Con voi ầm ầm lao dọc theo con đường và hướng về phía bắc, thẳng tới một cánh đồng rộng. Nơi đó, người ta đang dựng lên các công sự.
Percy khạc bụi ra khỏi miệng. “Cái khỉ gì…?”
“Voi đấy,” Hazel giải thích.
“Cám ơn, anh biết đọc. Ý anh là con voi kia làm cái quỷ gì ở đây vậy, và tại sao nó mặc áo giáp chống đạn?”
“Tối nay sẽ có tập trận,” Hazel nói. “Con voi kia tên Hannibal. Nếu tụi em không cho nó tham gia, nó sẽ giận đấy.”
“Ra là thế, chúng ta không thể để một con voi buồn giận được.”
Hazel bật cười. Thật khó để tin rằng, chỉ vài phút trước, cô bé còn đầy vẻ u ám. Percy tự hỏi không biết lúc nãy cô định nói gì. Cô bé có một người anh, nhưng cô cũng từng nói rằng, cô sẽ chỉ có một mình nếu á thần được phân loại theo xuất thân thần thánh của họ.
Percy cảm thấy không thể hiểu được cô bé. Hazel trông thân thiện và tốt bụng, khá chính chắn cho một cô gái chưa đầy mười ba tuổi. Nhưng, dường như cô bé ẩn giấu trong lòng mình một nỗi buồn sâu thẳm, giống như cô luôn cảm thấy tội lỗi vì một điều gì đó.
Hazel chỉ về phía nam, bên kia sông. Mây đen đang tụ lại trên đỉnh đồi Đền Thờ. Những ánh chớp đỏ rực lấp lóe, phủ ánh sáng màu máu lên các đền đài trên đồi.
“Octavian vẫn còn làm việc,” Hazel nói. “Tốt nhất là chúng ta nên nhanh đến đó.”
*****
Trên đường, hai người đi ngang qua mấy gã chân-dê đang tán dóc ven đường.
“Hazel!” Một gã trong đám hét lên.
Gã toét miệng cười vui vẻ, chạy lóc cóc đến. Gã mặc chiếc áo sơmi Hawaii sờn nát và chẳng mặc quần gì cả, may mắn là còn đó một lớp lông dê dày màu nâu để che phủ. Mái tóc kiểu Phi to tròn như một trái banh bự tổ chảng của gã xóc nảy theo nhịp bước chân. Đôi mắt gã ẩn sau cặp kính tròn nhiều màu. Gã đang cầm một tấm bìa cạc-tông, bên trên ghi:
Nhận LÀM HÁT NÓI CÚT ĐI để có tiền denarii.
“Chào Don,” Hazel nói. “Xin lỗi, chúng tôi không có thời gian…”
“Ồ, Hay quá! Tuyệt!” Don nhảy nhót quanh hai người. “A, đây là anh chàng mới!” Gã cười toe toét với Percy. “Cậu cho tớ xin 3 đồng denarii để đi xe buýt nghen? Tớ để quên ví ở nhà rùi, mà tớ phải đến chỗ làm, và…”
“Don,” Hazel quở. “Các faun như anh không có ví, không việc làm, không nhà cửa. Và ở đây không có xe buýt.”
“Đúng dzị,” gã phấn khởi, “Nhưng hai người có tiền chứ?”
“Anh là faun, và tên Don à?” Percy hỏi.
“Ừ. Thì sao? “
“Không có gì.” Percy cố giữ vẻ tự nhiên. “Tại sao faun lại không có việc làm nhỉ? Không phải họ nên làm việc cho trại à? “
Don kên lên be be. “Faun làm việc cho trại á! Nực cười thật! “
“Faun là các linh thần phóng lãng, tự tại,” Hazel giải thích. “Họ tụ tập ở đây vì… ừm, vì nơi đây an toàn và có xin ăn được. Tụi em vẫn chấp nhận họ, nhưng…”
“Oh, Hazel quả là tuyệt vời,” Don nói. “Cô ấy rất tử tế! Trong khi những người khác đều ‘Don, xéo ngay!’ Còn cô ấy thì ‘Don, đi giùm đi mà!’. Tớ thích cô bé này lắm.”
Gã faun xem chừng vô hại, nhưng Percy vẫn thấy gã ta có vấn đề. Một ý nghĩ len lỏi trong cậu bảo rằng faun còn có thể làm được nhiều điều khác, chứ không chỉ là những kẻ vô gia cư và đi xin tiền như thế này.
Don chợt nhìn mặt đất trước mặt họ và há hốc mồm. “Đây rồi!”
Gã bước tới định lượm cái gì đó, nhưng Hazel hét lên, “Don, đừng!”
Cô bé vội đẩy gã ta ra và nhặt lên một vật nhỏ óng ánh. Percy kịp nhìn thoáng qua vật ấy trước khi Hazel nhét nó vào túi của cô. Cậu thề rằng nó là một viên kim cương.
“Thôi nào, Hazel,” Don phàn nàn. “Tớ có thể mua bánh đô-nếch suốt năm với nó đấy!”
“Don, Làm ơn,” Hazel nói. “Đi đi.”
Giọng cô bé run rẩy như thể cô vừa cứu sống Don khỏi cú tông của một con voi mặc giáp chống đạn vậy.
Gã faun thở dài. “Haizz, dù sao thì tớ cũng chẳng giận cô em đâu. Nhưng cũng phải nói rằng, cô em quả thật là hiện thân của may mắn. Cứ mỗi lần cô em đi qua…”
“Bye, Don,” Hazel nói nhanh. “Đi thôi, Percy.”
Cô bé gần như chạy, khiến Percy phải rảo bước nhanh mới bắt kịp.
“Chuyện gì vậy?” Percy hỏi. “Viên kim cương trên đường…”
“Xin anh,” Hazel nói. “Đừng hỏi.”
Trong suốt đoạn đường còn lại đến đồi Đền Thờ, hai người bước đi trong sự im lặng nặng nề. Một con đường đá quanh co dẫn qua đủ loại đền thờ khác nhau, từ những bệ thờ bé tí cho đến những ngôi đền mái vòm khổng lồ. Và Percy có cảm giác rằng những bức tượng của các vị thần dường như đang dõi mắt theo mình.
Hazel chỉ cho Percy thấy đền thờ Bellona. “Nữ thần Chiến Tranh,” cô nói. “Bà chính là mẹ của Reyna.” Sau đó, hai người đi ngang qua một hầm mộ khổng lồ màu đỏ được trang trí bằng những đầu lâu người xuyên trên các cọc sắt.
“Đừng nói là chúng ta sẽ vào đó nhé,” Percy nói.
Hazel lắc đầu. “Đó là đền thờ của Mars Ultor.”
“Mars… Ares, thần Chiến Tranh?”
“Cũng cùng là một vị thần thôi,” Hazel nói. “Ares là tên trong tiếng Hy Lạp, còn Ultor có nghĩa là ‘Người Báo Thù’. Ông ta là vị thần quan trọng thứ hai của người La Mã.”
Percy chẳng chút hứng khởi khi nghe điều đó. Chẳng hiểu vì cớ gì, chỉ cần nhìn vào kiến trúc xấu xí màu đỏ kia là cậu đã thấy trong người nóng nảy bực mình.
Cậu chỉ lên đỉnh đồi. Những đám mây xoay chuyển bên trên ngôi đền lớn nhất, một đại sảnh tròn với một vòng các cột trắng xung quanh đỡ lấy mái vòm. “Anh đoán đó là đền thờ của Zeus… ờ, ý anh là Jupiter, phải không? Và chúng ta đang tới đó, đúng không?”
“Đúng đấy.” Hazel, nghe có vẻ cáu kỉnh. “Octavian xem các điềm báo ở đó – Đền thờ của Jupiter Optimus Maximus.”
Percy phải suy nghĩ một chứt, nhưng rồi những chữ La-tinh cũng bật thành tiếng Anh. “Jupiter… Xuất Sắc nhất và Vĩ Đại nhất.”
“Chuẩn.”
“Thế danh hiệu của Neptune là gì?” Percy hỏi. “Ngầu nhất và Ấn Tượng nhất?”
“Ừm, cũng không hẳn.” Hazel khoát tay chỉ về một kiến trúc nhỏ màu xanh, lớn cỡ căn phòng chứa đồ lạc-xoong. Trên cửa có đóng một cây đinh ba phủ đầy mạng nhện.
Percy nhòm vào bên trong. Trên bệ thờ nhỏ có dĩa trái cây với ba quả táo khô và mốc.
Trái tim cậu thắt lại. “Nơi này đông khách viếng thăm thật!”
“Em rất tiếc, Percy,” Hazel. “Chỉ là… người La Mã luôn luôn sợ biển. Họ chỉ dùng thuyền khi họ buộc phải làm thế. Ngay cả trong thời hiện đại, việc có một người con của Neptune ở trong trại bao giờ cũng là một điềm gở. Lần cuối cùng một người như thế tham gia vào Quân Đoàn…
… Ơ, đó là vào năm 1906, khi Trại Jupiter còn nằm bên vịnh San Francisco. Lúc đó, có một trận động đất kinh hoàng…”
“Ý em là đứa con của Neptune đã gây ra việc đó?”
“Mọi người đều cho là như vậy,” Hazel nói với vẻ xin lỗi. “Dù sao đi nữa… Người La Mã kính sợ Neptune, nhưng họ chẳng yêu thích ông ta lắm.”
Percy nhìn chằm chằm vào đám mạng nhện phủ trên cây đinh ba. Quá tuyệt, cậu nghĩ. Ngay cả khi cậu được gia nhập Quân Đoàn, cậu sẽ chẳng bao giờ được mọi người yêu mến. Hy vọng lớn nhất của cậu lúc này là không làm những người bạn cùng trại sợ hãi. Và có lẽ, nếu cậu xử sự thật tốt, họ sẽ tặng cậu vài quả táo mốc.
Vẫn… đứng trước bệ thờ Neptune, Percy cảm thấy gì đó đang khuấy động trong lòng, cứ như những cơn sóng vỗ rì rầm lan tỏa trong huyết mạch mình vậy.
Cậu vớ lấy cái ba lô và moi ra từ đó mẩu thức ăn cuối cùng từ chuyến hành trình của mình, một chiếc bánh bagel khô cũ. Cũng chẳng nhiều nhặn gì, nhưng cậu đặt nó lên bệ thờ.
“Ừm… Thưa cha.” Cậu cảm thấy chút ngốc nghếch khi nói chuyện với một dĩa trái cây. “Nếu cha nghe thấy lời con, xin giúp con nhé! Giúp con có lại trí nhớ. Xin nói… nói cho con biết… con phải làm gì.”
Giọng cậu nghẹn ngào. Cậu không muốn mình bị quá xúc động, nhưng cậu đang kiệt sức và sợ hãi. Bị lạc lối đã quá lâu, cậu sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để có được một lời chỉ dẫn. Cậu muốn tìm một điều gì đó chắc chắn về cuộc đời mình, chứ không phải dựa vào những mảnh ký ức rời rạc khiếm khuyết.
Hazel đặt tay lên vai của cậu. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi mà. Anh đang ở đây, anh là đồng đội của tụi em.”
Percy cảm thấy ngượng nghịu khi nghe lời an ủi của Hazel, một cô bé lớp tám mà cậu chỉ vừa mới quen biết, tuy vậy cậu vẫn mừng vì có cô bé ở bên cạnh.
Phía trên họ, sấm động ầm ầm và những tia chớp đỏ thắp sáng cả ngọn đồi.
“Octavian gần xong việc rồi,” Hazel nói. “Chúng ta đi thôi.”
*****
So với căn phòng kho của Neptune, đền thờ thần Jupiter rõ ràng là “xuất sắc nhất và vĩ đại nhất.”
Nền đá cẩm thạch được chạm khắc cầu kỳ với các họa tiết mosaic và những dòng chữ La-tinh. Trên cao khoảng hai mươi mét là mái vòm lấp lánh ánh vàng. Cả ngôi đền rộng mở cho gió lùa vào.
Trung tâm ngôi đền là bệ thờ bằng đá cẩm thạch. Tại đấy, một gã trai vận áo choàng toga đang thực hiện một nghi lễ nào đó ngay phía trước pho tượng khổng lồ bằng vàng của chính quý ông Jupiter, vị thần Bầu Trời. Pho tượng khoác một chiếc áo choàng toga cỡ cực lớn XXXL và tay cầm một tia chớp.
“Nó không giống như vậy đâu!” Percy buột miệng thốt.
“Gì cơ?” Hazel hỏi.
“Cái tia chớp ấy,” Percy nói.
“Anh đang nói về cái gì thế?”
“Ờ…” Percy cau mày. Trong tích tắc, khi cậu vừa nghĩ mình nhớ được điều gì đó, thì nó bỗng biết mất. “Không có gì cả.”
Bên bệ thờ, gã trai giơ hai tay lên cao, lại có thêm nhiều ánh chớp đỏ rực lóe lên trên nền trời, tiếng sấm ì ầm làm rung chuyển cả ngôi đền. Và khi cậu ta hạ tay xuống, tiếng sấm liền chấm dứt. Những đám mây xám chuyển dần thành màu trắng và rồi tiêu tán đi.
Màn trình diễn khá ấn tượng, nhất là khi gã trai trông chẳng có gì đặc biệt. Cậu ta cao gầy, mái tóc màu rơm, và với áo thun rộng thùng thình, quần jean quá khổ cùng chiếc áo toga xộc xệch, trông anh chàng giống như con bù nhìn rơm khoác tấm ra trải giường.
“Anh ta đang làm gì thế?” Percy hỏi nhỏ.
Gã trai mặc toga xoay người lại. Cậu ta có nụ cười méo xệch và đôi mắt ánh lên một cái nhìn điên điên như thể cậu ta đang chơi một trò chơi cảm giác mạnh. Một tay cậu ta cầm dao, tay còn lại thì giữ một vật giống như… một con thú chết. Điều đó càng khiến anh chàng trông có vẻ điên rồ hơn.
“Percy,” Hazel giới thiệu, “đây là Octavian.”
“A, anh chàng dân Hy.” Octavian lên tiếng. “Thật thú vị làm sao.”
“Ừm, xin chào,” Percy nói. “Anh đang giết động vật đấy à?”
Octavian nhìn mớ bầy hầy trong tay mình rồi bật cười. “Ồ không, không đâu. Ngày xưa thì có đấy. Đã từng một thời, để biết được ý muốn của thần linh, những thầy bói như tôi phải ngâm cứu bộ lòng của các con vật – dê, gà… đại loại như thế. Còn ngày nay, chúng tôi dùng thứ này.”