viên bổ đầu chạy vào quán hỏi lớn:

- Có chuyện gì hỗn loạn ở quán của Lão Đỗ. Kẻ nào khiến lão hộc máu nằm dưới sàn.

Gã Quỷ nhìn ra, khuôn mặt như đã từng gặp. Gã quỷ bước lại gần, phả hơi rượu vào mặt tay bổ đầu. Gã cười phá lên khiến đứa trẻ sợ hãi ôm núp vào người mẹ nó. Viên bổ đầu quát mắng :

- Là ngươi. Gã dị dạng kia đến gây chuyện có phải chăng.

Lão Đỗ nằm dưới đất, ôm bụng không nói được ra hơi. Viên bổ đầu dìu ông lão dậy. Ông lão ngồi dựa vào chiếc cột lớn trước quán thì thào, chỉ chỏ vào cô gái cùng đứa trẻ :

- Là cô ta gian râm với gã. Giết chết con trai ta, nay lại sinh ra nghiệt súc kia.

Gã quỷ mắt lờ đờ, cơ thể gã phanh trần khiến mọi người kinh hãi. Gã nhặt dao quắm bước ra ngoài quán. Sấm chớp ùng oàng, gã bước đi giọng lẩm nhẩm :

- Giết một làng chài lương thiện, giết một lũ cướp, giết con, giết cha, cướp vợ nợ cả một đời đứa trẻ. Trời giết ta đi. Kẻ bất trung, bất nghĩa, vô thường, vô đạo.

Tiếng sét đánh rát tai. Cô gái ôm chặt lấy đứa nhỏ nước mắt đầm đìa mà chẳng thể nức nở, toàn thân nàng che chở cho đứa nhỏ. Viên bổ đầu sai người dọn dẹp quán, gọi lang đến trị thương cho Lão Đỗ. Bổ đầu lao ra đường mưa lớn. Chàng tìm thấy Gã Quỷ đang nằm trên góc phố, người chạy qua lại hối hả tránh mưa chẳng thấy gã nằm giữa phố, ôm lấy dao quắm lớn. Viên bổ đâu gọi lớn:

- Này tên trời đánh Dương Diện. Gã Quỷ Tồn Thăng.

Chàng xuống ngựa, lấy một gầu nước mà người dân đang hứng mưa dốc hết lên đầu gã. Gã choàng tỉnh dậy. Tay dấm máu gã cầm chắc lấy dao kè cổ viên bổ đầu. Viên bổ đầu lúng túng đỡ chiêu của gã say. Viên bổ đầu cười lớn :

- Gã quỷ Dương Diện. À không, Ngưu Diện. Quân lính còn chưa điểm, cớ sao lại vào quán rượu gây chuyện. Chẳng phải nghe nói anh đã thề bỏ rượu rồi sao.

Gã cố gắng tìm lại chút ký ức trong đầu. Gã ôm đầu, vò tóc bứt tai. Gã hỏi :

- Anh là gã nào mà nhìn quen quen.

Anh chàng co chân lên đạp đạp xuống dưới đất như đang chạy thật nhanh. Dáng chạy thoăn thoắt như khiến gã quỷ nhớ ra điều gì đó. Gã lẩm nhẩm :

- Tốc, tốc. Cái gì tốc, tốc. À Cước Tốc.

Đôi chân hắn tăng tốc, những bước chân như thiêu cháy mặt đất còn ướt đẫm nước mưa. Gã Quỷ như nhớ ra mọi điều, nói lớn :

- Là Hỏa Cước Tốc. Cái tên tiểu tử xung quân ở Tống Bình, chạy đuổi theo Sĩ Hoàng đến Bạch Hạc bị bắt trói. Nhà ngươi làm gì mà ăn mặc như đám sai nha.

- Ta là bổ đầu huyện Gia Ninh. Nay tới Bạch Hạc có tin cần báo với thứ sử. Đi ngang qua quán rượu của Lão Đỗ thấy có hỗn loạn ghé vào dò xét tình hình thì thấy anh ở đó. Mau kể ta nghe, hai năm qua các anh vào động Man Hoàng có nhiều điều hay ho chứ.

Gã quỷ ôm lấy Đinh Tráng, hai người dắt nhau vào quán rượu gần đó. Tráng mời Thăng uống rượu nhưng Gã Quỷ chối vì sợ có kẻ nhìn thấy. Gã như bừng tỉnh từ đó, quên hết đi chuyện khi nãy. Hai người hỏi han tình hình trong thành, ngoài động hơn hai năm qua.nh Bạch Hạchương phụ lão huyện Tống Bình đến trước cửa thành Đại La họp bàn để dựng Đi Đ Tráng kể lại mọi chuyện về Tiểu Mai cho Thăng.

Hai năm qua, Mai được thứ sử Thăng Triều nhận làm vú nuôi cho thiếu chủ Thăng Bình, thằng bé cháu gọi Thăng Triều là ông nội. Cha của Bình là Vương Hùng, con trai thứ hai của thứ sử Phong Châu. Anh chàng vốn tính phong lưu, hơn ba năm trước đến vùng đất người Lão đất t.ư Nông châu, phải lòng một cô gái người Lão. Chàng cưới cô gái đó về làm vợ, đến gần ngày sinh cô gái bỗng dưng hóa điên dại. Người trong phủ cho là cô bị tà ma nhập vào, thứ sử sai người mời thầy cúng đất t.ư Nông đến cúng ba ngày ba đêm, cho uống thứ thuốc có quả đu đủ xanh ngâm với dứa rừng. Nàng ta uống vào thì dứt ngay bệnh. Thăng Hùng lấy làm mừng tặng cho thầy cúng hai chục lượng bạc, vải lụa vài chục thước. Ba ngày sau, thầy thuốc xin cáo lui về t.ư Nông. Vừa rời đi, nàng ôm bụng đau đớn, bấy giờ có người mách cho gọi Lý Lang Mộc cha của Do Độc tướng quân tới. Lang Mộc hỏi xét bệnh tình, bắt mạch kê đơn nói với Thăng Triều « Bệnh tình của thiếu phu nhân không thể chữa. Người mang thai ăn đu đủ cùng dứa, khiến thai nhi sớm tụt, bên trong người phụ nữ sẽ đẩy đứa bé ra ngoài sớm. Sức khỏe của thiếu phu nhân chỉ e không qua khỏi. »

Đúng một ngày sau, đứa bé ra đời. Thăng Triều nghe lời Lang Mộc rạch bụng nàng ta mà cứu lấy đứa nhỏ. Vài canh giờ sau, nàng ta mất máu mà chết đi. Thăng Triều giấu biệt chuyện này không cho người ngoài biết. Cho đến khi gặp được Tiểu Mai tại bờ sông Tam tỉu, Thăng Triều mới nhờ nàng ta vào phủ trông nom đứa bé. Vương Hùng sau khi người vợ chết, suốt hai ngày liền chàng ngồi cạnh quan tài chẳng nói chẳng rằng, không chịu ăn uống. Đứa bé sinh ra thiếu mẹ, nuôi bộ bằng nước gạo chừng hai tháng, chàng chăm chút từ những điều nhỏ nhất. Khi Thăng Triều đưa cô gái mang bầu, giàu sữa về phủ, chàng nhận Mai làm vú nuôi cho đứa bé. Bấy giờ Hùng cũng tỉnh cơn mê muội, chăm chút cho cô gái cùng Thăng Bình.

Về phía cha chồng của nàng, Lão Đỗ sau khi ở ngục ra, Lão tìm đến phủ hỏi chuyện. Mai nói với Thăng Triều cho Lão làm gia nô trong nhà, Triều ưng thuận cho Lão cùng nàng Mai hàng ngày trông hai đứa nhỏ. Lão yêu quý Tồn Lăng, cùng Thăng Bình như hai cháu ruột của mình. Nhiều lần bị hai đứa nhỏ phá phách, ông câm lặng nhận hết lỗi về mình, mặt khác dạy bảo bọn chúng lễ giáo. Tính tình hào sảng, yêu thương mọi người xung quanh mà phải chịu ngục tù chừng đó thời gian cũng không khiến tính tình lão thay đổi. Thăng Hùng thương lão già yếu nên cho quản viên phía cửa sau của phủ. Lão hay uống rượu nên thường xuyên ra quán rượu giao kết với nhiều người, lâu ngày Lão thành người dẫn đường cho lắm kẻ có chuyện to nhỏ cần nhờ đến các viên quan lại Phong Châu.

Quán rượu ngay phía sau hậu viên của phủ thứ sử nên lúc nào cũng tấp nập người qua kẻ lại. Sĩ Hoàng đút lót cho viên phó đô hộ Kiều Chung Đạt mà giữ quán đó, làm ăn hái ra của. Có nhiều kẻ mang nghìn lượng bạc ghé tới quán rượu, khi xong việc lại hậu hĩnh thưởng cho Lão Đỗ cùng đám tiếu nhị ở đó. Cứ mỗi độ lễ tết, Chung Đạt cùng đám Hoa Tài, cường hào đất Phong Châu tới đây tiệc tùng suốt ngày. Sĩ Hoàng dặn Lão Đỗ đón tiếp chu toàn, sau lại tặng gấm vóc, chim chóc, thú rừng cho đám người đó. Có người mách với Thăng Triều, Triều chỉ lắc đầu mà chẳng thể làm gì được đám người đó.

Một hôm say rượu tại quán rượu đó, Thăng Hùng đã buột miệng gọi Sĩ Hoàng khiến Hoa Tài giật mình cho người dò xét tung tích của Hoàng. Sĩ Hoàng đút túi đám người ở đó mỗi kẻ hai chục lượng bạc, đám người đó nói với Tài người biết, kẻ không hay đều không hề hay biết gia thế tên Sĩ Thương đó. Chỉ biết hắn là người đất Lâm Tây, thường xuyên vào phủ thứ sử bàn chuyện với Vương Thăng Triều.

Đêm hôm đó, Sĩ Hoàng bực tức trở về đất Lâm Tây, cho gọi Lý Do Độc cùng gã quỷ Dương Diện để thuật lại cho hai người đó nghe. Do Độc cho là Sĩ Hoàng đã xử sự đúng. Cũng may mắn, nàng Mai ở cạnh Thăng Hùng khiến Hùng không tỏ ý nhắc lại chuyện ngày trước của Sĩ Hoàng cùng nàng và Lão Đỗ. Gã Quỷ bấy giờ biết tin nàng ở trong phủ mà người anh họ Sĩ Hoàng giấu kín bấy lâu nay. Gã hỏi Sĩ Hoàng chuyện về nàng.

Nàng Mai từ nhỏ là nô gia họ Phạm ở Chu Diên, trước được mai mối gả cho người anh em của Sĩ Hoàng ở toán cướp Lục Bạch Hổ. Gã đó cũng họ Đỗ, tên Thăng, người vạm vỡ vào sinh ra từ cùng Sĩ Hoàng bao phen. Cha mẹ anh ta vốn người hiền lành, chất phác ở Đỗ trang phía chân núi Tiên Du. Sau khi toán cướp Lục Bạch Hổ tới bắt dân làng, thanh niên trai tráng lên núi làm cướp. Đám cưới của anh cùng với nàng Mai đang diễn ra, nàng còn chưa đi tới nhà chồng, gã Nhị Hổ lệnh cho Sĩ Hoàng cùng Thăng gấp rút trở về núi để chuẩn bị chống trả quân lính Tống Bình đang dẫn năm trăm lính giáp tới núi Tiên Du. Lão Đỗ cắn răng đành phải cho Thăng đi cùng đám cướp. Đoàn đưa dâu tới, nàng Mai hậm hực vào trong phòng mà khóc. Mẹ chồng nàng dỗ dành, nói rằng khi chập choạng chiều tối mai, có đám con gái ở làng lên núi đó thăm chồng thì đi theo đám đó lên núi tìm chồng. Hôm đó nàng chưa quen đường nên bị lạc lại phía sau. Gã quỷ Tồn Thăng bắt được nàng, giống như những gì nàng đã hình dung về người chồng, nàng nghĩ trong đầu rằng đó là chồng mình nên đã thề non hẹn biển rồi trao thân cho Gã. Đến khi về nhà, nàng tả lại, vợ chồng Lão Đỗ nhận đó là con trai mình. Hai ngày sau, Sĩ Hoàng quay về nhà Thăng báo lại cho ba người đó rằng Đỗ Thăng đã bị quan quân giết chết. Bà mẹ khi đó, ngất lịm đi mấy ngày chẳng chịu ăn uống, kiệt sức mà chết. Lão Đỗ đành chôn bà dưới chân núi đó, dẫn nàng Mai quấn khăn trắng chịu hai tang chạy theo Sĩ Hoàng đến núi Long Tuyền. Sau đó nàng đi tới cạnh dòng Tam tỉu buôn bán thoát khỏi cảnh sống động núi. Sĩ Hoàng bị Thôi Kết tìm bắt, nương nhờ chỗ nàng và Lão Đỗ.

Hỏa Cước Tốc được lệnh truy tìm tung tích của Hoàng, gặp ba người đó cùng Thăng Triều. Thăng Triều thấy Đinh Tráng có tài chạy nhanh như ngựa, lại giỏi võ nghệ cho Tráng làm sai nha ở huyện Gia Ninh. Nửa năm sau, bổ đầu huyện đó bị lính của Dương Chí Trinh giết chết, Triều ủy cho Tráng làm bổ đầu huyện đó. Đến ngày thất tịch, Tráng dẫn Chí Trinh vào phủ Thứ sử diện kiến, đi tới quán rượu gặp được gã Quỷ.

Hai người nhâm nhi vài tách trà, vài ba câu chuyện được kể lại. Chuyên nước còn lưng, có tên sai nha chạy vào báo tin phía nam đất châu Phong xảy ra chuyện. Hỏa Cước Tốc cáo biệt Gã Quỷ về huyện nhận lệnh giữ thành. Gã Quỷ tập hợp binh mã trở về đất Lâm Tây.

Không mũ giáp, tay còn vương máu đỏ tươi, người nồng nặc mùi rượu dẫn quân về trại lại mang thêm tội gây gổ trong thành, chút nữa bị lộ thân phận nên Do Độc lấy làm giận. Khi trở về quân doanh, Lý Do Độc phạt gã năm mươi roi, cho người đọc lệnh trạng trước toàn quân. Hạ hai cấp, dẫn năm trăm lính đóng ở phía đông Đà Giang.

Sau lễ hội thất tịch thành Bạch Hạc, Sĩ Hoàng kiểm quân không thiếu một người, số trâu bò mang từ đất Man Hoàng đến vùng trung du đổi lấy được số ngựa lên đến nghìn rưỡi. Hoàng đem giao lại số quân mới tuyển mộ cùng ngựa đó cho tù trưởng Thất Động. Trong lính, mọi người gọi người đó là Thanh thiên thất oản Động chủ. Người này dáng vẻ oai dũng, tay cầm thương dài lưỡi đồng đen sắc lẹm, cung lớn khoác trên vai. Hoa văn họa tiết chi chít trên khuôn mặt, cánh tay và mắt cá chân. Động chủ mặc chiếc áo vải màu đỏ thẫm, viền xanh thiên thanh, đầu đội mũ lông chim ưng, kết móng vuốt và mỏ đại bàng xung quanh, quanh sống mũi xâu lỗ lớn buộc dây sợi dát vàng. Mái tóc đen dài, búi thẳng dựng đứng lên, trên đỉnh đầu có búi tóc dài rủ xuống quá xương vai. Người này sai Sĩ Hoàng điểm binh mã rồi dẫn toán binh mã đó đi về phía tây mổ trâu, mở tiệc rượu khao tướng sĩ.

Trăng treo đỉnh núi, Lý Toàn mặc chiếc áo xanh, quần vải màu đỏ viền vàng, quấn sợi mây ngang hông, buộc tóc bằng thứ vải màu đỏ cưỡi ngựa không cương chạy tới báo tin. Vị tù trưởng nghe tin đất huyện Vũ Bình bị một đám quan binh phía nam cướp phá. Viên tướng giữ thành là Thi Nguyên đã thủ thành hơn một ngày mà không thấy quân Tống Bình tiếp viện. Thứ sử Phong Châu nhận được lệnh từ Tống Bình điều quân từ Phong Châu và Man Hoàng đến cứu huyện Vũ Bình.

Vị tù trưởng đưa thanh quế dọc ngang mũi hít hít mấy hơi, giọng khà sảng khoái, gọi Lý Toàn vào trong nhà sàn, tức tốc cho người báo tin cho Đặng Hoài cùng Triệu Cường từ các khê động phía tây dẫn lính tới. Trong đêm Lý Toàn cầm ba nghìn lính đi dọc theo sông Đà hợp với quân Phong Châu của Thăng Triều đóng tại đất huyện Thái Bình. Đặng Hoài dẫn năm nghìn lính đi từ các khê động phía tây vòng qua chân núi phía nam Tản Viên đóng quân phía tây thành Đỗ Động. Viên tù trưởng cùng Gã Quỷ, Triệu Cường dẫn đội binh một vạn người đi theo đất khê động, vượt núi Tượng Sơn đến bắc Trường Châu hòng đánh địch từ phía sau, tìm cướp kho lương, chặn đứng binh lương tiếp viện quân phản loạn.

Quân lính đi đường núi mang hai vạn hộc lương vượt đèo, lội suối mất hơn ba ngày mới ra khỏi đất hiểm trở. Hết dải núi cao là vùng trũng thấp, xung quanh bãi lầy lội liên tiếp dài đến cả vạn dặm. Xung quanh đến mấy mươi dặm đều là nước rêu xanh bèo tấm ngập tràn không có lối ra, không có lấy một bóng người. Triệu Cường sai lính đi dò dẫm đường ra, hai tên cưỡi ngựa đi mãi không sao thoát ra được đành ngậm ngùi quay về. Thiên thanh tù trưởng cho gọi đám người thông thuộc địa hình đi về phía đông chỉ thấy nước ngập mênh mông, không thấy bờ. Triệu Cường bàn với Tù trưởng:

- Lẽ nào chúng ta đã đi tới Đông Hải. Trước nghe bọn người Ma Cao Dực đi về phía nam đến núi Tượng Sơn thì đi thẳng theo hướng mặt trời mọc sẽ đến đất người Giao Chỉ, Trường Châu mất độ hai ngày đường. Nay chúng ta đi đã quá ba ngày. Không một bóng người đi qua, chỉ có đám dân trên lưng núi đốt nương.

Viên tù trưởng lấy trong túi vải lớn lấy ra một chiếc áo. Chiếc áo cũ kỹ đã lâu, những đường chỉ đã sờn hết chỉ còn vài nét mực nguệch ngoạc. Hiện lên dưới ánh đèn dầu, ám khí nặng nề cháy bùng lên. Chiếc áo dưới ánh sáng rực rỡ, tấm bản đồ chi tiết thành trì, núi sông bày ra trước mắt tù trưởng. Vị tù trưởng lấy cây bút quệt lên chiếc áo bỗng lửa tắt phụt. Đám lính nháo nhác tìm mồi lửa châm lại đèn đuốc cho Tù trưởng. Vị tù trưởng đã nằm ra sàn từ khi nào, mắt nhắm, miệng cọp ngáy tiếng lớn, chiếc áo khi nãy chùm lên người che lấp đi chiếc áo đỏ thường ngày tù trưởng vẫn thường mặc. Đêm xuống, sương giáng mịt mùng, tù trưởng choàng tỉnh, nhấp một ngụm trà rồi cưỡi ngựa ra phía bờ bãi đất lầy. Phía bắc có đám mây hồng lửng lơ trên đỉnh núi, vị tù trưởng cởi chiếc áo trên người, lấy ánh trăng cuối tháng rọi lên mà lẩm nhẩm đọc.

Vị tù trưởng cho ngựa đi mười vòng quanh bờ đất từ phía chân núi có dãy mây hồng đến dải bờ sông dựa vào núi cao phía nam. Tù trưởng đếm khoảng thời gian, dùng ba cây gậy cắm thẳng hàng từ một điểm phía nam, gióng thẳng hướng tây bắc, dùng thừng đo từ cây gậy cạnh bờ đầm phía nam đến bờ đầm, nhẩm tính trong đầu độ dài của đầm nước. Xét kỹ lại, tù trưởng chắc bẩm trong đầu đây chính là đầm nước phía sau huyện Câu Lậu quận Giao Chỉ xưa. Phía trước đầm dưới chân núi phía nam là đất Hoa Lư, Trường Châu. Tù trưởng dắt ngựa đi về doanh trại, phía đầm nước có đám mây trắng uốn mình sà xuống mặt đầm. Mặt trời ló rạng, chiếu xiên qua màn sương mờ lóe sáng, mây hóa màu vàng, bồng bềnh trên năm đài sen giữa mênh mông đầm nước. Có phiến núi đá vôi tựa đầu rồng từ mặt nước dựng lên. Quanh cảnh hiện lên như chốn bồng lai tiên cảnh, vị tù trưởng thất kinh bái vọng :

- Nếu tiên thần có linh. Xin ứng vào rồng mây.

Bỗng nổi lên trận gió lớn, nước đầm dội sóng ầm ầm vào phía chân vị tù trưởng. Dải mây vàng, uốn lượn hóa thành rồng lớn, ngũ móng bám lấy mặt nước đầm. Đảo đá giữa đầm nhiều những cây lớn như râu mào của rồng thiêng sáng rực ánh hào quang. Tù trưởng quan sát, phía núi đá giữa đầm có chữ lớn hiện lên « Nam thiên đệ nhất trạch ».

Tù trưởng cho người soạn lễ mà dâng lên bãi đất phía tây đầm nước. Sai thầy cúng trong quân khấn vái suốt buổi sáng cho đến khi mặt trời đứng bóng. Tù trưởng lệnh Triệu Cường chặt gỗ trên núi kết làm bè xẻ mây bơi đến đảo đá giữa đầm. Năm lính mạnh khỏe cầm theo lưỡi sắt đục lên đá đó hai chữ lớn « Vân Long ». Khắc xong chữ, mây nước bỗng nhiên xua tan đi, nhìn thấy cây cối mọc mọc um tùm phía đông đầm nước. Từ phía đó đàn cò trắng bay tới rợp trời, đậu trắng bờ đầm. Tù trưởng sai đám lính rắc quanh đầm một thạch quân lương, chỉ trong chốc lát cò bay đi chỉ còn tan tác bụi nước mù trời.

Bấy giờ toán lính đi tuần chạy đến báo tin thấy có lính đi từ hẻm núi phía đông, men theo con đầm nước đi đường núi lên mạn đường phía bắc. Triệu Cường mang hai trăm lính chạy vòng theo dò xét. Một người hàm én mày ngài, dáng người nhanh nhẹn đốc quân chở lương đi từ phía đông nam đi về bắc. Cường rút gươm lệnh cho lính xuống chặn đường toán người đó. Người đi đầu giương giáo hỏi lớn:

- Chẳng hay các người là lính từ đâu tới.

Triệu Cường quan sát trước sau, đoàn người ngựa xếp hàng thẳng lối, tiến cùng tiến, dừng cùng dừng theo lệnh răm rắp. Quan sát có cờ thêu chữ Dương, Triệu Cường hỏi lại:

- Ta nghe lệnh Dương tướng quân đi theo đường núi để dò xét, hễ có đám người chở lương thì xông ra cướp về.

- Ra là anh em. Nhưng trông các người trông thật kỳ quái. Thằng mặc quần thổ cẩm, kẻ quấn tóc như đàn bà. Cờ thêu chữ lạ, đó là chữ chi. Ta chưa trông thấy bao giờ. Phải chăng là cướp Man Hoàng lạc tới chỗ này.

Triệu Cường nhủ lòng đã bị phát hiện, lệnh đám quân xông lên đánh giết, chém vào tải quân lương, quất ngựa lồng đi. Hai bên giao chiến hồi lâu, trời ngả bóng xế chiều, quân lương vung vãi phân nửa. Tay cầm đầu bọn lính dẫn quân lương dùng cây đòn tre to bằng ống đồng người lớn đấu với Triệu Cường hơn bảy mươi hiệp không phân thắng bại. Cường cho quân tháo chạy lên mỏm núi phía nam. Cường gặp một đoàn quân cờ xí ngập trời, dũng khí cao vút từ miền đất bằng phía đông nam đi tới. Viên tướng râu dài, mặt gấu, da đen, cầm xích đao đỏ chót, thúc ngựa trắng chạy tới. Giọng rền vang hô hào:

- Giết chết bọn cướp lương. Không để kẻ nào thoát.

Triệu Cường nghĩ trong bụng không thể chống lại hai toán quân nhiều hơn hẳn về binh lực đành rút chạy đến đầm nước sai lính cởi bỏ mũ giáp nhảy xuống đầm bơi về bờ phía tây. Tay cầm đầu đám người cướp lương thúc mã chạy thẳng phía bắc, không ngoái đầu nhìn lại. Cờ xí quân lương vứt ngổn ngang. Viên tướng uy dũng vuốt râu, giương đao cười lớn:

- Một lũ thỏ đế. Không đáng để lãnh xích đao của ta giương võ.

Triệu Cường ngoi ngóp đến tối mịt mới trở về đến quân doanh. Tù trưởng Thiên thanh trông thấy bộ dạng Cường mà không thể trách phạt hắn. Cường kể lại mọi chuyện cho tù trưởng nghe, tù trưởng bàn với Cường cho quân lính đóng bè, Cường dẫn năm nghìn lính vượt đầm trong đêm. Viên tù trưởng dẫn quân bản bộ vượt khe núi phía nam nhìn xuống đất Hoa Lư. Hễ khi rừng có cháy lớn thì hai bên xông ra cướp thành. Kế hoạch định sẵn, Triệu Cường lập tức cho lính ăn bữa tối, phát thêm quân lương thức trắng đêm để đóng bè, chở người vượt đầm.

Canh ba, gà rừng gáy vang, hai nghìn lính đã vượt đầm hạ trại bờ phía đông. Gã Quỷ cùng năm mươi lính đi từ phía bắc trở về, báo lại cho Tù trưởng:

- Bẩm Dương tù trưởng. Quân ta đi hết núi này về phía bắc có một thung lũng nhỏ, đất bằng phẳng dễ đi có thể đi thẳng được tới đất Vũ Bình. Dân ở đó nói với tiểu nhân rằng chỗ đó có khe nước chảy ra dòng Đáy, có động lớn có thể chứa được một vạn binh. Trên núi lại có nhiều hoa quả thú rừng, có thể săn bắt hái lượm.

- Chỗ đó có người hay chưa.

- Dân vùng đó nói cách đây chừng hai tháng có một toán quân đi từ đất châu thổ đến chỗ đó đóng trại, sau đó thành Đỗ Động bị vây khốn, đám người đó cũng rời đi. Tiểu nhân đã cho người giả làm tiều phu lên núi vào đến cửa động có một đám lính mặc giáp giấy, có rất nhiều cờ thêu chữ Đỗ hoặc chữ Dương. Bên trong có rất nhiều tải lớn nhỏ. Bọn giả làm tiều phu không được cho vào động nhưng thấy cửa động rất lớn, tiếng người trong đó ồn ào vang vang nghe rất rõ.

- Quả nhiên trời giúp ta. Vậy ta sai ngươi mang ba nghìn lính. Mà không, năm nghìn lính đi theo đường đó đi lên phía Bắc. Ta lập tức sai Triệu Hoàng rút quân lại, hướng quân về phía bắc. Chiếm đất chỗ đó thẳng đến Đỗ Động, thay vì đánh đất Hoa Lư, có chiếm được cũng bị bại lộ, phần quân cũng sẽ mất đi rất nhiều.

Gã Quỷ mang năm nghìn quân bản bộ đi trước, hạ trại tại chân núi đó trước khi mặt trời lên. Dương tù trưởng cùng Triệu Cường dẫn số quân còn lại vượt đầm đi theo bờ sông Đáy đến chỗ có khe nước chảy ra từ chân núi thì hạ trại chỗ đất bằng giao giữa khe suối chảy ra dòng sông Đáy.

Giờ Thìn hai khắc, có một đạo tám chiếc thuyền nhỏ đi ra từ phía chân núi. Dương tù trưởng thắp nén nhang thơm khấn vái trời đất, trông thấy đoàn thuyền liền sai lính trên bờ giương giáo gươm nạt nộ. Trên đầu thuyền là người trai tráng khi chiều ngày qua Triệu Cường đã giao chiến. Cường bẩm với Dương tù trưởng, Dương tù trưởng nói lớn:

- Này các anh trai trẻ. Cho bọn ta mượn mấy thuyền vượt sông.

Tên lính bé họng hét lên mấy tiếng nhưng phía bờ không nghe rõ. Tay đi đầu nhìn thấy Triệu Cường cùng đám dân man di, dị hợm, cười lớn:

- Bọn man di, dị hợm. Nhìn tên cầm đầu có khác chi con gà trống. Lại cả đám lâu nhâu phía sau trông thật giống bọn khỉ đột trên núi.

Vị tù trưởng mặc lời nói của chàng trai, nhìn thấy cờ xí mà tên lính dựng đứng trên thuyền liền nhận đám quân lính. Tù trưởng nói:

- Hỡi chàng trai trẻ. Tộc ta trên rừng núi hiểm độc, quanh năm sống chung với loài rắn độc, hùm beo, cú quạ nên mới phải theo bọn đó mà mang trang sức, tô vẽ mặt mày giống bọn chúng để cho chúng khỏi để ý đến bọn ta. Nay nghe An Nam đô hộ điều động về đất đồng bằng đánh dẹp bọn cướp đất ở huyện Vũ Bình. Bọn ta chỉ muốn mượn thuyền qua sông để đến thành Đỗ Động dẹp giặc. Chẳng hay tên họ người anh em là gì. Khi báo công, ta sẽ nhắc người ghi công cho anh em.

- Ta đi không đổi tên, ngồi không đổi họ. Họ Phạm tên Đan. Mọi người vẫn gọi ta là Nô Đan, người huyện Chu Diên, Ngọc Đường trang.

- Là người huyện Chu Diên sao. Trước ta đã từng nghe nói huyện lịnh Đỗ Đại ở huyện đó phản lại quân triều đình mà bị chết thảm thê. Chẳng hay anh em là lính châu huyện nào mà đóng quân trên núi đó.

- Tên quạ không ra quạ, gà không ra gà nhà ngươi chớ có hỏi nhiều. Bọn ta là quân của Đỗ Phụng Quán tướng quân. Nghe lệnh triều đình, dẫn quân Trường Châu để dẹp phản loạn đất Vũ Bình. Nếu cần thuyền vượt sông thì ta sẽ sai người mang thêm thuyền cho các ngươi. Các người hãy ở đây chờ thêm nửa canh giờ nữa ta sẽ quay lại.

Triệu Cường hỏi Dương tù trưởng:

- Ngày hôm qua, người mà tiểu nhân đánh nhau chính là y. Chính y là kẻ đi cướp lương thảo đất Trường Châu bị viên tướng cầm xích đao đuổi đánh phải bỏ lại quân lương.

Dương tù trưởng cuốn cao lọn tóc, lấy nước rửa mặt mũi, tháo sợi chỉ rát vàng xâu qua sống mũi. Vị tù trưởng cởi bỏ chiếc áo, lấy trong tay nải chiếc áo giáp sắt mang trên người. Mũ sắt lông vàng đội lên uy nghiêm cưỡi lên lưng hắc mã Càn Phong. Tay câm thương lớn, uy dũng khác thường. Dương tù trưởng hỏi Cường:

- Nhà ngươi thấy ta có giống một vị tướng oai phong chăng.

Triệu Cường quỳ sụp gối, tay chắp trước ngực dập đầu bái lạy:

- Mong chủ tướng xem lại. Chỗ này nhiều tai mắt kẻ thù.

- Chẳng phải thời cơ đã đến rồi hay sao. Cớ sao lại sợ kẻ thù nhìn thấy.

- Bẩm tướng chủ. Mong người suy nghĩ lại. Phía trước là địch, phía sau là địch. Đề phòng thì vẫn hơn.

Dương tù trưởng cười lớn:

- Là địch hay là thù hồi sau sẽ rõ. Nay ngươi theo lệnh ta, không được chống cự đám người từ động đi ra. Anh ta sai gì thì hãy nghe lời anh chàng đó, không được manh động. Kẻ nào chống cự sẽ xử theo quân pháp.

Dương tù trưởng cho Triệu Cường dẫn hai nghìn lính áp sát chỗ khe suối chảy từ núi ra. Dương lệnh ba nghìn lính chuẩn bị quân lương, thu trại chuẩn bị vượt sông. Nửa canh giờ sau, có đoàn thuyền đến hơn ba mươi chiếc lớn nhỏ đi từ khe núi đi ra. Dương tù trưởng đội chiếc mũ được làm từ lông đại bàng, cho người vẽ lại nét hoa văn trên mặt. Phạm Đan cầm gậy lớn đứng trên mũi thuyền đi đầu, nhìn chằm chằm viên tù trưởng cho thuyền sát vào bờ. Đan nói :

- Thuyền chúng ta nhỏ, mỗi thuyền chỉ chở được hai chục người. Có ba chục thuyền ở đây. Chắc sẽ phải mất chục lượt mới chở hết. Tên đầu quạ kia đi sang trước.

Dương tù trưởng nói lớn :

- Chi bằng cho một nửa số quân sang trước, ta ở lại chỉnh tề quân ngũ. Sang sau cũng chưa muộn.

- Không được. Ngươi sang đó trước. Đám lính sang sau. Không chịu thì các ngươi tự đóng bè mà vượt sông.

- Người anh em bớt giận. Vậy ta sẽ sang bên đó trước.

Tù trưởng nhảy lên thuyền, thuyền nghiêng ngả khiến bọn cầm chèo chống chếnh. Đan quát mắng :

- Lên thuyền nhẹ nhàng, từng người bước lên một.

Dương tù trưởng đứng trước, Phạm Đan đứng phía sau, tay nắm chắc dao găm cùng đòn gậy đề phòng bất trắc. Dương tù trưởng đứng oai phong, tay cầm chắc mũi thương dài, nhìn về phía đông mà thở dài. Bỗng thuyền lắc mạnh, Dương tù trưởng chống thương cắm xuống thuyền. Dao găm kè cổ, Dương tù trưởng đưa hai tay về phía sau, thảo bỏ cung tên, thương nhọn xuống khoang thuyền để cho Phạm Đan trói. Đan quát lớn đám lính còn đứng trên bờ :

- Bọn lính man di. Hạ hết vũ khí xuống.

Bọn lính do dự chưa buông vũ khí xuống. Phạm Đan túm lấy râu của Dương tù trưởng mà xén một đoạn dài. Khi đó họ Dương mới ra lệnh cho bọn lính hạ vũ khí xuống. Từ phía nam đi tới một đoàn người cầm đao kiếm chạy tới hô hào vũ bão. Bọn lính tráng giơ tay chịu trói cả nghìn người.

Phạm Đan bắt trói đám tù binh đi theo đường khe suối lên tới chân núi. Đan sai người trói đám lính hai người một chung một sợi thừng, quay lưng về phía nhau. Triệu Cường dẫn hai nghìn lính rình rập từ bấy lâu xông ra đánh quân Phạm Đan, người trên bờ kẻ dưới cạn cầm giáo gươm, mái chèo xông thẳng về phía nhau. Triệu Cường nhảy lên thuyền hòng cứu thoát Dương tù trưởng đang bị trói. Phạm Đan lắc thuyền nghiềng về một bên, Cường lấy cây sào chống cho thuyền đứng vững, một tay cầm đoản đao như muốn chém Phạm Đan. Đan nhảy xuống suối, lặn một hồi không thấy sủi bọt tăm.

Cường vội cởi trói cho Dương tù trưởng thì cây sào chống bị gãy. Cường đành phải giữ thăng bằng cho thuyền mà chưa kịp cắt đứt sợi thừng. Thuyền bị đục một lỗ lớn phía mạn phải, bỗng thuyền lật nhào. Cường ném hết đao kiếm mà nhảy xuống dưới suối nước sâu, ngoi ngóp bơi vào bờ, đám quân đứng sẵn trên bờ bắt được liền trói dẫn vào động lớn phía trên núi. Phạm Đan kéo họ Dương vào bờ, mặt mũi nhợt nhạt, chân tay tím tái, khuôn mặt vô hồn, tù trưởng ngồi trên mỏm đá nhìn mây trời. Phạm Đan giục giã tù trưởng vào động chịu trói. Dương tù trưởng bước từng bước chậm rãi, mất đến nửa canh giờ mới bước tới cửa động. Dương tù trưởng hỏi Đan:

- Núi này là núi gì? Suối dưới kia là suối gì mà dòng nước chảy cuộn như thác đổ.

- Ngươi sắp chết rồi còn muốn hỏi những điều đó làm chi.

- Chỉ là ta muốn biết nơi ta chết. Sau này báo mộng cho con cháu ta có biết mà khấn.

Phạm Đan cười lớn:

- Núi này không có tên. Suối đó là suối Yến. Lên tới lưng núi có động lớn, không có tên. Đỗ quân sư tìm được động đó nên bọn ta tạm gọi là Động Đỗ. Đất nam Vũ Bình. Hết núi này về phía nam là một đầm nước lớn, mây phủ quanh năm. Nhà ngươi được chết chỗ này cũng là diễm phúc của nhà ngươi.

- Động Đỗ hay Đỗ Động? Chẳng phải Đỗ Động là thành huyện Vũ Bình?

- Nhà ngươi cũng biết nhiều đó. Đúng huyện thành Vũ Bình đã bị chủ ta cướp. Ta ở đây trông giữ kho lương. Các ngươi nghe lệnh Tống Bình mang có từng ấy binh hòng phá quân ta hay sao. Thật đúng một đám dị hợm không biết lượng sức.

Phạm Đan sai người mang cá mang lên động phía trên núi chuẩn bị cho bữa tiệc linh đình. Một tên lính dắt Thiên thanh động chủ lên trên động lớn phía trên. Mỗi bước lên núi, họ Dương như bị siêu lòng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà nên thơ biết chừng nào. Dương đứng lại chiêm ngưỡng kỳ quan thế gian. Cửa động hiện ra trước mắt như rồng chúa há miệng vờn ngọc. Miệng hang hàm rồng rộng lớn, thênh thang hun hút. Trái trái, phải phải, trên trên, dưới dưới từ cửa động bước vào bên nào bên ấy bằng bặn cân xứng nhau như thể bàn tay con người dựng lên. Giữa lối đi vào có nhũ đá như hạt gạo nhô lên, trông như lưỡi rồng nhô lên. Từng bước vào động, họ Dương ngỡ lạc vào cõi mơ, họng rồng mọc lên những nhũ đá tinh khôi, mọc khắp trần hang, vách hang nhiều hình dạng kỳ quái khác nhau. Dưới mặt đất trồi lên những hình thù những lợn, trâu, gà chó, đụn rơm, đụn gạo, trái bưởi, quả cau, cây vàng, cây bạc, lại có cả khánh đá, cà sa nhũ phật… Tất cả như thể một xã hội loài người thu nhỏ bằng đá nhũ kỳ ảo vô cùng.

Bước sâu vào động, Dương thấy lạnh người, tiếng tí tách những giọt nước len qua kẽ đá từ đỉnh núi rơi xuống dòng suối nhỏ như dòng sữa mẹ. Dòng sữa Đất mẹ nuôi dưỡng những rêu phong, cây cỏ xanh mượt lối đi vào. Dương tù trưởng đứng ngẩn ngơ mà không hay biết mình đang bước những bậc thang đi xuống âm phủ. Phạm Đan nhìn tù trưởng mà đùa rằng:

- Nhà ngươi đi đường đó dẫn thẳng đến âm ti. Muốn lên trời cao thì lối này dẫn tới.

Dương tù trưởng trầm trồ :

- Quả là kỳ quan, tuyệt động. Không thể tin nổi vào mắt ta nữa.

Dương tù trưởng bước từng bước nặng trĩu lên từng bậc mà lòng như muốn ở lại, đôi chân chẳng muốn rời đi. Phạm Đan chỉ tay về phiến đá dưới sâu trong lòng động :

- Bọn tù binh tạm thời ở chỗ đó. Chiều nay, Quân sư phá thành xông trở về sẽ xử trí bọn này.

Trong động trời tối đen như mực, quân của Phạm Đan dạt ra phía ngoài động nấu nướng, luyện võ. Thi thoảng lại có tiếng như thể có người rên rỉ từ phía lòng động hắt lên. Dương tù trưởng nói đám lính bình tâm, chờ đợi Gã quỷ đến. Dương tù trưởng dùng miệng ngậm chặt chiếc răng hổ đeo trên trước ngực, dựa vào chút sáng le lói từ cửa động hắt vào mà cắt đứt sợi trói cho tên lính ngồi sát cạnh. Dương tù trưởng ra hiệu cho đám lính im lặng, vờ như rên rỉ đau đớn. Thiên thanh tù trưởng nhắm mắt vào lắng nghe những âm thanh từ phía động hắt ra. Tiếng áo giáp, vũ khí từ phía trên động dội xuống. Dương tù trưởng chắc bẩm chỗ trên đó đám lính kia lưu giữ giáp phục, vũ khí. Lại có âm thanh thóc lúa đang được xúc đi từ dưới âm ti vọng lên.

Dương tù trưởng cười lớn khiến Phạm Đan thất kinh chạy vào động. Đan tỏ vẻ không vui, lệnh đám người Dương tù trưởng giữ im lặng.

Nửa canh giờ sau, tiếng chân của nghìn người từ vách núi phía tây vọng vào hang. Dương tù trưởng sai hai chục tên lính lẻn lên động trên bắt trói chục người đang giữ giáp mũ, quân khí xông thẳng ra ngoài động. Phạm Đan không kịp trở tay, hô hào quân đánh giết. Hai bên mặc giáp phục vũ khí giống nhau, không biết địch ta đánh lộn lẫn nhau. Phạm Đan sai lính chạy trốn theo sườn núi phía Tây. Đoạn đi đến rừng thông gặp người cao lớn từ sườn núi phía tây dẫn theo năm nghìn lính từ trên núi, dưới núi xông ra đánh tan tác. Đan đánh với Gã Quỷ hai mươi hiệp, thấy uy lực không sánh được, Đan trượt theo dốc, chân tay, áo quần rách tả tơi chạy.

Dương tù trưởng cầm thương lưỡi đồng đen, mặc giáp sắt, đội mũ lông vàng oai vệ từ cửa Động bước ra, giọng ầm ầm sấm đổ :

- Chúng ta là bạn. Không phải thù. Người đó chính là Gã Quỷ Đỗ Tồn Thăng, người anh em của Đỗ quân sư. Mong vị tướng quân xin dừng bước. Đã khiến Phạm tướng quân kinh hãi. Ta là Dương Thanh. Dương Chí Liệt chính là trai thứ của ta.

Phạm Đan ôm lấy chân tay máu chảy ướt thẫm giáp phục nheo mắt nhìn lên phía trên núi. Đắn đo một hồi, chàng cất giọng hỏi:

- Sao nhà ngươi biết chúng ta là quân lính của Chí Liệt.

- Giáp phục, cờ xí, chuôi gươm, lưỡi giáo đều là chữ Dương, nét bộ «Chính» nổi hơn cả. Chắc chắn đó là quân họ Dương. Phải không Tồn Thăng.

Gã Quỷ giương dao quắm lớn chỉ về phía Phạm Đan. Mặt giương giương đắc ý, giọng nói hồ hởi :

- Đúng vậy. Cái tên Chí Liệt đó, nhà ngươi cứ hỏi hắn thì sẽ biết Gã Quỷ Dương Diện, từng đánh với hắn biết bao trận. Người này chính là Dương Thanh thiên thanh tướng chủ. Bọn ta vào động Man đã hơn hai năm nay, nghe tin có đám lính họ Dương đánh huyện Vũ Bình cướp huyện thành nên dẫn binh tới lấy danh nghĩa giúp triều đình, nhưng thực chất là mưu đoạt Vũ Bình cùng thiếu chủ.

Dương Thanh sai người xuống dìu viên tướng Phạm Đan lên núi. Tướng chủ tự tay lấy mật gấu ngâm cùng cao xoa cho chàng. Đan lấy làm cảm phục, bái lạy Dương Thanh. Dương Thanh dặn dò:

- Thuốc này do lang y Lý Lang Mộc chế tạo. Quân lính miền núi bọn ta thường xuyên bị thú rừng cắn rách da rách thịt, núi non hiểm trở bị ngã, gãy chân gãy tay rất nhiều. Nhờ có y thuật cao thâm của Lang Mộc mà cơn đau nhanh dứt, rách thịt liền ngay.

- Đã từng nghe tấm lòng nhân nghĩa của Dương tướng quân. Chí Liệt thiếu chủ cùng quân sư Sĩ Giao thường kể về ngài. Hào sảng, trượng nghĩa, lấy dũng mãnh át vía quân thù, lấy tâm đức mà trị lòng người. Nay gặp đây, quả nhiên vinh hạnh. Đã vô tình làm tổn thương đến tướng chủ. Mong chủ tướng thứ tội.

- Một mình giữ kho lương trên động núi cao, phía trước là tiền quân, phía sau là cường địch. Một người biết dụng mưu kế, cương quyết rắn giỏi như Phạm Đan đây mới có thể khiến Sĩ Giao an tâm giao phó.

- Tiểu tướng chỉ làm theo lệnh của quân sư. Ngày dẫn người giả làm lái buôn đi đến các ngã ba sông, chợ phố dò thám tình hình. Ngày qua tự ý mang người đi cướp được chút lương thảo thì gặp anh Cường đây. Hai bên giao đấu, để cho tên Đỗ Phụng Quán đuổi bắt kịp, đành phải bỏ của lấy người chạy về giữ động. Suốt tuần lễ Chí Liệt thiếu chủ đánh thành Đỗ Động nhưng viên tướng thủ thành Thi Nguyên quyết tâm giữ thành. Bây giờ lương thảo trong quân đã cạn. Quân tiếp tế từ các châu quận phía nam rục rịch áp sát. Phía tây đất Man Hoàng nghe nói người đất đó có ý không theo họ Lý Tống Bình mà chưa liên hệ được. Nay được biết chính là tướng chủ nằm gai nếm mật chờ thời. Biết được tin này chắc chắn, Chí Liệt thiếu chủ sẽ mừng lắm.

- Chẳng hay tên Thi Nguyên đó bản lĩnh thế nào?

- Thi Nguyên là người Đỗ Động, đệ tử chân truyền của Liêu gia thập thất quái chiêu. Những chiêu thức Liêu gia khó có ai có thể chế ngự được. Chí Liệt có trong tay cháu ruột của Liêu Công, thân thuộc đám môn khách đất Vũ Bình, mang nợ thù gia nên theo thiếu chủ quyết diệt Thi Nguyên đó.

- Quả nhiên Chí Liệt được những anh tài như người anh em đây, ắt sẽ thành chuyện lớn. Nhà anh vừa nói Đỗ Phụng Quán đất Trường Châu hay sao. Ta nghe nói trước hắn là bộ tướng dưới quyền Đỗ Đại, lập công lớn được ta phong làm bổ đầu huyện Chu Diên

- Bẩm tướng chủ. Đúng là như vậy. Phụng Quán vốn là cháu ruột thứ sử Trường Châu, từng xung quân cho Dương tướng chủ dẹp giặc Chà Và xâm lấn cửa Đại An nên được phong chức ở Diên huyện. Sau này Quế Trọng Vũ giết Đỗ Đại, Quế nghe danh Phụng Quán, lấy xích đao của Đỗ Đại, ngựa trắng Tuyết Vũ tặng cho Quán tỏ ý muốn mộ tài, mong Quán dốc sức nắm binh mã Trường Châu giữ vững bờ cõi phía nam và phía tây giáp Ai Lao. Bấy giờ, Phụng Quán chạy về Trường Châu lánh nạn, thứ sử Trường Châu khuyên Quán hàng Trọng Vũ để giữ lấy cái đầu cho cả gia đình, Quán đành thuận theo lời bác, nhận xích đao, Tuyết Vũ giữ binh mã Trường Châu.

Dương Thanh nhắc lại chuyện cũ Phụng Quán uống rượu say đánh nhau với Đỗ Đại suốt đêm, đánh đến độ Xích đao cùn lưỡi, chiếc đao của Quán nát nhừ, gân cốt mỏi rã rời hai người mới nằm cạnh nhau ngủ ba ngày ba đêm. Phạm Đan nghe Dương Thanh kể câu chuyện liền bày kế cho Dương Thanh hòng bắt sống Phụng Quán đầu hàng Cướp lấy quận Văn Dương, lấy ba tòa thành cùng kho lương thảo khí giới.

Ba ngày sau, Dương Thanh sai người đi theo lối cũ về miền Man Động báo tiếp tế quân lương, binh khí. Chỉ trong vòng hai ngày, một ngàn binh kỵ, hai nghìn lính bản bộ hộ tống theo năm nghìn thạch lương đi theo đường nam núi Tản tới sát thành Đỗ Động. Thi Nguyên nghe tin có lương tiếp tế, quân binh Man Động tới giúp liền cho sứ giả đến hỏi han. Người cầm đầu đám người Man tên Dực, họ Ma Cao, xưa nay vốn là động chủ xứ Man Hoàng nói cho sứ giả của Thi Nguyên rằng dân Man nghe lệnh triều đình, mang binh kỵ, lính giáp cùng quân lương tiếp tế cho Vũ Bình đang bị quân phản loạn ngày đêm khiêu chiến, hòng cướp thành. Thi Nguyên nghe tin lấy làm mừng, cho người bí mật báo Tống Bình lo liệu miền châu thổ phía nam, đất Vũ Bình đã có thêm binh Man Hoàng cứu giúp.

Đặng Hoài, Lý Toàn, Do Độc ba người đó không hay tin Dương tù trưởng dẫn quân đi theo khe động phía nam đã đến được nam Vũ Bình nên lúc đó đội quân Phong Châu hợp với hai đạo binh mã của dân Man Hoàng đã đóng trại binh tại huyện Thái Bình. Lý Do Độc sai người viết thư hỏi Thi Nguyên về binh tình, lương thảo. Nguyên đáp lại « Binh thiếu, lương ít, quân phản loạn lên đến vạn người, khó lòng giữ được thành. Mong tướng quân cùng bộ tướng phát lệnh tiếp lương, chuyển thêm càng nhiều binh tướng để chống lại sức địch vạn người. »

Do Độc bàn với Lý Toàn, Toàn bày kế dâng lương thảo cho Nguyên, cùng đó là hai nghìn binh mã vào thành. Cứ thuận theo thế trận mà hành xử. Nếu Nguyên chiếm thế thượng phong thì theo họ Thi, nếu Thi yếu thế, lấy lý do chuẩn bị cự địch đánh Phong Châu mà rút quân về. Do Độc theo lời Lý Toàn, sai hai nghìn lính chở theo một nghìn thạch lương tiếp tế cho Vũ Bình. Thi Nguyên nghe tin càng thêm mừng, tiếp tục sai quân báo tin cho Tống Bình.

Trong lúc Vũ Bình nguy cấp, Lý Nguyên Gia vẫn còn đang mải mê phòng bị quân phản loạn liên tục quấy nhiễu ở các thôn xóm phía nam. Có tin quân Phong Châu, Man Hoàng tiếp viện kịp thời cho Vũ Bình, Nguyên Gia như mở cờ trong bụng. Nguyên Gia sai đám tướng Triệu Cam, Giả Thường, Long Trạch trấn áp các vùng châu thổ phía nam, chỉ trong thời gian ngắn mà chiếm lại hết đất huyện Chu Diên, Võ An, đất châu thổ phía nam kéo dài đến tận bắc Trường Châu, những nơi vốn là mầm mống của đám quân phản loạn. Số người bị bắt, giết lên đến tám chín nghìn người, binh mã đầu hàng lên đến hơn vạn người.

Bấy giờ thứ sử Trường Châu là Đỗ Cảnh Tung đang còn bối rối trước lệnh điều động quân binh của họ Lý. Đám nho sĩ dưới trướng bàn với Tung rằng Giao Châu các ngả nay đã yên, trước Đỗ thứ sử mang tám nghìn quân để tỏ lòng với họ Lý nhưng lại chần chừ không tiến quân. Nay Tống Bình đã định yên đám quân phản loạn vùng châu thổ, chi bằng Đỗ thứ sử viết lá thư gửi cho Đoàn Uyển, một mặt dò thám binh tình châu Ái, mặt khác thử lòng hắn có ý đồ từ phía sau đất Trường Châu. Uyển đáp lời chỉ muốn giữ đất châu Ái, e dè đám người đất Ai Lao, Chà Và, Lâm Ấp chiếm đất châu Hoan, đánh úp Ái Châu, bấy giờ chẳng thể trở tay kịp. Uyển lại tặng ba nghìn binh mã, hai trăm ngựa khỏe cùng quân lương khí giới.

Cảnh Tung thấy Uyển rụt cổ như rùa trong lòng mỉa mai, tặng Uyển tứ đỉnh hình rùa đặt tứ trấn Ái Châu để tỏ lòng cảm tạ. Tung còn sai người tuyển lấy ba ba gái đẹp dâng cho Uyển để mừng sinh nhật tuổi ba mươi ba của Uyển. Đám quan lại Ái Châu cho là Tung có ý xúc phạm Uyển nên mới tặng rùa, ba ba cho hắn mà không dám nói với Uyển sợ Uyển trách phạt. Đỗ Tồn Thành bấy giờ đương ở châu Ái, biết tin vùng châu thổ đám quân mà chàng từng theo giúp bị Tống Bình dẹp loạn nên buồn bực, suốt mấy tuần lễ không vào thành phủ bàn việc quân cùng Đoàn Uyển. Nghe chuyện Trường Châu xin binh, tặng rùa đá, gái đẹp cho Uyển nên ra mặt càn đám nho chỉ biết đọc sách mà hiểu sai ý tốt của Trường Châu:

- Trường Châu là đất phía đông nam Tống Bình, có cửa biển lớn, dân thương qua lại tấp lập, giặc Chà Và, cướp biển nhiều năm nay nhòm ngó nên không dám cất binh đi dẹp loạn xứ khác. Nay ta tặng binh mã, ngựa khỏe, quân lương cũng là giúp cho Tống Bình bớt đi cái lo vùng duyên hải, Ái Châu cũng giảm bớt được áp lực điều động từ Tống Bình. Nay chúng có ý muốn lấy lòng quan sứ mà động binh cứu đất huyện Tống Bình, thu phục dân Man động mà mượn ta chút binh mã. Châu Ái góp chút binh cốt cũng là dẹp yên xứ đó, nhổ đi cái gai trong mắt Ái Châu bấy lâu. Binh mã ta không phải động đến, còn đó sau lưng ta đám Hoan Diễn không chủ, bè phái bấy lâu đang sục sôi muốn băm vằm chiếm đất Ái Châu để mở rộng ảnh hưởng của chúng. Phần lớn binh mã ta đã giữ lại đất châu Ái đủ sức để đánh bại mọi cuộc tấn công từ bọn ấy. Đó chính là cái lợi cho châu Ái. Đất châu Ái xưa nay chưa được trấn yểm nên dân tứ xứ chạy đến, cướp giặc bốn phương cũng nhiều. Nay người ta dâng một trong tứ linh, trấn yểm bốn phương cũng là điều đáng mừng. Đoàn Uyển thứ sử, từ khi Đỗ Thị qua đời cũng sinh ra bệnh tật hao yếu. Từ khi có đám đàn bà đó mà tinh thần phấn chấn, việc công thông hạnh chẳng phải là điều đáng để vui sao. Các người chỉ có nho sách mà không thấu hết được lẽ tình, bàn tán qua lại như đám đàn bà ngồi lê ngoài chợ Cửu Chân kia thôi sao. Thật là là nguy hại cho dân, cho bản thân các ngươi lắm thay.

Uyển nghe Tồn Thành mắng khéo đám nho sĩ mà hả dạ lắm. Uyển từ bấy vui thú cùng đám đàn bà không ngơi dứt. Đứa đàn bà cạnh Uyển ngày ngày hầu hạ, nuông chiều hắn, nịnh nọt Uyển tăng thêm binh mã tiếp viện cho Trường Châu dẹp loạn. Thành lập tức cưỡi ngựa tới phủ mời Uyển uống rượu. Đang lúc say sưa, đứa đàn bà đó đang mặc áo yếm lưng trần, đôi chân trần nõn nà từng điệu hoan ca. Mái tóc dài xõa buông che kín đến giữa lưng, đôi tay mềm mại uyển chuyển trong từng bước nhảy cho hai người thưởng ngoạn. Thành cầm chén rượu, hắt vào người ả, áo yếm ướt đầm đìa. Ả nghĩ Thành đang trêu ghẹo mà lấy bình rượu rót từ cổ xuống qua ngực áo, đong đưa ngả nghiêng như muốn ghẹo hai vị quan tướng. Thành rút gươm chỉ thẳng vào mặt ả:

- Con đàn bà láo toét. Lũ tiện nhân Trường Châu. Mày đừng hòng lấy hoa mướp hòng che mắt chim ưng, lấy lời ong bướm để dụ lòng quân tử Ngay từ đầu ta đã biết, đám người Trường Châu các ngươi dám cả gan cho người mua chuộc đám người châu Diễn, chỉ trực chờ quân Ái Châu rời đi không phòng bị để chiếm đất chia nhau. Lại sai người đút lót bọn cao nguyên Ai Lao, đánh phá mấy châu huyện phía tây để giữ chân bọn ta, không đánh úp Trường Châu từ phía sau. Bụng các ngươi đừng hòng qua mắt ta.

Đỗ Tồn Thành cắt cổ đứa đàn bà trước mặt Uyển. Đoàn Uyển kinh hãi, trong lòng bất an ngày ngày chỉ quanh quẩn trong phủ ngắm cảnh, nhìn hoa, đánh cờ với bọn nô tỳ, không dám ra đến ngoài phủ. Khi triệu kiến đám quan tướng bàn quân tình thì ngồi sau bức màn mà không dám lộ mặt ra. Có người đồn rằng hắn bị bệnh giang mai vì vui chơi quá độ với đám đàn bà Trường Châu, nên không dám nhìn mọi người sợ bị chê cười.

Tồn Thành sau khi chém chết ả đàn bà cùng ba mươi hai đứa con gái khác sai lính chia ra làm ba mang tặng đầu ấy cho đám châu mục các cơ mi phía tây, bọn thổ hào Hoan Diễn cùng thứ sử Trường Châu. Đám châu mục cơ mi phía tây biết ý đồ bị bại lộ đành mang quân rút về các động núi Ai Lao. Bọn thổ hào Hoan Diễn cũng không dám động tĩnh vùng quan ải phía nam châu Ái. Đỗ Cảnh Tung lúng túng cho gọi binh tướng đang bắc chinh trở về, sai người hạ độc đám lính Ái Châu đi theo đề phòng phản trắc. Tung cho sứ đến Ái Châu dâng vàng bạc lụa là để đáp lời cảm tạ, lại tặng thêm tứ long, tứ ly, tứ phượng hoàng cho bốn trấn Ái Châu để Đoàn Uyển nguôi lòng. Trường Châu lung lạc, Cảnh Tung đành phải gọi Phụng Quán trở về.

Đỗ Phụng Quán mang quân lính đóng ở thành Hoa Lư, ba nghìn lính châu Ái đi tiên phong đóng ở đầm nước lớn phía tây. Quân lính tiên phong báo về có dấu quân binh đi qua, lại có nhiều bè gỗ lớn để lại trong đầm. Quân lính Ái Châu không quen phong thổ, bị cảm tả, sốt rét rất nhiều. Nhiều tên sáng đi hành quân ăn quả rừng, bắt cá dưới đầm lên để nướng ăn, chiều tối trở về ăn bát cháo loãng liền sùi bọt mép, mắt trợn ngược, chân tay co giật, giẫy đùng đùng ra chết. Phụng Quán gọi tên giám quân Giảo Mục đến bàn:

- Ta nghe nói đám lính động Man đi đến đâu để lại độc thủy, chướng khí. Chẳng hay liệu có phải đám Man Hoàng dẫn binh đi qua chỗ đất đầm đó mà khiến quân ta ra như vậy.

Giảo Mục là người động Man, ngày trẻ đi theo Đỗ Anh Hàn xuống đồng bằng phá trị sở, sau trốn chạy đến Trường Châu, làm người ở cho dân buôn họ Chu ở cảng biển Đại An. Sau một lần giết chết tên cướp biển khét tướng vùng đó là Đô Ti Tặc Hải được xung làm sai nha huyện Vô Công. Được họ Chu đút lót bọn quan trong phủ thứ sử Trường châu, Giảo Mục được chuyển sang làm giám quân Trường Châu. Vốn thông thuộc tục người Man, Giảo Mục cho là có người âm mưu hạ độc chứ không phải đám quân lính Man Hoàng.

Phụng Quán sinh nghi ngờ, cho thầy lang đến xem bệnh tình quân lính. Lang đó nói rằng:

- Đây là độc dược. Trong miệng những quân lính bị ngộ độc đều có thứ lá màu tím đỏ được nấu chín. Đó chính loại cây thầu dầu, chỉ mọc ở huyện Tứ Mang (Mộc Châu bây giờ). Chỉ cần nuốt phải lá cây, nhẹ thì bị đau đầu choáng váng, phải nằm yên bất động đến bảy tám ngày. Nặng thì sùi bọt mép lăn ra chết ngay.

Phụng Quán cho gọi tay quân nhu đến, hắn nói quân lương thiếu túng, phải sai người đi hái rau, lượm quả trên núi để ăn. Có chỗ đất rộng rậm rạp nhiều loại cây màu tím đỏ nên sai người hái về nấu thử không may đó lại là rau độc.

Phụng Quán sai Giảo Mục vào trong bếp, kho lương để thám thính tình hình, nhìn trên dưới xếp hàng chỉ còn chừng ba mươi thạch lương, thịt lợn, thịt ngựa còn vài tảng treo trên bếp cao. Chồng chất rau tươi, hoa quả để ngổn ngang riêng một bên gác. Giảo Mục thấy có vài cọng rau tím đỏ còn vương dưới đống củi khô trong những chiếc tải lớn, được khâu chỉn chu như những bao quân lương.

Giảo Mục kể lại cho Phụng Quán. Quán tức giận lôi hai tên cầm đầu bếp lính chém đầu thị uy. Đỗ Phụng Quán trước ba quân an lòng binh. Quán dâng thư gửi người bác thứ sử Trường Châu, trong thư Quán mang hết tâm can hạ quyết tâm mang lính đi đánh địch lập công danh, khẳng định vị thế của Trường Châu tại đất An Nam.

Đỗ Cảnh Tung biết không thể dùng lời lẽ khuyên răn người cháu chí lớn tung hoành đành tiếp tế binh lương. Tung cho Phụng Quán tiếp tục dẫn ba nghìn binh Ái Châu mượn từ Đoàn Uyển làm tiên phong. Chỉ trong hơn một ngày, đoàn quân Trường Châu gần một vạn thần tốc dọc theo sông Đáy đã tới đất Vũ Bình.

Đỗ Phụng Quán dẫn binh từ phía nam đánh vào các trại lính dọc theo tả ngạn sông Đáy. Quân đội của Chí Liệt bị mất phân nửa, đành phải tháo chạy về phía tây. Phụng Quán cho quân vượt sông, hợp binh mã với quân lính trong thành Đỗ Động phản công quyết liệt đẩy lui đám phản quân lùi sâu hơn về dải đất đồi phía tây nam. Phụng Quán chiếm lại đất Vũ Bình, Lý Nguyên Gia lập tức cho người đến phong thưởng cho Quán, phong thêm đất cho thứ sử Trường Châu.

Từ huyện Thái Bình, quan quân triều đình tấn công vũ bão vào các trang ấp xung quanh, bắt bớ, giết người vô số những kẻ mà chúng cho là đã nuôi quân phản loạn bấy lâu. Lý Toàn khi đó cầm binh với phòng đông quân tướng Lý Do Độc chạy về báo quân tình cho Thăng Triều. Thăng Triều xin rút quân về phòng thủ đất Phong châu đề phòng Nam Chiếu nhân cơ hội xâm lấn đất Man Hoàng. Lý Nguyên Gia cho Phong Châu rút binh mã, sai Thi Nguyên vào các vùng nông nghiệp vừa chiếm lại từ tay quân phản loạn thu hoạch mùa màng, tích trữ lương thảo nuôi binh mã.

Từ Ung Châu, kinh lược sứ Ung Châu Trọng Vũ báo tin hơn một vạn binh mã từ phía tây đánh phá. Lý Nguyên Gia nhận tin mà mặt không hột máu, lăn ra đất ngã đập đầu vào cột nhà máu chảy, sưng ụ trên trán. Trọng Vũ cầm binh rút khỏi thành Ung, quân đội Man Hoàng nhân đó đi ngược sông Lô, vượt núi đánh tới chiếm được thành. Quế Trọng Vũ chạy trốn về Giang Nam, bỏ lại mấy mươi vạn dân quân đất Ung không chủ. Lý Nguyên Gia lo sợ bị bao vây, cô lập tại Tống Bình sai các tướng cùng quân lính châu Quảng, Lục, Quế đến phá vòng vây đất Ung thì bị quân nổi loạn cấu kết với quân Nam Chiếu đánh từ nhiều hướng phản công lại. Lý Nguyên Gia đành phải lệnh cho các tướng giữ trại, chờ viện binh từ triều đình.

Binh mã sứ Giao Châu là Từ Hống xin Nguyên Gia một vạn binh Giao Châu chia làm hai đạo, một đạo đi đường núi theo hướng bắc từ thành Cổ Loa, đóng quân tại Nà Lữ vượt quan ải đánh trực diện vào phía tây đất Ung Châu. Một đạo quân đi qua trấn Hải Môn cùng quân Quảng Châu, và lính thủy Quỳnh châu phá địch ở Lục Châu, sau khi phá địch ở Lục Châu dẫn quân đánh mạn đông nam Ung Châu. Nguyên Gia thuận ý Hống cho Hống điều động một vạn binh mã ngược bắc cứu Ung Châu, Lục Châu. Quân đội bảo vệ Tống Bình mỏng đi khiến các tướng các thành Long Biên, Cổ Loa, Liên Thụ, Chu Diên hết loạt lo lắng đám nổi loạn phía nam lại nổi dậy.

Long Trạch viết thư mong giữ Đỗ Phụng Quán giữ đất bắc Hoa Lư, bảo vệ phòng tuyến phía tây sông Đáy. Đỗ Động chỉ cần thủ thành ắt sẽ giữ được. Đỗ Cảnh Tung nghe tin Tống Bình muốn giữ quân Trường Châu để phòng thủ quân phản loạn phía tây, y viết một lá thư cầu hòa với Đoàn Uyển. Uyển cho là Đỗ Tung hèn nhát nên sai Đỗ Tồn Thành giữ ải phía bắc huyện Nhật Nam, vào các thành huyện phía nam Trường Châu tung tin Đỗ Tung muốn dâng một tòa thành cho Đoàn Uyển. Dân tình kháo nhau, bỏ chạy hết cả, chỉ còn quân binh chưa đến một nghìn người. Tồn Thành từ bấy giờ đóng quân tại đó, chỉ khi có chuyện lớn nhỏ mới được phép về phủ thành. Gia quyến không được đi theo.

Họ Đỗ ở phía tả ngạn sông Đáy, Thi Nguyên không cho quân Trường Châu vào thành. Không có thành trấn thủ, Quán sai lính đắp lũy đất cao ba thước dọc theo tả ngạn sông Đáy. Cảnh Tung muốn thu quân lính về trấn thủ Trường Châu, ý Phụng Quán muốn cự địch lập công, quét sạch mầm mống đám phản loạn đành trái ý người bác. Cảnh Tung lo ốm, ngày ngày đi ra đi vào, cứ hễ nghe tên Phụng Quán thì cáu gắt, ăn uống không vào. Mặt Tung xanh xao gầy ốm, nằm liệt trên giường thoi thóp thở chỉ chờ tin Phụng Quán quay trở về.

Khi Phụng Quán cho người đắp lũy tả ngạn sông Hồng, Sĩ Giao cùng Chí Liệt rút quân về phía đất trung du, đất đỏ phía tây nam huyện Vũ Bình. Về phía Dương Thanh, sau khi nương nhờ Động Đỗ, vị tướng chủ sai người báo tin cho Dương Chí Liệt cũng Sĩ Giao nhưng đều bị quan quân bắt được, không kẻ nào trở về, cũng không có tin hồi báo. Phạm Đan cho người đi khắp các chợ, ngã ba sông nhưng bị giết hại hết cả. Dương Thanh hỏi Đan về việc cho người đi dò thám đều không trở lại, Đan bẩm rằng:

- Từ lúc thiếu chủ cùng quân sư tấn công thành Đỗ Động bị thất bại, bọn quan lại Tống Bình lệnh cho đóng cửa các chợ, thuyền bè đi lại trên các sông đều bị quản lý gắt gao. Hễ chỉ có người lạ đi đến các chợ, hay tụ tập ở bãi sông đều bị bắt giết.

Đan cùng một đoàn người đêm xuống vượt sông, lẻn sang bờ đông sông Đáy thì gặp các lũy cao hơn đầu người. Đan báo cho Dương Thanh rằng Phụng Quán đi dọc sông phía đông đánh tan quân của Chí Liệt cùng Sĩ Giao, lại dựng lũy trấn thủ đất phía nam huyện Vũ Bình, nhất quyết không chịu về Trường Châu. Dương Thanh nghe tin lấy làm mừng rỡ. Dương Thanh sai Gã Quỷ cầm ba nghìn lính vượt sông đêm đến tập kích từ phía sau để chặn đường lui của Đỗ Phụng Quán.

Dương Thanh tự mình nắm tám nghìn binh mã đi theo đường núi đến đầm Vân Long, trong vòng một ngày một đêm đưa toàn bộ số lính đánh thẳng vào lũy đất phía đông của Đầm lớn. Quân đội Trường Châu bị tập kích bất ngờ liền đầu hàng hết loạt.

Hai thành lớn phía đông nghe tin đất Hoa Lư rơi vào tay quân Man Hoàng. Đỗ Cảnh Tung nằm trên giường nghe tin nôn ra chậu máu, đôi mắt thâm quầng chưa kịp nhắm lại, chân tay Tung cứng đờ, rên rỉ suốt ba ngày ba đêm khiến đám gia nô kinh hãi. Đám nho sĩ nghe tin đều trốn biệt theo các thuyền buôn. Đám võ tướng bí mật cho người cầu cứu Đỗ Phụng Quán quay trở về Trường Châu phá địch Man Hoàng. Có kẻ đi đường biển đi tới Nhật Nam, đến huyện Quân Ninh cầu cứu Đoàn Uyển nhưng Uyển không tiếp. Một vài tên đầu hàng quân Man Hoàng được Dương Thanh cho làm tiên phong dẫn đường. Khi dùng xong bọn ấy, Triệu Cường đều cho thủ tiêu chúng tránh hậu họa phản phúc.

Đỗ Phụng Quán nhận tin, chỉ vuốt râu mà cười lớn:

- Chỉ là mấy tên giặc cỏ, bọn man di đâu đáng là địch thủ của ta.

Ngày sau, Phụng Quán tập hợp binh mã ra khỏi các lũy ấp hướng về phía nam. Đi được mươi dặm, Quán gặp quân của Gã Quỷ Tồn Thăng giao chiến một trận quyết liệt bên bờ sông Đáy. Gã Quỷ dùng dao quắm đánh không lại đao lớn liền sai người cầm thương tới giao chiến với Quán. Quán uy lực múa Xích đao trời giáng khiến cây thương gẫy vụn. Quán nhìn Gã Quỷ mặt mày nhem nhuốc, lại cưỡi ngựa thấp lùn, giọng ngạo nghễ :

- Ta trông ngươi rất quen. Cả cây vũ khí kia nữa. Nhà ngươi thật giống tên Ác Diện cùng họ với ta năm nào phá cướp Lục Hổ.

- Chính là ta. Dương Diện Đỗ Tồn Thăng đây. Nhà ngươi theo anh ta ở huyện Chu Diên nửa năm trời, nay lại theo đám người giả nhân giả nghĩa kia sát hại dân lành, khiến sinh linh oán thán.

- Chỉ là một tên man di trông giống đười ươi lại tự nhận mình như dũng tướng Tồn Thăng. Gã Quỷ đó đâu có bộ dạng quỷ không ra quỷ, ngợm không ra ngợm, nhà ngươi chẳng khác chi giống khỉ vỗ ngực hênh hoang. Sức ngươi sao có thể chống lại Xích đao của ta. Còn không mau xuống ngựa gọi một tiếng Đại nhân. Có khi ta đổi ý không giết nhà ngươi.

- Đừng có lôi thôi. Có giỏi nhà ngươi đánh với ta một trận xem ai mới là kẻ hênh hoang.

Bốn ánh con mắt nhìn nhau như thể muốn ăn tươi nuốt sống đối thủ. Phụng Quán dùng xích đao ra đòn trước, Gã Quỷ không kháng cự mà chỉ tránh đòn. Dường như Gã Quỷ lường trước được sự nguy hiểm của xích đao nên không dùng vũ khí mà chống lại. Né được vài chiêu, Gã Quỷ thúc ngựa chạy đi, vừa chạy vừa nói vọng lại:

- Nhà ngươi cậy có xích đao uy lực đánh với người không vũ khí. Có giỏi nhà ngươi đấu tay đôi với ta.

Phụng Quán thúc ngựa vượt lên vung đao, báng đao dập mạnh vào đầu ngựa của Gã Quỷ. Ngựa choáng hý vang rồi lăn ra đất khiến Gã Quỷ sõng soài. Phụng Quán trên lưng ngựa nhìn với ánh mắt khinh thường Gã Quỷ. Gã Quỷ hậm hực không phục suốt đường đi liên tục quát tháo Phụng Quán. Phụng Quán xuống ngựa dùng giáo của lính đánh với Gã Quỷ hơn trăm hiệp không phân thắng bại. Gã Quỷ đạp một tên lính ngã ngựa cướp lấy ngựa xông đến toan chém Quán. Quán dùng mũi giáo đâm trúng đầu Gã Quỷ. Gã Quỷ chạy ra phía xa, tay sờ lên đầu, thầm trong bụng « May quá. Đầu ta vẫn còn. »

Tóc Gã quỷ rơi xuống chưa chạm đất, bóng người đã khuất xa. Phụng Quán xua quân đuổi theo. Chạy đến bờ đầm lớn thì không thấy bóng Gã Quỷ chỉ còn đầm nước mênh mông, mây mù giăng kín chỉ có tiếng chim kêu, vượn hú. Phụng Quán nghĩ rằng đã tới đất Hoa Lư, lập tức giải đám hàng binh đến phía gần bờ đầm nước. Phụng Quán cho quân hạ trại, chờ tối xuống tranh thủ ăn bữa chiều lấy sức tập kích trong đêm lấy lại lũy thành đã rơi vào tay địch.

Quân lính vừa hạ trại thì từ dưới đầm nước nổi lên những bóng người đen kịt bùn đất xông tới phá trại. Phạm Đan nhô lên cầm gậy lớn gào thét gầm trời nhắm quân lính của Quán mà đánh. Từ phía trên núi phía bắc một đoàn quân do gã quỷ Tồn Thăng xông đến chém giết vô số. Lính đầu hàng cả nghìn người.

Phụng Quán dẫn đám tàn binh liều chết phá vòng vây chạy đến lũy thành Hoa lư. Tướng giữ thành là Cao Sính, là thuộc hạ của Quán đứng trên thành nói vọng xuống hỏi danh xưng. Quán thầm vui trong bụng, nghĩ rằng Sính đã đánh đuổi được giặc cỏ ra khỏi thành. Quán hò hét lớn, sai Sính mở cửa thành để quân lính vào thành. Cổng thành mở ra, Phụng Quán sai lính chạy vào. Bỗng một đoàn quân đao ngắn, dao quắm, mặc quần áo thổ cẩm chạy từ trong thành xông ra chém giết. Phụng Quán biết mình đã bị trúng kế, mặt căm phẫn nhìn lên cửa thành phi lên mũi giáo. Mũi giáo bay thẳng tới chỗ Sính đang đứng, một mũi tên phóng ra giáo gãy đôi. Cầm cây thương lớn oai vệ đứng trên thành, Dương Thanh nói vọng xuống:

- Đỗ Phụng Quán. Nhà ngươi có nhận ra ta là ai chứ.

Quán nheo mắt nhìn lên, tay giữ chắc xích đao chém thêm vài tên lính xông tới toan giết Quán. Dương Thanh nói lớn :

- Không được giết người đó. Kẻ nào chống lệnh, chém.

Quán thảng thốt hét lên:

- Là Dương,… Dương Thanh. Bằng cách nào ngươi vẫn còn sống mà tới được đây.

- Vẫn dáng vẻ oai vệ đó. Không ngờ khi Đỗ Đại chết đi, có kẻ dùng xích đao uy dũng đến như vậy. Nay Trường Châu đã trong tay ta. Phụng Quán còn không mau đầu hàng.

- Nhà ngươi xét công tội bất phân minh. Ta đây lập công lớn chém cả trăm đầu giặc, đánh đuổi cả nghìn giặc cướp trên biển giữ yên bờ cõi cho nhà ngươi. Vậy mà khi phong thưởng, chỉ là ta không có vàng bạc đút lót cho đám nho sĩ vô lại đó mà chỉ được làm cái chức bổ đầu nha huyện nhỏ nhoi. Nhà ngươi còn sai lính giết hại biết bao nhiêu người dân vô tội khi quân triều đình chiếm được La Thành. Ta thà chết chứ không cần chút giả nhân giả nghĩa nhà ngươi bố thí. Hãy cho người đâm ta một nhát để ta về chốn siêu linh.

Đỗ Phụng Quán dựng đao chống đất, hiên ngang ngồi trên ngựa, tay vuốt râu, mắt nhắm chờ một mũi giáo đâm về phía mình. Dương Thanh lệnh cho đoàn người tiến lên, tiếng xích xiềng, giáo mác càng gần hơn không khiến cho Quán lung lay. Cả người lẫn ngựa vẫn đứng oai phong dưới cửa thành. Một đòn giáng mạnh vào ngực Quán, Quán nắm chặt đao ngã gục xuống.

Gã Quỷ vác trên vai Đỗ Phụng Quán chạy vào thành. Phụng Quán cảm thấy mình đang trên vai một gã to lớn khỏe mạnh. Quán mở mắt ra, Quán đã đứng phía bên trong thành. Trước mắt Quán là viên tù trưởng đầu đội mũ lông quạ. Khuôn mặt dữ dằn trở lên trìu mến lạ thường. Ánh mắt chào đón Quán, Dương Thanh rót lấy chén rượu mời Phụng Quán. Quán cầm đao quay mặt đi. Dương Thanh vòng ra phía trước mặt, hạ thấp người dâng chén rượu. Quán chỉ liếc mắt nhìn xuống, không nói một lời. Gã Quỷ mắng mỏ :

- Cái tên Phụng gì gì nhỉ. Có phải là một loại gà hay chăng. Cái giống gà cứng đầu nhà ngươi. Ta đi theo tướng chủ chừng ấy năm mà chưa được chén rượu mời nào của ông ta đâu. Nhà ngươi còn không mau tạ ơn tha mạng của ông ấy.

Dương Thanh đưa mắt nhìn Gã Quỷ. Gã Quỷ nín bặt, miệng như hến ngậm chặt lại. Dương Thanh nắm lấy tay Phụng Quán, hơi ấm từ bàn tay vị tù trưởng, cùng tiếng cười sảng khoái khiến Phụng Quán bối rối. Dương Thanh lấy hai tay gỡ từng ngón tay còn đang nắm chặt xích đao. Dương Thanh cầm đao, tỏ lòng ngưỡng mộ:

- Từ khi Đỗ Đại có xích đao trong tay, uy danh lừng lẫy. Trước cả vạn quân địch vẫn hiên ngang oai dũng cả nghìn quân không sánh được. Nay Phụng Quán tỏ ra hơn cả chục lần như vậy. Quả là hiếm có. Trước không phải nhà ngươi thiếu vài nén bạc mà không được giữ trọng trách cao hơn mà là khi đó Đỗ Đại là một dũng tướng vô song. Thấy nhà ngươi có khí chất anh hùng nên ta mới dốc lòng khuyên Đỗ Đại cho nhà ngươi theo hắn. Còn chuyện quân tướng Tống Bình giết dân chắc hẳn ai cũng biết đó là mưu kế của họ Quế. Chỉ là nhà ngươi bị đám hèn nhát kia bưng bít, đơm đặt khiến ngươi lay lòng. Mấy năm qua, ta cùng các tướng nằm gai nếm mật đất Man Hoàng chờ thời cơ đến. Nay biết các tướng sĩ của ta ngày trước vẫn còn hướng đến dân Nam mà hành đạo. Quả là mừng lắm thay. Phụng Quán dưới trướng tên nhu hèn như Cảnh Tung chẳng có cơ hội thi thố tài năng, năm lần bảy lượt đều bị đám nho sĩ rèm pha. Nghe trong quân có lần Cảnh Tung còn sai người chở mấy đoàn xe thầu dầu có ý đồ hạ độc quân tướng. Kẻ như vậy không đáng để kẻ uy dũng như Phùng Quán phò tá. Nay Trường Châu quân tướng đều hết thảy quy thuận ta, nếu Đầm Long tướng Phụng Quán không chê khinh thì hãy về cùng ta mưu nghiệp lớn. Toàn bộ quân lính Trường Châu vẫn là của Phụng Quán.

Những lời Dương Thanh như làn gió mát nhẹ nhàng, khiến cơ thể con người ta khoan khoái. Đầu óc Phụng Quán như thông suốt. Vị tướng quân buông đao, cầm lấy chén rượu cay nồng uống ực một hơi. Phụng quán quỳ sụp xuống bái Dương Thanh nguyện đi theo họ Dương quyết không hai lòng. Thù gia nợ nước còn chưa trả thì còn chưa bỏ mũ giáp.

Đêm mùa thu, không gian thanh vắng xứ châu thổ được thay bằng tiếng người ngựa binh giáp. Quân tướng Trường Châu hết loạt đổ về thành Hoa Lư theo lệnh Dương Thanh. Dương Thanh mở tiệc khao toàn quân. Gã Quỷ trong cơn say múa theo nhạc vũ khiến đám quân tướng được phen cười vang trời. Đàn ca, ánh lửa bập bùng tạm lấp đi những bộn bề, khó khăn còn đang ở phía trước những trai tráng anh hùng.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Nguyễn Khai Quốc


Hồi thứ tám:

Buông mũ giáp Đỗ đô úy tìm em.

Giết ác nhân, rượu say luận thiên hạ

Ở hồi thứ bảy, Trường Châu rất gần Ái Châu đã rơi vào tay họ Dương. Đoàn Uyển ở châu Ái chắc hẳn lòng nóng như lửa đốt mà không thể ngồi yên.
Ở hồi thứ tám này chuyện gì sẽ xảy ra?

Đỗ Tồn Thành sẽ gặp một vị nữ nhân tên là Lã Vọng. Trước đó chàng ta bỏ quan về nông trang lại hay tin em trai chàng là Gã Quỷ Tồn Thăng ở huyện Vô Công, Trường Châu nên chàng quyết định đi tìm.
Cuộc hội ngộ là mở đầu cho một mối nhân duyên trời định.

Hồi thứ tám:

Buông mũ giáp Đỗ đô úy tìm em.

Giết ác nhân, rượu say luận thiên hạ

Nghe tin Trường Châu rơi vào tay viên tù trưởng người Man, Đoàn Uyển Ái Châu liền gọi Tồn Thành về phủ trị tìm cách chống lại cuộc xâm chiếm của người Man. Tồn Thành cáo ốm không trở về thành phủ. Uyển liền sai lang y giỏi nhất đất Ái Châu cùng đến thăm Tồn Thành. Khi tới nơi, Uyển trông thấy Thành đang ngồi đánh cờ cùng tay giám quân cũng là người anh em của Tồn Thành. Đoàn Uyển nổi giận trách mắng Tồn Thành không lo lắng việc quân binh, lại nhàn rỗi chơi cờ cùng đám huynh đệ, nói dối người làm chủ tướng. Trọng tội không thể thứ tha, Uyển bãi hết chức quan của Thành, đuổi Thành về trang trại phía tây thành huyện Sùng Bình, bỏ hết tiền bạc, vải vóc, thóc lúa cấp hàng tháng cho Thành. Thành thuận ý, ngày rằm tháng tám mang tấu sớ trình lên Uyển, bỏ lại mũ áo, chỉ xin một con ngựa để đưa gia đình trở về làm nông gia.

Đoàn Uyển tức giận vò bản tấu sớ ném xuống điện phủ. Uyển trở về hậu viên gặp mấy đứa nhỏ đang chơi trận giả. Một cậu bé khôi ngô, trán cao lồi ra, tóc ba chỏm, lông mày lá liễu mỏng đẹp, cổ dài tai mỏng như lá cây xà cừ, hõm mắt sâu, lộ ra hung quan hừng hực, đang cưỡi trên lưng thằng bé lớn tuổi hơn đang bò dưới nền cỏ. Uyển đứng từ xa quan sát một lúc, thấy cậu bé liên tục giữ vai đầu trò lém lỉnh sai khiến đám trẻ con còn lại. Có đứa con gái lớn chừng mười lăm, mười sáu tuổi cũng phải thuần phục theo nó, đóng giả nô tỳ, hễ thằng bé sai gì thì làm đấy. Có lúc mấy đứa nhỏ làm không theo ý thằng bé, nó liền dùng gậy tre, nắm đấm giương lên thụi vào bụng khiến đứa nào đứa nấy sợ hãi. Uyển ngồi ở lầu xa, rót chén trà thưởng ngoạn tiếng chim ngủ quên lúc nào không hay. Có tiếng nhí nháu, khóc hờn của mấy đứa trẻ, Uyển tỉnh giấc trông ra xa.

Thằng bé đang dùng chân đè lên lưng thằng con trai lớn của Uyển đang nằm sấp mặt dưới đất. Đứa con gái lớn mười sáu tuổi ôm chặt lấy thằng bé nhưng bị nó cắn vào tay, chảy máu phải buông ra, sau đó thằng bé đấm liên tiếp vào ngực, nhảy lên quay người tung cước vào bụng khiến cô bé ngã nhào ra đất. Mấy đứa nhỏ xung quanh lao đến ôm lấy thằng bé liên tục dùng chân tay vùng vằng trúng người thằng bé. Thằng bé chạy đi, được một đoạn nó quay lại chỉ tay từng đứa, mặt lấm lết vênh váo nó quát nạt:

- Bọn mày nhớ đấy nhé. Hôm nay bọn chúng mày bênh thằng Tù Thiên. Ngày mai mà nó có đánh chúng mày thì đừng có gọi tao.

Đoàn Uyển gọi trai cả Tù Thiên chạy tới hỏi han nó. Năm nay Thiên đã mười hai tuổi mà kinh sách, võ nghệ không thầy nào dạy nổi, chỉ suốt ngày lông nhông bên đám trẻ con của các quan lại trong thành. Uyển thấy mặt mũi bầm tím, khố rách, mình trần, mặt nghiêm nghị hỏi nó:

- Đường đường con trai của quan thứ sử, áo quần không mặc, lại đóng khố như thằng ở thế kia. Mà bọn trẻ kia làm gì mà bị bầm tím như vậy. Đọc sách, luyện võ không chịu, suốt ngày đi với đám trẻ con biếng lười để rồi ra như thế này.

Mặt nó phụng phịu, miệng câm như hến. Uyển tức giận cầm roi vụt vào mông thằng bé. Thằng bé lấy tay giữ lấy khố cho nó không bị bung ra vì chiếc khố không còn vừa với thằng bé. Uyển thấy con trai giữ khố kéo nó lại gần. Uyển hạ giọng ân cần hơn:

- Con trai ta mỗi ngày một lớn lên trông thấy. Chiếc khố mới tháng trước đám gia nô quấn cho nó vẫn được hai vòng bện vừa vặn. Bây giờ đã chật nứt vải rồi.

Tù Thiên nằm trong vòng tay cha nó, sụng sịu:

- Cha ơi. Có phải Thủ Trừng cùng cha nó sắp đi xa không. Cả Đỗ Thị nữa. Chị ấy đi theo cha đi cùng cha con Thủ Trừng phải không cha.

- Sao con lại hỏi điều đó.

- Vì khi nãy Thủ Trừng nó nói cha đuổi cha nó đi, không cho nhà nó ở đây nữa. Đỗ Thị là chị họ Thủ Trừng cũng đi theo. Con lại chẳng có ai chơi.

- Đám trẻ khi nãy chẳng phải vẫn chơi với con đó sao.

- Đám ấy có thằng Trừng chơi mơi vui, cả Đỗ Thị nữa.

- Chẳng phải nó vừa đánh nhau với con đấy thôi.

- Không. Nó bảo Đỗ Thị đi theo nó, không cho con đi chơi cùng nữa nên con đánh nó. Nó cậy giỏi võ hơn nên nó đấm lại. Nó còn bảo là chỗ bọn nó chơi chỉ cho những người họ Đỗ chơi, mày họ Đoàn không được chơi ở đây.

- Cha thấy có Lê Hòa con trai của huyện lệnh Lê Khoan, Điền Thái con trai Điền Trực cũng cùng chơi với bọn nó mà.

- Là bọn kia hay nghe lời nó, suốt ngày làm ngựa cõng nó trên lưng đánh trận giả.

- Con trai ta có khi nào đóng làm tướng không.

- Không đâu cha. Bọn nó không cho người họ Đoàn làm tướng. Nó bảo họ Đoàn chỉ được đóng vai phản tướng thôi. Mà vai phản tướng toàn bị chúng nó đánh. Con chỉ đóng vai chồng của Đỗ Thị để bảo vệ nàng ấy thôi. Thủ Trừng đóng làm tướng, nó nói là nó mới là tướng quân bảo vệ mọi người, không cho người khác đóng làm tướng. Lần nào cũng như vậy. Bọn Lê Hòa, Điền Thái suốt ngày bị thằng Trừng đánh cho tơi tả. Buồn cười lắm cha ạ.

- Tại vì điều gì mà bọn nó lại nói là họ Đoàn chỉ được đóng vai phản tướng.

- Con không biết nữa. Bọn nó nói là trẻ con trong thành thường chơi đánh trận có luật như vậy rồi nên không được phép thay đổi. Mà phải đứa đánh nhau giỏi nhất mới được làm tướng cơ. Con không thích đánh nhau chỉ thích nhìn bọn nó đánh nhau thôi cha.

Uyển ôm con trai vào lòng, vuốt ve nó nghe tâm t.ư của nó. Nó vì mệt hoặc vì trận đánh nhau khi nãy mà ngủ thiếp đi. Những dấu hiệu của chàng tthiếu niên đang tuổi trưởng thành xuất hiện ngày càng nhiều hơn trên cơ thể đang thay đổi từng ngày của thằng bé. Uyển thấy khố của nó ướt nhẹp, nghĩ là thằng bé tè dầm, Uyển nhoen miệng cười, vỗ vào mông nó:

- Thằng nhỏ này đã lớn rồi sao? Sao vẫn còn tè dầm à.

Nó nhỏm dậy, mở mắt ra, môi chề nũng nịu:

- Cha lại đánh con, con đang ngủ mà. Con đang mơ thấy Đỗ Thị ôm con vào lòng như khi nãy nàng ta ôm thằng Trừng. Cha thật là.

Nó lại nằm ngủ ngon lành, miệng nhoen nụ cười mãn nguyện. Uyển lắc đầu, thay cho nó chiếc khố khác rồi ôm lấy nó bế vào trong phủ. Đoàn Uyển ngồi ngẫm câu chuyện của Tù Thiên vừa kể, trong lòng tức tối lôi hai hũ rượu uống say mèm, múa kiếm ngâm thơ một mình để bớt đi những u hoài trong đầu. Đêm xuống, đầu óc quay cuồng, Uyển chìm vào giấc ngủ. Trong cơn mê, Uyển mộng thấy có vị thần râu dài, ánh hào quang rực sáng, cưỡi mây vàng trước cửa phủ thành mà nói vọng xuống:

- Nhà ngươi làm hiền tế họ Đỗ, nương vào họ Đỗ mà lập thân. Họ Đỗ không có nam tử nối truyền, vì tranh giành binh quyền mà ngươi giết hại nhiều người vô tội. Nay lại có người họ đấy theo ngươi tận tụy phò giúp, nếu không dùng người đó chỉ e cả nhà sẽ ly tán, cơ đồ sẽ rơi vào tay kẻ khác.

Uyển bàng hoàng tỉnh giấc, toàn thân ướt sũng mồ hôi giữa trời thu tháng tám. Đoàn Uyển sai người soạn sửa lễ vật, cau trầu, đầu lợn, chín gà, thịt dê mang đến phía nam thành phủ dựng miếu thờ thần để tạ ơn ngài về báo mộng. Uyển cũng cho người sắm sửa nhang đèn lên mộ phần của viên cố thứ sử châu Ái, nàng Đỗ Thị chính thất phu nhân của Uyển đã mất hơn hai năm nay. Hơn năm nay, Uyển bỏ bê không hương khói, vàng mã đầy đủ. Trong lòng bất an, Uyển mời thầy cúng đến yểm mộ phần của cha con họ Đỗ nơi đất núi phía tây bắc thành Nhật Nam. Thành còn sai người đến gia phủ của Tồn Thành, sắp xếp mọi thứ ngăn nắp, chăm chút cây cỏ trong vườn lại cho người họ Đỗ trong thành đến trông coi, hàng ngày báo cáo đầy đủ cho Uyển.

Uyển ra lệnh cấm trẻ con trong thành tụ tập thành nhóm đông chơi trận giả. Gia đình nào để trẻ con chơi trận giả mà bị bắt được sẽ bị phạt năm lượng bạc, bắt nhốt cha mẹ hai ngày trong nhà lao. Từ đó đám trẻ con Ái Châu không đứa nào ra ngoài chơi bời, lêu lổng như trước phần vì cha mẹ chúng sợ không kiểm soát được bọn chúng.

Trong thành phủ Ái Châu khi đó, Viên thanh tra châu là Điền Trực vốn không ưa gì Tồn Thành sai thuộc hạ báo tin về trị sở Tống Bình. Lý Nguyên Hỷ biết tin Ái Châu lục đục lấy làm bất an đành không cho gọi quân lính Ái Châu dẹp loạn Man Hoàng.

Man Hoàng chiếm được Trường Châu, tù trưởng người Man nắm giữ binh quyền. Đỗ Trang có người anh em khi trước kết giao ở đất Trường Châu khi chạy trốn cùng Tồn Thành, người này năm trước xung lính cho Trường Châu báo cho Trang biết tin. Khi đó Trang đang làm bổ đầu huyện Sùng Bình báo về cho Thành rằng có viên tướng dung mạo trông giống hệt Gã Quỷ Dương Diện đang ở Trường Châu, huyện Vô Công. Tồn Thành cho lời đó là đàm tiếu, không tin. Ba ngày sau, Đỗ Trang lại quay lại báo rằng người đó đánh nhau với Đỗ Phùng Quán sức lực ngang ngửa, lại dùng cây dao quắm đánh nhau với Quán. Tướng mạo oai dũng, mặt mày có bớp lớn, mang mặt lạ da bò, có người nhìn thấy hắn cứ mỗi lần say rượu lại kể chuyện cá lớn hình rồng, những thớ thịt lại lồi ra đầy sẹo khiến người khác phải kinh hãi.

Thành đang cầm cây cuốc giơ lên vạc đất, nghe tin liền cuốc phải rễ cây lớn khiến nó đứt lìa, nhựa cây chảy ra trắng một khoảng đất. Thành gọi Đỗ Kiêm, Đỗ Trang đến trang trại của Thành bàn chuyện. Thành giao lại trang trại cho Kiêm, sai hai người đó tìm một tên đóng giả Thành nằm liệt trong giường giả ốm để đánh lừa tai mắt của Uyển.

Trang tìm được một tên buôn răng hổ, sừng trâu ở chợ huyện thành Sùng Bình, Trang mua hết chỗ răng hổ, sừng trâu lại cho thêm hắn hai nén bạc trắng mời hắn về trang. Về đến trang của Thành, Thành sai người bắt giữ tên đó, lấy quần áo thổ cẩm, khăn đội đầu của hắn cùng con lừa đi ra khỏi trang trại. Còn tên người Mán đó bị Kiêm trói nhốt trong nhà, hàng ngày cơm ăn, thuốc uống bưng lên hầu hạ vờ như chăm Tồn Thành đang ốm ốm phía trong. Biết Thủ Trừng con trai Thành thích ở cùng với Đỗ Thị con gái nuôi của Kiêm nên được đưa đến nhà Kiêm, chơi với Đỗ Thị.

Tồn Thành đến Trường Châu nghe ngóng tin tức, dò la được chỗ ở của Tồn Thăng, Thành liền tìm tới. Tồn Thành giả làm tên thương lái buôn sừng trâu, răng hổ đến cửa phủ dò hỏi. Ban đầu Thành có ý đút lót cho bọn sai nha canh cửa để xin được vào trong phủ giới thiệu. Tướng người đường hoàng lại nói giọng người Giao Chỉ không pha lẫn nên bọn chúng biết Thành không phải đám dân buôn người Lý từ miền Man Hoàng xuống đất châu thổ, nghi là bọn phường lừa đảo nên không cho vào. Tồn Thành đợi đến quá trưa, đánh xông đánh nga muốn vào trong phủ gặp cho bằng được vị tướng quân trong phủ đó. Tồn Thành náo loạn cả cửa phủ, nằm lăn lộn ăn vạ đám lính như đám buôn bị bọn sai nha bắt dẹp trên phố.

Nghe có tiếng nhốn nháo ngoài phủ, một tay mặc quần áo thổ cẩm, chùm khăn kín đầu cầm dao quắm chạy ra. Thấy có người mặc áo tộc mình, tay này nói mấy câu chào hỏi bằng tiếng Mán. Tồn Thành cũng giả vờ bặp bẹ mấy câu, chừng có mấy tên tộc Mán ở đó ôm bụng cười lăn lộn. Tồn Thành đành giãi bày:

- Các anh thương cho. Ngày qua có người hẹn anh tôi mang sừng trâu, răng hổ đến phủ này giao cho vị tướng quân mang mặt nạ da bò. Anh tôi cùng tôi đi từ xứ Man Hoàng xuôi về đất này bị đám người ngoài thành trấn lột hết tiền, anh tôi bị bắt, tôi chạy đến đây. Mong các anh cho tôi vào phủ để giao hàng cho vị tướng quân kia. Tôi ở đây chỉ sợ nhiều người qua lại, có người của bọn chúng, tôi không giao được cho vị tướng quân đó thì tôi chết mất.

Triệu Cường lúc đó đi qua cửa phủ thấy có tên dân buôn người Mán gây lộn nhìn dáng vẻ quen đứng lại. Tay đó ôm túi hàng, mặt cúi cúi gằm lấm lét nhìn Triệu Cường. Tồn Thành liếc trộm thấy dáng vẻ thư sinh, ria mép con kiến cưỡi ngựa thố mặc áo xanh viền đỏ như đám người Mán nhưng giọng nói đặc người huyện Vũ Bình. Thành nhận ra giọng nói đó, chạy tới ôm ngựa giật cương ba lần. Cường giật mình, nhìn tên người Mán đó. Thành nghển cổ nháy mắt Triệu Cường. Cường cười lớn:

- Ra là một tên buôn răng hổ. Nhà ngươi theo ta tới phủ ta. Ta muốn chọn lấy vài chiếc để tặng tù trưởng, và bọn giám quân.

Thành cúi thấp, ôm lấy túi răng, sừng chạy theo ngựa của Triệu Cường đến phủ của Triệu Cường. Cường ngó trước nhìn sau, sai đám lính ra cửa canh phòng nghiêm ngặt. Tồn Thành chạy theo Cường đi qua ba gian nhà lớn, đến một căn phòng nhỏ phía bên phải hậu đường. Triệu Cường lột mũ áo của Thành ra, giọng cười lớn:

- Là Đỗ tướng quân, An Nam đô úy. Nghe nói Tồn Thành từ quan về làm lão nông, nay lại đi buôn răng hổ, sừng trâu sao. Nhìn qua cũng biết răng kia là răng lợn, sừng kia là gỗ mục nhuộm màu. Bây giờ anh lại phải đi lừa người kiếm vài đồng bất chính sao.

- Không như người ngoài nhìn thấy đâu anh Triệu. Ta nghe nói Gã Quỷ Tồn Thăng đang ở đất này. Mọi chuyện ở Trường Châu là như thế nào. Tại sao các anh lại cùng đám Man Hoàng đánh chiếm đất Trường Châu. Ta chưa vẫn còn chưa hiểu chuyện này.

- Kể ra chuyện này chắc ta và anh phải cạn cả trăm bầu rượu cũng chưa kể hết.

Triệu Cường dặn Tồn Thành ở phía trong chớ ló mặt ra ngoài, Cường chạy ngựa gọi Gã Quỷ đến phủ mời rượu. Gã Quỷ Tồn Thăng nghe có lời mời rượu từ Triệu Cường lập tức mang theo hũ lớn, một đùi lợn rừng đến phủ. Triệu Cường sai đám nô gia bày tiệc rượu mang đến hậu viên. Gã Quỷ thắc mắc về lý do Triệu Cường mời rượu gã, trước giờ Triệu Cường thường không hay giao du với đám tướng dưới trướng Dương Thanh, chỉ có trong tiệc Dương Thanh khao thưởng mới thấy mặt Cường. Cường chỉ nói rằng có chuyện vui muốn mời rượu Gã Quỷ càng khiến gã Quỷ tò mò. Cường lấy ra bọc răng, sừng khoe, mặt hớn hở với Gã Quỷ:

- Ta vừa mới thu mua được chỗ này với giá rẻ. Ta nói với tên đó rằng đây là răng lợn, gỗ mục làm giả ra sừng trâu, răng hổ. Tên đó thấy ta là quan viên, nói mấy lời nộ nạt khiến hắn sợ chuyện bị bại lộ nên giao cho ta với giá rẻ. Nay gọi Dương Diện gã quỷ tới đây như để chia sẻ niềm vui với đệ. Lộc bất tận hưởng, người anh em không phải lấn cấn làm gì.

- Làm quan như anh mới đáng mặt làm quan chứ. Chỉ dọa vài lời mà bọn dân buôn cũng không dám trái lời. Có thật cũng thành giả, kẻ nào dám cãi lại.

Gã Quỷ vẫn tính thẳng thắn ngô nghê tin lời Cường là thật. Gã Quỷ cười vui mừng, lấy hũ rượu quý mang ra rót vào bát lớn. Gã Quỷ thấy có ba chiếc bát nhỏ, ba chiếc bát lớn cùng ba đôi đũa tre soạn sẵn trên bàn. Gã Quỷ thắc mắc:

- Anh định mời cả Dương Thanh đến sao. Có ông ta ở đây, em đâu có được uống hả hê.

- Sao chú lại hỏi vậy.

- Thì ở đây chỉ có hai người, anh và em. Mà lại có đến ba đôi đũa, ba chiếc bát lớn, ba chiếc bát nhỏ. Chẳng phải anh mời thêm người khác nữa hay chăng. Mà ở đất Trường Châu này, anh đâu có quen ai. Tên Phụng Quán kia không thích đám hủ nho như anh, còn Phạm Đan thì dẫn quân về Động Đỗ sáng nay rồi. Chỉ còn có duy Dương Thanh.

- Người ta nói Đỗ tướng quân ngốc nhưng không hề biết t.ư duy của Đỗ tướng quân cũng chẳng thể kém gì ai.

Giọng nói quen thuộc, trầm ấm, giọng cười sảng khoái, bước chân ầm vang bước ra. Một đòn đánh đau chí mạng trúng vai. Gã Quỷ ôm vai toan cầm dao quắm chém người phía sau. Gã Quỷ quay lại phía sau nhận ra ngay người anh Tồn Thành mặc áo man di. Hai người đàn ông ôm nhau mừng rơi nước mắt, họ dành cho nhau những cái vỗ vai điếng người. Những cánh tay rắn chắc vòng căng chặt từng thớ cơ trên cơ thể hai con người đó. Triệu Cường ánh mắt hân hoan mời hai người ngồi xuống cùng cạn hết đến cả trăm bát rượu rót ra. Ba người ôm nhau, giọng lè nhè hát những bài đồng dao miền châu thổ, tặng cho nhau những chén nồng đậm đà. Ba người ngủ ly bì cho đến chiều muộn ngày sau mới tỉnh dậy.

Không thấy gã Quỷ cùng Triệu Cường, Dương Thanh sốt ruột cho người đi tìm. Không ai hay hai người đó ở đâu, có người nói hai người đó cùng một tên buôn răng hổ, sừng trâu đêm qua uống rượu say đi ra bờ sông ngoài thành huyện Vô Công.

Tồn Thành tỉnh giấc ngủ bên cạnh con nước, đêm tối mịt mùng, đầu óc choảng váng, trọng bụng réo như ấm nước đun sôi. Tồn Thành è è trong cổ họng muốn gọi người. Một thiếu nữ mặc áo yếm lụa đào, đôi chân trần bước giọng nói dịu dàng dễ nghe, tay bưng chén nước mở cửa bước vào. Tồn Thành thấy cô gái chăm sóc ân cần lấy làm lạ lẫm, định bụng hỏi cô gái. Cô gái cất lời:

- Chàng ngủ khiến người khác phải thật ghen tỵ. Đã hai ngày rồi, chàng không hề hay biết điều gì hay sao.

Tồn Thành ê nhức, rã rời chân tay, đầu óc mê man níu tay cô gái, cầm chén nước còn đương nóng bỏng tay dốc vào miệng. Tồn Thành cầm cả ấm nước còn chưa kịp rót ra chén rót thẳng vào miệng cho thỏa cơn khát. Chàng hỏi cô gái:

- Ta đã ngủ ở đây hai ngày rồi sao. Đây có phải phủ của Triệu Cường không.

- Triệu Cường nào hả chàng. Đây là nhà của Đinh gia trang cạnh bờ Hoàng Giang. Hai ngày trước, chàng cùng với hai vị tướng quân uống rượu say đến đập cửa Đinh Thái Công để tìm thêm rượu uống. Hai vị tướng quân kia còn sai bọn thiếp phải hầu hạ cho chàng thật chu đáo, mà chàng cứ nằm lăn ra ngủ miết, đâu có làm được gì. Gọi không dậy, lay chàng không thưa. Bọn con gái nó về phủ thành hết cả rồi. Chỉ còn mỗi thiếp ở đây với chàng.

- À, à. Ta quên mất. Thế hai người đó đâu rồi. Họ không phải đi cùng ta sao.

- Hai người đó bận công chuyện về thành phủ từ đêm hôm qua rồi.

- Vậy hãy cho ta về đó. Mà không. Nàng hãy dẫn ta tới một dịch quán trong thành. Ta có chút việc làm ăn cần phải giải quyết. Ta sẽ không quên công của nàng đâu.

Cô gái ân cần đỡ Thành dậy sau cơn chếnh choáng. Phì phò hơi rượu chàng bước loạng choạng ra cửa, cổ họng còn cháy rát chàng gục đầu xuống sông nước mênh mông. Cô gái chạy theo gọi Thành quay lại. Dòng nước mát khiến cổ họng, toàn thân chàng như đất khô hạn gặp mưa rào. Thỏa chỉ vẫy vùng, chàng rũ nước bước lên bờ. Có giọng lanh lảnh cô gái bên sông:

- Này gã điên kia. Đêm khuya thanh vắng lại bì bõm khiến cá tôm chạy hết cả đi rồi.

Tồn Thành nhìn xung quanh không một bóng người, chỉ có cô gái khi nãy đang cầm chiếc đèn lồng bay phất phơ phía ngoài trang. Cô gái chỉ dám đứng, tay đưa vạt áo che miệng cười. Chàng hỏi:

- Là nàng vừa nói đúng không.

- Không phải thiếp.

Một mảnh lưới chùm lên đầu Thành, chàng bối rối gỡ ra, tiếng chân thoăn thoắt tiến lại gần, từng đòn roi đánh trúng người chàng. Như giãn gân cốt, chàng gồng mình xé toang mành lưới. Chàng lãnh thêm dăm chiêu thì khống chế được chiếc roi mây đang liên tục đánh vào người. Bàn tay mềm mại, đôi bàn chân rắn chắc nhưng chẳng phải của đấng nam nhi lực lưỡng, chàng khóa chiêu, giáng mạnh một đấm vào ngực kẻ tấn công mình. Roi mây thuộc về tay chàng, chàng vút rot ngang hông khiến cô gái thất thanh la lên đau đớn, nàng oằn mình ngã xuống. Thành đỡ eo cô gái, ôm lấy nàng, tay cô gái bám lấy người Thành nhưng lại buông ra ngã xuống nước. Cô gái cầm đèn lồng bước chạy ra ném đèn xuống đất kéo cô gái từ dưới sông lên, thảng thốt gọi:

- Lã Vọng tiểu thư. Tiểu thư có bị sao không.

Đèn lồng cháy bùng, cô gái bước từ bờ sông lên ướt sũng, ôm ngực, ôm bụng hổn hển bước vào. Ánh mắt sắc lẹm nguýt Tồn Thành. Tồn Thành như gã ngốc nhìn theo cô gái. Thành tiến lại gần hỏi han:

- Giữa đêm khuya khoắt, phận nữ nhi sao lại ở ngoài bờ sông. Nhỡ may có việc chi thì biết làm sao.

- Lại còn nhỡ may cái gì. Chẳng phải là nhà anh đánh tôi đến gần chết đây.

Cô gái hắng ra một cục máu, thổ ra nền cát phù sa. Chàng tiến lại đỡ cô gái vào phía, lấy chiếc áo mặc trên người phủ tấm lưng trần của cô gái. Nàng ta lấy áo vò nhàu lau đi máu còn vương trên khóe môi rồi ném xuống nền đất. Nàng hậm hực:

- Cha ta thật đúng là… Đi suốt từ sáng cho đến tận giờ vẫn chưa chịu về. Lại để cái tên đáng ghét kia ở đây. Phá đám người ta.

Tồn Thành rót một ly nước, nhẹ nhàng đưa cho cô gái. Miệng lắp bắp hỏi cô gái:

- Ra nàng là con gái của trang này sao. Cả trang rộng lớn mà lại chỉ một mình nàng sao.

Cô gái lấy khăn thấm ướt mái tóc dài, quay mặt lườm Thành. Khuôn trăng nét ngài đầy đặn nở nang, Tồn Thành như bủn rủn chân tay. Chàng như lạc vào trong đôi mắt đầy huyền bí, long lanh sáng trong như ngọc. Tấm lưng trần dám nắng, đôi tay mềm mại vuốt ve mái tóc đen nhánh phủ dài ngang hông hong dưới ánh đèn. Chàng nhìn vào vết lằn khi nãy chàng dùng roi mây quất trúng. Tay đưa ra chạm vào chỗ hông của nàng, chàng buông lời thắm thiết:

- Ta thật tình xin lỗi nàng, khi nãy chẳng may đánh trúng người nàng khiến nàng đau phải chịu đau. Tấm thân mĩ miều của nàng vì ta mà ra nỗi này. Trong túi ta có chút cao bôi, ta mang từ miền Man Hoàng trị thương rất tốt đó.

Cô gái gắt gỏng, lấy que đóm vụt thẳng vào tay Thành. Thành rụt tay lại nhận ra mình vô duyên chạm vào hông nàng ta. Thành tìm chiếc tay nải hôm trước mang theo cùng đám răng hổ, sừng trâu. Mở tai nải ra, Thành lấy ra một bọc nhỏ quấn kỹ vải đen, bên trong là một miếng cao màu đen cứng như đá. Chàng lấy chút dầu phụng trên đèn hòa chỗ cao đó ra, lấy tay chấm lên xoa vào vết thương cho nàng ta. Nàng ta hất tay ra không khiến Thành bôi. Bát cao vừa hòa đổ tung tóe ra sàn. Nàng ta nạt nộ Thành:

- Trước giờ ta chưa thấy tên vô lại nào như ngươi. Ngủ lỳ ở nhà ta đến hai ngày liền, tỉnh dậy còn đánh cả chủ nhà. Nay ngươi lại có ý đồ gì với ta. Nhà ngươi mà làm gì ta thì đừng mong ra khỏi trang này.

Tồn Thành cúi xuống lấy khăn áo thấm đi chỗ dầu cao vừa đổ. Đôi mắt chàng đờ đẫn nhìn theo dáng dấp nàng khập khễnh đi ra phía ngoài cửa phòng, tâm trí lơ đãng như không hề nghe những lời nàng ta nói. Cô gái quay lại thấy Thành còn đang chăm chú nhìn vào áo yếm của nàng, khuôn trăng lồ lộ đẩy ra phía trước, Thành không tài nào chế ngự được cảm xúc. Nàng ta lấy tay khoanh trước ngực, mặt vênh váo, lấy túm tóc vắt qua vai che đi khuôn trăng đầy đặn của nàng. Nàng dùng chân đá mạnh chiếc chổi về phía Thành, sai cô gái kia lấy chiếc áo lụa dài mang ra cho nàng. Nàng khoác lên chiếc áo dài, dáng người thướt tha càng khiến Thành thêm bấn loạn. Mắt trợn lên, nàng ta nhìn Thành:

- Nhà anh còn không mau dọn nhanh đi. Đừng để cha ta về trông thấy. Mà cha ta có hỏi thì anh cũng không được nói khi nãy ta ra chỗ bờ sông. Nhớ chưa.

Thành gật gật, rồi quét lẩy phẩy khiến dầu cao làn ra khắp phòng. Tiếng vó ngựa tiến gần từ phía bờ sông hắt lại ngôi nhà tranh. Tiếng gọi í ới phía ngoài, Tồn Thành định bụng bước ra ngoài trông thấy dưới lập lòe ánh lửa một toán người tên nào tên nấy hàm rắn miệng chuột, tay cầm hung khí, mặt đằm đằm nhìn vào. Cô gái dập lửa, dắt tay Thành trốn ra trang trại phía sau. Thành đứng núp sau chiếc vại đựng nước mưa nhấp nhổm nhìn ra. Cô nàng núp phía dưới, mùi hồng xiêm chín rộ nồng nặc khiến cô gái không thể thở được. Tồn Thành chăm chú quan sát phía ngoài thì thầm hỏi cô gái:

- Đám người đó là bọn nào. Sao lại phải trốn đi.

- Anh trật tự đi. Đừng có hỏi nhiều. Bọn nó mà biết tôi ở đây, chúng sẽ giết chết cả tôi và anh đó.

Tiếng thất thanh của cô gái khi nãy đi từ bờ sông đi vào trong nhà. Một tên lờ đờ như người say rượu, mắt đỏ hoe, đầu cong nhọn hoắt, lỗ mũi nhỏ híp túm tóc cô gái quát tháo:

- Lã Vọng đâu. Nàng ta đang ở đâu. Mau khai ra thì ta còn để nguyên tính mạng.

Cô gái sợ sệt, mặt không giọt máu nhìn hắn, người run lẩy bẩy trả lời hắn:

- Ác Tình quan gia. Xin tha mạng cho tiểu nữ. Từ ngày tiểu thư cưới về làm vợ ngài, cô ấy chưa từng về đây.

- Đừng có gọi ta là Ác Tình. Ta là không có Ác mà lại gọi ta là Ác. Gọi ta là Phan Tình được rồi. Tao mà tìm thấy đứa con gái hư hỏng đó thì đừng có trách tao. Vậy cái áo dính máu này là của đứa nào.

- Bẩm Ác, Phan Tình quan gia. Đó là cái tấm vải của tôi. Tuần trăng đến độ, chưa kịp dọn dẹp mang đi.

- Thế lão Đinh Bá đâu.

- Bẩm, lão gia đi từ sáng, chở theo hai chum rượu giờ này vẫn chưa về.

- Sáng nay còn thấy lão mang rượu vào trong thành bán cho đám quan gia, hay lại xỉn say ở phủ thằng nào rồi. Lã Vọng không có ở đây, chi bằng nhà ngươi thay nàng ta mà chiều chuộng ta.

- Xin quan gia tha mạng. Tiểu nữ không biết Lã Vọng tiểu thư ở đâu. Mong ngài tha mạng cho tiểu nữ.

- Nhìn đứa con gái như mày cũng ngon đấy. Chi bằng theo ta làm bà nhỏ, chẳng gì cũng được cùng hàng, cùng chiếu với tiểu thư nhà ngươi. Chẳng phải cô ta ngày ngày vẫn chê nhà ngươi hậu đậu, chẳng được tích sự gì hay sao.

Lã Vọng nằm gọn dưới thân hình vạm vỡ của Thành, có thớ sẹo ở bụng chàng ghì sát vào lưng nàng ta khiến nàng ta giật mình đẩy người Thành ra. Nàng ta quát tháo:

- Cái tên râm tặc khốn nạn nhá ngươi.

Phan Tình chạy ra phía sau thấy nàng ta cùng Tồn Thành kẻ ở mình trần, người lưng phủ bụi đất. Hắn gầm gào ném đuốc về phía Tồn Thành sai mấy tên lâu la dùng gậy gộc bắt trói hai người. Giọng gã lịu nghịu:

- Mẹ hai con chó gian râm. Hôm nay thì bố mày bắt tận tay. Chúng mày còn đường nào chối cãi hay không. Dám bỏ nhà chạy theo cái thằng tộc Man kia à.

Lã Vọng mặt sấc láo chua ngoa:

- Ta thà đi lang còn hơn nằm cạnh cái thằng như khoai dím. Nhìn oai võ là thế mà đêm về như thằng trẻ con.

- A. Mày lại còn dám chê tao à. Bố mày cho mày biết thế nào là trẻ con, con đàn bà gian râm kia. Cả cái thằng chó kia nữa.

Ác Tình dùng dao bầu xông thẳng về phía Tồn Thành định chém chàng. Chàng né được, chạy ra ngoài, cố gắng giải thích cho Tình:

- Có chút hiểu lầm rồi tráng sĩ. Tôi chỉ là ngủ nhờ ở trang trại của lão Đinh lão Bá ấy.

Nàng ta lườm Thành, tiếp lời cho Thành:

- Hắn không liên can gì đến chuyện này cả. Khi nãy ta về, đã thấy hắn ở đây. Hắn nói là khách của cha. Ta nghĩ hắn là cướp nên hắn định bắt hắn, ai ngờ hắn đánh lại khiến ta thế này. Ta bảo hắn ra phía sau vườn để tránh mặt ngươi. Chứ chẳng phải như cái loại tiểu nhân nhà ngươi nghĩ. Bà bị đánh lằn cả người đây này mà cái giống chồng gì lại không thương vợ, nghĩ vợ thế này thế kia.

Lã Vọng vạch áo, chìa chỗ hông cho đám người cùng nhìn thấy. Ác Tình cười mỉa:

- Chúng mày còn chơi cả cái trò bạo lực nữa cơ à. Đừng có già mồm nữa. Tao không có vợ chồng gì với cái loại như mụ. Khôn hồn thì theo ta về chịu tội. Thằng kia muốn sống thì nói mau. Ả với mày tằng tịu với nhau từ bao giờ.

Tồn Thành cúi mình hạ giọng:

- Dạ bẩm. Có vị cô nương này làm chứng. Ta chỉ là khách của lão bá từ thành huyện Vô Công tới trang để tìm rượu. Hai người huynh đệ của ta có công chuyện vào thành, ta đợi lão Đinh về cảm tạ lão mà hoài chẳng thấy ông về.

- Hai người kia là kẻ nào. Trước giờ kẻ đến trang này tìm rượu chỉ có mấy tên quan chức trong huyện, không thì cũng đám thổ hào quanh chỗ này. Trông bộ dạng nhà ngươi chẳng phải thổ hào, cũng không phải đám quan chức huyện này. Lại còn dám nhận là khách của nhạc phụ ta sao.

Tồn Thành lúng túng đáp lời :

- Là Triệu Cường cùng với Dương Diện hộ sư quân tướng, đang đóng tại thành huyện Vô Cương.

Phàn Tính cầm ria mép vuốt vểnh như mèo, lấy dao bầu chỉ vào mặt Thành cười lớn :

- Hai gã đó là kẻ nào. Ta chưa nghe cái tên đó. Các ngươi có biết kẻ nào tên như vậy không.

Cả đám người cười nói không biết tên hai người đó. Tồn Thành nhớ lại chuyện cách đây đôi ngày, sực nhớ ra Triệu Cường đã dặn không được gọi hai người đó với cái tên Triệu Cường, Dương Diện. Tồn Thành đánh trống lảng :

- Chẳng biết lão bá Đinh khi nào mới trở về. Khi nãy tỉnh cơn say, tôi ra bờ sông cho thỏa cơn khát thì gặp cô nương. Ra hai người là vợ chồng. Thật là không phải với Phan phu nhân. Ta đã ra tay hơi mạnh, khiến cô phải chịu đau. Mong hai vị nương tình tha lỗi cho.

Gã Ác Tình nhăm nhe con dao, gã nhặt chiếc áo vò nhàu thấm máu dưới đất lên. Nhìn chiếc quần Thành đang mặc trên người. Gã chém nát chiếc áo, gầm gừ với cô nàng :

- Mày. Chúng mày vừa làm cái trò gì đây. Phải chăng mụ đã với thằng chó kia. Áo này chính là của mày. Mày lại còn lấy áo của gã nhân tình này lau cái thứ ấy. Thật là khốn nạn. Chó đẻ ra chúng mày. Tao phải giết, giết hết chúng mày.

Tồn Thành trông gã điên lên bước lùi lại quan sát. Gã xông vào ôm lấy nàng Lã Vọng, tay ghì cổ bóp nghẹt từng hơi thở của nàng ta. Nàng ta ra sức chống cự mà không sao cưỡng lại được cơ bắp chắc lỳ của gã. Tồn Thành thế thủ, tay quờ được chiếc cán chổi làm vũ khí giương về phía gã Ác nhân. Ác Tình gào thét, Lã Vọng tím tái mặt mày, đôi tay cố kéo cánh tay lực điền của gã đang siết càng lúc càng chặt hơn. Nàng giẫy giụa chân nàng co lên đạp trúng nơi hạ bộ của gã. Gã la toáng lên, buông dao cùng nàng xuống, gã oằn mình đau đớn. Bọn lâu la xông vào túm lấy vạt áo của nàng, áo yếm trễ xuống, áo rách tả tơi lộ ra khuôn trăng ngồn ngộn, năm ngón tay đỏ rát còn hằn phía ngực trái của nàng. Vội vàng nàng thu mình, ghẹm áo sát người. Tồn Thành chỉ dám liếc nhìn, tay giữ chắc cây cán chổi, tay ra hiệu cho cô gái chạy đi. Ác Tình ôm phần bụng dưới, mặt đỏ như gấc nhăn nhó, nói không ra hơi :

- Mụ dám t.ư thông với tay Man di mọi rợ. Ta phải giết mụ với tên tình nhân kia. Bọn mày xông lên thẳng tay đánh mụ và thằng kia cho tao.

Đám lâu la dùng gậy gộc xông vào đánh Tồn Thành. Tồn Thành dùng võ nghệ chống đánh gục từng tên. Nàng ta dùng roi mây quất trúng mặt hai tên khiến chúng sợ hãi không dám lại gần. Lã Vọng dắt cô gái ra phía ngoài, đỡ cô gái lên ngựa, nàng dặn dò:

- Tâm Hoàn. Cô hãy chạy đi. Việc của ta ta tự lo không liên can gì đến cô và cha ta. Cô hãy tìm cha ta ở phía đầm Cút, ông đang ủ rượu ở gần đó nói với ông ấy hãy trốn đi thật xa. Chớ quay trở về trang nữa.

- Nhưng còn Trình Bằng, cô có biết nó đang ở đâu không.

- Cô hãy cứ lo cho bản thân cô trước đi đã. Em trai cô chắc nó cũng đang ở chỗ cha tôi. Nếu gặp nó thì hãy mang nó đi cùng. Tránh họa về sau. Tên Ác Tình sẽ không tha cho người nào trong nhà ta nữa đâu. Hắn như con quỷ dữ không còn nhân tính nữa rồi. Sáng nay hắn giết một tên người hầu trong chớp mắt. Cha hắn cũng không thể kiểm soát được hắn nữa rồi.

Tồn Thành phía trong nhà đánh lộn với đám người của Ác Tình một lúc, người vẫn còn ê mỏi sau cơn say không biết trời đất. Chàng nhặt được con dao dưới đất, chàng chỉ trỏ đám lâu la :

- Kẻ nào xông đến ta sẽ giết kẻ đó.

Phan Tình vênh mặt ghé cổ vào dao, giọng đầy thách thức :

- Mày giỏi thì cắt cổ tao đây này. Lão gia đang muốn chết đây.

Tồn Thành vội bước sang một bên tránh rút dao lại. Chàng bước ra ngoài cửa, tay lăm le con dao dọa dẫm. Mấy tên xông lên dùng gậy đánh toan đánh vào đầu Tồn Thành, chàng dùng dao chém gãy hết loạt. Dao bén đứt lìa tay một tên lâu la, tay văng xuống đất, máu me chảy ồng ộc như cắt tiết lợn. Ngựa hý chạy đi, có một tên chạy ra phía ngoài định bắt một con ngựa chạy đuổi theo. Chàng dùng dao phi trúng lưng tên đó, hắn ngã ngựa nằm ngửa ra đất, dao bầu chọc thủng bụng nhô lên, sống lưng gãy một tiếng cạch khi xác hắn chạm đất. Lã Vọng nhìn thấy máu me lênh láng ngã gục ngất lịm.

Phan Tình nhìn Thành giết hai tên lâu la, gã mếu máo, cầm gậy của một tên lâu la đang đứng run bần bật sợ hãi lao cả người dồn sức đánh Tồn Thành. Tồn Thành cúi thấp mình, gã lao qua lưng, Thành dùng gót chân đạp trúng bụng hắn khiến hắn đâm cả đầu trúng bức vách bùn khô. Thanh tre cột nhà gãy nhừ chọc đầu hắn lấm chấm máu. Tồn Thành quát hắn :

- Cái tên ác thú nhà ngươi. Hãy dừng lại. Ta và hai cô gái đó không có can hệ gì. Chỉ là chút hiểu lầm giữa ta và hai cô gái đó. Ta cũng không có quen biết người nào ở đây cả. Hai ngày trước, ta uống rượu quá say. Hai vị huynh đệ của ta đã đưa ta tới đây. Lúc tỉnh dậy thì như ta đã kể với nhà ngươi. Nếu ngươi còn ngoan cố, ta sẽ không nể mặt lão Đinh Bá nữa đâu.

Phan Tình lấy tay xoa đầu, máu dính lớp nhớp trên tóc, trên râu hắn. Hắn phỉ nhổ, giọng gầm như thú dữ :

- Mẹ cha mày. Mạng ông đây, có giỏi mày giết ông xem nào. Mày có biết bố mày là ai không mà dám nói cái giọng ấy.

Tồn Thành nhìn hắn với ánh mắt dò xét. Chàng hỏi lại hắn :

- Dẫu có là ai ta cũng thấy ngươi không hơn chi loài súc vật. Ả vợ ngươi làm điều gì khiến ngươi phải ra tay độc ác đến thế.

- Độc ác. Mày có biết mày vừa giết hai mạng người không. Ả là vợ tao, tao muốn làm gì tao làm. Ả gian râm với cái loại mặt chó mày, lại còn đong đưa với mày trước mặt tao. Ả còn sống là vẫn con may mắn đấy con ạ. Còn cái mặt mày nữa. Tao giết.

Dứt lời, Ác Tình rút từ dải hông con dao nhỏ đâm ngực Tồn Thành. Tồn Thành lấy nắm đấm giáng mạnh cổ tay hắn, xương gãy lập tức, bàn tay hắn thõng xuống như chỉ còn da với thịt liền với cánh tay. Hắn kêu gào ầm ĩ, rúc đầu đập đầu vào cột tre lăn lộn đau đớn. Tồn Thành phủi bụi, còn ba tên lâu la mắt trước mắt sau cúi đầu chạy mất dạng. Mặc hắn kêu gào đau đớn, Tồn Thành dắt con ngựa đi ra phía cổng, vác Lã Vọng đặt lên lưng ngựa. Chàng bước vào phía trong nhà nhặt chiếc túi nhỏ đựng miếng cao ném trước mặt hắn :

- Lấy cao đó hòa với dầu phụng, thoa lên vết sưng. Nhờ thầy lang bó thuốc lá chỉ trong vài ngày sẽ khỏi. Ta với nhà ngươi không quen không biết. Hà cớ chi phải gây oán mắc thù. Hai mạng người ta sẽ tự báo quan.

- Ta cóc cần cái giả nghĩa giả tâm. Xem mày chạy được bao xa.

Tồn Thành dập cây đuốc xuống mặt nước sông. Chàng bĩ bõm dưới ánh trăng nhàn nhạt, giương hai tay oai hùng bước chậm. Hồn anh như trời thu trong sáng, giọng hát anh văng vẳng tàn canh. Nước Hoàng Giang vỗ nhẹ ru lòng người quân tử, tiếng ái ô khuất lấp sau lưng. Dáng vóc chàng vạm vỡ núi nứt đổ, mái tóc buông xõa ngỡ rừng cây. Chàng rong ruổi suốt những chặng đường xa vắng, chẳng biết nơi nào có chỗ trú thân.

Tiếng thuyền ai đập con nước tiến lại gần, chàng ngâm khúc dân ca tỏ lòng mến mộ tấm chân tình. Mái đò vội lướt theo con sóng nhẹ, không đáp lời cứ vậy mà đi. Chàng lại bước đi sau những cơn chếnh choáng, gặp lại xa, say rồi tỉnh đã bao lần như vậy. Chẳng biết được lòng người ta thay khác, hay tại chàng đã chẳng còn như xưa. Nghĩ về thuở hàn vi dắt theo Tồn Thăng bắt tôm, cua cá, Thăng lầm lỳ chẳng chịu nói cười một điều chi. Đỗ Đại chặn đánh đám thanh niên hương Xá, Sĩ Giao dùng gậy sêu phân bò chát lên mặt đám đó. Sĩ Hoàng chỉ Tồn Thăng mấy trò lừa đảo, trộm cá tôm của người khác làm của mình. Mấy anh em Dụng, Kiêm, Trang, Hoàng, Đại đánh trận giả giết địch là Sĩ Giao. Tồn Thành dùng que tre giả làm kiếm, chém tơi bời người bắt giết Sĩ Giao.

Vừa đi chàng vừa dâng trào, nước mắt cứ tuôn mà không sao ghém lại. Nghĩ về Thủ Trừng nhỏ tuổi phận cút côi, nhìn ông bà, cô dì bác máu chảy ngã xuống. Đao kiếm kia sao vô tình hiểm ác, cướp bao nhiêu sinh mạng đất Yên Hưng. Hai cha con đôn đáo ngược xuôi, bao phen dở chết, dở sống giữa rừng, giữa biển. Chí trai muốn thỏa vẫy vùng, chàng theo Đoàn Uyển, Dương Thanh đánh cho uy danh lừng lẫy, giết kẻ tâm xà hại dân. Chàng ngồi ngậm cỏ nhếch mép cười Uyển rụt đầu, không phân biệt trắng đen trái phải. Chàng ném viên đá nhỏ nhảy từng bước rồi chìm nghỉm xuống nước sâu. « Thế gian ơi, sao mà vô vị. Chẳng hiểu nổi lòng ta chí lớn ngàn phương ».

Chàng lại chạy bước qua cánh đồng Rộc Xéo, nghe thiên hạ mách lúa này rượu ngon. Gặp con nước chắn ngang như thành ấp, chàng ngồi ngắm con cá quẫy chơi trăng. Tiếng giục giã phía sau nghe thánh thót, giọng lanh lảnh hắt lại từ xa xa. Chàng choàng dậy nheo mắt nhìn quay lại, một bóng hồng lấp ló dưới đồng lau phất phơ bay trong gió đêm vắng lạnh. Chàng nấp đi sau bãi lau rì rào đón gió lộng, tiếng người lại gần rõ ràng đập vào tai :

- Giống lừa ngu si, còn không mau mau chạy. Đừng khiến ta phải đâm dao vào mông mày.

Giọng thật quen, Tồn Thành nhẩm trong bụng. Chàng lấp ló ngó trộm dưới ánh trăng. Nàng ta mệt mỏi, giã họng vì con lừa cứng cổ, cứng đầu. Bỏ xiêm y, nàng ta thay yếm mới, vứt xuống con nước máu đỏ tươi vương trên áo yếm. Tấm lưng nuột nà hòa vào dòng nước mát, ánh trăng khuya hắt xuống đầm nước trong. Khuôn mặt kia sao dịu dàng đến lạ, chàng ngấp nghển ngó lên lại cúi thấp mình. Có tiếng sột soạt từ bụi lau, nàng ngâm mình trong làn nước, cất tiếng hỏi từ xa :

- Là kẻ nào đang nhìn ta trộm ta tắm.

Vắng lặng đêm khuya, chú mèo hoang nhảy ra vồ con chuột đồng đang chạy. Nàng bỏ hết xiêm y, tiến lại gần con lừa lấy ra tấm áo choàng lên người, toàn thân run bần bật vì lạnh. Nàng tìm thứ gì đó một hồi lâu rồi, quay ra vỗ đầu con lừa :

- Ngoan ngoãn chạy cùng ta. Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi một chị ngựa xinh gái.

Có tiếng khè khè bên tai, Tồn Thành chạm phải thứ thô ráp nhiều vảy cứng. Chàng giật mình dưới ánh trăng là con hổ mang chúa. Chàng chạy vội thục mạng về phía bờ con nước. Nàng thu mình quan sát bóng chàng ta, lại thầm nghĩ tên này háo râm nhìn trộm nàng tắm. Cầm dao bầu còn vương máu đằng chuôi, nàng cất lời dọa Tồn Thành :

- Cái tên phàm phu kia. Anh còn không chịu bỏ trốn. Xung quanh đây là đất của họ Phan. Không lo giữ cái mạng lại còn đứng ở đây nhin trộm ta tắm.

Tồn Thành giơ tay cao, cúi thấp mình, giọng từ tốn hỏi :

- Chẳng phải cô nằm ngất vắt vẻo trên lưng ngựa. Sao lại cưỡi con lừa đó. Chồng cô đâu, tên Phan Tình đó.

- Không phải chuyện của anh. Tại sao nhìn trộm ta tắm.

- Chỉ là ta mệt, nằm chỗ bụi lau cho tỉnh táo rồi mới trốn tiếp. Nghe tiếng người lanh lảnh trong đêm, ta mơ màng tỉnh dậy thấy có hổ mang chúa bên cạnh nên mới choàng tỉnh dậy. Chứ đâu có trộm nhìn người cô. Tên Ác Tình đó đâu, hắn yêu cô lắm mà. Sao hắn lại để cho cô đi một mình.

Nàng ta bỗng nhiên choáng váng, ôm đầu tay bám con lừa rồi gục xuống. Tồn Thành chạy lại đỡ lấy nàng ta, hai vai nặng trĩu, đôi chân bước chùn, Tồn Thành cố dìu nàng ta lên lưng con lừa. Chàng ngồi phía sau đỡ lấy cơ thể ngả nghiêng mềm mại, êm ái của nàng ta. Đã từ rất lâu rồi, Thành không được ôm một người con gái từ phía sau, ngắm nhìn một cách mê đắm như vậy. Tồn Thành nhắm mắt tận hưởng từng nhịp thở của nàng, mùi hương cơ thể nàng tỏa ra dịu dàng, êm ái khiến Thành không thể kìm lòng. Chàng siết chặt vòng tay, giữ dây cương cho thật chắc. Nàng thều thào trong vòng tay chàng :

- Chàng hãy đưa ta đến khu đất phía đông, có một bãi lầy lớn. Phía chân núi có một cái động nhỏ. Chàng hãy trốn vào đó lánh tạm hết đêm nay. Hãy cứ để mặc em sống chết theo phận của ông trời.

- Tại sao nàng lại nói như vậy. Ta với nàng không quen không biết. Nàng còn có cha, có chồng và hai chị em họ Trình kia nữa.

- Chồng gì cái tên ác ôn đó. Cha em làm nông trang, nấu rượu trồng hoa, phải nộp thuế sưu cho cái tên hảo trưởng họ Phan cha hắn. Mấy năm rồi, huyện thành không có người mua rượu, thưởng hoa vì viên thứ sử Cảnh Tung ăn chay lại không có vợ con gì nên ông ta cấm các quan uống rượu, dân Trường Châu không được phép làm rượu, hễ bắt được sẽ nhốt trong ngục ba năm. Cha em không thu được đồng nào trong chừng ấy năm nợ cha hắn hai trăm lạng bạc trắng. Cha em đành phải gả em cho tên Ác Tình đó. Cha con hắn tác oai tác quái ở vùng này bấy lâu mà không người nào làm gì được chúng. Có kẻ kiện chúng lên quan huyện, chúng đánh đập cho đến nát xương, nát thịt, quan huyện về xử tội thì được đút lót nhiều tiền nên bỏ qua cho bọn chúng, thậm chí người đi kiện còn bị ngồi nhà lao. Em bị gả cho hắn tuần trước để ráo nợ cho cha. Không rước đón, chẳng lễ nghi, em phải về nhà hắn như con ở không hơn . Nghĩ rằng hắn có chút võ dũng thì được nhờ, mà hắn chẳng hơn đám súc vật, chỉ trực chờ em làm sai điều gì thì hắn lại đánh em. Ở chung với hắn được hai ngày thì hắn đánh em đến bảy tám lần. Đã thế đêm đến, hắn chỉ ôm em có một lúc, rồi người mềm nhũn lăn ra ngủ. Hắn nói như vậy cũng là đủ sung sướng với hắn rồi nên hắn cũng chẳng coi em là gì nữa. Em mới trốn về nhà. Cha em nói sắp tới cha có tiền rồi sẽ cho em chút tiền trốn về Ái Châu, cha ở lại bán hết ruộng đất đi trả nợ cha hắn. Tháng sáu vừa rồi, có viên tù trưởng người Man hành quân qua thung Lá này, có sẵn men ngon hai người họ Triệu, họ Đỗ xúi cha ta nấu cho hai mươi hũ rượu, lại còn hứa rằng sau này sẽ quay lại mua rượu nhiều của cha ta. Nửa tháng sau, hai người đó quay lại, nói rằng chủ Trường Châu nay là vị Man Tộc trưởng kia nên tập tục cũng sẽ khác. Mọi người lại được mua rượu uống, hai người đó vẫn thường xuyên quay lại chỗ cha em, nhưng không hay đi cùng nhau. Hai ngày trước, hai người đó dẫn anh tới, đập cửa uỳnh uỳnh giữa đêm. Lại gửi nhờ anh ở nhà cha em.

- Nàng nói như vậy là nàng còn…

- Chàng hỏi gì lạ vậy. Đang kể chuyện hai vị quan nhân kia, sao chàng lại hỏi vậy.

- À. Ta chỉ là có chút suy nghĩ không thật đứng đắn. Hai người đó là anh em của ta. Thế còn cha nàng và hai chị em họ Trình kia.

- Hai chị em Tâm Hoàn và Trình Bằng vốn là họ hàng xa của Cái em. Cái em họ Trình người đất huyện này. Cha mẹ bọn nó đi theo đoàn buôn ở Đại An, bị tên Đô t.ư Tặc Hải cướp thuyền buôn bị ném xác xuống biển. Hai đứa côi cút Cái em đưa về nuôi. Tâm Hoàn hậu đậu, tính tình lại buông lơi với đám thanh niên trai trẻ nên hay vào trong thành đi theo đám con gái như chàng nghe cô ấy kể đó. Còn Trình Bằng hiền lành thật thà, theo cha em nấu rượu trồng hoa. Sáng ngày nay đi theo cha vào huyện thành giao rượu, sau đấy ở lại lò rượu ở đầu con nước này.

- Thế sao nàng không về đó.

Nàng ta siết chặt tay túm lấy vạt hông của chàng, chiếc quần của chàng mục chỉ từ lâu, rách toạch bên hông trái. Chàng giật mình lấy tay giữ lại, nàng ngả người về phía sau nằm gọn trong cánh tay vững chãi của chàng. Nàng giãi giầu tâm sự :

- Khi nãy, chàng vừa quay bước đi. Cái tên Ác Tình đó rút con dao bầu từ bụng thằng Toắt, xông tới chém em, lúc đó con ngựa bị hắn vấp dây hất ngã em xuống đất. Em tỉnh lại thấy hắn cầm dao nằm sóng soài. Em sợ quá nhảy vào ôm hắn, giành lấy con dao. Chẳng may dao cứa cổ hắn, máu phun ra, chết tươi. Em sợ quá chạy ra lấy con ngựa thì hắn nhỏm dậy ném con dao trúng chân con ngựa, bấy giờ hắn mới chết hẳn. Em sợ lắm. Chàng cứu em. Hai ngày vừa qua bước ra nhìn thấy chàng, bước vào nhìn thấy chàng, em cảm như đã thuộc về chàng từ kiếp trước. Em không biết chàng là ai, mà sao trái tim em như thổn thức, dường như tình yêu đã bắt đầu nảy mầm trong em. Em muốn được ở cạnh chàng, trong vòng tay vững chãi này của chàng, chạm vào từng thớ thịt của chàng, em cảm như có dòng máu đang chảy từ chàng về phía cơ thể em. Chàng có thấy điều đó không.

Tồn Thành điếng người, chàng bất giác lặng yên, đôi tay chàng đã đặt lên khuôn ngực của nàng ta từ bao giờ không hay. Chàng siết chặt vòng tay, truyền hơi ấm từ cơ thể chàng qua tấm lưng mịn màng của nàng. Chàng tận hưởng từng khoảnh khắc mà bấy nhiêu lâu nay mà chàng tưởng như sẽ chẳng bao giờ quay lại từ khi mẹ của Thủ Trừng mất đi.

Ánh trăng mờ ảo, hai người trên lưng chú lừa chậm bước tới động lớn gần đầm nước lớn. Những ái ân mặn nồng Tồn Thành trao cho người con gái mà trước đó chàng còn không hay sự có mặt của nàng trên cõi đời này. Những giọt róc rách từ động nước rơi xuống, rồi trào ra dữ dội nơi dòng suối chảy từ trong động dội ra phía ngoài đầm nước. Cây cỏ phất phơ theo làn gió nhẹ nhàng lùa theo khe núi. Ngọn núi cao sừng sững hiên ngang rủ bóng lắn tăn xuống mặt đầm nhợt nhạt. Hai con người chìm sâu vào những cơn mộng mị, không màng trăng gió, sương khói đêm thu phía ngoài.

Mờ sương, gió nhẹ thoảng thổi qua, con lừa tai vểnh ngấu nghiến chút cỏ non. Tiếng lép bép nhai cỏ cùng âm thanh ì ì từ con lừa đang cố dứt dây cương khiến Tồn Thành tỉnh giấc, chàng gượng người chống tay ê ẩm. Nàng co mình nằm gọn lỏn trên thảm đá rêu xanh, Thành đăm chiêu nhìn nàng, tay chạm vào từng làn mịn màng. Nàng lật mình nằm nghiêng, quay lưng lại, vết lằn lưng đã nhạt. Chàng đứng dậy tiến lại xoa đầu con lừa, bước ra khe suối cúi úp mặt xuống dòng nước trong vắt, mát lạnh. Chàng mở to mắt, ngước nhìn lên, một người đàn ông mày râu lún phún, đầu tóc búi củ hành điểm những sợi hoa râm, tay lăm lăm roi mây, mặc áo xẻ tay áo sát vai, phanh ngực cộc cỡn. Tồn Thành loạng choạng chân bước hụt xuống khe suối. Ông ta nhìn chàng, đánh mắt nhìn ra phía nàng ta đang nằm co rúm, chỉ có manh yếm che thân. Ông chạy tới chỗ nàng ta, dùng roi mây vút mạnh, miệng vừa nói vừa phun nước bọt tóe tung :

- Cái con nha đầu đĩ thõa này. Mày lại còn dám dẫn trai đến động này. Mày có biết mày đã làm chuyện tày trời không hả con.

Tồn Thành chạy ra nắm lấy tay người đàn ông đó không cho ông ta đánh trúng người nàng. Nàng choàng tỉnh dậy, lấy tấm vải quấn lấy làm đụm quần, vội vàng thắt lại dải yếm, mặt mày sợ sệt, liếc mắt nhìn ông ta. Nàng lắp bắp thưa lời:

- Cha. Sao cha lại ở đây. Chẳng phải đêm qua cha ngủ ở lò rượu, sáng nay mang rượu vào thành huyện có lễ xuất quân.

- Sao ta lại ở đây à. Đêm qua tao về nhà xem mày có về nhà bên ấy không thì thấy ba mạng nằm chổng trơ, hỏi làm sao tao có thể mà ngủ được. Là mày hay thằng kia giết người ở nhà tao. Cả cái tên ngụy quân tử này, ngươi đến nhà lão nằm lỳ suốt hai ngày, nay lại cùng con gái ta làm ra cái điều sằng bậy. Các ngươi có còn là con người nữa hay không. Loại súc vật không bằng.

Tồn Thành buông tay lão, giọng nói ôn tồn. Tay chắp vái lạy lão :

- Lão là Đinh Bá? Chuyện này, ta, ta…

- Lại còn ta với tà gì nữa. Bọn mày có biết là bọn chúng là ai không mà lại giết chúng, lại còn ở nhà ta nữa.

Cô gái áo quần sửa soạn xong, túm lấy đuôi tóc cuốn cao, chạy ra mặt mày nũng nịu:

- Chỉ là không may thôi mà cha. Tên đó cầm dao dọa giết con và Tâm Hoàn, anh ấy chỉ ra tay giúp đỡ, chẳng may dao đâm vào người bọn chúng. Chứ đâu phải bọn con cố ý giết người.

- Con tiện nữ. Mày lại còn múa môi nữa à. Tao không có cái loại con như mày. Giết chồng, t.ư thông với kẻ khác. Mày có đáng làm người không hả. Tao đặt tên cho mày cái tên Lã Vọng chỉ mong mày khôn ngoan hơn người, phải bậc vương giả, thục nữ cũng phải đàng hoàng tử tế. Đây mày nhìn xem, có đứa nào con gái như mày không. Mày vào gia phủ nhà người ta, chẳng phải lão Phan Công đó nể mặt tao mà tha cho mày mấy bận trốn về. Bây giờ mày gây họa giết chết con trai lão. Mày giết cả nhà rồi con ạ.

- Con đâu phải dâu con gì nhà lão. Chỉ là cuộc trao đổi không hơn không kém. Cha con hắn coi con như đứa người ở. Cái tên Ác Tình tính ác đó, không phải là người dân trong hương hiền lành thì hắn đã chết từ lâu rồi, ra ngoài khối kẻ đã giết chết hắn vì cái tính hênh hoang, sấc sược của hắn. Con về nhà đó, không kèn, chẳng pháo nổ, không lễ mọn dắt dìu. Đó là phận con ở nhặt về, chứ đâu phải là vợ của hắn.

- Lại còn già mồm nữa hả. Tao đánh cho mày chết đi. Tao không có cái loại con đĩ thõa, ương bướng như mày.

Lão vút roi trúng mặt nàng. Tồn Thành mím môi chua xót, đỡ lấy nàng dậy. Ông lão sụp xuống than vãn :

- Sao trời lại cho ta đứa con gái như nó cơ chứ. Bao nhiêu năm nay ta sống trên đời, đâu có để tiếng tai gì với đời. Nay lại có loại nghiệt chủng này cơ chứ.

Nàng quỳ xuống, dập đầu cầu xin cha :

- Cha. Chuyện đã rồi, chỉ là chuyện không may. Bọn con đâu có muốn như vậy. Về phủ nhà hắn một tuần trời, có khi nào con được hắn coi như vợ. Con bỏ về nhà, hắn nghe lời cha hắn tìm con để đánh đập, tìm không được đến đòi cha. Hai ngày nay, hắn cũng đâu có đi tìm con nữa đâu. Khi tối qua, hắn tìm đánh con, hắn bóp cổ con cho đến tắc cổ. Con không thể chịu nổi đâu cha. Cha hãy cứ mang con đi báo quan.

- Mày nghĩ mang mày đi báo quan là xong sao. Ba mạng người chứ đâu phải là lợn gà, chó trâu. Hai chúng mày mau đi đi. Từ nay đừng có vác mặt về đất này. Coi như tao chưa từng có đứa con gái như mày.

- Cha. Con xin cha. Tội lỗi này do con bất hiếu gây ra. Cha hãy chạy trốn theo chàng ấy. Giết người đền mạng. Một đêm như đã trăm năm, chàng sẽ thay con báo đáp ơn dưỡng của cha. Cha hãy nghe con lần này.

Có tiếng ráo riết ngoài cửa động, Tồn Thành chạy ra thấy toán người khố áo, gậy gộc, gươm giáo đi tới. Ông lão xua hai người chạy vào trong động. Lão dắt lừa, khệnh khạng bước ra cửa động. Vươn vai cao, lão há miệng ngáp. Tay cầm vò rượu, cưỡi lên lưng lừa, nhíu mày nhìn về phía xa. Đám người mang giáo mác chạy tới đứng quanh Lão, Lão cười hỏi:

- Phan Công đấy à. Có chuyện chi mà ông cho người đến sớm vậy. Hôm trước lão có nói với ông rồi đó. Hôm nay, huyện gia xuất binh bắc chinh, đặt tôi hai chục chum rượu. Huyện gia trả tôi, tôi sẽ thanh toán hết số nợ cho ông. Bao nhiêu năm nay, có khi nào tôi khất hứa với ông đâu. Ông cứ cho người về đi. Tôi thuê người chở rượu đi rồi. Đêm qua nấu xong rượu mệt quá, chạy tới đây ngả lưng.

- Thằng già Đinh Bá. Mày lại còn giả câm giả điếc hả. Mày xem đây là cái gì.

Đám lâu la, mặt mày nhem nhuốc ném hai cái bọc xuống trước mặt Lão Đinh Bá. Bọc tròn lăn lông lốc dưới đất, đầm đìa đầy máu. Bọc dài lộ ra cánh tay bám đất. Tên lâu la, vạch bọc vải, mắt trắng dã trợn ngược, đầu tóc lòa xòa, máu me đầy mặt. Đinh Bá giật mình thảng thốt:

- Trình Bằng. Sao ông lại giết thằng bé. Thằng bé có tội tình gì.

- Lại còn giả vờ không biết à. Lão dám cả gan giết thằng Toắt, Thằng Hoẹt. Thằng con trai ta Phàn Tình, con rể của lão mà lão cũng giết nó.

Không thể kìm nỗi lòng của người cha mất con, Phan Công nước mắt đầm đìa, chỉ mũi giáo về lão Đinh Bá :

- Thằng con rể lão mà lão giết. Lão còn định giả như không biết gì hay sao.

Đinh Bá ôm lấy cánh tay đứt lìa trên đất mà khóc rên :

- Ớ Tình ơi. Sao rể ta lại ra nông nỗi này. Kẻ nào lại hại nó cơ chứ. Ta phải tìm kẻ đỏ giết chết nó, trả thù cho rể ta.

Phan Công khóc mếu như đứa trẻ lên ba, mũi giáo kè cổ Đinh Bá:

- Lão đừng có vờ vịt nữa. Ta phải giết lão, mạng đổi lấy mạng. Thằng bé nói hết cả với ta rồi. Chính lão và nó giết bọn thằng Tình.

- Phan Công ơi là Phan Công. Ông lại còn nghi ngờ lão này hay sao. Ông nghĩ làm sao tôi sức không qua ngọn lau sao có thể đánh trả bọn trai trẻ lực điền. Trước giờ, tôi và rể đâu có xích mích điều gì. Ông lại mang tội lên đầu tôi và thằng bé. Thật thảm thương thay.

Phan Công nước mắt lưng tròng, buông giáo sai đám nô tài bắt lấy lão Đinh Bá giải về quan huyện đòi tội. Lão Đinh Bá suốt đường đi lải nhải những lời phân trần, lời nói như siết vào nỗi đau mất con. Phan Công dùng giáo đập mạnh vào miệng lão Đinh, mồm mũi lão nhoe nhoét máu. Tồn Thành dẫn thị ra phía ngoài cửa động, bóng lão Đinh thấp thoáng dần bước xa. Lã Vọng nhìn chàng, đôi mắt rưng rưng :

- Cha em rồi sẽ bị chúng xé giày, cha sẽ không chịu nổi đâu. Chàng ơi. Kiếp này đã được gặp chàng, tâm sự giãi giầu, một đêm thôi cũng đã thấy toại lòng. Chàng hãy đi, ta sẽ đi với cha ta. Mong rằng chàng đừng quên em.

Tồn Thành nắm voan áo rồi lại buông, chàng lặng nhìn cô gái vừa mới quen mà như đã gắn bó từ rất lâu. Bóng nàng thoăn thoắt đuổi theo đám người xô bồ kia. Chàng định bụng bước đi, cố dặn lòng giữ lấy sự bình tâm. Nuốt vào lòng giọt đắng nghẹn ngào, chàng nhặt lấy dải yếm đào còn dính đầy bụi máu. Chàng bước đi, ngẩng mặt nhìn non nước, không ngoái đầu chàng từng bước khoan thai. Ngắt lấy một bông hoa dại, chàng cắm lên bãi bùn nhày nhụa đen ngòm. Chàng than thở : « Tình người chí trai, đường dài ngõ cụt ».

Một cơn gió thoảng nhẹ lướt qua, đầu óc chàng quay cuồng giữa muôn ngả, biết lối nào dẫn tới thứ vinh quang. Một phút huy hoàng rồi tắt lịm hay tiếng thơm để mãi đến ngàn sau. Ngắt lấy chùm bông lau, chàng ghém vào mái tóc bụi đường trắng xóa, chàng chạy theo tiếng gọi của công lý. Chạy thật nhanh, hướng đông nam nơi bờ cuối con đầm, chàng thấy người con gái đang ngồi canh đám người sẽ đi qua. Chạm vào bờ vai hết đỗi thân thương, chàng ra hiệu cho nàng giữ im lặng. Mắt nhìn theo ông lão Đinh Bá mặt mũi dầm máu đỏ, nàng bật khóc, con tim đau xót, bấm ngón tay tím ngắt đùi Tồn Thành.

Vài ba tên từ đâu chạy xông tới, người rách rưới, khố đụm xẻ làm t.ư. Thằng tên Choạc bẩm lại với Phan Công :

- Bẩm lão gia. Ngày qua đêm khuya vắng, thiếu gia tìm cô gái Đinh thị về. Gặp ả cùng tình nhân trong trang Đinh lão bá. Tình thiếu gia quát mắng ả mấy lời, ả lả lơi kiếm chuyện chửi mắng. Lại xui kẻ nhân tình đánh giết tụi con. Thắng Toắt, Hoẹt chết ngay tại chỗ. Bọn chúng con sợ quá chạy ra ngoài. Tình thiếu gia bảo bọn con đi báo quan, mà khi quay lại xác đã lạnh tanh. Mong lão gia tha cho tụi con bất cẩn trọng đã khiến thiếu gia thê thảm ở nơi này.

- Quân ăn hại, chết cả lũ cho tao. Tao không muốn nhìn thấy đám các người. Con trai tao đi cùng với bọn bay bao nhiêu năm tháng. Nhìn chúng mày tao lại nhớ con tao, làm sao mà tao có thể cho bọn mày nhởn nhơ mà sống nữa. Chi bằng bọn chúng mày chết cả đám với nhau, chon con tao có bầu có bạn.

Vừa dứt lời, gươm giáo sắc lẹm giương lên, máu đỏ tươi theo dòng suối nhuộm màu rêu đá. Phan Công khóc thảm thiết hỏi trời xanh :

- Sao lão ở trên không có mắt. Kẻ răng long tiễn kẻ sức giết trâu. Chỉ tại tiện nữ họ Đinh con lão Bá. Phen này, lão đừng hòng thoát tội. Còn không khai mau đứa con gái lăng loàn cùng thằng chó má kia ở đâu, tao phải giết chết chúng nó.

Đĩnh Bá chỉ cúi gằm nấc nghẹn, không một lời lặng lẽ lão buồn thiu sắc mặt. Cỏ dưới chân như gai đâm từng ngón, nắng ban mai như lửa đốt trong lòng. Lão lầm lũi tay bị buộc phía sau đi thẳng từng bước phía huyện thành. Phan Công xuống ngựa rút roi mây, vụt con lừa nó rống lên eng éc như thứ chim vẫn kêu ngoài đồng mả. Phan Công sai đám nô gia kéo xác ba người nằm chổng trơ, lấy dao bầu rạch tim, moi con ngươi dựng thành câu chuyện đổ tội cho lão Đinh.

Tồn Thành giữ lấy vai Đinh thị, nàng giẫy mình, miệng định cất tiếng gọi Phan ác bá. Thành bịt miệng, giữ lấy nàng ta. Tiếng ú ớ vọng đến tai Phan Công, Phan Công nhảy lên ngựa đánh mắt tìm. Hai tên nô tài đang dẫn giải một cô gái đến. Đinh lão bá, mặt mũi hốc hác gọi tên cô :

- Tâm Hoàn con. Trình Bằng tối qua đã chết rồi.

- Bá nói sao. Thằng bé, nó đâu rồi. Lão Phan Công ta phải giết chết ông. Thằng bé đâu có tội gì mà lão giết nó.

- Mày muốn hỏi thì xuống âm ti tìm nó. Cho cả nhà mày đoàn tụ với nhau.

Thằng nô gia giữ cô gái, mặt lầm lỳ nói với Phan Công :

- Ả nói rằng ả ta trông thấy hết chuyện. Không phải thằng bé và lão Đinh giết người. Có một tên khách của Đinh trang, người khác lạ trông như hổ dữ dằn, mày ngài hàm én, mặt góc cạnh, hàm én mày ngài, mũi thẳng dọc, tướng người cao lớn, giọng vang vang. Hắn cùng hai tên tướng người Man đến Đinh trang tìm rượu. Mấy gã say sưa ở lại nhà lão, khi thiếu gia đến gặp tên đó cùng thiếu phu, à không Lã Vọng tiện nữ đó đang trốn ở phía sau vườn. Hai bên qua lại mấy lời, tên kia đánh bầm dập đám người của thiếu chủ. Hai người chết thì ả này chạy trốn.

Phan Công lăm le con dao nhọn giắt hông, tay túm tóc giật đằng sau Hoàn. Hoàn gào thét, miệng rung rung :

- Đồ súc sinh, ác thú. Mày giết em tao. Tao có chết cũng về nhà mày bóp cổ.

Phan Công túm cổ Tâm Hoàn, nhấc bổng lên đôi chân rời mặt đất. Hoàn cố dứt tay lão ra khỏi cổ mình, chân muốn đạp trúng bụng dưới của lão ta. Lão nghiến răng bóp mạnh vào yết hầu, Tâm Hoàn mặt tím ngắt, người giẫy giụa. Một đoàn người ngựa đi qua, vị tướng quân đeo khuyên tai, xiên mũi, đội khăn Piêu, cài sáo trúc búi đầu. Tướng quân cưỡi lưng ngựa huyết mã đỏ mượt mà, lưng gồ ghề mai rùa, chân tay dài như ống điếu. Giọng hênh hoang hỏi đám người lếch thếch :

- Mấy người kia cho ta hỏi đường đi. Đến huyện thành Vô Công đi lối nào.

Phan Công nhìn người này dị thường, chỉ mai rùa, mái tóc bù xù như chim quạ:

- Chẳng hay anh là tướng quạ hay tướng quy.

- Ta là rùa quạ thì liên can gì đến nhà ngươi. Ta hỏi đường, không phải hỏi con thú.

- Cái giống bay trên giời hay bơi dưới nước còn không biết. Hỏi làm chi đến thành huyện Vô Công.

Vị tướng quân rút sáo trúc thả mái đầu sõa sượi, sáo vút ra một viên đá vun vút, trúng ngực Phan Công. Lão Phan Công lấy tay ôm lấy ngực, máu hộc ra từ miệng ướt sũng vai áo phải. Vị tướng quân bện lại mái tóc gọn, lấy cây sáo giắt ngang hông, hỏi lão :

- Ta là viện quân Dương tù trưởng, lãnh nghìn binh từ đất Man Hoàng đến Trường Châu theo đường khe núi. Chẳng hay bọn bay nhốn nháo chuyện gì. Lão già kia sao mồm miệng đầy máu, cô gái kia thoi thóp nằm dưới kia. Bọn bay là giặc cướp, hay ác bá đi dọa nạt đám dân thường vô tội.

Phan Công nghe tiếng quan châu Trường, liền cúi đầu, dập lạy đỏ cả vừng trán. Giọng run run than khóc ỉ ôi :

- Quan gia ơi. Xin quan gia làm chứng. Con tiện nhân gái của lão Đinh này giận chồng cầm dao bầu giết chồng nó, chính là con trai duy nhất của lão đây.

- Cô gái kia cớ sao giết hại chồng. Tam tòng tứ đức lão dạy hết cho cô chưa.

- Bẩm quan gia. Không phải ả giết chồng. Con gái lão Đinh này, và một tên to khỏe, dáng tựa hùm beo. Hai người đó t.ư thông, giết chết con trai lão. Thật xót thay, đau thay.

- Lão nói là con gái nào Đinh này. Là lão đóng khố mặc áo phanh trần kia. Còn con gái lão lại không phải cô kia. Vậy sao lão lại bóp cổ ả ta.

Đinh Bá bình tâm nhìn vị quân tướng, vội cúi đầu bẩm lại đầu đuôi sự tình. Phan Công bực giận mà không dám gây thêm chuyện. Vị quân tướng rỏng tai nghe ra, cả ba người kể lại tranh cãi, chửi bới nhau. Chàng vuốt râu con kiến, nở nụ cười, sai quân lính bắt giải về huyện nha.

Đoạn quân đi, nghìn người ngựa rợp trời, cánh đồng lau nát tươm phía sau lưng. Tồn Thành kéo Đinh Thị ra bãi cát. Chàng ôm lấy tấm thân nàng rắn rỏi, vuốt tóc nàng, chàng khẽ rót vào tai:

- Lã Vọng nàng, trời kết duyên se nguyệt. Nàng nguyện theo ta, ta sẽ chẳng phụ nàng.

Lã Vọng ôm lấy tấm thân rắn chắc, từng cơ bắp cuồn cuộn siết da nàng. Con tim nàng thổn thức loạn từng nhịp, lúc chậm lúc nhanh, khi khẽ khàng khi dập dồn. Nàng đặt tay chàng lên khuôn ngực, tay run run, nước mắt ướt vai chàng:

- Em nguyện theo chàng đến cùng trời, góc bể. Muôn vạn dặm đường sẽ có hai kẻ đi chung. Nhưng chàng hỡi, còn cha em bóng xế. Biết làm sao cho thỏa nguyện đôi đường.

- Ta sẽ vào thành thăm dò, nàng hãy cứ yên lòng. Đám binh gia ta quen biết. Nàng cứ xuôi về nam, ta sẽ báo người đón nàng. Bây giờ huyện nha không phải chỗ ta ẩn nấp. Nàng hãy kiếm lấy một mảnh vải nâu gụ, thêu chữ “Tửu” lật ngược mặt đội đầu, đi cùng đám dân buôn Man Hoàng thì hỏi nhờ về Châu Ái.

- Nhỡ chẳng may, chàng…

Tồn Thành lấy tay che miệng Thị, dặn nàng rằng hãy tin tưởng nơi chàng. Chàng đắm đuối nhìn nàng lâu thật lâu. Chàng cầm tay Thị, đặt trước ngực mà thề:

- Đời này cho đến khi nhắm mắt, nguyện cùng nàng đến góc bể, chân trời. Hãy đi đi kẻo sai nha tìm đến. Nơi này cứ để ta lo liệu.

Nàng lau nước mắt, tay túm lấy mái tóc chàng, nàng rút trên đầu cây châm sắc nhọn xén vài sợi giữ trong người làm tin. Đặt vào tay chàng chiếc châm bạc, chàng nắm chặt máu dầm qua kẽ tay. Vuốt lên áo yếm ngực nàng, chàng in dấu tay năm ngón dặn dò đôi câu:

- Mỗi khi nàng thấy dấu tay này, dòng máu ta nóng rực chảy trong nàng. Hãy giữ lấy manh yếm mỏng cho ta. Đợi ta về, thay yếm mới tặng nàng.

Đôi người đôi ngả, chàng ngoái lại nhìn theo. Nàng rảo bước tới lò rượu tìm manh vải, vội vàng thêu chữ “Tửu” đội ngược vải lên đầu. Nàng đứng đợi phía chân núi hai ngày, đám sai nha nườm nượp tìm bắt hai kẻ t.ư thông, gian phu râm phụ. Nàng trốn miết trong rừng cây bãi cỏ. Mãi mới thấy có đoàn người ngựa xe, lóc cóc chở hàng hóa, lá cây rừng, nàng xin đi cùng đoàn tới Châu Ái. Xa khuất dần thung Lá, thung Lụi, những bụi lau, đầm Cót, nàng đi về chốn xa lạ xứ quê người.

Chàng tìm về phủ tướng quân họ Đỗ, đám quan binh lại đuổi chàng đi. Chàng lầm lỳ ngồi hai ba ngày ở cửa, chẳng có người ghé hỏi chàng một câu. Thi thoảng có đám trẻ con thấy chàng rách rưới, toàn thân hao gầy ốm o thương tình chúng cho chàng mấy đồng xu lẻ. Một ngày trời mưa gió bão bùng, tiếng ngựa hý vang khắp cả châu Trường. Có tin quân chinh bắc trở về, một viên tướng dũng mãnh xua trống chiêng inh ỏi. Bước theo sau cả đoàn binh mã, xe ngựa nước bắn tung. Chàng ngồi co quắp chỗ cửa phủ, nhìn cáo thị thầm cười trong bụng “Chẳng hiểu viên huyện lệnh vẽ ai, ta đâu có bắp cơ cuồn cuộn, mặt dữ dằn như hổ cọp thế kia. Chắc thợ vẽ nghĩ ta như con hổ, vẽ thành râu trông thật buồn cười. Nàng ấy xa trông mà thổn thức, sao trong lòng xao xuyến chẳng thấy nguôi. Liêu ta có xứng được với nàng. Trông oai dũng như thế kia mới đáng.”

Một dáng người thanh tú cầm chiếc ô, mặt thanh nhã hỏi thăm chàng:

- Này anh chàng cớ sao nhìn cáo thị lại cười.

Mặt cúi gằm, Tồn Thành chẳng dám ngẩng mặt lên. Nhếch mép giọng khinh khỉnh:

- Giết ác bá, cứu dân lành chịu tội. Cướp dân nghèo, trắng trợn bợ đỡ, nịnh nọt quan trên là trắng tội. Thật lạ thay, nhân pháp ở nơi nào.

- Nói hay lắm. Ta nghe nói, dân hương đó hả dạ lắm. Kẻ cường hào, ác bá được trừ đi, nhưng cái lo lớn vẫn là cha của hắn. Liệu có để đám người đó bình yên hay chỉ là chút thoảng qua như cơn gió vô tình, chạm mặt nhau rồi vội vàng đôi ngả.

Tồn Thành nghe giọng hết đỗi thân quen, ngẩng mặt lên chàng thảng thốt giật mình:

- Sĩ Giao huynh. Anh sao ở nơi này.

Sĩ Giao cầm chiếc áo tơi ân cần mặc cho Thành. Hai người đi tới chỗ phủ Triệu Cường. Tồn thành xua tay, gọi Sĩ Giao quay lại. Sĩ Giao trầm giọng kể cho Thành:

- Chú cứ an tâm vào trong phủ. Ta báo cho chú vài điều vui.

- Nhưng trong phủ có vài kẻ đã trông thấy mặt em. Em lo vào trong đó, có người hòng kiếm lợi báo quan huyện lại liên lụy đến anh.

- Từ khi nào, Tồn Thành lại nghĩ cho người khác như vậy. Chẳng phải chú chẳng sợ đất, sợ trời vốn như tính tình của người họ Đỗ ta vậy.

- Thật chẳng giấu gì anh. Từ lúc thằng bé Thủ Trừng ốm riết chừng ba tuần lễ. Ngẫm lại chuyện xưa cũ, nghĩ về những điều đã trải qua mà trong lòng thật giận bản thân. Mà thôi. Đứng ngoài này mưa gió ướt thân, chi bằng ta hãy kiếm quán nhỏ mà ngồi.

- Chú đến trước ta chừng một tuần mà không hay. Các tửu quán rượu huyện này đều là con nợ của Phan Công. Chỗ nào cũng có người của Phan Công. Nhỡ may bọn chúng nhận ra chú, chẳng phải còn tồi tệ hơn điều chú vừa lo lắng.

- Nhưng mà trong phủ này của Triệu Cường, cái tên đó uống rượu ba lần chối bốn. Nếu so hắn với Đặng Hoài thì chẳng phải, nhưng hắn lắm mồm, lời nói không ngay thẳng, chối từ vòng vo. Em chỉ lo người trong phủ hắn, mắt trước mắt sau lại khiến anh liên lụy.

- Ta đương là Bá Nam quân sư. Đánh biết bao nhiêu trận cùng họ Dương. Nay họ Dương nhờ hồng phúc trời ban mà lấy được Trường Châu cùng dải đất châu thổ. Kẻ nào dám to gan lớn mật, chém không dung thứ.

Tồn Thành víu vai Sĩ Giao, giọng hồ hởi:

- Từ khi nào anh có khí khái của kẻ dũng như vậy. Xưa nay em chỉ thấy anh mươi câu giáo lễ, chín câu binh lược. Chứ đâu có thấy chi chí một lời.

Sĩ Giao kéo tay Tồn Thành vào trong phủ. Khác với suy nghĩ của chàng, bước vào phía trong, hoàn toàn khác biệt. Mới đây chỉ một tuần lê trước, chàng vào trong phủ thấy kẻ ra người vào tấp nập. Nay chẳng có lấy một bóng người, chỉ có tiếng đàn gảy nên những thanh điệu khiến con người ta cảm thấy thư thái, nhẹ bớt đi những âu lo trần thế. Một tách trà nguội thay vì nóng hổi trên chiếc bàn đá xù xì cũng thay bằng chiếc chõng tre đã sờn bạc, chẻ đầu. Sĩ Giao rót chén nước mời Tồn Thành:

- Nhà không có nô tài, con ở. Nước đã nguội, chú hãy uống tạm cho đỡ nhọc. Đó là nước lá người Mường, uống vào thanh dịu, giảm hỏa khí trong người. Chú ở lại đây bầu bạn với ta, có chén rượu nhạt chút bầu tâm sự bấy lâu nay.

- Rượu nhạt mà không nhạt, trà đắng mà ngọt lòng. Chí có Sĩ Giao huynh mới có thể khiến cho người khác cảm thấy điều đó.

- Chú lại khách sáo rồi. Dương Thị nàng ấy chơi đàn hay, hát múa cũng tài chỉ có điều vụng về bếp núc. Chi bằng ta sẽ nấu một nồi canh hến, hai ta nhâm nhi chén rượu thưởng thức chị dâu chú đàn ca.

Tồn Thành ngỏ ý đồng tình, hai người anh em ngồi sát cạnh nhau, uống chung vò rượu, múc chung niêu canh hến ngọt bùi. Ngà ngà cơn say, Sĩ Giao ôm lấy Tồn Thành kể chuyện Chí Liệt cùng Giao tây chinh chiếm động núi huyện Vũ Bình, dẫn quân bao vây thành Đỗ Động. Không phải quân triều đình có tiếp viện từ châu Phong thì Sĩ Giao đã không phải lui quân.

Nghe tin dân Man chiếm Trường Châu, thứ sử Cảnh Tung ốm yếu mà chết thật thấy vui mừng. Viên tướng giữ kho lương động Đỗ là Phạm Đan sau nửa tháng mất liên lạc đã tìm được Chí Liệt cùng Sĩ Giao báo tin cho hai người. Sĩ Giao bày kế phá vỡ vòng vây của địch lại viết thư nghị hòa với quân lính người Man đóng ở chân núi Tản Viên. Gã Quỷ Tồn Thăng cùng Triệu Cường dẫn chín nghìn quân Trường Châu hợp với quân lính của Phạm Đan đánh úp từ phía sau địch khiến địch tan rã. Chí Liệt cùng Sĩ Giao rút quân khỏi phía tây thành Đỗ Động.

Bấy giờ, đám người trà trộn do Đức Thinh dẫn đầu đột nhật được vào thành phủ Đỗ Động bắt giết cả nhà tên bổ đầu huyện Vũ Bình khiến quân tình trong thành rối loạn. Sĩ Giao cùng quân lính Trường Châu liên tiếp phá thành trong hai ngày thì hạ được thành. Viên tướng giữ thành là Thi Nguyên đành phải bỏ thành cùng hai trăm quân bản bộ chạy tới huyện Thái Bình cầu viện.

Sĩ Hoàng được đám dân châu Phong biết với tên Sĩ Thương đã rút lính về chỉ để lại thành huyện Thái Bình ba nghìn quân lính Triều đình. Thi Nguyên đành phải tương kế, tựu kế lừa Tồn Thăng, hắn chạy ra ngoài thành đánh nhau được mươi hiệp thì cho quân chạy đến cửa Hát Môn, đường cùng quân lính của họ Thi xông ra chém giết một người giết hai người đánh thắng đội quân của Tồn Thăng. Tồn Thăng cho quân chạy vào thành huyện Thái Bình sai lính đóng chặt cửa thành. Phía trong thành, Thi Nguyên cho quân lính mai phục khắp thành giết hơn nửa số quân Thăng dẫn vào thành. Phạm Đan lúc đó cầm dẫn hậu quân đi sau hò hét mở cửa thành không được xông lên phá cửa thành thì bị quân của Thi Nguyên đánh úp, thiệt hại vô số. Phạm Đan vội vàng cho rút quân về Đỗ Động.

Tồn Thăng quẫn bách đành phải nhảy từ trên thành cao ba trượng xuống dưới thành, quân lính của Thi Nguyên trực sẵn giương giáo mác hòng đâm chết Gã Quỷ. Gã Quỷ đoạn nhảy đến giữa thành thì vung dao quắm chém gãy giáo mác của địch. Đám lính khác xông vào cướp mạng của Thăng, thăng hò hét vang trời, gió nổi ầm ầm, vũ bão quấn phăng cả chục tên địch. Tiếng la hét quá lớn khiến cả trăm tên địch bịt lấy tai, Tồn Thăng xông lên chém giết đến trăm tên, cướp được một con ngựa. Tồn Thăng dùng dao quắm toan chém vào người Thi Nguyên, Nguyên dùng cây gậy hình đầu rồng hất văng dao bay trúng cổ tên kỵ binh, đầu hắn đứt lìa rơi xuống đất.

Gã Quỷ không có vũ khí trong tay toan bỏ chạy thì đám lính hô hào đuổi theo, dùng mũi giáo đâm trúng ngựa của Thăng. Gã Quỷ lại gầm lên một tiếng nhưng uy lực đã giảm, vài tên lính buông giáo bịt hai tai bị Gã Quỷ cướp thương chém giết chục tên. Gã Quỷ xông lên cầm thương múa nhiều vòng liên tiếp, đám quân lính lùi ra hết loạt.

Thi Nguyên dùng nỏ bắn từ phía xa nhằm Gã Quỷ mà bắn, Gã Quỷ né tên bị sượt qua vai áo. Máu dầm ướt vai, Gã Quỷ xé tay áo buộc lại vết thương, dùng thương lao lên phá vỡ vòng vây đông nghẹt của địch. Đánh đến đoạn chân tay mỏi rã rời, đám lính quân địch đành phải rút lui. Gã Quỷ cười lớn:

- Đội quân đàn bà yếu đuối. Mới vây bắt có chút thôi mà đã bỏ chạy.

Một đội quân nữa lại ồ ạt kéo tới, Thi Nguyên dùng nỏ bắn ra một lúc ba mũi tên. Gã Quỷ chỉ kịp né được hai mũi tên, một mũi tên bắn trúng ngực phải. Gã nghiến răng rút mũi tên ném trúng ngựa của Thi Nguyên. Ngựa ngã nhào, Thi Nguyên dúi mặt xuống đất. Cùng lúc đó, bụi khói từ phía nam đi tới, giọng nói oang oang như chuông đồng rền vang. Chí Liệt dẫn đội trung quân xông tới đánh tan đội quân của Thi Nguyên. Thi Nguyên đành cố thủ trong thành huyện Thái Bình. Gã Quỷ máu phun như cắt tiết, Chí Liệt sai người băng bó vết thương cho đi bằng chiến xa trở về Đỗ Động. Nhờ may có vị lang làng Gốt ở ngoài thành Đỗ Động giỏi đắp thuốc lá trị thương cứu lấy được Gã Quỷ.

Sĩ Giao được lệnh trở về Trường Châu, Dương tù trưởng muốn gặp bàn việc quân tình. Sĩ Giao dẫn cả nhà tới Trường Châu, gặp được Tồn Thành đứng ngoài phủ Tồn Thăng. Hai người uống rượu ngâm thơ, giãi bày tâm t.ư bấy lâu. Sĩ Giao trong hơi men đập chõng hỏi Thành:

- Tại sao chú lại mang lính Ái Châu trở về. Có phải rằng chú có lòng khác.

Tồn Thành bá vai, ôm cổ Sĩ Giao giọng cười cợt:

- Thủ Trừng bị ốm phát ban, nổi nhọt khắp mảy mình nhưng cũng chỉ là phong hàn bệnh nhẹ. Cái tên rụt cổ Đoàn Uyển sợ rằng em nơi xa không theo lệnh hắn nên giả thư triệu em về. Mà đâu, khi về đến đất châu Ái, Uyển sai người bí mật báo với người nhà em biết để dàn dựng màn kịch. Ồ, thế mà chẳng may cho hắn, con trai em khi đó đã hết ốm. Em xin cầm binh đi. Bọn hủ nho xu nịnh, ghen ghét nói với tên họ Đoàn ấy em làm tướng không nghiêm, sai lính nổi dậy chống quân triều đình ắt có ngày mang họa lớn cho Ái Châu. Đúng là những kẻ ăn gạo ở lồng bàn chuyện Diều Hâu. Cái tên họ Đoàn ấy khác chi rùa rụt đầu. Chí hắn chỉ ở cái đất nhỏ nhoi châu Ái đó thôi. Không bàn chuyện được với em.

Sĩ Giao cầm uông hũ rượu, rượu đổ vào mũi sặc sụa, Sĩ Giao hỏi lại:

- Vậy ai mới cùng mâm cùng bàn với chú để bàn chuyện thiên hạ. Dương Thanh, Chí Liệt chắc mới đáng để chú bàn chuyện đại sự phải chăng.

- Họ Dương uy dũng có thừa, nhưng chỉ là cái chí của kẻ muốn chà đạp lên tất cả, không có đức trị lòng người, lại tin nhờ những kẻ không ra gì, đó là không biết dùng người. Không thể cùng bàn với chuyện thế sự với em được.

Sĩ Giao vuốt râu, ngẫm nghĩ một hồi tiếp lời:

- Phong Châu Vương Thăng Triều nuôi dương vạn binh, chỉ trong vòng hai năm quân đội đến độ chỉ đâu đánh thắng đấy, binh lương khí giới nhiều vô kể, đất đai thành trì một dải đất phía tây dễ thủ khó công. Thăng Triều cũng đáng bậc trượng phu ngồi chung mâm với chú hay chăng.

- Cái tên đó em không nghe danh. Làm Phong Châu hùng cứ một phương chỉ biết lo lót đám đô hộ Tống Bình. Phía sau mưu nối giáo cho giặc Nam Chiếu, đấy là họa cho người Nam ta. Kẻ gây họa cho dân cũng chẳng đáng bày chuyện An Nam với em.

- Đám quan lại Tống Bình bây giờ có viên đô hộ Lý Nguyên Hỷ biết lựa lúc các châu mục còn lung lạc, đánh chiêu đòn tâm lý khiến bao kẻ phải kính nể. Nay trong tay có các tướng mạnh, lại thêm dân Tống Bình yêu quan sứ hơn các vị tù trưởng người Man. Đô hộ sứ lại biết dùng văn hóa để bình xã tắc.

Tồn Thành phừng phừng mặt đỏ, cả giận quát mắng oang oang:

- Quân phản tặc, giặc dốt điêu ngoa. Cúi luồn đám quan lại triều đình Trường An bị đá đít mà phải về đất Nam. Trước không phải người Nam, sau không hiểu phong tục, nữa là người không có chí lớn thiên hạ chỉ bo bo giữ ghế để ăn lộc trên, vơ vét của dưới. Những thứ bề ngoài chỉ là ngụy tạo. Bọn đô hộ không xứng ngồi chiếu nam, ăn cơm của người nam, chỉ đáng để giết bỏ, đánh đuổi mà thôi.

- Vậy thì ai mới có thể ngồi chung mâm với chú.

- Là anh,…

Tồn Thành ngập ngừng, Sĩ Giao cắt lời:

- Chú lại quá chén rồi. Đừng có học đòi làm quân chủ như chuyện cổ ngày xưa.

- Là anh, chỉ có anh mới có thể ngồi chung mâm với em. Là con trai em, là vợ em. Mọi người trong nhà đều ngồi chung mâm với em. Kế cả có Gã Quỷ ngồi cùng cũng đáng để chung mâm.

- Ra là thế. Vậy mà chú nói chí lớn đại bàng, gan nhỏ thỏ đế cứ như là bậc anh hùng hào kiệt luận thế sự. Mà chú nói vợ chú là thím Lưu Thị sao.

Tồn Thành nhấp chút rượu, giọng đượm buồn:

- Lưu Thị đã chết rồi, đâu còn có thể chung mâm với em được nữa.

Sĩ Giao dốc vò rượu đã cạn, ném vò rượu lăn lóc không một giọt vương, chỉ tay vào mặt Tồn Thành đỏ lịm, cười phóng khoáng:

- Là ả Đinh Thị mà hai người chung mặt trên cáo thị dán khắp huyện đó sao.

- Anh chớ có nói là ả này ả kia. Tất cả trong em như đã tắt lịm, em chỉ muốn cùng Thủ Trừng sống cuộc sống nông điền chẳng màng gì những thứ khác. Khi gặp nàng, mọi thứ như đã đổi thay. Nàng như cơn gió ấm áp giữa đêm đông, như làn nước mát khiến kẻ khát sống lại. Mọi thứ thuộc về nàng đều thật hoàn hảo khiến cho người khác chẳng thể chê trách điều chi. À không, phải nói thế nào nhỉ. Nàng ấy có cái nét mà những kẻ tầm thường không thể thấy được. Ánh mắt trong trẻo, sáng rực như ánh sao đêm, chân mày lá liễu đào tơ, má đầy đặn ửng hồng, làn da mịn màng dịu dàng chỉ muốn vuốt ve mãi không thôi. Tính cách nàng mạnh mẽ, bạo dạn hơn người, con người nàng khảng khái, chẳng sợ sệt khi đương đầu với kẻ ác bá hiếp đáp mọi người, không phải thứ ủy mị, yếu lòng. Có được nàng em như bừng cơn tỉnh, thấm thía hơn những tháng ngày đã qua, giúp em hiểu thêm nhiều lẽ sống, cho em hay thế thái nhân tình.

- Mới có một đêm vụng trộm mà chú đã như vậy rồi. Quả là miếng ngon ăn vụng nhớ đời, bỏ bê cơm bữa ngọt bùi khoai lang.

- Anh chớ có nói em như vậy. Đường đường một đấng nam nhi, từng dẫn vạn quân đánh giặc, giết thù. Chỉ là chí lớn không có kẻ tâm giao hiểu được. Thôi, anh và em hãy uống say ngày mai rồi tính tiếp chuyện ngày sau.

- Chú không nhớ chú ở lại huyện thành vì điều gì hay sao.

- Nhắc em mới nhớ. Nhờ anh nói giúp với quan huyện một lời. Lão Đinh Bá không mang tội chi. Hãy tha cho Lão, nếu lão được thả ra thì em sẽ đưa lão về châu Ái. Tránh xa thị phi châu Trường. Mời anh chén này như cảm ta anh trước.

Sĩ Giao cười lớn ngẩng đầu nhìn vệt trăng đang mỉm cười ùa theo. Tồn Thành đôi mắt sọng đỏ, toàn thân nóng ran, rượu ngấm vào từng thớ thịt hơi thở. Hai người nằm chung chiếc chõng tre ọp ẹp, ôn lại những thời xa xưa thơ bé. Những giọt sương ướt đẫm bốn bờ mi, hai người ngáy lớn như trâu mộng nằm say sưa ngon giấc đến khi mờ sáng.

Leng keng tiếng Kẻng đánh ba hồi báo mặt trời đã ló rạng. Tồn Thành nghe có âm thanh ong ong trong màng nhĩ, chàng bước nhẹ tới hồ nước nhỏ trong vườn. Nhặt vài ngọn cỏ non ném xuống mặt nước trong veo, chàng lặng nhìn đôi cá bơi trong hồ tung tăng quấn quít cùng với nhau. Đôi chim trong lồng líu lo nghe vui lòng. Bỗng từ đâu có con chim xanh ngắt, bụng trắng mỏ dài sà xuống mặt nước trong veo đó. Đôi cá nhỏ quẫy nước bắn tung tóe, nằm gọn trong đôi chân nhỏ quắp chặt nhấc chúng lên khỏi làn nước mát lành. Có con mèo khoang đang đứng trên hòn non nước đứng rình. Con chim hốt hoảng hãm đôi cánh giữ toàn thân quay trở lại, móng vuốt nó buông rơi một chú cá, mèo khoang nhảy ra vồ lấy chén một cách ngon lành, nó liếm láp đôi chân trước, ánh mắt nhìn lên đôi chim đang hót líu lo, bay nhảy trong lồng treo cao mà mèo ta chẳng thể làm gì. Chim bói cá đậu trên mái tường, đưa chân lên mổ lấy chú cá ánh mắt vẫn thòm thèm nhìn xuống, chờ đợi những chú cá nhỏ bơi ra. Chàng thở dài:

- Loài khướu hay dẫu có ở trong lồng, vẫn thanh nhàn buông những tiếng ca thánh thót góp vui cho đời. Đôi cá vui vầy bơi lội phía ao trong vắt, đâu nào biết được nước trong veo…

Sĩ Giao mở cửa lớn chạy vào, mặt hớn hở gọi Tồn Thành:

- Tồn Thành hiền đệ. Mau theo ta đi tới gặp Dương Thanh tướng chủ. Ông ta muốn gặp chú.

- Gặp em? Anh nói với ông ta em đang ở chỗ này sao.

- Vợ ta Dương Thị là con gái của Tướng chủ mà.

- Chẳng hay ông ta muốn gặp em có việc gì. Chắc có lẽ em không theo huynh tới đó đâu. Mong anh nói với ông ấy, Tồn Thành em nay không còn là quân lính, quan tướng, chỉ là một người dân bình thường. Chỉ muốn về đất châu Ái sống cuộc sống bình dị mà thôi.

Sĩ Giao ôm vai Tồn Thành, lắng nghe tiếng chim hót lanh lảnh, thấy bóng chim bói cá, Sĩ Giao dùng vạt áo xua đi. Sĩ Giao nhìn hồ nước một lượt như kiếm tìm thứ gì đó. Nở một nụ cười Bá Nam quân sư nhẹ nhàng nói với Thành:

- Nếu em đã quyết từ bỏ thì ta cũng không có quyền gì để lựa chọn cuộc sống của em. Đôi cá nhỏ trong làn nước trong chắc là bị con chim bói cá kia bắt đi rồi. Nước trong quá, lại không có người trông giữ. Thật là tiếc, hai con cá đó Triệu Cường quý nó lắm, trước khi giao phủ lại cho ta, anh ta dặn ta phải trông nom cho cẩn thận. Mới sáng nay ra ta đã bảo Dương Thị trông chừng cho chúng ăn rồi lùa chúng về khe gầm non nước, tránh đám mèo hoang, chim chóc nơi này.

Tồn Thành ngắt một chiếc lá vờn quanh miệng, chàng lặng nhìn dưới khe nước. Chàng nheo mắt nhìn lên bầu trời. Mặt trời đã đổ bóng bằng người, Sĩ Giao hỏi Thành:

- Hai con khướu đó giọng hót lanh lảnh, thật hay phải không ? Tiếng hót của chúng khiến con người ta có dễ chịu biết nhường nào. Nếu chúng bay đi mất, e là chẳng có thể nghe được tiếng chim ấy ở một nơi nào nữa, và dĩ nhiên là chẳng ai biết sự tồn tại của chúng.

Tồn Thành suy nghĩ hồi lâu, không nói với Sĩ Giao một lời. Sĩ Giao nín lặng hồi lâu, nheo mắt nhìn trời thu xanh ngắt, vỗ vào lưng Tồn Thành :

- Đi. Ta đã đến huyện phủ nói với viên huyện lệnh. Ta đã chuẩn bị hai chiếc xe ngựa, đệ hãy đưa lão Đinh Bá đến nơi mà đệ muốn bằng chiếc xe ngựa màu vàng. Hãy đi lối qua huyện Quân Ninh, vòng qua phía bắc huyện Cửu Chân để về Sùng Bình. Ta sẽ cho người của ta lên chiếc xe màu nâu đỏ, ta để đánh lạc hướng tai mắt của gã Phan Công đó. Sẽ có ba người dân buôn đi theo đệ và lão Đinh Bá để phòng đám người của Phan Công phát hiện ra lão Đinh Bá, tìm đến đệ để báo thù.

- Cảm tạ tấm ân tình của hiền huynh. Đời này, em sẽ chẳng thể quên. Xin cáo từ.

Tồn Thành bước lên xe ngựa màu vàng, đi về cổng thành phía nam chờ đợi người của Sĩ Giao dẫn lão Đinh Bá tới. Ánh nắng gay gắt, hanh ráp chàng đói bụng ngủ thiếp trong xe ngựa. Có tiếng gọi xì xào phía ngoài, lão Đinh Bá hom hem, râu tóc rũ rượi, tay chân lằn tím những vết roi đòn. Đôi mắt trĩu nặng nhìn Thành, không thể thở ra hơi, lão nói :

- Anh đã nói đưa con gái ta đi. Sao giờ này còn ở chỗ này. Con gái ta đâu, anh không đi theo để bảo vệ nó sao.

- Đinh lão bá. Xin người hãy cứ yên tâm. Lã Vọng nàng ấy đã theo đám dân buôn người Lão từ Man Hoàng tới đất châu Ái. Đi hết Trường Châu là chúng ta sẽ an toàn. Ba người này là người Bá Nam quân sư huynh trưởng của con. Hai người hôm trước cùng con tới trang của người một người là em trai con, một người là Triệu Cường, họ đều là hầu cận của Dương tù trưởng. Mong người hãy tha thứ cho tội lỗi mà con và nàng Lã Vọng đã gây ra cho người.

Lão nhắm mắt nằm trên xe ngựa, miệng luôn nhắc tên con gái lão. Cứ mỗi đoạn đường khấp khểnh khó đi, lão lại giật mình tỉnh giấc hỏi con gái mình. Tồn Thành đỡ lão nằm tránh những vết lằn thương còn đang tím bầm khắp cơ thể già nua của lão.

Từ phía cổng thành cao lớn, mái ngói đỏ tươi, viên tù trưởng cưỡi huyết mã cầm thương chạy tới gọi lớn Sĩ Giao :

- Phải chăng bóng xe ngựa phía xa chính là hắn.

Sĩ Giao chạy xuống mở cửa thành, hồ hởi đón Dương Thanh, nhìn về phía nam nét buồn phảng phất, giọng buồn trĩu than thở :

- Tồn Thành như cá nhỏ giữa dòng. Chí lớn không thỏa. Thật tiếc cho đệ ấy đã chọn con đường mà e rằng sẽ chẳng khiến đệ ấy hài lòng của kẻ tráng trí, hùng tâm.

- Bá Nam nói như vậy. Chắc hẳn hắn đã có lối đi riêng. Ta chưa từng gặp người nào có chí hướng anh hùng có thể khiến ta ngưỡng mộ tới vậy. Chỉ tiếc hắn đã chẳng theo ta nữa.
 
Last edited:

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ chín:

Chí Trinh hai lần đánh đuổi cố nhân.

Sĩ Giao liên hoàn dùng mưu khích tướng.
Ở hồi thứ tám, Đỗ Tồn Thành đã tìm được mục đích sống của đời mình mà bỏ huynh đệ, binh tướng trở về làm lão nông cùng nàng Đinh Lã Vọng.

Dương Thanh cùng Sĩ Giao sẽ làm gì để chống lại lực lượng quân triều đình mỗi ngày một lớn mạnh dưới quyền lãnh đạo của Lý Nguyên Gia.


Châu Phong liệu có đứng yên khi nhìn thấy họ Dương và họ Đỗ ở Trường Châu có mưu đồ lật đổ chế độ ở Tống Bình?

Mời các bạn đón đọc Hồi thứ chín Tiểu thuyết Giống Rồng.​

Hồi thứ chín:

Chí Trinh hai lần đánh đuổi cố nhân.

Sĩ Giao liên hoàn dùng mưu khích tướng.

Tồn Thành khước từ lời mời của Sĩ Giao trở về đất châu Ái khiến Bá Nam không khỏi muộn phiền. Bấy giờ, quân lính Tống Bình được triều đình dồn toàn lực tiếp viện từ Giang Nam liên tục bẽ gãy các đợt tấn công từ phía quân đội nổi dậy đất huyện Vũ Bình càng khiến Sĩ Giao lo lắng. Quân sĩ phía nam Tống Bình không giữ vững được phòng tuyến vừa mới thiết lập khi Dương Thanh chiếm được đất Trường Châu. Quân nổi dậy buộc phải lui về nam áp sát Trường Châu. Sĩ Giao bàn với Dương Thanh:

- Giá như có Tồn Thành, chủ tướng sẽ nhanh chóng chiếm lấy được Giao Châu. Nay tình thế đã nguy cấp, chi bằng chủ tướng hãy gửi thư khuyên Thăng Triều dẫn quân đánh huyện Bình Đạo, phá thành Cổ Loa. Khi đó quân phòng ngự của địch bị tấn công bất ngờ, Tống Bình không đánh cũng tự tan. Về phía Ái Châu, họ Đoàn rục rịch binh mã nhưng không có Tồn Thành, chỉ cần Phụng Quán tướng quân trấn giữ quan ải phía nam châu Trường, Đoàn Uyển sẽ chẳng dám đụng đến ta.

Dương Thanh liền đáp:

- Ý của Sĩ Giao quân sư quả hợp với ý ta. Ta sẽ sai Lý Toàn đốc thêm binh mã Man Hoàng cùng với Chí Trinh tiếp tục đánh vào Ung Châu hòng chia rẽ lực lượng của quân triều đình. Ngày qua, tiểu vương Đà Bạt Ma xứ Hoàn Vương nghe tin ta ở Trường Châu, hắn cho sứ đến phủ viết thư thăm, lại cho năm mươi chiến thuyền ngược bắc sẽ đánh vào Lục Châu. Vua Nam Chiếu lá Mông Phong Hữu mới lên, cũng ngỏ ý đánh đất Quảng, Ung giành đất với triều đình nhà Đường. Chẳng hay ý của Sĩ Giao thế nào.

Sĩ Giao mở cửa đón ánh nắng hắt vào trong phủ, Sĩ Giao bước chậm rãi nói với họ Dương:

- Hiện nay, vua Mục Tông mới chết, triều đình chia rẽ bè phái, việc đánh hay không đánh, bỏ hay giữ đất Giao Châu còn để ngỏ. Đám quân tăng viện từ Giang Nam đánh nhau liên miên, sức quân cũng đã mỏi, tinh thần rệu rã. Chúng muốn vượt Ngũ Lĩnh đến đất nam ta chỉ e không quen thủy thổ, quân ta dễ lòng mà đánh dẹp được bọn ấy. Hoàn Vương với chủ tướng, ngày trước có tâm giao, nay quân ấy muốn giúp ta đoạt đất cũng là thể hiện cái nể trọng với chủ tướng, phần cũng vì bọn chúng lo sợ ta. Tể tướng đầu triều nước ấy vừa dẫn binh bình định các cao nguyên đất Phù Nam, muốn giữ hảo hữu với ta mà tỏ ý như vậy. Chi bằng ta cứ cho quân đó đánh Lục Châu, dẫu có thất bại cũng sẽ khiến tinh thần của đám lính triều đình bị lung lạc, ta cũng không vì đó mà hao tổn binh lực. Nước Nam Chiếu mới chiếm được Ích Châu, Ba Thục, phen này muốn chiếm đất Ung, Quảng mà dò hỏi quân ta ở Man Hoàng. Chi bằng cho hai xứ đó cùng dẫn binh tới Lục Châu, cửa ngõ Giao Châu. Ba bên đánh nhau, bấy giờ ta sẽ sai lính Man Hoàng rút khỏi Ung Châu, quân Nam Chiếu sẽ vì thế mà có chỗ lui về, quân triều đình sẽ tăng quân phòng bị chỗ đất ấy. Nam Chiếu và quân triều Đình cũng vì vậy mà không phá đất Man Hoàng của ta. Khi chiến trường tập trung về Ung Châu, Quảng Châu, Chủ tướng cùng với quân của Thăng Triều chiếm lấy Tống Bình, nắm binh quyền Giao Châu mà chẳng tổn hao lấy một binh mã. Đó cũng là kế hay vậy.

Dương Thanh mặt nhàu nghi ngại:

- Xưa ta với Tồn Thăng vốn chẳng phải chỗ thân tình. Ba năm trước, chạy trốn khỏi Tống Bình, ta nương nhờ chỗ hắn mà hắn không chịu nghe. Hắn sai Do Độc dẫn ta tới đất động khê khỉ ho cò gáy. Nay ta dưỡng binh mà chiếm được đất châu thổ. Hắn chắc hẳn sẽ nóng mắt, sôi máu. Há nào hắn chịu nghe lời ta, khi mà Chí Trinh còn đang ở đất Ung Châu, nhăm nhe lui về chiếm đất châu Bình Nguyên của hắn.

Sĩ Giao cười:

- Chuyện Thăng Triều xin chủ tướng cứ để cho tại hạ lo liệu. Sĩ Giao nguyện tới Phong Châu dùng ba tấc lưỡi khuyên hắn đánh La Thành. Xin chủ tướng hãy an lòng.

Dương Thanh thuận ý Sĩ Giao cho viết một lá thư khuyên nhủ Thăng Triều. Để giữ Trường Châu tránh khỏi sự dòm ngó của các châu quận phía nam và phía tây, Dương Thanh phong Đỗ Phụng Quán làm Trường Châu trung lang tướng, giữ binh lính Trường Châu để hắn toàn tâm toàn ý với họ Dương. Đội quân của Triệu Cường, Dương Diện gã quỷ cùng thủy quân lang tướng Phạm Đan sẽ hợp binh với Chí Liệt thiếu chủ đánh phá các thành trì phía nam Tống Bình, chiếm lại đất đồng bằng Giao Châu, thu thập thêm lương thảo quyết trận này phá được La Thành, chiếm toàn bộ Giao Châu thu về một mối.

Nghe tin quân đội của Dương Thanh, Man Hoàng động kéo binh đánh chiếm khắp các quận huyện phía tây nam. Ngày ngày lại có đám người vào La Thành đốt phá, quấy nhiễu, Lý Nguyên Hỷ sai đám sai nha vây bắt nhốt vào ngục lao, nhưng cứ hễ bắt được một tên, ngày sau lại có năm sáu tên khác vào thành đánh cai ngục, đập phá trị sở. Lý Nguyên Gia đành phải bỏ thành lớn chạy sang đất Long Biên.

Vượt sông Cái chạy tới thành Long Biên, tướng giữ thành Long Trạch lại dọa dẫm Nguyên Hỷ như khi lần trước hắn có ý định chạy sang. Trạch sai quân lính ra khỏi thành hạ trại cạnh bờ sông Cái hướng về La Thành. Một viên quan mách với Nguyên Gia cho gọi Long Trạch cùng đám hương lão trong huyện đến, trước mặt các văn võ quan tướng, cùng các hương lão trong thành, Lý Nguyên Gia tỏ vẻ thất vọng mà nói với y:

- Ta vốn là quan đô hộ An Nam, nay quân phản loạn nổi lên, các ngươi chỉ muốn bo bo vị kỷ mà giữ lấy thành trì của mình, thấy quan tới thì sai quân lính ra khỏi thành như khinh miệt ta với loài dị hợm. Vậy có phải người tôi trung, nghĩa khí của đấng nam nhi hay không. Nếu các ngươi cảm thấy không còn đủ năng lực cầm binh, giữ thành thì hãy nhường cho người khác. Ta thấy có nhiều người cũng mong muốn lập thân, tạo nên sự nghiệp mà chưa có dịp để thể hiện. Nay ta thấy các ngươi đã có ý nhường cái nghiệp bảo vệ uy danh của triều đình cho kẻ khác, thôi thì cũng thuận ý đó mà làm.

Long Trạch nghe vậy nín lặng cả buổi, khi tàn cuộc nghị sự, Long Trạch lẳng lặng ra về. Hai ngày sau, hắn cho toàn bộ binh mã về giữ trong thành mà không dám tỏ một lời. Lý Nguyên Gia đến tận phủ hắn mà vỗ về:

- Tướng quân là dũng tướng của Giao Châu, mọi hành sự của tướng quân đều cho thấy tướng quân một mực lòng trung với triều đình, không ưa những kẻ kiếm thời cơ mà nổi loạn. Ta ở đây cũng đã gần hai năm, ta đã tâu với triều đình mà phong thưởng cho tướng quân. Binh mã sứ sẽ không do tên Giả hòa thượng kia nắm giữ mà là của tướng quân. Mong tướng quân hết lòng vì triều đình, vì Giao Châu này.

Long Trạch nghe vậy mà như cởi bỏ những nghi ngại từ trước, dốc toàn tâm toàn ý ủng Lý quyết dẹp quân phản loạn. Lý Nguyên Gia nói lại với viên quan ngày trước bày kế phục tâm Long Trạch. Viên quan ấy chỉ cười nhạt mà cho rằng đó chỉ là cái bằng mặt chứ tâm dạ phải khi trên chiến trận mới thể hiện ra hết.

Ba ngày sau, Long Trạch nhận lệnh vượt sông Cái, dẫn binh cứu huyện Vũ Bình, đám Giả hòa thượng dẫn binh vượt sông Thiên Đức tiếp viện cho quân lính trong thành Cổ Loa phản công lại quân đội người Man. Trong khi Long Trạch bắt giết được hàng trăm quân tướng của Chí Liệt, đám Giả hòa thượng lại cố thủ trong thành quyết không ra đánh quân Man.

Cùng lúc đó, nhận tin báo từ Lục Châu, quân triều đình bị thuyền giặc Hoàn Vương từ biển đi vào đánh phá dữ dội, quân triều đình bị đốt cháy hơn trăm trại lính. Thành Chi Phong bị quân Nam Chiếu chiếm đánh đã hai ngày, thứ sử châu ấy bị bắt giết treo đầu thị chúng. Hai bên giặc bắt tay nhau đánh chiếm rộng ra khắp vùng trung du, gặt lúa đang vụ chín ở các vùng nông nghiệp của Châu, thu được hơn hai nghìn thạch lương.

Nguyên Hỷ ở trong thành Long Biên nghe tin thất kinh thổ ra máu, cho triệu tướng quân Cam vào thành mà hỏi ý. Triệu Cam dẫn tùy tùng cùng người chú Triệu Túc tới bái kiến Hỷ. Hỷ kể ra hết sự tình, Cam vuốt râu cười:

- Hai chó giành nhau miếng mồi, ắt sẽ cắn nhau bị thương. Đô hộ đại nhân hãy yên tâm. Nam Chiếu và Hoàn Vương đều ở cách xa, đường tiếp tế lương thảo đều rất kỵ cho người dùng binh. Kẻ trên núi xuống cách xa nghìn dặm, kẻ phải đi đường biển sóng gió nghìn trùng khơi. Để xem bọn chúng khi giành được đất ấy chúng hết lương sẽ tự bỏ đi hay sẽ giành giật của nhau mà sống. Ta không cần quá bận tâm tới đám quân ô hợp ở Lục châu.

Hỷ nghe lời Cam, cho rút binh mã từ Lục Châu về đất đồng bằng phía đông nam. Giả Thường khi đó tự ý cầm binh đi giúp Lục Châu để giương võ. Đi đến bờ bắc sông Vân Cừ giao với sông Thầy bị thủy quân của Hoàn Vương từ dưới sông bắn tên chết như ngả dạ. Giả Thường đành cho quân tháo chạy về phía Tây. Đi đoạn hơn mười dặm thì gặp quân Nam Chiếu phục kích, bắn nỏ như mưa, Giả Thường trúng tên, cho quân chạy trốn vào động núi. Đang đêm, quân lính của Chí Trinh dẫn binh đi qua thấy trong động núi có quân lính liền vào chém giết, hơn năm nghìn lính bị chết, những kẻ sống sót đầu hàng hết loạt.

Giả Thường trốn trong hang tối, hắn mò mẫm gặp được tượng phật trong động. Cho là có điềm may mắn, Giả Thường dùng mồi lửa châm nhang bỗng cả hang cháy bùng, Giả Thường la hét lao xuống dòng nước trong động. Ngày sau có người nhìn thấy xác một nhà sư mặc giáp áo, mặt mũi cháy xẹm, chân tay rộp phổng không còn hình dạng nguyên vẹn. Người dân mang xác ấy chôn ở chân núi, ba ngày sau mộ bị đào lên, đầu chiếc đầu lâu bị cắt, tim gan bị moi ra vứt xung quanh mộ. Đám quân lính của Chí Trinh truyền tai nhau, tin đồn tới đám dân trong vùng rằng người này theo Phật mà tâm không phật, thờ chủ mà chí hướng vị kỷ. Nhiều lần chống đối các quan lại Giao Châu dẫu người đó là mệnh quan triều đình hay là kẻ tự lập nên mới có kết cục ra như vậy.

Nha tướng dưới trướng của Chí Trinh là Bồ Đà Nhang cầm thủ cấp của Giả Thường đến trước trại mà khoe với họ Dương. Họ Dương nhìn ánh mắt còn giương giương không chịu nhắm trên đầu lâu liền lấy dao moi đôi mắt đó ném cho quạ ăn. Chí Trinh cầm gươm bổ đôi đầu lâu, có nước trắng đục như bã đậu hôi thối chảy ra. Chí Trinh ngửi phải khí ấy mà ho suyễn hơn một tuần lễ. Chí Trinh sai quân lính rời trại về phía bắc. Trong vòng hai ngày chỗ Chí Trinh bổ đầu lâu xuất hiện nhiều rắn hổ dài cả trượng, rết độc dài bằng cả cánh tay thường hay bò vào trong nhà sàn của dân vùng ấy. Người dân vùng đấy từ đó bỏ hết ruộng nương mà rời đi chỗ khác, không dám quay lại.

Quân Man Hoàng do Chí Trinh cầm đánh phá Ung Châu suốt hai tháng không được, đành phải rút về châu Bình Nguyên. Tới bắc sông Lô, đoạn phía tây núi Hiếu Sơn, Chí Trinh cho đóng quân tại chỗ có nước sâu, núi nghiêng như sắp đổ. Quân lính mệt mỏi do hành quân đường núi, lại bị quân triều đình phản công ác liệt, truy đuổi đến đường giao với khe thung đi vào đất Nam Chiếu. Chí Trinh sai người vào trong các bản tìm vị tù trưởng năm nào đã giúp Trinh thoát khỏi tay quân lính Quế Trọng Vũ. Có vị cô dân nữ bị đám lính bắt được khai với Chí Trinh rằng:

- Hai năm trước, quân lính triều đình đánh quân Nam Chiếu ở bờ sông Nam Bình. Quân Nam Chiếu chạy đến chỗ này bị quân triều đình bắt được giết mấy trăm người. Viên tù trưởng Giàng A Kha mổ trâu, giết lợn, thổi nếp nương đãi khao quân lính triều đình. Cơn say Giàng Kha kể lại chuyện Kha giúp một viên tướng trẻ tuổi tên là Chí Trinh lạc đường đi qua bản. Tên tướng người Hoa tên là Trương Sang cầm đao chặt đầu Kha lúc còn đang ngậm cần uống rượu. Cả nhà A Kha bị giết từ già đến trẻ, gái trai không tha một người nào. Từ bấy giờ, dân bản này đã tản mát đi khắp châu Bình Nguyên, tránh cái tai ương của người Giao Châu mang đến cho người Mèo chúng tôi.

Chí Trinh cúi mình trước núi như sắp đổ, đôi mắt nhắm chặt miệng lẩm nhẩm vài lời tiếng Mán thầm tạ ơn viên tù trưởng năm nào. Ánh mắt xa xăm nhìn về những cây rừng hiên ngang giữa chập chùng đá mây. Chàng lên ngựa, bỏ lại sau lưng núi non hùng vĩ. Trinh đi về phía đông, gặp đoạn có sông nhỏ chảy từ tây sang đông Trinh cho đóng quân ở chỗ ấy.

Chí Trinh nhận được thư từ Phong Châu muốn Trinh đánh vào các huyện thành phía bắc huyện Bình Đạo, dẫn binh người Man đánh vào các hang động phía đông, mở lối cho quân Nam Chiếu lui về đất Ung Châu, quân của Trinh cũng sẽ được viện lương kịp thời. Trinh nghe tin Trương Sang đang trấn thủ thành Nã Lữ nên không nghe lời Phong Châu nhất quyết cho quân tập kích thành Nà Lữ. Trinh đánh ba ngày không hạ được thành, quân lương đã cạn, lại nghe đám mật thám báo về phía đông nam có kho lương trên núi cao mà không ai để ý đến nên Trinh cầm hai nghìn quân cướp núi. Cướp núi lấy lương, Trinh biết được đây là kho trữ lương của quân Nam Chiếu đành vội vàng chở lương về phía tây nam.

Trương Sang nghe tin sai người mang vàng bạc đút lót cho viên tướng của Nam Chiếu đang đánh Lục Châu quay trở về dẹp Trinh. Chạy về đến núi Độc Tôn, Trinh cho hạ trại trên núi, ban đêm bị Trương Sang đốt núi nhưng hễ lửa cứ bén lên đến chừng núi thì mây khói phủ kín, mưa rào dập tắt lửa, Sang đành phải bỏ về thành Nà Lữ tránh tai họa quân Nam Chiếu. Tướng Nam Chiếu là Mông Lợi Lạc Hoan biết quân bị cướp lương cho quân lui khỏi Lục Châu, đánh vào Nà Lữ nhưng Sang dùng châu báu, lụa là gái đẹp khôn khéo đuổi được Mông Hoan đi khỏi. Chí Trinh cho quân cố thủ trên núi hai tuần thì dần dần rút về miền bắc huyện Bình Đạo.

Trương Sang giữ thành Nà Lữ cũng không dám động binh truy theo, Sang bí mật báo cho Nguyên Hỷ ở Long Biên: “Giả hòa thượng đã bị giết, quân Nam Chiếu cũng đã lui, quân lính Man Hoàng đang theo sông Như Nguyệt đi về đến phía bắc đất huyện Bình Đạo.”

Nguyên Hỷ nhận tin nghe không rõ lời của tên lính báo tin hỏi lại hắn:

- Sông Như Nguyệt là đoạn sông nào? Chẳng hay giặc Man đó có nhiều hay ít, kẻ cầm đầu là ai?

Thấy tên mật thám ấp a ấp úng, Triệu Cam đứng ra bẩm lại với Nguyên Hỷ:

- Dòng Như Nguyệt chính là hào tuyến mà ngày trước tên họ Đỗ phò giúp Dương Thanh đã cậy đó mà chống lại sức quân triều đình. Nước sông chảy từ đất châu Bình Nguyên về đến nam Luy Lâu hợp với sông Nam Bình tạo thành thế phòng thủ vững chãi. Thế giặc tàn binh không đáng để lo. Dù có là tướng giỏi như Triệu Tử Long sống lại e rằng cũng chẳng thể giữ nổi mạng.

- Vậy sao quân ta không phòng thủ theo sông ấy để đảm bảo cho ta khỏi sức tấn công của giặc?

Triệu Túc rút kiếm, ánh sáng chói lòa khiến Nguyên Hỷ giật mình. Túc tiến tới tấm bản đồ treo trên vách, mũi kiếm chĩa vào chỗ bờ bắc sông Thiên Đức mà nói:

- Nếu ta ở phía trong này, địch ở phía bắc tràn xuống thì thủ bằng phòng tuyến ấy sẽ có lợi cho ta. Nay ta ở phía trong lũy hào ấy, địch lại ở phía sau lưng phía tây nam, không phải phía trước mặt mà có thể dùng phòng tuyến đó để cự địch. Nay Lục Châu đã bị dân Man chiếm, nước Nam Chiếu cho gọi quân đội trở về đánh Ung Châu. Đã như vậy, thay vì đợi đại quân Kinh Nam tới cứu viện, đại nhân hãy cử tên Thi Nguyên cùng Long Trạch bỏ trống thành các huyện Vũ Bình, Thái Bình mà lui quân về Tống Bình, còn ta sẽ cùng Triệu Cam cầm binh đi đến sông Như Nguyệt khiêu chiến với quân Man, lại dẫn một đạo binh nhỏ hợp với quân của Trương Sang ở Nà Lữ đánh vào Lục Châu vờ như muốn chiếm lại đất ấy nhưng kỳ thực để cho quân Man Hoàng lơi là phòng bị, khinh suất mà quay lại phá giặc ở phía tây nam.

Nguyên Hỷ nghe theo, liền chia quân ra làm ba đạo. Một đạo nhỏ chỉ chừng hơn một nghìn người trống chiêng cờ xí, quân mã hừng hực khí thế đi theo hướng đông tới châu Lục. Một đạo hai nghìn binh dùng thuyền chiến đi ngược dòng Như Nguyệt dẫn dụ quân Chí Trinh ra đánh. Lý Nguyên Gia vờ ốm giữ một đám quân lính già yếu ở lại trong thành Long Biên.

Triệu Cam dẫn quân ra khỏi thành Cổ Loa đi theo sông Như Nguyệt khiêu chiến với Chí Trinh, Chí Trinh trên bờ nhìn thấy cờ hiệu họ “Triệu”, liền mang giấy vàng ra rắc dải dọc bờ sông, cho ba quân đeo khăn vàng chít đầu mà khóc lóc. Triệu Cam thấy vậy liền hét lớn:

- Đám bọn bay chưa đánh mà đứa nào đứa đấy khóc như cha chết mẹ chết. Đứa nào đầu hàng tao tha tội chết. Còn không thì vàng mã sẵn đấy, cúng tế bọn bay luôn thể. Đứa nào cầm đầu bọn giặc cỏ bọn bay, còn không giơ tay chịu trói.

Chí Trinh giương cung bắn một tiễn hạ cờ thêu chữ Triệu rơi xuống mặt sông, đầu mũi tên có quả cam vàng rực chín mọng, nước phun ra như máu chảy. Trinh cầm trên tay một quả cam xạm vỏ bóp nát rồi ném thẳng vào mặt tên lính tiên phong của Triệu. Chí Trinh tung vàng mã lên mà khóc như con dâu khóc mẹ chồng mới mất:

- Ớ cam ơi là cam. Sao mày lại cay xè, đắng ngắt như vậy chứ. Bọn tao đã dầy công chăm chút bón phân đủ đầy, chọn đất tốt mà trồng lên cây. Cớ sao cam ra nông nỗi ấy. Phải chăng cành thân mục rỗng, rễ tham nước phân mà quả thành như thế. Tao rắc vàng này mong mày hóa kiếp loài cây khác để vị đắng ngắt, cay nồng của mày hữu ích hơn với đời.

Triệu Cam tức tối, chửi bới dưới sông hòng dụ Chí Trinh xuống thuyền đánh nhau với Cam một trận sống mái. Trinh đủng đỉnh cầm một đĩa quả từ tốn bóc vỏ, bỏ hạt ăn lần lượt cho hết. Chí Trinh cầm giáo xông xuống bãi sông hô lớn, hai bên bờ sông ùa ra thuyền lớn thuyền nhỏ hơn bốn mươi chiếc khiến Triệu Cam hoảng hốt giục giã quân lính chèo thuyền quay trở lại.

Đi được chừng hai mươi dặm, Chí Trinh đốc mã trên bờ chặn đầu Cam bắn tên uy hiếp. Triệu Cam trốn vào trong khoang thuyền mà nói vọng ra:

- Là một trang tuấn kiệt, Trinh ngươi có dám đánh tay đôi với ta hay không.

Chí Trinh cười lớn :

- Nhà ngươi nghĩ ta đi cùng với ai nữa à. Hãy mau lên đây đấu với ta, đồ nhát gan ăn vụng họ Triệu nhà ngươi.

Nghĩ bụng Chí Trinh đã mắc mưu, Cam cho thuyền táp vào bờ, vội vàng hắn nhảy lên bãi đất, cầm mũi thương chĩa thẳng vào Chí Trinh. Trinh cầm giáo dài, bẻ gãy làm hai tay phải cầm mũi giáo, tay trái cầm đoản côn nhảy xuống ngựa đánh với Cam. Hai bên giao đấu từ khi nắng đổ đứng bóng đến lúc con nước triều lên không phân thắng bại. Triệu Cam sai đám người cầm múc lên gầu nước uống một hơi hết nhẵn đáy lại đánh tiếp với Chí Trinh. Chí Trinh đầm mình xuống nước, uống một hơi tạo cả xoáy nước trên sông, cầm đoản côn, mũi giáo đánh với Cam thêm hai mươi hiệp nữa thì Cam ném thương bỏ chạy.

Chí Trinh quất ngựa đuổi theo đến bãi đầm lầy ngựa bị thụt xuống bùn, không nhấc nổi chân lên. Trinh nhảy ra khỏi ngựa thì bị Triệu Túc từ đâu chạy tới kè dao vào cổ, Túc sai người bắt trói Chí Trinh. Chí Trinh quẫn tiết, vùng vằng đòi hai người họ Triệu thả Trinh ra. Trinh liên tục mắng chửi hai tên đó bụng dạ tiểu nhân, ăn ở hai lòng, phỉ nhổ vào mặt Triệu Túc. Túc cầm dao cứa vào sợi thừng trói Trinh:

- Chí Trinh thiếu chủ không nghĩ sẽ có ngày như thế này phải không? Năm xưa ở thành Nà Lữ, thiếu chủ lừa ta ở lại giữ thành, thân mình đóng ở bãi đất phía ngoài, địch đến thì bỏ chạy, không báo cho tiểu nhân một tiếng. Để khi họ Quế áp sát thành Nà Lữ, tiểu nhân cùng hai trăm huynh đệ không kể tính mạng mà chạy đến trấn Hải Môn, lại bị quy kết tội phản chủ. Nay kết cục như vậy, chắc thiếu chủ không phiền lòng chứ.

Chí Trinh tung người lên đạp trúng một tên lính đang cố giữ lấy Trinh khiên tên đó gãy chiếc xương sườn. Giọng khàn đi vì đói lả, Chí Trinh mắng Túc:

- Cha con chúng mày là bọn vô ơn bạc nghĩa, thờ cá chép mà bụng dạ cá rô không đáng mặt sống ở trên đời này. Chẳng phải bọn chó má chúng mày t.ư thông với địch, dẫn giặc vào nhà giết đàn bà con trẻ thì đã không nên nỗi như bây giờ. Mày nói ai bỏ trốn khi mà ta năm lần bảy lượt lệnh nhà ngươi ra khỏi thành để trống thành mà tương kế tựu kế. Nhà ngươi nghĩ cái thành nhỏ giữa bốn bề núi cao đó có thể chống được sức địch hay sao mà cố thủ cho bằng được. Để khi quân ta bị giặc phá, không còn đường lui thì lúc đó nhà ngươi mới chịu ló cái mặt ra để cho họ Quế đó chiêu dụ. Rồi cả khi ta chạy vượt qua Hiếu Sơn, nghe nhà ngươi mất thành, không rõ tung tích, ta đã phải sai người đi dò hỏi khắp nơi đến khi có kẻ báo về nói ngươi chạy về phía đông, ta mới phần nào yên dạ. Vậy mà cha con mày ăn cháo đập niêu, chó nhà cắn chủ mưu dẫn giặc vào nhà đẩy bọn ta vào chỗ chết, dân Giao Châu vào khói lửa binh đao không dứt.

Triệu Túc giáng một đấm thật mạnh vào mặt Trinh, đôi hàm gãy rụng, vài chiếc răng rơi theo cùng máu đỏ tươi. Triệu Túc toan đánh thêm đòn nữa vào mặt Trinh, Cam cản lại, nói nhỏ với Túc:

- Anh hai xin hãy dừng tay. Hiện giờ nghe nói tên tù trưởng họ Dương vẫn còn nắm binh mã Trường Châu, Man Hoàng khê động hơn bốn mươi châu Cơ mi. Giết Trinh là chuyện dễ như trở bàn tay, nhưng ta đoán rằng họ Dương đâu có thể ngồi yên mà nhìn con trai hắn chết. Trinh còn sống, lại ở trong tay chúng ta. Dương Thanh sẽ không dám giương mắt nhìn con trai hắn bị đe dọa tính mạng mà động binh cướp lấy Giao Châu.

Hai anh em họ Triệu trở về Long Biên báo cho Nguyên Hỷ biết tin. Hỷ lấy làm vui mừng nhưng trong lòng chưa yên. Cam vẫn theo kế sách cũ mang thêm hai nghìn lính đi đánh Lục Châu hòng che mắt quân phản loạn. Cùng lúc đó, Long Trạch rút hết binh mã từ phía tây về Tống Bình đóng trại từ Bình Sa Động phía nam hồ lớn râm Đàm dọc theo Lịch giang đến phía nam giáp sông Cái.

Sĩ Giao nghe tin quân Tống Bình bỏ hai huyện Vũ Bình, Thái Bình lui về trấn thủ La Thành liền sai các tướng chiếm lấy hai huyện. Sĩ Giao sai lính giữ chặt hai huyện đó mà không tiến quân về phía đông. Dương Thanh viết thư hỏi ý Sĩ Giao tại sao không thừa cơ mà chiếm lấy đất huyện Tống Bình. Sĩ Giao gửi lại cho Dương Thanh lá thư chỉ viết vỏn vẹn bốn chữ: “Dương tây trinh đông”. Thanh đọc thư cười lớn, sai người viết thư dũng những mỹ từ đẹp nhất để khen tặng Sĩ Giao. Sĩ Giao tỏ lòng cảm tạ, thức trắng một đêm viết lá thư bày hết tâm can cho Thanh.

Dương Thanh trở về Man Hoàng, đốc binh mã thất động đánh dẹp các tù trưởng đất Man Hoàng để lấy lại uy dũng. Một viên huyện lệnh trẻ tuổi huyện Phù Tà, cơ mi La Phục Châu tên là Ma Cao Dực bàn với Dương Thanh:

- Nay quân binh đã đông, lương thảo đã đủ, đám người man di, khê động cũng theo ta hết thảy. Trường Châu cũng đã thuận theo ý tướng chủ. Tù trưởng về đất Man Hoàng mà không dấy binh Trường Châu để chiếm lại Giao Châu như Tù trưởng hằng ấp ủ bấy lâu. Phải chăng có điều chi chưa được thuận. Vãn sinh còn trẻ chưa hiểu hết chuyện mong tù trưởng giảng cho.

- Cao Dực ở đất động khê chắc chưa hiểu rõ. Đất Giao châu của chính quyền họ Lý, nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người Giao Chỉ. Chuyện phá trị sở, chiếm đất chỉ là một lẽ nhỏ để thu phục đất An Nam, thứ tối quan trọng đó phải là nhân tâm. Lòng người có theo thì mọi điều mới thuận. Các tướng lĩnh triều đình, châu mục, hào trưởng các châu quận đều hiểu rõ tầm quan trọng của Giao Châu nên sẽ không dễ dàng để cho kẻ khác chiếm được đất đó. Bây giờ ta cầm binh đánh lấy Giao Châu, há chăng đám người đó ngồi yên nhìn ta ngồi chỗ ấy. Ái Châu, Phong Châu, Võ An, Hoan, Diễn, Phúc Lộc, tất cả chỉ trực chờ có kẻ chiếm đất đó mà có cớ sự để bành trướng uy danh. Đất Trường Châu vô pháp, thiếu lễ nghi, lòng quân không phục, ý dân muốn từ bỏ từ lâu nên ta mới dễ dàng lấy được đất chỗ ấy. Còn những chỗ khác, nhà ngươi cứ ngẫm mà xem. Hai huyện nhỏ Vũ Bình, Thái Bình, chẳng phải là do Hoàn Vương quấy phá Lục Châu mà quan quân mới phải bỏ hai huyện đó hòng mở vòng vây cho quân tiếp viện từ Kinh Nam xuôi về đất Giao Châu. Nay bố phòng quân ta đã đủ, củi khô đã chất, dầu lửa đã giăng, chỉ chờ có mồi lửa để cháy bùng dữ dội.

Cao Dực nghe Dương Thanh nói như đèn soi chỗ tối, nước ngập ruộng khô. Cao Dực ngày ngày theo Dương Thanh lên núi thao binh, xuống thung trồng lúa cùng đám dân binh. Thi thoảng lại cùng Dương Thanh đọc tấu sớ các châu huyện vùng Man Hoàng. Cao Dực được ở chung nhà sàn, học theo họ Dương cách trị người, dùng pháp luật đối đãi với kẻ dưới. Thời gian sau, Dương Thanh xuôi về đất Trường Châu để ráo riết binh mã đánh trận lớn chiếm lại đất Giao Châu. Mọi chuyện xứ Man Hoang, Cao Dực được Dương Thanh phó thác. Cao Dực bấy giờ mới hai mươi ba tuổi nên nhiều kẻ nghi kỵ ganh ghét. Dương Thanh thoạt đầu muốn giúp Dực thoát khỏi những thị phi, rèm pha nhưng sau đó lại để cho Dực tự kiểm điểm bản thân, đối đáp với những kẻ gây lời thị phi. Cao Dực từ một chàng trai trẻ con chưa thấu đáo sự tình, nay đã trở thành một người mang dáng dấp của tôn trưởng.

Dương Thanh viết thư ngỏ lời Sĩ Giao về Cao Dực, Sĩ Giao viết một lá thư khen tấm tắc về đối trí của Cao Dực. Lời thư Sĩ Giao viết chứa đựng những lời hoa mỹ nhưng không thiếu những dặn dò đầy trách nhiệm đối với việc phó thác của Dương tù trưởng cho Cao Dực. Cao Dực từ bấy giờ hành sự cẩn trọng, mọi việc đều thấu đáo từ dưới lên trên mà không bị người khác rèm pha nữa. Dương Thanh cùng Sĩ Giao cảm thấy vui mừng, dồn toàn lực cho mặt trận phía đông.

Tháng t.ư mùa hè trời nóng bức, hào nước vây thành Long Biên cạn trơ tới đáy, dòng nước lũ tiểu mãn từ sông Cái không ngập tới kênh dẫn đổ vào hào nước. Lý Nguyên Gia cho người vét đáy dòng kênh để dẫn nước vào hào mà suốt hai tuần không tài nào dẫn được vào. Nguyên Gia cưỡi ngựa ra cổng bắc của thành Long Biên, thấy có con nước vắt ngang chảy qua cửa. Nguyên Gia sai quân dân trong thành đào một dòng kênh nữa dẫn nước vào con hào vây thành.

Được một tuần lễ, nước sông Cái lên cao, nước đổ vào kênh, hào đầy ắp. Nguyên Gia đêm nằm mộng thấy có tên mặt quỷ, da xanh tay cầm xích trượng đi thuyền từ cửa sông Thiên Đức xuôi theo dòng nước đoạn qua chỗ cửa bắc thành Long Biên nhảy lên bờ sai quân lính mở cửa, giết người trong thành, máu chảy đầu rơi nhiều không đếm được. Nguyên Gia chợt tỉnh, lau mồ hôi vã khắp người, giữa canh ba chạy tới chỗ bờ sông Thiên Đức đoạn chảy qua cửa bắc thành Long Biên. Dòng nước đang xuôi theo hướng tây bắc đông nam, đến đoạn kênh dẫn nước vào hào thành thì đổi dòng chảy một góc vuông từ mạn Nam ngược về Bắc khiến Nguyên Gia kinh hồn bạt vía chạy về trong thành. Nguyên Gia ốm ba ngày, không ăn không uống. Liễu tá trong phủ đô hộ tới hỏi, Nguyên Gia kể ra giấc mộng đêm trước, lại nói có con nước chảy ngược nên đâm ra lo ốm. Viên Liễu tá cầm chiếc quạt phe phẩy xua đi hơi thở nóng rực tỏa ra từ người của viên đô hộ vỗ về:

- Con nước chảy theo dòng là lẽ tự nhiên, hết đoạn nước chảy qua huyện Long Biên, cũng như bao dòng khác Thiên Đức Giang lại chảy xuôi về đông. Còn cơn mộng của đại nhân chỉ là mê sảng, đâu có điều gì đáng để lo ốm.

Nguyên Gia run run cầm chén nước còn nghi ngút mà trần tình với viên Liễu tá:

- Trước nay ta chỉ nghe sông chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp, từ Tây Bắc mà chảy về Đông Nam. Nay trước cửa thành phía bắc lại có đoạn sông chảy ngược như vậy, lẽ nào điềm báo dân Giao Châu có lòng phản nghịch. Đất Giao Châu trước giờ vốn vẫn bị đe doạ bởi nhiều người nuôi dưỡng ý định làm loạn. Ta không thể yên dạ chút nào.

Viên liễu tá lắc đầu, chỉ nở nụ cười nhạt:

- Nếu đại nhân đã có ý như vậy. Chi bằng nhân lúc đám người Man Hoàng đã lui quân, huyện Tống Bình đã yên, Đại nhân trở về La Thành mà dựng lại trị sở.

Nghe xong lời bàn của viên Liễu tá, Lý Nguyên Gia như khỏi hết ốm bệnh, đầu rũ bỏ được âu lo. Ngày sau Nguyên Gia cho mời các bậc phụ lão, quan chức trong huyện tới bàn bạc. Nguyên Gia sai dân chúng trong thành mỗi người góp hai ngày công, chở bùn, nung gạch đắp thành lũy nhỏ kế bên nền thành cũ đã bị dân man cướp phá, dịch về phía đông gần với sông Cái. Hơn nửa tháng sau, thành được dựng. Cửa kép, tường đôi, bốn hướng vây tròn, nhà cửa san sát, khuôn viên thành nhỏ nhắn, bằng góc tây nam của thành Long Biên.

Lý Nguyên Gia cho dựng điện tế, mời thầy phong thủy đến làm lễ tế bái trời đất, mở tiệc khao dân chúng trong thành. Có viên cận hầu bàn với Nguyên Gia:

- Tiểu nhân nghe các bậc phụ lão bàn rằng Đất chỗ La Thành mới dựng chính là đất Long Đỗ, xưa là đất của thần Tô Lịch, Tô Lịch Giang cũng chính là từ tên ấy mà ra. Nay đại nhân dựng thành trên đất ấy, thuận bề nhiều mặt cũng là nhờ vị thần ấy linh ứng mà giúp ngài vậy. Há không dựng đền miếu thờ sẽ chẳng thể yên được. Chi bằng đại nhân dựng đền cạnh sông để tỏ lòng thành.

Trong tiệc, Nguyên Gia bàn với các bậc hương lão, quan lại địa phương. Các bậc hương lão, quan lại địa phương đều thấy quan đô hộ hiểu được tập quán của địa phương mà đều tỏ ý hài lòng. Lý Nguyên Gia cho cất một ngôi đền cạnh dòng sông mang tên vị thần ấy. Nguyên Gia lại cho mở tiệc khao đám quan lại, hương lão huyện Tống Bình. Tiệc mở linh đình, lễ hội đông đúc đến cả vạn người, trăm ngàn điệu múa đều có, đàn địch vang trời, suốt cả ngày không dứt.

Đêm ấy, Nguyên Hỷ say rượu, nằm cạnh cửa sổ mặt trông ra con sông thần. Đang lặng yên ngon giấc, bỗng nhiên có trận thanh phong ào ào thổi đến, bụi cát cuốn bay lưng trời, rèm lay án động bên trong, một người cưỡi hươu trắng đi từ trên không hạ xuống, râu mày bạc phơ, áo mão rành rạnh sặc sỡ, tiền gần Nguyên Hỷ mà nói:

- Nhờ ơn sứ quân uỷ cho ta làm chủ thành này, nếu sứ quân có giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng hết sức thẳng ngay, thì mới sung được nhiệm vụ của quan thủ mục, mới xứng với trách nhiệm của một bậc tuần lương.

Nguyên Hỷ bái tạ xin vâng, hỏi tên họ của thần thì thần không đáp, cưỡi nai trắng đạp mây bay đi mất. Hỷ bấy giờ tỉnh lại mới hay đó là giấc mơ. Hỷ kể lại chuyện đêm đó tại đền cho các bậc hương lão, thổ hào địa phương. Hỷ tỏ lòng ngưỡng mộ muốn dân chúng Tống Bình một lòng hướng lời dạy của thần mà phò giúp Hỷ cai quản đất Giao Châu.

Ngày sau, hội tan Nguyên Gia lên trên thành phóng xa tầm mắt nhìn về phía nam bụng nghĩ rằng Giao Châu đã sắp định yên, đám quân phản loạn sẽ phải hàng phục dưới trướng. Nghĩ đến thôi, Nguyên Gia lại thấy hả lòng, miệng cười đắc trí. Có làn mây gợn bầu trời nắng gắt, Nguyên Gia nhìn xuống phía dưới cổng thành. Long Trạch cưỡi ngựa áp giải một đám người từ phía tây trở về. Nguyên Gia đi xuống phía dưới nhìn đám người đó mặt mũi sáng sủa, quần áo gọn gàng, đầu tóc búi cao mà cất lời hỏi:

- Những người này phạm tội gì mà đích thân Long tướng quân lại áp giải vào thành.

Long Trạch mặt lầm lỳ dắt đám phạm nhân, tay cầm song câu bình thản bước tới nói với Nguyên Gia:

- Đám người này ngày qua trà trộn vào lễ hội tung tin xằng bậy, đêm xuống lẻn vào trong thành uống rượu say phá phách dịch quán, lời nói khinh miệt quan đô hộ.

- Những người đó nói gì?

- Chúng truyền tai nhau, phát giấy cho người dân rằng khi trước quan đô hộ Triệu Xương người mỏng, lương ít mà dựng thành Đại La uy nghi là thế. Nay thuế sưu mang nặng, sức lính như sóng vỗ mà chỉ dựng được thành nhỏ như chuồng gà giữa trời đất Giao Châu rộng lớn, lại là đất thiêng rốn rồng. Bọn chúng còn giễu cợt quan đô hộ giữa dịch quán rằng sức ông ta chỉ xây được một cái thành cỏn con như thế. Chúng còn ba hoa khoe mẽ lấy thi văn đối ẩm rằng quan sứ xây thành nhỏ lại cho mở mở hội lớn, có khác chi kẻ nghèo khó dựng một túp nhà tranh dâng lễ chấn trạch bằng ba nhà ngói. Tại hạ nghe thấy mà giận khôn tả xiết, đành bắt giải chúng về để đại nhân xét tội.

Nguyên Hỷ mặt mũi xầm xì, da đỏ như gà chọi say đòn, cầm kiếm dí mặt tên đi đầu mặt mày nho nhã, mặc chiếc quần vải lụa, áo gấm. Hắn vênh mặt, nghển cổ như thể thách thức Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ dùng chuôi kiếm giáng một đòn mạnh vào vai, hắn khuỵu chân ôm lấy vai, mặt mày tức tối mà không nói một lời. Viên đô hộ ra hiệu cho giải chúng đi giam vào ngục tối, tra cực hình lấy lời khai của đám người đó. Nguyên Hỷ ra lệnh toàn thành hễ có ai bàn tán chuyện xây thành, cất dựng đền thờ thần nhẹ thì bị đánh mười roi, xàm ngôn thì cho sai nha khâu miệng hai ngày, còn nếu phát hiện người kể chuyện truyền tin cho người khác bị nhốt vào ngục tối, bỏ đói ba ngày, tiếp tục tái phạm sẽ bị xử chém.

Canh khuya tiếng mõ khua ánh đèn trong thành dần tắt lịm, Nguyên Gia cởi áo mão, giày quan trực ngả lưng xuống tấm phản, tay phe phẩy quạt nan, miệng chóp chép miếng trầu cay của người nam. Chốc chốc Nguyên Hỷ lại lật người nghiêng qua nghiêng lại, thi thoảng lại nhô cao đầu lấy chiếc bát mà nhổ bã. Tiếng đập cửa phủ uỳnh oàng khiến Nguyên Hỷ tỉnh giấc, xộc xệch áo quần quan đô hộ mắt mở mắt nhắm nhìn tay bổ đầu Tô Tiến Hậu hổn hển thở dốc:

- Không hay rồi. Bẩm quan đô hộ, không hay rồi.

- Có điều gì mà nhà ngươi hớt hải chạy tới phủ giữa canh ba.

Tiến Hậu lau hết giọt mồ hôi còn lăn trên khuôn mặt kham khổ của anh chàng, hai tay chống gối, thở phì phò như ngựa:

- Hai cái tên mà Long Trạch bắt giữ khi chiều, bọn chúng là con của viên thứ sử châu Phong Vương Thăng Triều, một tên nữa là Kiều Chung Tiềm con trai của phó thứ sử Chung Đạt.

- Tiến Hậu nghe tin từ khi nào? Sao không sớm báo cho ta biết.

- Chiều nay, tại hạ đi áp lương cho quân đóng ở râm Đàm, khi trở về nhà lao thấy có mấy tên phạm nhân mới, xét danh tính, nghe giọng nói thấy hai người trong đám ấy là người châu Phong. Đầu tiên chúng nhất quyết không chịu khai ra, tại hạ cho người giả làm người của chúng trà trộn vào trong lao, chúng đã nói với người của tại hạ là như vậy. Xét hành trang của chúng, tại hạ cũng tìm ra được hai chiếc lệnh bài này.

Lý Nguyên Hỷ cầm chiếc lệnh bài bằng gỗ, mạ bạc ghi chữ Vương, mặt sau khắc nổi hình chim hạc trắng ngậm ngọc minh châu. Tiến Hậu tấu rằng có lần huyện lệnh Từ Hãn Xương có đi tới đất châu Phong dự tiệc cưới con trai Vương là Thăng Hùng. Tiến Hậu cùng đoàn người của Hãn Xương chở theo lụa là, châu báu tới mừng lễ cưới đã từng nhìn thấy lệnh bài đó là của Thăng Triều ban cho các con và đám cận hầu của họ Vương. Nguyên Hỷ cho Tiến Hậu lui, gọi viên quan huyện Tống Bình là Từ Hãn Xương đến hỏi han. Trong đêm, đương lúc mải mê tửu sắc, Hãn Xương hậm hực chạy đến phủ. Hãn Xương nhìn thấy hai tấm lệnh bài đặt trên bàn, nhanh nhảu hỏi Hỷ:

- Nay đô hộ đại nhân lại bày tiệc khao đãi đám người Giao Chỉ nữa à. Giữa đêm chẳng hay đại nhân cho gọi có điều chi dạy bảo.

- Nhà ngươi nói ta đãi tiệc người Giao Chỉ là có ý gì? Chẳng phải ngày qua tiệc hội đã tàn. Nhà ngươi nói xem ta nên xây thêm mấy cái thành nữa mới thỏa được ý ngươi.

- Tại hạ không có ý đó. Chỉ là nhìn thấy lệnh bài xứ Phong châu, nghĩ rằng Đại nhân hậu đãi bọn người đó mà cho ở lại phủ trị.

Nguyên Hỷ nghiêm mặt, nhả bã trầu cay, súc một ngụm trà hỏi Xương:

- Nhà ngươi biết đó là lệnh bài xứ Phong Châu?

Hãn Xương cúi gằm mặt, tiến tới chỗ chiếc bàn, mắt nhìn ngó nghiêng, tay toan chạm vào lệnh bài đó thì Nguyên Hỷ quay lại mắng mỏ:

- Nhà người chớ có động đến mấy thứ đó. Nhà ngươi nói xem những thứ đó từ đâu mà lại có ở trên bàn của ta.

Hãn Xương mắt dắm mắt mở, gật gù đáp:

- Chắc là đại nhân có ý mời đám người châu Phong lán lại thêm chút bữa để cùng bàn thế sự An Nam. Nay duy chỉ có châu Phong là cận kề với ta, không có ý phản trắc, luôn xử sự đúng mực với các đời quan đô hộ. Mà dân Man Hoàng phía tây bắc nếu có ý đồ đánh thẳng đến Tống Bình, Phong Châu như một lá chắn thép mà Tống Bình thêm yên tâm vậy. Cho nên việc đại nhân đối với đám người châu Phong có phần hậu hĩnh hơn cũng là dễ hiểu. Mấy lời của kẻ tôi mọn suy diễn chủ quan, có điều chi sai sót xin đại nhân lượng thứ cho qua. Vậy mấy người của Thăng Triều vẫn ở trong phủ của đại nhân?

Nguyên Hỷ cầm tách trà mà tâm trí không yên, ấp a ấp úng đáp:

- Nhà ngươi biết như vậy là được rồi. Cho nhà ngươi lui.

Hãn Xương hằn học mặt nặng mày nhẹ bước ra về trong đầu luôn hỏi lý do đang giữa đêm vắng quan sứ lại cho gọi Xương vào. Ra đến phía ngoài phủ gặp Tiến Hậu, Xương hỏi thì biết được chuyện.

Sáng ngày sau, Xương viết một lá thư gửi cho Chung Đạt, vốn là chỗ hay qua lại. Chung Đạt bí mật rời châu Phong đến huyện Tống Bình hỏi cho ra câu chuyện. Chúng Đạt muốn chuyện êm trôi mà đút lót hai trăm lượng bạc cho Xương, Xương chối không nhận sợ rằng không giúp được cho Đạt. Đạt cậy hỏi đường đi nước bước để gỡ vụ này mà Xương tỏ vẻ làm rất khó do quan đô hộ trực tiếp đứng ra xét xử mà lại không cho các quan dưới được hay. Chung Đạt đánh liều đến cậy nhờ Long Trạch, Đạt dẫn theo ba trâu to khỏe bụng thắt vải đỏ, một mâm xôi đầy, năm gà chín cựa, một tráp trầu cau, hai hòm bạc trắng đêm đến mang tới trại quân của Trạch nhờ Trạch đứng ra giúp vụ này. Long Trạch khinh khỉnh không tiếp chuyện họ Kiều. Có viên giám quân nói thầm với Trạch:

- Đất Phong Châu xin tướng quân hãy nể mặt, kẻo rước họa cho Tống Bình vậy.

Trạch quay ra tiếp chuyện, nói đôi ba câu Chung Đạt cúi mình dò xét Trạch chuyện bắt bớ người trong tiệc hội khánh thành đền thờ thần Long Đỗ. Trạch hiểu ý, nhận hết chỗ tặng phẩm, cảm tạ tấm lòng thành của xứ quân châu Phong đối với Tống Bình. Trạch chỉ dám hứa sẽ nói giúp một với quan đô hộ, chút lễ mọn mang xung quân khố Tống Bình.

Chung Đạt chờ tin lòng nóng như lửa đốt, không ăn không ngủ suốt hai ngày ở dịch quán trong La Thành. Ở thành Bạch Hạc, Thăng Triều nghe tin họ Kiều vào huyện Tống Bình suốt mấy ngày mà chưa quay trở về, lại nghe tin con trai thứ Vương Thăng Đức đi cùng Chung Tiềm lông bông đi ngao du suốt cả tháng nay. Trong lòng không yên liền cho gọi đám gia nô Kiều phủ đến Bạch Hạc hỏi chuyện. Đám người Kiều phủ cũng không hay biết nên Thăng Triều đành sai mật sứ đi Tống Bình dò chuyện. Tin báo về Kiều Chung Đạt đang chờ ở dịch quán suốt mấy ngày ở đó không ăn uống gì nên Thăng Triều sinh lòng nghi viết thư triệu Đạt về Bạch Hạc.

Chung Đạt biết Thăng triều hay tin nên đành ngậm ngùi quay về. Thăng Triều hỏi Đạt, Đạt chỉ bẩm lại rằng Đạt tới Tống Bình mang chút cống phẩm, dâng lễ lên đền thờ thánh mới dựng, qua lại chỗ quan huyện Từ Hãn Xương để tạo dựng mối quan hệ khăng khít hơn với Tống Bình. Tin tưởng lời Đạt nên Thăng Triều không dò xét thêm nữa. Thăng Triều nhìn thấy nét mặt buồn ủ rũ của Đạt, quay ra nhìn bức họa chữ Tiềm treo trên vách mà hỏi thêm:

- Nghe nói Đức nhi đi cùng trai thứ nhà ngươi là Tiềm đi ngao du, chẳng hiểu suốt tháng nay không thấy mặt mũi chúng nó.

Như đánh trúng chỗ đau, sắc mặt Chung Đạt xuống màu nhợt nhạt, giọng lắp bắp đáp:

- Thằng con nghịch tử đó, xin đại nhân đừng nhắc tới. Suốt ngày lông bông, rượu chè phè phỡn, ngao du với đám người không ra gì.

- Ý Chung Đạt đám không ra gì đó là Đức nhi?

- Tại hạ nào có ý nói Vương công. Chỉ là thấy Vương công cùng nghịch tử Chung Tiềm ngày ngày qua lại với đám nho hủ say sưa rượu chè, lại bàn lời không hay những người trên.

Thăng Triều ngẫm lời Chung Đạt nói phải nên không trách Đạt. Triều cho Đạt nghỉ ngơi thêm ba ngày rồi vào thành Bạch Hạc bàn việc quân.

Chung Đạt suốt ba ngày mất ngủ liên miên lại không ăn chẳng uống, sắc mặt xấu đi phân nửa. Đám gia nô mời thầy lang đến chữa trị đều lắc đầu không biết bệnh. Thăng Triều nghe Đạt trọng bệnh liền sai người đến đất Lâm Tây mời Lý Lang Mộc đến trừ bệnh. Lang Mộc bắt mạch kê thuốc cho Đạt, Đạt mới chỉ nghe Lang Mộc đọc đơn thuốc mà mặt mũi bừng tỉnh, ngồi dậy hỏi Lang Mộc:

- Trước giờ ta không tin là trên đời còn có lang y chữa được bách bệnh. Nay gặp được thân phụ Do Độc tướng quân ở đây, hết thảy kính phục.

Lão Lang Mộc vuốt râu cười lớn:

- Chẳng phải là ta chữa được bệnh của đại nhân mà là đại nhân đâu có bệnh gì.

- Ta đây mấy ngày không ăn, uống vào đắng miệng, đặt lưng xuống nằm mà mắt không thể nhắm nổi. Đó chẳng phải là bệnh hay sao.

Lang Mộc giọng cười sảng khoái:

- Ta biết có một người sẽ trị được dứt cơn bệnh đó của đại nhân.

- Lang Mộc kê đơn thuốc, ta chỉ cần nghe mà đã dứt cơn đau đầu. Không lẽ đơn thuốc đó không phải của ông?

- Đúng vậy. Người kê đơn thuốc đó đang đứng ngoài phủ, chờ đại nhân.

Trời nắng nóng, đất bốc hơi ngột ngạt, Chung Đạt mấy ngày không ăn uống, ngủ nghỉ bỗng nhiên bật dậy. Chân không kịp đi dép, áo mão chẳng kịp chỉnh tề, vội vàng ra ngoài phủ tìm gặp người mà Lang Mộc dẫn tới. Ánh mắt buồn nặng những u hoài, vừng trán đã nổi mấy nếp mà vẫn toát lên vẻ rạng rỡ đến lạ kỳ, Chung Đạt nhìn người đó mà không khỏi kinh ngạc:

- Anh là người mà Lang Mộc dẫn tới?

Tay cầm chiếc quạt mo lá cọ, Sĩ Giao cúi thấp mình chào Chung Đạt:

- Chính là Giao mỗ, xin bái kiến Kiều đại nhân. Nghe ngài có bệnh đau đầu, kém ăn nên vãn sinh mạn phép xin tới kê thuốc cho đại nhân.

- Giao mỗ. Ta phải gọi anh thế nào?

Sĩ Giao giọng uyển chuyển, âm trầm bổng mà thưa:

- Giao mỗ họ Đỗ, thuở hàn vi theo anh làm lệnh công ở đất Tống Bình. Mà đất Tống Bình không dung nổi, nghe có tướng họ Dương nổi dậy dẹp quân tàn ác mà theo về với minh chủ. Chẳng may tướng chủ bị kẻ dưới lật lọng, dẫn địch vào nhà mà phải ly tán, lưu lạc tứ xứ. Vãn sinh theo anh vợ là Chí Liệt đóng quân ở đất đồng bằng châu thổ, ba lần bảy lượt đánh không được đất Tống Bình nên đành về đất núi phía tây mà lánh nạn, học y thuật mà độ thế dân lành.

- Là Bá Nam quân sư Đỗ Sĩ Giao, trẻ tuổi tài cao mưu kế đầy bụng, dùng cây bút mà giết được nghìn quân địch, người đời xếp ngang hàng với Sĩ Vương, Tinh Thiều thời Lý Đế, Đỗ Anh Hàn thời Bố Cái.

- Những lời thiên hạ thêu dệt gió trăng, xin đại nhân chớ nghe. Sĩ Vương trí tuệ tinh thông, khéo dùng phép nhân trị mà được lòng dân chúng. Tinh Thiều bậc hiền tài xưa nay hiếm thấy, giúp Lý Đế dẹp bọn hung tàn, đánh giặc lân bang tỏ rõ cái uy của người Nam Việt. Đỗ Anh Hàn vãn sinh càng chẳng lấy gì mà bì, bậc tiền nhân trí dũng song toàn, giúp Phùng Vương dẹp bỏ Chính Bình, đánh giặc Lâm Ấp phía nam, đuổi giặc Chà Và quấy nhiễu, ba lần đánh đuổi quân Đường, năm lần bắt sống bọn thứ sử châu Thang, châu Lục, uy danh lừng lẫy. Kẻ vãn sinh há chỉ là suối nhỏ so với nước sông Cái ngoài kia.

Giọng nói dứt khoát, lay động đến tâm can, Kiều Chung Đạt vội mời Sĩ Giao vào trong phủ:

- Ngoài này chẳng phải chỗ để kê đơn, ta mời anh vào trong phủ hầu chuyện, bắt bệnh.

Chung Đạt dẫn vị lang y trẻ tuổi đi qua hai gian nhà lớn, sừng ngà lớn bé giăng đầy, thổ cẩm dệt lộng lẫy xa hoa. Vài bức trướng dát vàng gió lay bay phập phù, cửa gỗ lim nhẵn mịn nước sơn còn mới. Lang Mộc cười nói nhỏ với Sĩ Giao:

- Những thứ này hít vào trong cơ thể, há chăng mà không sinh thành bệnh.

Sĩ Giao chân bước vội, phẩy tay gạt lời Lão lang Lý:

- Con người ta mỗi người một vui thú, kẻ thích gái đẹp, người thích bầu bạn, thi ca. Có những người chuộng sự thanh nhàn, tao nhã lại có kẻ chuộng những vinh hoa, phú quý, vàng bạc lụa là cho thỏa cái sở thích cho họ vậy. Có thế người ta mới vui vẻ, bớt u sầu. Điều đó chẳng phải tốt hơn sao.

- Nhưng những thứ ấy do bàn tay kẻ đó tạo nên thì không nên nỗi, mà là do của đút lót, lòng tham, vậy thì chỉ có khổ cho những kẻ dưới quyền.

Sĩ Giao cười:

- Nhân chi sơ tính bản thiện, nước có đục thì cò mới béo. Đâu phải tự con người ta muốn ra như vậy. Chỉ trách những người đã khiến cho con người ta thành ra như thế.

Bước qua dãy hành lang đầy chim khướu, lá hoa, đá cây xù xì muôn vẻ, Sĩ Giao bước vào gian phòng lớn, trống toác không có thứ gì bên trong. Đôi chân Giao bỗng nhiên lạnh toát, nền nhà cứng trải những thảm nhung đỏ. Ba người ngồi quây tròn bên chiếc bàn nhỏ xinh, bốn chân trụ to bằng ống cổ chân, tấm lụa tơ phủ lên mặt không giấu đi được ánh vàng lấp lánh, mát lạnh phía dưới. Sĩ Giao tấm tắc buông lời khen:

- Đại nhân quả có con mắt tinh tường, am hiểu phong thủy đôi hạc đồng ngậm hạt ngọc minh châu đứng chầu trên lưng rùa này ắt mang lại nhiều điều may mắn cho gia phủ.

Chung Đạt gật gù cười nhếch mép:

- Xứ châu Phong xưa nay yêu loài hạc mà tôn thờ ngang hàng với tứ linh, nhà nghèo khó cũng có trong nhà một đôi hạc bằng gỗ, nhà tôn giả thì đúc hạc đồng mà trấn yểm tà ma, giúp yên định gia thất. Thành phủ châu Phong cũng lấy tên loài chim ấy mà đặt thành tên. Bá Nam quân sư tuổi trẻ mà học rộng hiểu biết nhiều, cho ta hỏi một điều về ý nghĩa tâm linh, hình tượng chim Hạc.

- Vãn bối xin mạn phép nói đôi lời, có điều chi chưa đúng xin đại nhân dạy bảo. Nói về chim hạc, xưa tổ Hùng Vương thấy đất Tượng quận chim hạc trắng phủ trời, núi sông hòa quyện, thế đó có thể dựng được nước mà lập nước Văn Lang, khắc chim hạc lên trống đồng, vách đá để lại cho muôn đời sau. Sách cổ người nam ta có nói Nhất phẩm điểu là loài của tầm cao vũ trụ, đại diện cho trí tuệ tinh thông, bạch hạc tượng trưng cho những điều trong sáng, đầy tinh túy thanh cao. Đôi chân cao lớn của chim hạc như trụ chống trời, thân chim hình khum tượng trưng cho bầu trời. Dáng chim cao lớn thể hiện mong ước vươn tầm trời đất của con cháu vua Hùng, mỏ dài nhọn như mũi tên lao về phía trước, dẫn con người ta đi theo lẽ phải. Hạc ngậm minh châu biểu trưng cho sự cao sang của gia chủ.

Lang Mộc tiếp lời hỏi Sĩ Giao:

- Bá Nam nói thật hay. Ta sống trong khe động bấy lâu, không biết được những điều ấy. Có điều ta chưa được tỏ, dẫu chim hạc thể hiện cho sự tôn quý, cao sang, to lớn của đất trời. Dưới chân hạc là lưng rùa tứ linh. Nó có mang ý nghĩa gì hay chăng?

Sĩ Giao cầm quạt bước rảo quanh phòng, giọng nói lôi cuốn, những cử chỉ mềm mại theo giọng diễn ca:

- Hạc vốn tượng trưng tinh túy thanh cao, tượng trưng cho đất trời, quy là một trong tứ linh cao quý, là bá chủ nguồn nước. Hạc đứng chầu trên lưng rùa thể hiện cho sự hài hòa của trời đất âm dương. Hạc và rùa là đôi bạn thân thiết, rùa sống dưới nước, biết bò, hạc trên cạn biết bay. Lúc trời làm mưa lũ, ngập úng khắp vùng rộng lớn, hạc chẳng sống dưới nước mà rùa cõng trên lưng vượt úng ngập tới chỗ khô ráo. Ngược lại lúc trời hạn hán, rùa được hạc mang đến vùng nước trũng. Ấy là sự thủy chung, tương hỗ của những người bạn tốt trong lúc khó khăn hoạn nạn. Đất châu Phong như thể hạc trắng, đất châu thổ đồng bằng Giao Châu như thân rùa, khăng khít chẳng rời nhau.

Chung Đạt nghe đến đoạn Giao Châu như mình rùa dưới chân hạc mà giật mình, hẹm giọng:

- Bá Nam nói lời ấy là có ý gì?

Sĩ Giao đổi giọng, nói hết thảy bụng dạ:

- Bẩm Kiều đại nhân. Thân là phó thứ sử châu Phong, con trai Đại nhân đang ở đất Tống Bình gây ra tội tày trời. Dẫu chim hạc có đặt hướng nam, hay xoay về hướng đông cũng chẳng thể vãn nổi. Chi bằng đại nhân hãy bàn với thứ sử Thăng Triều động binh mã dẹp bỏ họ Lý tàn ác kia. Triều đình nhà Đường rối loạn đã lâu, không còn đủ sức mang nổi Giao Châu. Chiếm lại Giao Châu về tay người nam đấy là hợp ý dân, thuận ý trời. Nay tại hạ thấy trong xứ An Nam, duy chỉ có Phong Châu xứng làm chủ đất Lĩnh Nam. Thiếu chủ Chí Liệt nay cùng người Man chiếm được hai huyện Vũ Bình, Thái Bình phía tây, quân Tống Bình cố thủ mạn đông, đánh không chạy, dụ không ra. Nghe danh Thăng Triều đã lâu trọng tài, trượng nghĩa, thiếu chủ có ý muốn nương nhờ, mượn binh mã trừ giặc Tống Bình.

Chung Đạt chống tay đỡ đầu mà nghĩ nghĩ suy suy. Lang Mộc xin lui ra. Sĩ Giao thủ thỉ với Chung Đạt :

- Chung Đạt đại nhân nghĩ mà xem. Phong Châu họ Vương trai trưởng mang tâm bệnh đã lâu, trai thứ ăn chơi đọa đày, chẳng thể tiếp nối công lao của Thăng Triều. Giao châu về một mối, chẳng phải là họ Kiều hay sao. Mà cả khi động binh hăm dọa Tống Bình, dẫu có không đánh tới thì với chỉ riêng đất Phong Châu, đại nhân cũng đã chẳng thiếu một điều gì.

Sĩ Giao thở dài, đặt chiếc quạt mo xuống bàn. Ngậm một tách tra mà lắc đầu, nhìn Chung Đạt với ánh mắt không khỏi suy t.ư. Chung Đạt nghiêng nhìn Sĩ Giao, tay đập bàn quát mắng:

- Nhà anh chớ có nói điều phản phúc. Có biết nơi này là nơi nào hay chăng? Anh đang nói chuyện với ai. Với ai ? Với Phong Châu phó thứ sử. Chỉ cần anh bước ra ngoài phủ là sẵn sàng có cả nghìn người cầm đao giết anh.

Sĩ Giao phủi áo, ngồi xuống cạnh Chung Đạt, mặt mày không biến sắc, giọng nói không lay động nói với Chung Đạt :

- Lời nói mạo phạm mong đại nhân thứ tội. Vãn bối không có ý đó. Chỉ là trông thấy gia cảnh của đại nhân mà cảm thấy phiền lòng thay. Các nữ nhi trong nhà lại chẳng thể tiếp nối gia nghiệp của đại nhân. Kiều công tử lại đang trong tay họ Lý kia, chỉ e…

- Ta thách ba đời chúng nó. Đứa nào đụng đến móng tay của con trai ta đứa ấy đừng hòng thoát tội.

Sĩ Giao cười nhạt :

- Họ Lý là đô hộ sứ, cai quản cả vùng đất phía nam Ngũ Lĩnh. Ngài chỉ là phó thứ sử Phong Châu lệ thuộc vào quan đô hộ. Hắn chỉ hắt hơi thì không phải cả nghìn người đâu mà cả vạn người sẵn sàng thay chết cho hắn. Mà phải đâu nên nỗi, thiếu gia chỉ là chút ngà ngà say cùng đám người nho hủ của Vương Thăng Đức mới thành ra như thế. Xin đại nhân hãy xét cho kỹ. Chí Liệt thiếu chủ luôn sẵn sàng mang quân phò giúp đại nhân rửa mối nhục ấy hễ khi họ Lý kia trở mặt sát hại thiếu gia.

- Anh chớ có xàm ngôn, nói điều xúi hại. Vương Thăng Triều mà biết được chuyện ấy ông ta cũng chẳng nghe ta mà đánh Tống Bình đâu.

- Vãn bối có nghe binh quyền Thăng Triều giao phó cho viên tướng họ Hoa dưới trướng ngài đó sao.

Chung Đạt nghe mà dựng tóc gáy, mắt lịm hăm dọa Sĩ Giao :

- Nhà anh. Nhà anh làm sao mà biết được hết những chuyện của ta.

- Đại nhân chớ có nóng giận. Tất cả mọi chuyện Phong Châu, từ lớn tới nhỏ chủ công ta biết rõ mà chưa có dịp diện kiến với Vương thứ sử. Nay chuyện đã ra như vậy, chi bằng đại nhân hãy dẫn ta tới chỗ của Thăng Triều để dò ý của ông ta.

- Anh có tin một khắc sau, đầu anh cho hổ ăn hay không?

Sĩ Giao bước hiên ngang, tay đấm nhẹ lưng, vươn vai giãn cơ bắp, chàng nói :

- Vãn bối tới đây đã chẳng sợ rơi đầu. Nay nghe đại nhân nói lời như vậy thật chua xót thay. Phong Châu đất linh thiêng, anh hùng đầy rẫy, hùng cứ một phương, lại chỉ như đám ba ba rụt cổ. Nỡ lòng nào nhìn bọn gian ác Tống Bình tác oai tác quái, vơ vét của chúng dân, tàn sát người vô tội. Máu nào có chảy xuôi ra biển lớn mà chảy ngược về châu Phong, mà thủ lĩnh xứ ấy chẳng khác kẻ ngu muội. Thật là đau xót lắm.

Chung Đạt ngồi lặng lẽ, đăm chiêu. Sĩ Giao than khóc thảm thương :

- Trời cao có biết nỗi lòng cha mẹ. Cả cuộc đời vun vén cho con cho cái, vậy mà măng non mới bung bẹ, lá vừa đơm từ thân mềm yếu đã bị đào xới. Thân tre già mà đau đớn lắm thay.

Chung Đạt lấy tay mà bịt miệng Sĩ Giao đẩy chàng ra bức vách. Tay nắm chặt đấm mạnh vào bức vách vỡ vụn, máu rỉ nơi gò xương, gân xanh nổi trên khuôn mặt nhẵn nhụi mày râu, Chung Đạt thét lớn vào tai Sĩ Giao :

- Giết. Giết đám ác bá cường hào Tống Bình đó. Năm nào bọn chúng cũng vênh vênh váo váo moi tiền của của ta đến cả chục nghìn lạng bạc, thịt hổ, sừng hươu, gấm vóc sản vật biết bao nhiêu là thứ. Nay lại còn cả gan bắt con trai ta. Thật không coi ta ra gì nữa mà. Nhà anh đêm nay ngủ tại đây bàn chuyện với ta. Sớm ngày mai ta sẽ đưa anh tới gặp Thăng Triều.

Sĩ Giao sắc mặt không đổi nét, đôi mắt rạng rỡ mà không cười nói một lời. Chẳng chút nao núng, tay chàng đỡ lấy Chung Đạt ngồi xuống chiếc ghế đẩu, vội vàng xé manh áo trên người mà lau đi vết máu trên tay của Chung Đạt. Chàng xé lấy chiếc voan mỏng trong ngực áo bó lại vết thương. Sĩ Giao thủ thỉ vào tai Đạt:

- Lão đại nhân sao lại nóng tính như vậy. Giận đám ấy người chớ chút lên thân thể mà khiến thân cao quý này đau đớn. Đại nhân hãy hết sức bình tĩnh, bàn bạc với tướng quân Hoa Tài, rồi bẩm báo cho thứ sử Thăng Triều. Bấy giờ đường đường chính chính đánh Tống Bình, dẹp gian ác, cứu lấy hai vị công tử.

Chung Đạt cảm thấy lòng nhẹ nhõm, đầu óc thông suốt sai đám gia nhân nấu lấy niêu canh hổ để tầm bổ. Chung Đạt còn tự tay lấy rượu ngâm cao hổ, cao bạch mã giới thiệu cho Sĩ Giao, đón tiếp chàng hết sức thân tình. Canh ba, Hoa Tài được gọi vào phủ bàn với Chung Đạt cũng thuận ý nghe theo ngay mà không một lời phân trần.

Ngay trong đêm, Hoa Tài giả cho người báo với quân của Thi Nguyên rằng đang chuẩn bị đánh vào huyện Thái Bình, lấy lại huyện thành Vũ Bình. Thi Nguyên mừng báo tin cho Long Trạch cùng Lý Nguyên Hỷ. Hai người đó mừng rỡ, liền sai người cho thả hai công tử họ Vương và họ Kiều, viết một lá thư cảm tạ tấm thịnh tình của châu Phong với Tống Bình.

Hai vị công tử mặt nghênh ngang bước từ trong nhà lao đi ra ngoài, đoạn qua một phòng giam có tên mặt mũi đầm đìa máu, chân tay run run vì đói lả, đeo chiếc gông gỗ đặc màu đen nặng cỡ bảy mươi cân đang gật gù, miệng liên tục lảm nhảm những lời chửi bới. Có bóng người đi qua, tên ấy trừng trừng mở to hai con mắt, gào thét :

- Quân phản trắc, lòng lang dạ sói.

Hai vị công tử giật mình nhìn nhau, gật đầu mà nghĩ rằng chắc hắn nó nói kẻ khác, chứ chẳng phải mình. Cổ hắn hằn lên chữ tù nhân vừa in sắt nung đỏ còn dính dớp đầy máu, gân cổ tím ngắt do chiếc gông quá nặng đè lên cổ hắn. Mắt hắn liếc láo ra hiệu cho Thăng Đức, Thăng Đức nói không ra tiếng hỏi hắn :

- Anh nói với ta sao?

Thấy có viên cai ngục đến giục hai người đó đi mau ra, tên tù nhân giả vờ gật gù, rên rỉ. Tên cai ngục đi ra, Chung Tiềm nhìn vào hỏi khẽ :

- Nhà anh quen hai bọn ta sao.

Tên đó gật gật, mặt láo liêng nhìn xung quanh, gọi hai người lại gần. Hắn thì thào vào tai:

- Ta là Chí Trinh đây. Bình Nguyên đô đốc đây. Hai người mau mau nghĩ kế để cho ta thoát ra ngoài.

Chung Tiềm cười ê hê nói với Trinh :

- Là Dương Chí Trinh đúng không. Nhà anh không chịu theo phục Vương đại nhân, lại liên tục dẫn binh đi đánh châu Ung. Cái tội không chịu nghe lời. Bị bắt cũng đáng lắm.

Chí Trinh cáu gắt nhưng không dám nói to:

- Cái đồ công tử giấy bọn mày. Chúng mày không biết Vương thứ sử có ý làm phản nên mới giả vờ đoạn tuyệt với ta nhưng thực chất là ông ta sai ta đi đánh châu Ung đó. Sau đó lại cho đám người Man cướp Trường Châu, phá Tống Bình. Tất cả đều là một tay Thăng Triều đó dựng lên. Bọn mày, đúng bọn chẳng hiểu rõ sự tình, suốt ngày trà tửu, thi văn, sách giấy, nghiên mực làm sao mà biết được thứ đó. Mau mau báo cho lão già họ Vương đó tìm cách cứu ta. Sau này, thứ sử Thăng Triều thống lĩnh đất Lĩnh Nam các ngươi chẳng phải là…

Hai tay công tử nhìn Trinh rồi quay ra nhìn nhau cười lớn. Thăng Đức dặn dò Trinh mà nói như ra lệnh cho Chung Tiềm:

- Cha của Chung Tiềm là Chung Đạt có qua lại với bọn quan Tống Bình, năm nào cũng dâng cống châu báu, gấm vóc, sừng ngà nên cũng được bọn ấy nể mặt. Chi bằng Tiềm huynh nói khó với cha anh để ông ấy ra tay. Đến như hai chúng ta cũng được thả ra rồi đây.

Tiềm nghĩ hồi lâu thì tên cai ngục vào quát mắng :

- Hai anh kia. Còn không đi ra ngoài. Còn ở đó xì xào to nhỏ gì với gã đó.

Chung Tiềm giật mình nói lớn :

- Được rồi. Để ta trở vể nói cha ta.

Chí Trinh nằm ngửa ra phía sau, ánh mắt thất vọng tràn trề, anh thở hổn hển rồi rên rỉ theo từng cơn đau nhức trên người. Đám cai ngục nhìn hai tay công tử rì rầm cười :

- Thân còn chưa lo nổi, nói chi đến giúp tên phản tặc đó.

Thăng Đức mặt mũi lầm lỳ bước qua chỗ đám cai ngục đứng. Có tên sai nha dậm chân thật mạnh, Chung Tiềm giật mình ngã vào Đức. Thăng Đức đỡ Tiềm dậy, bước ra ngoài nhà lao. Có hai chiếc xe ngựa rèm đỏ giống hệt nhau chờ sẵn ở phía ngoài, Thăng Đức và Chung Tiềm mỗi người chọn lấy một xe hẹn gặp nhau ở ngã ba Tam tỉu.

Tiếng xe ngựa dần xa, bỗng trong ngục có tiếng kêu la ầm ĩ. Bọn sai nha chạy vào trong, chạy đến gian nhà lao chỗ Chí Trinh đang ngồi dựa vào tường đất phủ đầy rơm rạ, nền đất đen thối như chuồng lợn. Tay phạm nhân cùng gian với Chí Trinh là một trong những kẻ đi theo hai tay công tử Phong Châu co giật, mắt trắng giã, miệng méo xệch cấm khẩu, ú ớ vài câu rồi tay chân cứng đờ. Chí Trinh giả như đang ngủ, tên sai nha vút roi vào chỗ áo rách còn vương máu của Trinh. Trinh giật mình tỉnh dậy, gào thét :

- Tôi đang ngủ, các anh sao lại đánh tôi.

Tay sai nha râu dài từ cằm quá cổ, giọng khàn khàn mắng Trinh :

- Ngủ, ngủ cái con chết tiệt nhà mày. Mày vừa giết nó chết đúng không?

Mặt Trinh tỉnh bơ, miệng ngáp ngắn ngáp dài :

- Các anh nghĩ tôi giết hắn ta bằng cách nào. Chân đeo xích, tay mang gông cùm cổ đến cả tạ. Các anh thử đeo vào xem có đứng nổi không mà đánh với giết.

Tên nha đầu vút mạnh roi vào mặt Trinh :

- Mày lại còn dám cãi lời.

Trinh lê về phía tường đá lạnh lẽo, máu tiếp tục chảy trên khuôn mặt anh. Anh chỉ ngồi lặng yên, đầu tóc bù xù như tổ quạ, mắt liếc trộm nhìn đám sai nha kéo xác tên đó ra ngoài. Mùi thổi quyện với thứ mốc trắng dưới đất bốc lên khó chịu, ngột ngạt khiến Trinh không thể thở nổi, nôn ọe trước mặt bọn chúng. Bọn sai nha cho gọi người trong nha phủ tới khám xét, tay lang y lấy tay che vạt áo, miệng nói lớn:

- Mùi mốc khó chịu, lại thêm ẩm nồm khiến cho mùi hôi nồng nặc, dưới đất có một vài lá xanh, trong miệng phạm nhân lại ngậm cánh hoa màu hồng. Xét qua thì đây là độc dược của loại cây trúc đào. Đoạn thành Đại La mới bị phá, có rất nhiều loại cây này.

Viên sai nha báo lên cho quan huyện Từ Hãn Xương, Hãn Xương bẩm lại với Lý Nguyên Hỷ. Lúc đó, Long Trạch đang ở trong La Thành, bàn chuyện với Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ gọi tên bổ đầu Tiến Hậu đến hỏi:

- Các ngươi cho đám phạm nhân ăn gì? Nay có mấy người đã chết là cớ làm sao?

Tiến Hậu bẩm với Hỷ :

- Chúng tiểu nhân đã cho dò xét, điều tra kỹ lưỡng. Đám quản cơm tù không có kẻ nào nấu loại lá đó cho tù nhân ăn.

- Vậy sao lá lại có trong miệng của mấy tên đã chết. Ai phụ trách bữa cơm cho đám tù nhân?

- Bẩm quan lớn. Là lão Tô Hiền, thúc phụ của tiểu nhân.

- Vậy cho gọi lão ấy lên cho ta. Các ngươi đi tìm xem chiếc xe ngựa chở hai tên công tử châu Phong có chuyện gì xảy ra không. Báo lại ngay cho ta để giải quyết cho gọn gàng.

Long Trạch tấu lại với Nguyên Hỷ :

- Nếu hai tên đó đã chết chi bằng ta hãy đổ thừa lên cho cái tên Chí Trinh kia. Vì thế mà ta cũng chẳng phải lo đám người châu ấy thù ghét ta.

Nguyên Hỷ ưng lời, cho gọi lão Tô Hiền tới. Lão râu tóc phất phơ vài sợi, cúi lụp sụp dưới điện khấn vái Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ hỏi lão :

- Ta miễn lễ cho lão. Lão hãy đứng dậy trả lời cho ta. Mấy bữa nay, lão nấu cơm cho đám tù nhân, có thấy điều gì khác lạ hay không ?

Lão chống tay xuống đất, gồng mình bật người dậy. Giọng nói lão to, rõ ràng, lành mạch:

- Xưa nay nhà bếp, rau cỏ đều tinh tươm, đầy đủ. Mỗi suất cơm tù đều đủ hai hộc gạo, ba lạng rau xanh củ quả, năm phân muối. Bữa cơm cuối cùng của tử tù sẽ có ba lạng thịt lợn hoặc một cánh gà, và thêm một chén rượu. Lão đã quản ba mươi năm nay, không hơn kém một ti, một hốt.

Nguyên Hỷ mở lời khen lão :

- Lão Tô Hiền xưa nay tính toán chi ly, cẩn thận từng chén bữa. Quả nhiên không ai có thể làm tốt hơn lão. Nhưng có kẻ phạm nhân bị chết trong ngục do ăn rau của lão nấu cho. Lão có nghe hay không?

Lão đáp ngay :

- Lão chẳng thù, cũng không oán những kẻ tội ác đó. Phận làm cái điều phúc đức cuối cùng của đồng loại cho những kẻ ngục tù, há vì điều gì mà gây ra cái điều tàn ác không bằng súc vật đó.

- Lão có chắc chắn điều đó chứ?

- Lão sống đã bảy mươi mùa xuân hạ. Há lại không biết những thứ mình nấu ra, những điều mình đã làm. Nếu nói sai một lời, đại nhân cứ xử ta theo pháp trị.

Hãn Xương thầm thì với Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ quay ra nhìn lão một lượt, ánh mắt giương giương không chút sợ hãi, dáng người còng thấp nhưng không vì lời lẽ dọa nạt mà run rẩy. Nguyên Hỷ nhìn Long Trạch, Trạch hiểu ý cho lão lui. Có tên lính hớt hải chạy vào thành báo tin Chung Tiềm đã bị chết, cả người lẫn xe đều bị rơi xuống sông Tô Lịch. Thấy có ngựa giãy giụa trên sông, dân chài đi qua liền vớt được xác của Tiềm cùng tay phu xe. Còn tên Chung Đức không thấy đâu cả. Xóm chài cạnh đó nghe nói có hai người trên xe ngựa nên đã cho người lặn dưới đáy sông sâu mà tìm xác đã hơn nửa canh giờ mà chưa thấy xác viên công tử họ Vương đó.

Lý Nguyên Hỷ nghe tin, mặt mày tím ngắt, vò đầu bứt tai, đôi bàn tay xoa xoa vào nhau đỏ rực. Mồ hồi mướt mát, Nguyên Hỷ bồn chồn, đứng ngồi không yên gọi Thi Nguyên đến. Long Trạch phi ngựa tới trại lính, gọi Thi Nguyên đến bàn chuyện. Nguyên bấy giờ chưa hề biết tin, nghe Nguyên Hỷ kể lại mà ngã ngửa, thảng thốt hỏi :

- Đất châu Phong, người trọng nghĩa khí, xưa nay luôn tỏ rõ tấm lòng thuần phục các quan đô hộ, chưa có tâm dạ gây phản loạn. Nay hai viên công tử của hai họ Vương, Kiều tới Tống Bình, bị bắt nhốt, lại gặp nạn tử biệt. Lời ra lời vào không tránh khỏi thị phi. Chi bằng đô hộ Đại nhân hay viết một lá thư ngỏ. Kể cho hết thảy sự tình, tỏ ra tiếc thương, sai sứ đến xứ đó mà vỗ về bọn chúng. Đợi khi cơn tang thương qua đi, quan đô hộ hãy phong thêm chức tước, đất đai cho châu Phong để bọn chúng yên lòng, không đổi tâm dạ làm phản.

Triệu Hoằng biết tin châu Phong có kẻ xàm ngôn nhục mạ quan đô hộ, hai tên công tử họ Vương, Kiều bị chết ở bên sông, Hoằng cho là đấy cái kết đích đáng của kẻ cuồng ngôn phản loạn. Hoằng dẫn hai con trai Cam, Túc tới diện kiến quan đô hộ, vốn không ưa họ Vương châu Phong nên bàn với Nguyên Hỷ :

- Xưa Dương Thanh có dã tâm phản loạn, triều đình giết bỏ mà đe được các châu quận khác nên đất Lĩnh Nam mới yên. Nay có kẻ giữa phố huyện dám bôi nhọ quan đô hộ, dựng chuyện nói xấu các quan trên, dẫu có là con cái bậc vương giả cũng phải xử cho ra lẽ để làm gương. Nếu chúng có ý đồ khác thì hãy cứ thẳng tay mà trừng trị cho những kẻ khác thấy đó mà không dám làm điều trái đạo.

Ba cha con họ Triệu xin lui, Thi Nguyên ở phía ngoài nghe được liền buông lời trách móc :

- Ngày qua, tiểu nhân nhận được thư từ Hoa tướng quân mà lấy làm tin mừng. Nay không lẽ đại nhân nghe lời lão già tặc tử họ Triệu đó. Nhớ khi trước, lão theo họ Dương, lúc cùng đường phản trắc dẫn binh lính của họ Quế giết chết họ Dương. Đó chính là kẻ tiểu nhân. Mà khi đại nhân gặp khó, ba cha con hắn ở đâu, chúng chối lệnh đi đánh châu Lục để cho đám Nam Chiếu, Hoàn Vương chiếm được đất ấy. Chẳng phải tướng quân Trương Sang dùng kế đuổi được quân Nam Chiếu, quân Hoàn Vương thiếu tiếp tế nên mới lui, chúng mới dùng mưu hèn bắt được Chí Trinh, con trai phản tặc Dương Thanh. Quân phản chủ nay lại cả gan dám bàn chuyện trái nghịch như vậy. Chẳng phải là muốn đẩy đại nhân từ chỗ ánh sáng vào chỗ bóng tối hay sao.

Long Trạch đứng ở cửa phủ hồi lâu, thấy cha con họ Triệu đi ra cũng chạy vào bàn với Lý đô hộ :

- Tên Chí Trinh suốt từ ban trưa đến giờ liên tục gào thét trong nhà lao. Hắn luôn miệng chửi rủa đám người châu Phong là đám giặc cỏ, mưu đồ tiếm hết đất An Nam, tâm địa xấu xa trong cái vỏ bọc giả nhân giả nghĩa, đối đáp tử tế với quan lại Tống Bình. Mạt tướng tới nhà lao hỏi cho ra lẽ thì hắn nói rằng đất châu Phong nuôi binh đến hai vạn, chưa kể dân Man Hoàng ba vạn dân phòng đều hết thảy nghe lời châu Phong. Những vụ đánh châu Trường, phá Tống Bình của quân binh động khê đều có bàn tay của họ Vương. Thế cho nên châu Phong vẫn cứ bình an vô sự trong suốt thời gian mà quân Man cướp phá các châu huyện của ta, thi thoảng châu Phong mới động binh giả như tiếp viện cho quân Tống Bình nhưng thực ra chỉ là để chúng do thám thực lực của ta. Khi quân triều đình mạnh lên thì chúng lại lấy lý do tình hình đã ổn xin rút binh về. Những lời Trinh kể đó, cũng đáng để suy ngẫm. Chi bằng đại nhân hãy cứ gửi xác tên công tử đó tới châu Phong, dẫn theo Chí Trinh cùng các tướng họ Triệu, Giả Thanh, Giả Không, áo trắng, cờ rủ, một mặt để tỏ lòng tiếc thương với họ Kiều, họ Vương. Mặt khác cho chúng thấy việc bắt tên những tên phản loạn như Chí Trinh dễ như trở bàn tay. Nếu chúng cùng ruộc với Trinh, ắt sẽ có đề phòng, bấy giờ các dũng tướng của ta tùy cơ mà hành động. Nếu chúng thuận ý thì bớt được đi mối lo châu Phong, còn không thì ra tay hành xử để làm gương.

Hãn Xương nhìn Thi Nguyên, ánh mắt tỏ vẻ không hài lòng với lời của Trạch. Hãn Xương suy qua tính lại, chực nghĩ ra điều mà nãy giờ Xương toan định nói với Nguyên Hỷ mà chưa có dịp để báo lại. Xương dùng quạt phe phẩy, mấy chiếc râu lún phún phất phơ, tặc lưỡi, Xương nói :

- Xin đại nhân hãy xét cho kỹ. Nếu lời Long Trạch tướng quân nói về những lời khai của Chí Trinh là đúng. Châu Phong có hai vạn binh, lại chưa kể các châu cơ mi có đến ba vạn dân phòng thì đừng nói là một huyện Tống Bình mà cả mười một châu quận khác của đất An Nam này cũng chẳng thể sức nào mà chống lại được. Do đó chẳng phải đến lúc này, mà từ lúc Dương Thanh kia bị giết mà kỳ thực cũng không rõ hắn có chết hay không, họ Vương kia thừa sức để giúp đỡ hắn, đánh vào Tống Bình, các châu quận khác khi ấy còn chưa biết ngả theo ai. Chỉ cần thắng ở Tống Bình, họ Vương sẽ tự khắc làm bá chủ đất An Nam. Lại thêm nữa, Chí Trinh đóng quân ở phía bắc sông Lô đã năm lần bảy lượt bị tướng quân ta đóng ở ải Nà Lữ đánh lui, họ Vương dồn binh đuổi theo thì lại bị quân Nam Chiếu xua quân xuôi theo sông Lô, sông Thao đuổi quân châu Phong. Trinh vì thế mà mới căm phẫn quân châu Phong, không nghe lời dụ của họ Vương, liên tục cùng quân Nam Chiếu quấy nhiễu đất châu Ung. Nghe tin dân Man Hoàng chiếm được Trường Châu, Trinh nghĩ rằng có thể dựa thế núi sông hiểm trở, nước Nam Chiếu có thể mang binh đánh châu Lục, lại xui vua Nam Chiếu sai sứ đến Hoàn Vương mang chiến thuyền tới châu Lục chặn đánh thủy quân của ta từ châu Quảng, Quế, Quỳnh. Kế hoạch của hắn thất bại, quân đội triều đình từ Kinh Nam hai đạo đã tới châu Quảng, đánh lui quân Nam Chiếu ở đất Ung. Vua Nam Chiếu ra ý dụ rút quân khiến hắn lạc lõng đành đánh liều về tới phía bắc huyện Bình Đạo, hòng chiếm Loa Thành mà bị các tướng Triệu Gia bắt được. Hắn ở trong ngục, biết đám người họ Vương, họ Kiều nên nghĩ ra kế hòng khích tướng, chia rẽ mối hảo hữu giữa châu Phong với trị sở Tống Bình.

Lý Nguyên Gia ngẫm nghĩ hồi lâu, quay ra hỏi chuyện Hãn Xương về vụ án của hai viên công tử. Hãn Xương liền đáp :

- Chiều nay, sai nha báo với hạ quan rằng đã tìm suốt dọc sông Tô Lịch cả ba dặm nước đều không thấy xác của viên công tử họ Vương. Mà chỉ thấy chiếc lệnh bài đã bị rơi ở khóm cây trúc đào ở nền đất thành cũ Đại La. Có người đã nhìn thấy một chiếc xe ngựa đi về phía tây, sau đó lại nhìn thấy một chiếc giống hệt đi từ trong thành ra. Tên Chung Tiềm bị chết dưới lòng sông mà không rõ nguyên nhân. Đám dân chài kể lại chỉ nghe có tiếng xe ngựa đi bên bờ sông, ngựa bị lồng đã chạy thẳng xuống sông, tên phu xe bị sất sát mặt mày, máu đỏ cả đoạn sông, hắn chết do chảy máu quá nhiều. Còn tên Chung Tiềm xác đã tím tái chết từ trước, chứ không phải do ngạt nước. Lang y đã cho thăm khám thì thấy lá cây trúc đào trong miệng tên đó, một lượng rất lớn ở trong ruột hắn khiến hắn chết ngay tức khắc. Thời gian hắn chết trước khi lao xuống sông chừng nửa canh giờ, nghĩa là từ lúc hắn mới ra khỏi nhà lao. Tất cả những lá đó đều được nấu chín, không phải lá tươi, mà chúng chắc hẳn cũng biết được toàn thân thứ cây đó đều là chất cực độc nên không dại gì ăn sống.

Nguyên Gia càng nghe càng tỏ ra rối loạn. Nguyên Gia cho đám tướng lui ra, Nguyên Gia cảm thấy nhức đầu, liền sai người nấu cho một bát gà tần hạt sen để cho tâm trí tĩnh lặng. Nguyên Gia cho gọi hai đứa con gái áo yếm, tóc dài, da trắng mặt đứa nào đứa ấy có nét xinh xắn múa mấy điệu cho Nguyên Gia thưởng thức. Hãn Xương đứng ngoài hậu viên thấy sốt ruột mà xô đám lính ngã dúi dụi, chạy vào quỳ trước mặt Nguyên Gia mà bẩm :

- Là một bậc tuần lương, thần Tô Lịch đã dạy, có hết lòng hết sức ngay thẳng mới xứng đáng cho đặng. Mới có chút như vậy mà đại nhân đã thế này, làm phận tôi hèn sao có thể khoanh tay mà đứng nhìn được. Hai ả con gái còn không mau cút, đừng để ta lấy kiếm rạch mặt từng đứa một.

Nguyên Gia ngậm bát canh gà, phun thẳng vào mặt Xương. Nguyên Gia giận dữ :

- Ta là chủ, hay nhà ngươi là chủ. Chuyện đã rõ như ban ngày, cớ gì lại còn phải tìm đến ta để hỏi làm chi. Ngươi đúng thật chỉ là một tên nho hủ, không hơn. Chẳng lẽ ta còn phải hướng dẫn từ ly cho các ngươi.

Hãn Xương còn chưa hiểu lời Nguyên Gia nói, vẫn cố lán lại ra lệnh đuổi hai đứa con gái ra ngoài. Lý Nguyên Gia tức tối, đập vỡ niêu gà, gào thét :

- Bọn hai đứa còn chưa đi. Ý Hãn Xương đã nói, các ngươi lại còn không nghe.

Hai đứa con gái vội vàng lấy khăn áo lau chỗ niêu gà vừa đập vỡ tan rồi lúi húi chạy ra ngoài. Hãn Xương đóng vội cửa, giọng đầy sự tức giận :

- Chắc chắn có kẻ muốn chia rẽ Tống Bình với đám người châu Phong. Ngày này hai tuần trước, có một đám người đã uống rượu cùng hai tay công tử châu Phong đó, lại còn trà tửu ngâm thơ, thưởng ngoạn nguyệt hoa thâu đêm suốt sáng ở quán rượu phía nam thành Đại La cũ. Sau đó đám người kia mất tích mấy ngày, đến khi đại nhân cho cất đền thờ mở hội La Thành thì cùng lúc đó không phải hai tay công tử kia mà chính là đám người hôm trước cho phát tán những lời xằng bậy về đại nhân. Hai tay công tử đó vốn tính hênh hoang nên bị chúng kích động, uống rượu cười đùa, ngâm thơ chế nhạo tài đức của đại nhân. Khi Long Trạch bắt được giam vào nhà lao, thì ngày nào cũng có một kẻ mặc áo huyện nha xách cơm, rượu thịt cho đám công tử giấy đó, bọn sai nha nghĩ rằng đó là người của quan huyện sai đến do Kiều Chung Đạt có mối thân tình với hạ quan. Đến sáng ngày nay, vẫn là tên đó mang cơm rượu thịt vào cho hai tên công tử, sau đó lại có một tên khác cũng lúi húi đi theo, mặt mày đeo khăn chùm kín mít. Đám sai nha hỏi thì tên đó khai là nay có hai vị công tử được ra tù nên đi theo tên sai nha kia vừa là mang cơm, lại mang thêm chút quần áo, đồ đoàn sửa soạn cho hai vị công tử lên xe tránh khỏi thị phi khi về tới châu Phong. Đám sai nha không nghi ngờ bảo hắn bỏ khăn che mặt thì trông thấy mặt hắn ta gớm ghiếc như quỷ nên cho hắn đeo khăn đi vào. Rồi sau đó mọi chuyện như đại nhân đã biết. Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà ra như vậy, phải có một âm mưu đã được lên từ trước. Nếu chúng ta nghe lời họ Triệu, hay tướng quân Long Trạch có ý dụ Vương thứ sứ để xem lòng dạ ông ta thì hạ quan e là đã trúng kế bọn chúng.

Nguyên Gia tay miết hai ngón tay tạo tiếng kêu tanh tách, đưa chén nước lên sục miệng, ý hỏi Hãn Xương :

- Nếu như vậy, Từ huyện lệnh có chủ kiến nào hay không?

- Không thể dùng vũ lực để nói chuyện với Phong Châu, càng không thể để rơi vào bẫy của kẻ có tà mưu. Với mối thân tình từ trước, hạ quan xin đại nhân hãy cho Hãn Xương tới châu Phong một chuyến nói hết sự tình với Chung Đạt. Chung Đạt vốn là kẻ ham sống sợ chết, nhưng lại rất yêu quý vàng bạc, gái đẹp đặc biệt là hết lòng vì con trai. Ông ta biết Chung Tiềm đã chết chắc hẳn sẽ không thể ngồi yên. Nay đã như vậy, tại hạ sẽ nói khó với ông ta, vừa đe dọa vừa vỗ về ông ta. Dùng vàng bạc, đàn bà để ông ta nguôi cơn buồn giận, những cơn buồn đau. Tại hạ sẽ cho ông già Tô Hiền kia thí mạng, chúng ta không nên né tránh tội đã gây ra cho kẻ khác mà buộc nó lên đầu kẻ dưới. Dẫu có căm phẫn thì Chung Đạt vốn là kẻ biết điều nên đại nhân chớ lo. Việc này Hãn Xương xin nhận trách nhiệm hoàn toàn.

Nói đến đây, Nguyên Gia mới chịu nghe. Hãn Xương thầm vui trong bụng vì đã đi một nước cờ đúng đắn khiến cho Nguyên Gia nể phục. Nguyên Gia sai người mang nước ấm tới, lấy chiếc khăn lụa, sấp nước lau đi những miếng gà tần mà viên đô hộ vừa nhổ lên mặt Từ huyện lệnh. Chén rượu đầu môi, Nguyên Gia ôm lấy Hãn Xương mà khen hết lời:

- Lời Hãn Xương rõ một như trời sáng, không có điều chi ngoài sự ngay thẳng. Nếu không phải cái dạ trong sáng, cái tâm hướng về chủ tướng thì sẽ chẳng thể nói ra được những lời đó, sẽ không thể quát mắng bọn nô gia trong phủ đô hộ như với kẻ hầu hạ của mình như vậy.

Sáng ngày sau, Nguyên Gia phong ấn cho Hãn Xương mang theo tùy tùng năm mươi người. Không khăn trắng, vàng mã rầm rộ mà chỉ đi thành một đoàn người ngựa tức tốc tới Mê Linh. Người của Chung Đạt đón sẵn ở cửa Hát Môn, Chung Đạt đứng oai vệ phía tả là Hoa Tài tướng quân, phía hữu là Thăng Hùng mặt mày không nở một nụ cười. Nhìn thấy thân hữu từ xa, lại đón tiếp long trọng không khỏi khiến Hãn Xương cảm thấy hổ thẹn. Hãn Xương mặt buồn bã, giọng xót thương mà kể lại hết sự tình với Chung Đạt.

Chung Đạt lão tướng mặc giáp sắt, cầm cây kích múa tung mặt nước sông Cái. Xông thẳng về phía Từ huyện lệnh, Chung Đạt đôi dòng lệ tuôn, không ngăn nổi kích giương lên chém đứt đầu ngựa mà Hãn Xương đang cưỡi. Hãn Xương ngã bổ nhào xuống đất, lăn xuống mặt sông Cái. Chung Đạt rút gươm nhảy xuống ngựa dí vào cổ Hãn Xương, đôi gò má đỏ ửng dính đầy tóc bạc hoa râm với nước mắt. Kiều lão thảng thiết khóc than:

- Ta với anh thân tình bằng hữu, qua lại suốt chừng ấy năm. Nay con trai ta rơi vào lao lý, nói với anh giúp nhờ nó. Vậy mà lại khiến con trai ta ra nông nỗi như vậy. Anh còn mặt mũi mà đến đây gặp ta sao. Nhát kiếm này đoạn tuyệt hữu hảo, báo thù cho con trai ta.

Hãn Xương cúi mặt, rơi hai giọt lê mà mặt không có một chút xúc động. Mũi kiếm lia qua cổ, máu chảy dầm dề, Chung Đạt ném kiếm xuống đất, ôm lấy chiếc quan tài rát vàng lấp lánh. Ánh sáng mặt trời hắt xuống mặt sông chẳng thể bì với hào nhoáng của chiếc quan tài. Chung Đạt lật tấm ván thiên, nhìn con trai tím ngắt, cứng đờ nằm trong chiếc quan tài. Lột áo quan, Chung Đạt khóc thảm thiết, lấy dao khứa lên vai lên ngực. Thăng Hùng xuống ngựa giữ lấy tay lão phó thứ sử, giằng lấy dao mà ném xuống sông sâu. Chung Đạt khóc đến lả đi trong ánh nắng mặt trời chói chang. Thăng Hùng bấy giờ mới tiến lại gần hỏi Hãn Xương, Xương vội lau máu ở cổ, tay giữ lấy đũng quần ươn ướt, gióng run run đáp :

- Vương thứ công tử không rõ đã đi đâu. Có người nói công t.ư đi một chiếc xe ngựa khác nên không bị ngã xuống sông mà chết.

Nói tới đoạn ấy Chung Đạt như bị ngàn tên đâm, vạn con dao khứa vào tâm can. Lão gào lớn, xé manh giáp, dứt tóc, bứt tai, mặt mày như hổ bị trói, treo lên cành cây mà bị ngọn lửa thiêu đốt. Hãn Xương vỗ về, giọng điệu trầm lắng như xoa bớt những đau thương. Thăng Hùng cho người dìu lão phó thứ sử lên xe ngựa, mà người lão như bùn, không còn chút sức sống. Lão thất thần nhìn từ khe cửa xe ngựa, thấp thoáng chiếc quan tài vàng óng ánh. Ánh sáng chói lòa hắt vào khiến lão giật mình, gào thét như điên dại.

Vốn với tài ăn nói, Hãn Xương đã làm yên lòng Kiều Chung Đạt cùng viên thứ sử họ Vương. Họ Vương không trách cứ, tiếp đãi Hãn Xương chu đáo, lại cho người vào ra quán trọ hàng ngày để cho Hãn Xương bớt buồn chán. Ba ngày sau, đám ma theo lệ người châu Phong đã được chu toàn. Hãn Xương bấy giờ mới xin về.

Chung Đạt sau mấy ngày đau đớn, thể xác không màng, đầu óc mới tĩnh lại đến tìm gặp Hãn Xương. Tới dịch quán thì Xương đã rời đi, chỉ gặp Sĩ Giao đang đánh cờ uống rượu trong quán. Chung Đạt hỏi Sĩ Giao :

- Mấy ngày qua anh ở đâu. Anh nói xem người của Tống Bình đối xử với ta đâu đến nỗi như anh nói. Bọn họ vừa cảm thông, lại hết sức đau xót cùng ta. Trong lúc này, tấm thịnh tình của họ mới thật đáng bao năm qua ta đã đối xử không tệ bạc với chúng.

Sĩ Giao đập mạnh quân cờ khiến bàn cờ rung mạnh. Chung Đạt giật mình, quay lại nhìn thấy có một gã mặt mày kín mít như bưng. Chung Đạt hỏi Sĩ Giao người đó thì Sĩ Giao chỉ đáp rằng đó là một môn khách, đánh cờ mà không chịu bình tâm suy nghĩ nên mới tính ra nước cùng đường. Hoãn đi hoãn lại đến năm lượt, bảy lần. Vãn bối giận quá mà đập mạnh cờ xuống. Chắc khiến đại nhân giật mình.

- Ta nghe Sĩ Giao tính tình như nước sông mùa đông giá, lại không hay nóng tính quát nạt kẻ khác. Người ta chơi cờ với anh chỉ là cùng anh kiếm vui. Đâu có cần tỏ ra thái độ như vậy.

Sĩ Giao lấy quạt xua ván cờ. Sĩ Giao nói với anh chàng bưng mặt kít mít :

- Nể mặt Chung Đạt đại nhân. Ta với anh đánh ván khác. Vãn bối đã có điều gì khiến đại nhân chưa vừa lòng thì xin được rỏng tai lĩnh hội.

Sĩ Giao quay sang cúi chào Chung Đạt. Chung Đạt kể lại chuyện mà Hãn Xương đã nói với ông ta. Sĩ Giao chỉ cười mà đáp lễ. Sau một tuần nhang quán trọ thắp lên thần thổ địa, Chung Đạt mới sức nhớ đến bữa cúng cơm cho con trai đã khuất. Sĩ Giao chạy ra chuồng ngựa cùng Chung Đạt, con ngựa khi nãy còn lành lặn mà mới có chốc lát đã bị bung móng, khuỵu khớp gối. Sĩ Giao buông lời ngỏ ý cho Chung Đạt mượn chiếc xe ngựa để về cho kịp giờ cúng cơm. Chung Đạt cũng đành nhận lời.

Anh chàng bưng kín mặt đi ra phía chuồng ngựa, thấy Sĩ Giao lên xe ngựa cùng Chung Đạt liền gọi lại nói hỏi cớ gì lại lấy xe của anh ta đi. Sĩ Giao cười đáp rằng cho lão phó thứ sử mượn, thân làm phó thứ sử châu Phong chẳng nhẽ lại bất tín. Anh ta không chịu, Kiều Chung Đạt ngó ra cửa xe lấy nén bạc đưa cho anh ta. Anh ta cười hớn hở nhận ngay, lại tận tình đưa hai người đó tới phủ. Sĩ Giao to nhỏ với Chung Đạt suốt quãng đường đi. Chàng giả vờ say rượu, nằm ly bì thở phì phò bên cạnh Chung Đạt. Chung Đạt tới phủ liền mời Sĩ Giao vào trong phủ. Sĩ Giao lại nói khó cho anh chàng kia vào cùng :

- Không phải có ý gì. Mà vãn sinh cùng anh ta cũng rong ruổi suốt sáng đi tìm bệnh nhân mà không có ai nhờ cứu giúp. Dám cả gan xin tá túc ở nhà đại nhân một buổi trưa để tránh cái nắng đổ lửa đất Nam.

Chung Đạt hào sảng cho hai anh chàng vào ăn bữa trưa, lại uống rượu say khiến Chung Đạt không hài lòng. Sĩ Giao cơn say nói hết thảy những lời khiến Chung Đạt cảm thấy căm giận. Chàng lừ khừ trong hơi men nói:

- Đúng là đám người Tống Bình có cái thú là bệnh tật. Nuôi một con chó, bắt nó đẻ, lại đem chó con đi bán. Chó con được người ta nuôi lớn đem thịt thì mua về nấu với giềng, nước cơm thiu, dịch tôm thối thành món ngon. Đem xương đó ném cho chó mẹ ăn. Chó nhà ấy ăn xong quay ra ốm, biếng ăn bỏ bữa. Lại gọi người đến thịt, nấu với những thứ giềng, mẻ, mắm tôm ấy. Lại được thêm bữa ngon, rượu cay nồng thơm phức. Giết được chó con, lại có cớ để mà ăn thịt chó mẹ. Có cái thú ăn thịt chó, mà cũng thật lạ lắm thay. Ngon, sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Đại nhân có thấy đúng không.

Anh chàng kia nằm ôm bụng cười. Chung Đạt hơi men, trong miệng hả hơi vào mặt Sĩ Giao giả say:

- Chó mẹ cũng biết ăn thịt người đó. Ta cho các ngươi đến chỗ thịt người để ăn. Các ngươi có chịu không.

Sĩ Giao như uống phải thuốc tiên, đầu óc tỉnh như sáo. Sĩ Giao đóng cửa, kể lại cho Chung Đạt :

- Đây là Liêu Đức Thinh, anh ta là người Đỗ Động, rất am hiểu Tống Bình. Trong thời gian vừa rồi, anh ta đã ở trong La Thành, qua lại chỗ lão Tô Hiền để tìm hiểu chuyện ở Tống Bình. Thật trùng hợp vụ án ở La Thành, Đức Thinh đều thấy hết được sự tình.

Đức Thinh cởi bỏ khăn áo, hơi rượu nồng nặc :

- Chính tay Long Trạch da xanh mặt quỷ là người đã đến nhà lão Tô Hiền ép lão phải nấu lá trúc đào vào canh cho hai vị công tử ăn. Sau đó chính hắn đã tráo xe ngựa, con ngựa đó là giống chưa thuần, tên phu xe chở hai vị công tử đó chính là tay sai của Trạch. Còn tên phu xe mà đại nhân nhờ viên Từ huyện lệnh đã bị đánh cho bầm tím mặt mày, chân què không thể đi nổi. Trạch là người đầu tiên có mặt ở hiện trường, hắn tới giết chết tên phu xe, và thủ tiêu xác của hai vị công tử mà không hề ai biết. Xui xẻo cho hắn là có một người phụ nữ đã nhìn thấy một tên da xanh giết người trước khi xe ngựa lao xuống sông. Người phụ nữ đó là con gái của lão Tô Hiền. Hãn Xương biết được nên bưng bít, che giấu cho Trạch nên lấy cớ đó giết lão Tô Hiền trước mặt đại nhân như để trả mối thù của đại nhân, nhưng uẩn tình trong đó lão Tô Hiền là người bị lợi dụng. Nay cả ba người con gái của lão đều bị bắt giết, đám con rể lão cũng bị giáng làm dân thường, cấm trở về Tống Bình.

Sĩ Giao tiếp lời :

- Hãn Xương là một tên tráo trợn, đổi trắng thay đen. Hắn khóc mà mặt lạnh tanh, không xúc cảm. Hắn là một quân cờ mà Lý Nguyên Gia đang nắm trong tay. Chính vì thế mà Nguyên Gia đã che mắt được đại nhân, ngầm muốn dạy cho Phong Châu một bài học đích đáng, để tỏ rõ sự uy phong của chúng đối với kẻ khác. Lại thể hiện sự nhân từ bao dung để che mắt châu Phong. Quả nhiên, đám người Tống Bình không coi đại nhân và Vương thứ sử ra một thứ gì trong mắt chúng.

Chung Đạt nghe mà lòng căm phẫn lắm. Lão đốt cháy cả gian phủ phía Đông Nam, hò hét ầm ĩ suốt cả đêm. Đám người hầu kinh hãi, bỏ trốn đến hơn nửa. Bọn gia nhân đi tìm cũng kiếm cách trốn đi. Tiếng cháy rụi, sập sệ của gian phủ phía đó như sôi sục trong tâm can, ý chí của Chung Đạt. Ông nằm ngất lịm giữa sương đêm trong cơn khát máu sục sôi đòi báo thù cho con trai.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top