Luận Truyện Đế Yến - Mặc Vũ

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Tình huyết lệ chốn thâm cung

Vị hoàng đế thứ 10 của triều nhà Minh là Hiếu Tông Chu Hựu Đường, thưở nhỏ từng trải qua đủ mọi nỗi gieo neo, trước khi được lập làm thái tử, phải liên tục sống ẩn dật ở chốn u cung, nhiều lần xuýt bị giết chết và đã trải qua quãng đời chìm nổi khiến ai thấy cũng phải cảm động. Vậy nhưng đoạn đời ấy, chính sử lại không nói rõ, cho đến nay, vẫn còn nhiều người chưa biết.

Cuộc ái ân bất hạnh

Năm Thành Hóa thứ hai đời Minh Hiến Tông, tức là anwm 1465, người Dao Quảng Tây không chịu nổi cách áp bức bóc lột của quan phủ, đã vùng lên khởi nghĩa. Triều đình đem quân đến trấn áp. Đàn ông người Dao phần lớn bị giết chết, đàn bà con gái bị áp giải lên kinh thành, có người thì được đưa vào cung cấm làm cung nữ. Trong đó có một người cung nữ họ Kỷ, lúc ấy mới có 14 tuổi. Nàng cung nữ này từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, đã từng được theo người cha làm văn thư của thổ ty và được đi học, cho nên mới được giao cho một công việc vào loại nhàn hạ thơm tho là coi sách ở trong kho sách của nội phủ.

Kỷ cung nữ tuy còn ít tuổi, nhưng bị mắc một mối họa lớn là cha mẹ anh em bị thảm sát, còn mình thì bị bắt vào cung, cho nên làm việc gì cũng cẩn thận, chắc chắn. Nàng ứng xử với mọi người cũng rất thận trọng, chưa bao giờ bước thừa một bước, nói quá một lời, suốt ngày lấy việc đọc đủ mọi thứ sách giữ trong nội phủ để giết hết quãng thời gian phải sống trong cung cấm.

Thóng một cái, đã bốn năm qua đi, Kỷ cung nữ không biết tự lúc nào đã bước sang xuân hơ hớ, nét mặt bỗng trở nên thanh tú ngời ngời như một đóa phù dung tắm sương, ai nhìn cũng ưa. Tuy nhiên, trong cái cung cấm đã vùi dập và làm mất đi tuổi xuân và tính mạng của hàng ngàn hàng vạn cung nữ này, một cung nữ bình thường, dù có xinh đẹp đến đâu, cũng phỏng có ích gì? Huống chi Kỷ cung nữ là người xưa nay vốn chẳng bao giờ khát khao được nhà vua “yêu chiều”. Nàng chỉ mong sao được ở đây, sống bình lặng như nước chảy qua cầu cho trọn kiếp là đủ lắm rồi!

Một ngày vào năm Thành Hóa thứ 6, Minh Hiến Tông tự dưng nổi hứng lên, vào thăm kho tàng thư ở nội phủ, lệnh cho thái giám tìm cho mình cuốn sách nhan đề là “Đại học diễn nghĩa”. Khốn nỗi viên thái giám này chỉ biết hết ăn lại uống, chứ có hiểu đâu là “Đại học diễn nghĩa” nọ kia, nay thấy nhà vua hỏi thế, sợ cuống cuồng lên. Trong lúc bối rối, hắn chợt nhớ tới Kỷ cung nữ hàng này vẫn thích đọc hết sách này sách khác, dứt khoát nàng sẽ biết về cuốn sách “Đại học diễn nghĩa” đó, bèn đưa mắt tỏ ý cầu cứu Kỷ cung nữ nãy giờ vẫn đứng hầu một bên để tiếp giá. Nhìn dáng vẻ lúng túng và quẫn bách của viên thái giám, Kỷ cung nữ không sao nín nổi, bật cười lên thành tiếng. Thành Hóa nghe thấy tiếng cười, vội đưa mắt nhìn theo. Kỷ cung nữ thấy nhà vua nhìn mình, chợt hiểu ra mình vừa thất lễ, sợ tái mặt đi, vội cúi đầu lặng im. Tuy nhiên nét cười vừa thoáng hiện rồi lại mất đi, chỉ còn vương lại chút ít trên khuôn mặt người cung nữ đã bị Thành Hóa nắm bắt được. Trong chốn hoàng cung thâm nghiêm uy nghi thế này, tuy Thành Hóa có tới hàng ba ngàn cung tần mỹ nữ, thế nhưng những con người xinh đẹp ấy có thấy mình cũng sợ như thấy hổ, run rẩy khép nép, làm gì có ai dám mở miệng cười? Nụ cười rạng rõ như hoa xuân trên mặt Kỷ cung nữ lúc này chẳng khác gì bàn tay mềm mại dịu dàng, đã lướt lên sợi tơ lòng đang rung lên của nhà vua.

Thành Hóa vẫy tay, đám thái giám và cung nữ theo hầu biết ý, lục tục lui ra hết, chỉ một mình Kỷ cung nữ ở lại “chờ ngự”. Trống ngực của cung nữ đập rộn lên, nàng dự cảm thấy như có gì hệ trọng sắp xảy ra với mình, một nỗi hoảng sợ rất khó tả như một bóng đen bao la trùm lấy nàng, không làm chủ được hành động của mình, nàng bất giác quì sụp xuống. Thành Hóa khép cửa phòng lại, háo hức vội vàng ôm Kỷ cung nữ ngoan ngoãn như một con cừu non lọt gọn vào lòng mình...

Ân ái xong rồi, Thành Hóa mới kịp biết họ tên của Kỷ cung nữ, đang định hỏi kỹ thêm về gia thế của nàng, bỗng bên ngoài, thái giám t.ư lễ Hoài Ân lớn tiếng tâu vào:

-Nô tài khởi bẩm đấng vạn tuế, Vạn quí phi mời đấng vạn tuế mau mau về cung ạ!

Thành Hóa nghe tâu thế, thần sắc chợt trở nên rất tồi tệ, uể oải lẩm bẩm một mình: “Lại con hổ cái này...” rồi vội vàng đứng dậy, sửa sang lại mũ áo cân đai, ra chiều quyến luyến ngoái nhìn Kỷ cung nữ, rồi vội vàng bước ra khỏi đấy. Hoài Ân vội vàng lẻn ngay vào, tay cắp một cuốn sổ màu vàng mơ, hỏi Kỷ cung nữ về những gì vừa mới xảy ra, rồi ghi chép hết vào trong sổ. Cuốn sổ này không phải là loại tầm thường, có cái tên cũng khác thường gọi là “Khởi cư lục” (ghi chép nơi ăn ở) để viên thái giám t.ư lễ chuyên môn ghi chép mọi hoạt động trong cung của nhà vua, nhất là thời gian, địa điểm mà nhà vua có ân ái với phi tần nào đó, lại càng phải ghi rõ ràng. Hoài Ân ghi xong, nhìn Kỷ cung nữ với ánh mắt thương cảm, rồi thở dài ra khỏi phòng. Kỷ cung nữ lo sợ đến đờ đẫn cả người ra, câu nói lấp lửng của Thành Hóa trước lúc bỏ đi và hơi thở dài bất lực của Hoài Ân, khiến cho nàng không rét mà run.
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Ả quí phi ghen tuông.

Vạn quí phi, người mà Thành Hóa gọi là con hổ cái là con người như thế nào? Một vị hoàng đế ở ngôi vị tôn kính như thế, làm sao lại sợ ả như sợ hổ vậy?

Thành Hóa được lập làm thái tử khi mới vừa hai tuổi, nhà vua lúc ấy là Minh Anh Tông đã chọn một cung nữ lớn tuổi đến chăm lo săn sóc. Người cung nữ đó tên là Vạn Trinh Nhi, tức là Vạn Quí phi sau này. Vạn quí phi vốn tính giảo hoạt ranh ma, biết tính toán xa gần, có dụng ý ngay vào con người thái tử, việc gì cũng lừa đón được ý muốn của thái tử, chiều chuộng đến mức thái tử muốn gì được nấy, còn với ả thì thái tử lại ngoan ngoãn bảo sao nghe vậy. Kể cũng lạ, vị thái tử nhỏ hơn Vạn Trinh Nhi mười mấy tuổi, thế mà ả nuôi nấng chiều chuộng thế nào, đến sau này lớn lên lại nảy nở một thứ tình cảm rất lạ, rất đặc biệt như con quấn mẹ, không lúc nào rời ả, nhưng lại rất ợ ả, cho nên bị ả quản chế rất chặt.

Sau khi nhà vua băng hà, tiểu thái tử mới 16 tuổi được lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Thành Hóa. Ngay lúc ấy nhà vua kế vị đã phong Vạn Trinh Nhi là quí phi, cho ở cung Chiêu đức, nắm toàn quyền ở hậu cung. Thành Hóa còn nhỏ tuổi chẳng biết gì, với đại sự của triều chính không hề có một chút gì là chủ kiến, việc gì cũng để về cung hỏi Vạn quí phi. Thế nên Vạn quí phi bắt đầu được thể can dự vào công việc triều chính, tự phong quan cao chức trọng cho anh em mình là Vạn Thông và Vạn Đạt, hai anh em họ đã khống chế hết mọi việc trong triều. Có được quyền lớn trong tay rồi, đương nhiên là Vạn quí phi muốn trở thành hoàng hậu một cách danh chính ngôn thuận. Hiềm một nỗi, ngôi hoàng hậu không phải vị hoàng đế nhỏ tuổi ấy có thể phong cho được, mà phải được Chu thái hậu “phê chuẩn”. Chu thái hậu đã nhìn thấu tim đen của Vạn quí phi, không chịu mắc vào vòng cạm bẫy của ả, mà lại lập người khác là Ngô phi làm hoàng hậu để kiềm chế Vạn quí phi. Vạn quí phi tức nghiến răng nghiến lợi, lấy cớ cãi nhau với Ngô hoàng hậu, sau đó vò rối tóc trên đầu mình ra, chạy đến xõa tóc trước mặt Thành Hóa. Ngay lập tức, Thành Hóa đã khóc lóc kể lể với Chu thái hậu, đòi phế Ngô hoàng hậu đi. Không còn cách nào hơn, Chu thái hậu đành phải phế Ngô hoàng hậu đi, nhưng vẫn không lập Vạn quí phi làm hoàng hậu, tức mình cứ để trống ngôi hoàng hậu ra đó, nói rằng ai sinh con trai, thì lập người lấy làm hoàng hậu.

Không còn cách nào hơn, Vạn quí phi chỉ còn một cách là đặt hết hy vọng vào cái bụng của mình. Lúc đó Thành Hóa đã ở tuổi trưởng thành, Vạn quí phi chỉ cho nhà vua được ngủ lại cung Chiêu đức của mình, không cho một phi tần nào được ngủ chung với nhà vua. Vạn quí phi đã lũng đoạn cả nhà vua, hai năm sau, gần 40 tuổi ả mới quả nhiên được toại nguyện sinh được một con trai giống rồng. Ả được mở mày, sẵn sàng để làm đại lễ sắc phong hoàng hậu, thế nhưng mụn con rồng kia cũng chẳng được mấy hơi, chưa đầy tháng đã phải về chầu trời. Từ đó về sau, Vạn quí phi không mang thai được nữa, xem ra nguồn hy vọng được làm hoàng hậu càng trở nên mịt mờ xa vời, trong khi đó trong tay Thành Hóa lúc này cơ man nào là phi tần trong lục cung, làm gì chẳng có chuyện ái ân ngang tắt. Vạn quí phi nổi máu ghen, ngầm ra lệnh cho thái giám, Đông xưởng hiệu úy Lương Phương tâm phúc của mình theo dõi mỗi cử động của Thành Hóa. Cứ phát hiện thấy một phi tần nào được nhà vua yêu mến và chung chăn gối, là thế nào Vạn quí phi cũng tìm cách hãm hại đến chết mới thôi. Thành Hóa thấy những phi tần từ chung chăn gối với mình cứ lần lượt không chết mất mạng thì cũng sảy thai, trụy thai, trong bụng thừa biết tại sao. Nhưng vốn tính nhu nhược, cả trong triều lẫn trong cung đều không có thực quyền, đành ấm ức mà nuốt hận, giả câm giả điếc cho qua.

Lại nói chuyện Thành Hóa sau cuộc mây mưa với Kỷ cung nữ, thì đã có viên thái giám tâm phúc của Vạn quí phi tâu báo ngay chuyện này. Vạn quí phi chợt nổi cơn tam bành lên, lệnh cho thái giám t.ư lễ Hoài Ân gọi Thành Hóa tới, chỉ tay vào trán nhà vua nghiến răng ca cẩm và hỏi dồn:

- Nói ngay! Là một bậc chí tôn trong thiên hạ, mà lại đi thậm thụt vụng trộm với hạng nô tì như nó ở trong kho sách ấy làm gì mà lâu thế?

Thành Hóa không làm sao mà Vạn quí phi lại thần thông quảng đại, việc gì của mình cũng biết như thế, sợ đến trợn tròn cả mắt lên, ấp úng mãi mới nói được:

- Trẫm, trẫm có chuyện gì cẩu thả với con nô tì ấy đâu, trẫm chỉ muốn vào tìm một cuốn sách, mà con nô tì ấy thì tìm mãi...
Vạn quí phi đời nào chịu nghe như vậy, cứ vặn đến cùng. Hoài Ân đứng gần đó không nỡ nhìn mãi vẻ lúng túng của nhà vua, vội can đảm bước lên, hai tay nâng cuốn sổ ghi chép của mình lên và nói:

- Bẩm Vạn nương nương, nô tì luôn đi theo bệ hạ, nhất cử nhất động của người đều được ghi vào cuốn sổ này ạ.
Vạn quí phi “hữ” lên một tiếng, lật xem cuốn sổ, thấy một hàng chữ mới vừa ráo mực: “Ngày canh thân tháng nhâm tuất năm Thành Hóa thứ 6, thượng giá kho sách nội phủ, cung nữ họ Kỷ tìm sách cho Hoàng thượng”. Vạn quí phi xem xong mới chớp mắt im không nói gì nữa. Thành Hóa rốt cuộc được giải vây, đưa mắt thầm cảm ơn Hoài Ân, thái giám Hoài Ân cũng bất giác thấy mắt mình ướt lệ.

Thành Hóa không làm sao quên được Kỷ cung nữ dịu dàng xinh đẹp ở kho sách, mấy ngày sau lại kiếm cớ, đưa cả thái giám Hoài Ân tới kho sách lần nữa. Không ngờ kho sách lúc này đã thay cung nữ, không tìm ra viết tích Kỷ cung nữ ở đâu nữa, rồi cũng chẳng ai biết số phận nàng sau đó ra sao? Thành Hóa thầm đoán, có khi Kỷ cung nữ đã bị Vạn quí phi ra tay hãm hại rồi cũng nên, bất giác nét mặt trở nên u buồn ảm đạm, ngẩn ngơ như mất cái gì...
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
“An Lạc Đường” bất an.

Thành Hóa không thể nào ngờ được rằng, lúc ấy Kỷ cung nữ đang chịu mọi điều khổ cực ở “An Lạc đường”. Hôm ấy khi hỏi Thành Hóa như vậy xong, Vạn quí phi vẫn còn chưa hết nghi ngờ, ngay sau đó đã lệnh cho Lương Phương đuổi Kỷ cung nữ ra khỏi kho sách nội phủ, cho xuống đun bếp ở nhà bếp của An Lạc đường. Cái gọi là An Lạc đường, thực ra chỉ là một dãy nhà ở chật hẹp thấp lụp xụp ở phía tây của Tây đại nội, trong đó đường đi lối lại khúc khuỷu u ám, không khí ẩm thấp ô uế. Đây là nơi cầm cố những thái giám, cung nữ bị mắt tội, cho nên mức đãi ngộ ở đây cực kỳ tồi tệ, cơm ăn chỉ đủ no bụng mà thôi, già nua ốm yếu có chết ở đây cũng chẳng ai đoái hoài. Đặt chân vào đến An Lạc đường, rất ít người có thể sống được mà về.

Từ khi bị đầy đọa vào đây, mọi mong ước của Kỷ cung nữ đều tắt ngấm, chỉ mong sao mình mắc bệnh gì đó thật nặng, để được ra khỏi cái nơi sống người chẳng ra người ma chẳng ra ma này. Chẳng bao lâu, Kỷ cung nữ quả nhiên ốm thật, hết nôn, lại ọe, rồi ói ra nước chua... Người nàng dần dần gầy yếu đến mức gió thổi cũng ngã. Nào ngờ chỉ một thời gian sau, Kỷ cung nữ lại hết “ốm”, lúc nào cũng thấy đói, ngay cả thứ bánh hấp cứng đến chó cũng không thèm ăn nàng cũng có thể ngấu nghiến ăn ngon lành. Đến lúc ấy nàng mới biết, mình đã mang thai.

Bản năng của người mẹ khiến Kỷ cung nữ dám quyết một điều là sẽ sinh đứa con vô tội này ra. Ngày tháng qua đi, bụng nàng mỗi ngày mỗi to ra, Kỷ cung nữ đành tìm mặc vào mình bộ đồ cung nữ thật rộng, suốt ngày ngồi một chỗ ở trước lò đun bếp. Thế nhưng Kỷ cung nữ đâu biết có một đôi mắt độc ác luôn chằm chằm dõi theo nàng.

Ở An Lạc đường, có một thái giám từng hiển hách một thời tên là Lưu Vĩnh, hắn vốn là người hầu hạ thân cận bên mình Vạn quí phi. Nhưng từ sau khi lp câu kết với Vạn quí phi nên hắn bị hắt hủi, tống đến An Lạc đường này ngồi chơi xơi nước. Lưu Vĩnh đương nhiên là không cam chịu, suốt ngày tính toán tìm cách để lại được trở về đại nội. Đến khi Kỷ cung nữ bị đẩy xuống An Lạc đường, hắn liền nhắm ngay vào nàng, mặt dạn mày dày ngầm cùng với nàng kết bạn “cùng mâm”. Gọi là bạn cùng mâm, nghĩa là sự chung sống giữa thái giám với cung nữ được nhà vua cho phép để săn sóc lẫn nhau trong nội cung thời nhà Minh. Kỷ cung nữ rất kinh tởm Lưu Vĩnh mõm chuột má khỉ này, đã lập tức vung tay vả vào mặt hắn. Lưu Vĩnh vẫn chưa chịu thôi, tiếp tục bám nhằng nhẵng. Không làm thế nào hơn, Kỷ cung nữ liền đưa chuyện này ra nói với Trương Mẫn là viên thái giám già chủ quản mọi việc ở An Lạc đường. Trương Mẫn rất thẳng thắn, vừa nghe thấy thế đã nổi nóng, theo qui định trong cung, đã vả Lưu Vĩnh đủ 30 cái. Lưu Vĩnh ăn trộm gà chẳng được lại bị ăn đòn, bỗng quay ra căm ghét Kỷ cung nữ, càng theo dõi nàng chặt chẽ hơn. Biểu hiện thai nghén trên mình Kỷ cung nữ không thể thoát khỏi mắt hắn, Lưu Vĩnh hí hửng cho rằng thời cơ đã đến, vui như mở cờ trong bụng, te tái đến cung Chiêu đức, mật báo với Vạn quí phi.

Vạn quí phi vừa nghe nói thế, tức giận muốn nổ mắt ra, cho gọi lp đến mắng té tát cho một trận phủ đầu. lp thấy đối thủ là tên oan gia Lưu Vĩnh dương dương tự đắc nhìn mình, mồ hôi hột trên trán bất giác tuôn ra lã chã, cố làm ra vẻ cứng cỏi, tìm đủ mọi cách để biện bạch. Vạn quí phi liền bảo một cung nữ ở bên cạnh:

- Hỷ Hồng, ngươi hãy đến ngay An Lạc cung một chuyến xem sao, tra xét xem con giặc cái họ Kỷ kia xem có phải là nó đã có mang hay không?

Hỷ Hồng là một cung nữ xuất thân con nhà làm thuốc, rất rành về y lý phụ khoa, ngay lập tức vâng lệnh đi thẳng tới An Lạc đường.

Chỉ một lát sau, Hỷ Hồng đã quay trở lại, theo sau còn có cả Trương Mẫn. Hỷ Hồng thì thầm một hồi với Vạn quí phi, chợt thấy Vạn quí phi quay sang phía Lưu Vĩnh, mặt sa sầm lại, lớn tiếng quát mắng:

- Khốn khiếp! Ngươi lại dám lừa cả ta nữa! Con ranh kia nó bị bệnh báng sưng bụng ra, tại sao ngươi dám bảo là nó có chửa?
Lưu Vĩnh sợ quá cứ há hốc mãi miệng ra, đang định phân bua, Trương Mẫn đã bước lên, quì tâu:

- Bẩm Vạn nương nương, Lưu Vĩnh muốn kéo Kỷ cung nữ làm “bạn cùng mâm”, Kỷ cung nữ không ưng, lại còn đánh cho một trận, cho nên hắn sinh tức giận mà thâm thù, đi vu oan làm hại Kỷ cung nữ, mong Vạn nương nương minh xét ạ.

Tình thế xoay chuyển đột ngột, lp cuối cùng đã bình tĩnh lại, bước lên trước một bước, tức giận vả thật mạnh vào miệng Lưu Vĩnh một cái. Lưu Vĩnh đau điếng người mà không dám kêu, cũng không dám nói năng gì. Sau cùng Vạn quí phi còn sai lp lôi Lưu Vĩnh ra đánh 50 roi, còn phạt hắn ra khỏi An Lạc đường, làm một tên tuần đêm đi gõ mõ cầm canh. Đến đây, cơn phong ba mới chỉ là tạm vơi đi.

Tất cả những chuyện ấy, rốt cuộc là thế nào? Thì ra Hỷ Hồng vốn là cung nữ hiền lành tốt bụng, vừa bắt mạch cho Kỷ cung nữ đã biết ngay nàng đã mang thai không phải nghi ngờ gì nữa. Kỷ cung nữ thấy không còn đường nào thoát nạn, bất giác tràn trề nước mắt, từ từ quỳ xuống trước mặt Hỷ Hồng. Nhìn đôi mắt thê thảm đáng thương như mắt một con nai kinh hoàng, Hỷ Hồng bỗng thấy mềm lòng, do dự mãi, cuối cùng đã nói dối Vạn quí phi rằng Kỷ cung nữ bị báng nên bụng to, cốt giữ được tính mạng của nàng đã rồi nói chuyện sau. Sau khi bàn bạc với Trương Mẫn, hai người cùng nhau đến cung Chiêu đức, để biện hộ cho Kỷ cung nữ... Xong việc, Hỷ Hồng đã len lén đưa cho Trương Mẫn một gói thuốc, rồi dặn đi dặn lại:

- Ông Trương ơi! Đây là thuốc trụy thai, dù thế nào cũng không thể để Kỷ cung nữ sinh cái đứa trẻ mang tai rước họa ấy ra đời được. Nếu không, cả ông, cả tôi lẫn Kỷ cung nữ đều sẽ chết không có đất mà chôn đâu, nhớ đấy!

Trương Mẫn chìa bàn tay run rẩy ra cầm lấy gói thuốc.
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Cung tối không ai biết.

Mùa hè năm Thành Hóa thứ 7, một đêm cuồng phong gào thét, gió mưa như trút, trong một gian nhà chật chội, nhỏ hẹp tối tăm ở An Lạc đường, cùng với tiếng gió mưa dữ dội, một sinh linh cất lên tiếng khóc chào đời. Kỷ cung nữ một mình nghiến răng chịu đựng nỗi đớn đau khi sinh đẻ, ghé răng nghiến đứt cuống nhau cho đứa trẻ, ôm lấy đứa trẻ mới lọt lòng luôn khóc thét từng cơn, nàng như đứt từng khúc ruột. Qua gần mười tháng sống trong lo âu khiếp sợ, nàng coi như đã bình yên sinh ra được đứa con vốn không được phép ra đời. Sinh con ra đã khó, nuôi con lại càng khó hơn. Tai mắt của Vạn quí phi khắp tam cung lục viện đâu đâu cũng có, chỉ cần hé ra một chút, Vạn quí phi sẽ dứt khoát không đời nào để cho mình nuôi lớn đứa trẻ này. Vậy thì làm thế nào? Làm thế nào bây giờ? Kỷ cung nữ thầm tự hỏi mình hết lần ấy đến lần khác, nhưng trả lời nàng trước sau vẫn chỉ là tiếng gió mưa rền rĩ thét gào.

Sấm nổ vang trời, gió bão dập vào cửa kêu lên ken két, lại một ánh chớp rạch ngang trời, căn phòng chợt sáng bừng lên trong nháy mắt. Cùng lúc ấy, một bóng đen đã rút phăng cái then cửa đi. Kỷ cung nữ vô cùng sợ hãi, theo bản năng ôm chặt đứa con bé bỏng vào lòng. Một tiếng soạt vang lên, người bước vào đã đánh đá lấy lửa, châm vào ngọn đèn dầu trên thành cửa sổ. Đến lúc này, Kỷ cung nữ mới nhận ra người đó là Trương Mẫn, nên ít nhiều đã yên tâm trở lại.

Sau việc Lưu Vĩnh đi mật báo với Vạn quí phi, Kỷ cung nữ nhận ra rằng Trương Mẫn rõ ràng rất quan tâm đến nàng, không để nàng phải đun bếp, cũng không sai phái nàng việc gì nữa, ngoài ra còn dành cho nàng một gian nhà nhỏ, ở riêng một mình, Kỷ cung nữ thầm cảm nhận ra rằng Trương Mẫn là một người tốt bụng. Trương Mẫn quay lại, trìu mến nhìn Kỷ cung nữ, hỏi:

- Sinh rồi à? Nói xong, ông ôm lấy đứa bé, ghé đến ngọn đèn nhỏ như hạt đậu ngắm nghía, lắc lư mãi mái đầu bạc trắng, lẩm bẩm một mình – lại là một thằng cu nữa chứ! Thật đáng thương! Thật đáng thương!
Kỷ cung nữ nước mắt giàn giụa, quì mãi dưới chân Trương Mẫn, van nài:

- Ông Trương ơi! Cháu cắn rơm cắn cỏ lạy ông, xin ông đừng nói chuyện này với ai.

Trương Mẫn vội vàng đỡ cô đứng dậy:

- Cháu hay nhỉ, nếu ta nói ra, thì e rằng mẹ con cháu đã chẳng có ngày hôm nay. Hôm ấy Hỷ Hồng đưa cho ta gói thuốc trụy thai, bảo ta đưa cháu uống, song ta thấy không nỡ làm như thế, nên đã vứt đi... Bây giờ ta chỉ muốn hỏi cháu một câu: Tại sao cháu lại cố sống cố chết sinh bằng được thằng bé này, có phải là muốn để sau này nó được phong thái tử, làm vua để mẹ được vẻ vang nhờ con?

Kỷ cung nữ lắc đầu, khóc và nói:

- Không! Không phải thế, ông Trương ơi! Cha mẹ, anh em cháu đều bị quan quân giết hại, cháu chẳng còn ai là người thân, đứa trẻ này là giọt máu, là thịt trên mình cháu rứt ra, nó là người thân duy nhất của cháu trên đời... Cháu không thể nào xa nó được...
Trương Mẫn nghe xong, khuôn mặt già nua bỗng tràn trề nước mắt, nghẹn ngào nói:

- Cháu ơi! Chúng ta cũng đều là người đau khổ như nhau. Ta sẽ mang tấm thân già này ra để che chở cho mẹ con cháu – Nói xong, ông rút từ trong bọc ra một gói giấy nặng trĩu tay, đưa cho Kỷ cung nữ và nói:

- Đây là gói đường hoa mai ta giấu đi bấy nay, cháu giữ lấy mà bồi bổ sức khỏe.
Kỷ cung nữ cũng nghẹn ngào:

- Ông ơi!... Rồi sau đó không nói được gì thêm.

Cứ như thế, Trương Mẫn và Kỷ cung nữ đã bí mật bù trì nuôi nấng đứa trẻ. Do có tật bẩm sinh, đầu thằng bé rất to, cho nên hai người đã bàn nhau đặt cho thằng bé cái tên hàn chứa nỗi khổ đau: Thằng Giá Đỗ. Trương Mẫn thường lợi dụng chức vụ của mình, đến cúng chay cúng Phật lấy trộm những thứ đồ cúng như bánh trái, đường, mạch nha... đem về nghiền nát ra hòa thành nước, bón từng miếng cho đứa trẻ. Sau khi đứa trẻ được đầy tháng, với danh nghĩa là sai Kỷ cung nữ trông coi dụng cụ, Trương Mẫn lại ngầm đưa cả hai mẹ con đến ở một căn nhà nhỏ tận cùng phái tây bắc của An Lạc đường, sát đường vây cung cấm. Đây là nơi vắng vẻ hẻo lánh, ngoài ngôi Phật các ở mé đông, không có người nào ở gần đó. Mà người ở gian Phật các ấy, lại là Ngô hoàng hậu phị phế truất, gọi là Ngô phế hậu. Ngô phế hậu suốt ngày ngồi tụng kinh, bên cạnh chỉ có một cung nữ già vừa câm vừa điếc hầu hạ, cuộc sống hầu như cách biệt với người đời, cho nên ở trong hoàng cung lúc này, đây là nơi có thể nói là an toàn nhất.

Từng ngày một, từng tháng một, từng năm một... Sáu năm trời gian nan đằng đẵng qua đi. Trong xó cung cấm tràn ngập tử khí, với cuộc sống như một kẻ tù đày, thằng Giá Đỗ, đứa bé vụng trộm sinh ra trên đời này, cũng lớn lên một cách vụng trộm. Để che mắt mọi người, Kỷ cung nữ đã trang điểm cho thằng bé như một đứa con gái, không cho nó ra khỏi sân nhà một bước nào. Giá Đỗ tuy còn nhỏ, nhưng đã chịu đủ mọi nỗi đắng cay của cuộc đời, cho nên nó tỏ ra rất ngoan ngoãn, dễ bảo, suốt ngày quanh quẩn trong nhà bên mẹ, cuộc sống của hai mẹ con xem ra cũng tạm bình an. Tuy nhiên cuộc sống bình yên đó không biết sẽ được bao lâu?
 

Hương Giang

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
anh ơi, Đế Yến 2 - chương 3 phần 3 - đoạn anh hùng trọng anh hùng, tâm sự của Trương Định Biên, nên sửa là hẳn sẽ cùng hắn uống rượu 3 ngày 3 đêm :D, để lão nghe không hợp lý :D
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Kiếm, một loại vũ khí thô sơ khi ra đời đã đánh dấu thời kỳ văn minh về kỹ thuật rèn đúc kim loại. Trong lịch sử thế giới, kiếm đã có mặt khắp nơi. Mỗi quốc gia và khu vực tuy nghệ thuật rèn đúc khác nhau, nhưng hầu hết các sử gia vẫn phải công nhận lịch sử rèn đúc kiếm tại Trung Quốc có từ rất sớm, trình độ kỹ thuật của các nghệ nhân rèn kiếm Trung Hoa đạt tới tuyệt đỉnh.

Vào thời kỳ Trung Quốc cổ đại, kiếm là binh khí quan trọng. Nó ra đời vào thời kỳ nhà Thương cách đây hơn 3000 năm. Khi đó kiếm đồng xuất hiện vào đời Chu, nhưng phải tận tới cuối đời Xuân Thu kiếm sắt mới bắt đầu xuất hiện trong các trận chiến, đánh dấu bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật rèn và tôi sắt. Cho tới đời Hán, cùng với sự xuất hiện của nhiều loại binh khí khác, kiếm bắt đầu rút dần khỏi các chiến trường, trở thành loại vũ khí đeo bên người để phòng thân.

Trong suốt mấy nghìn năm qua, kiếm luôn thể hiện cho quyền lực, thân phận của người dùng. Người có thanh bảo kiếm được thể hiện cho quyền lực tối cao, không một sức mạnh gì có thể ngăn cản. Vua có các thanh bảo kiếm, đại diện cho sự tôn nghiêm và quyền uy. Quan viên đeo kiếm thể hiện cho quyền lực, dòng dõi vương gia đeo kiếm thể hiện cho địa vị, võ sĩ đeo kiếm để hành hiệp trượng nghĩa. Với tác dụng và ý nghĩa của kiếm như vậy cho nên trong 18 ban binh khí của Trung Hoa thì kiếm được xem như tính mạng và linh hồn. Với chiều dài lịch sử hàng nghìn năm nay, các lò rèn kiếm Trung Quốc đã rèn không biết bao thanh kiếm, nhưng trong tất cả những thanh kiếm đó thì 3 thanh bảo kiếm được mọi thời đại công nhận đều có gốc tích từ Long Tuyền.

Thị trấn cổ Long Tuyền nằm trong một quần thể các dãy núi ở phía Tây Nam của Chiết Giang. Hơn 2600 năm trước, tương truyền vào thời Xuân Thu-Chiến Quốc, khi đó, Việt Vương Câu Tiễn với chí lớn đã mật lệnh cho các đại thần của mình bàn định kế hoạch phục quốc báo thù. Muốn làm được việc đó phải có một đội quân đủ mạnh, binh khí sắc bén mới có thể giành chiến thắng. Chính vì vậy phải rèn được những thanh kiếm cực sắc.

Việt Vương Câu Tiễn bí mật ra lệnh cận thần của mình là Âu Dã Tử đi tìm mỏ quặng và nơi bí mật có thể rèn được kiếm quý mà không để cho quân Ngô biết. Vâng mật lệnh này, Âu Dã Tử đã bí mật đi tìm mảnh đất thắng địa có thể rèn kiếm. Trải qua biết bao nắng mưa, gian khổ, dấu chân ông đặt đến không biết bao nhiêu nơi cuối cùng đã tìm ra Long Tuyền. Mảnh đất Long Tuyền trùng trùng điệp điệp, cây cối xanh tốt thế đất hùng vĩ, có suối, bên cạnh lại có hồ nước rộng vài chục mẫu, quả thật là vùng đất vô cùng thích hợp cho việc rèn kiếm. Ngay khi tìm ra Long Tuyền, ông tổ nghề rèn kiếm Âu Dã Tử đã biết Long Tuyền có lượng Thiết Sa (quặng sắt) rất phong phú, đây là loại nguyên liệu rất tốt để rèn kiếm. Thứ hai, nguồn nước ở Long Tuyền rất trong lành, khi tôi kiếm khiến kiếm vô cùng sắc bén. Ngoài ra việc rèn kiếm còn cần phải có nguồn nhiên liệu đốt, ở Long Tuyền có nguồn nhiên liệu từ rừng rậm vô cùng phong phú, các loại than củi dùng không bao giờ cạn. Thấy Long Tuyền được thiên nhiên ưu đãi các điều kiện thuận lợi như vậy, Âu Dã Tử đã quyết định lựa chọn nơi này để lập nên làng rèn kiếm nổi tiếng.

Âu Dã Tử sinh khoảng năm 514 trước Công nguyên, là người nước Việt. Thuở thiếu thời đã theo người cậu học kỹ thuật trị kim (tương đương với rèn và luyện thép như bây giờ), sau đó ông bắt đầu rèn và đúc kiếm bằng đồng xanh, cùng với cậu sản xuất các loại nông cụ bằng sắt. Là người sáng dạ và chịu khó cho nên trong thời gian ngắn Âu Dã Tử đã tiếp thu hết các tinh hoa của nghề rèn. Trong quá trình làm nghề ông đã phát hiện ra nhiều tính năng khác biệt giữa đồng xanh và sắt, mở ra kỷ nguyên mới cho kỹ thuật rèn và tôi thép. Dựa vào những bí quyết này, Âu Dã Tử đã cho ra đời thanh kiếm đầu tiên, cũng là các thanh bảo kiếm nổi tiếng thiên hạ như Ngư Trường, Trạm Lư, Long Uyên, Thái A, Công Bố... Những thanh bảo kiếm của Âu Dã Tử đã mở ra kỷ nguyên về binh khí lạnh của Trung Quốc.

Trong khi đang rèn bảo kiếm, theo mật lệnh Âu Dã Tử đã nhận một đệ tử để truyền nghề. Người đệ tử có tên là Can Tương. Chuyện về việc Can Tương bái sư học nghề cũng có thể được coi là một câu chuyện huyền thoại. Ban đầu Âu Dã Tử do nhận mật lệnh của Việt Vương Câu Tiễn, vì vậy ông không thể truyền các bí mật trong nghề rèn kiếm của mình cho người ngoài vì lo sợ đó có thể là kế của nước Ngô cài gián điệp và để đánh cắp bí quyết. Nhưng sau này, bằng tình cảm chân thật, Can Tương đã cho thấy mình xứng đáng là đệ tử chân truyền của Âu Dã Tử. Kể từ đó hai người ngày đêm nghiên cứu cách luyện quặng, đúc phôi và rèn những thanh bảo kiếm. Sau khi thanh Long Uyên bảo kiếm ra đời, hai thầy trò lại tiếp tục rèn thêm hai thanh bảo kiếm là Thái A và Công Bố để trao cho Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô. Cả ba thanh bảo kiếm này sở dĩ trở nên vang danh thiên hạ là vì thân kiếm tuyệt đẹp, sống kiếm chắc chắn, lưỡi kiếm vô cùng sắc bén, có thể chém sắt, chặt đá, đâm trâu đâm bò nhẹ như đâm xuống nước, khi múa kiếm khí tỏa ra khiến cho đối thủ hoa mắt chóng mặt, nhưng ngược lại vầng kiếm khí làm tăng uy lực của người sử dụng kiếm. Điểm đặc biệt của những thanh kiếm mà Âu Dã Tử và Can Tương đúc nên là nó được pha trộn một tỷ lệ các kim loại màu thích hợp và tinh vi, cho nên những thanh bảo kiếm này có màu sắc hết sức đặc biệt, về độ bền và độ sắc của kiếm thì cho đến nay có dùng tới kỹ thuật hiện đại phân tích người ta cũng không thể giải thích nổi. Còn về kỹ thuật tôi kiếm, do đây là bí truyền của Âu Dã Tử và làng nghề Long Tuyền, cho nên từ hàng nghìn năm nay, người học rèn kiếm thì có vô số, nhưng nếu không phải chân truyền gia tộc trong làng nghề Long Tuyền thì cũng không được truyền bí quyết tôi kiếm. Tôi kiếm chính là lúc thổi hồn vào cho thanh kiếm. Thanh kiếm không có hồn thì nó chẳng có tác dụng gì cả, cũng giống như con người không có linh hồn vậy! Quá trình tôi kiếm hiện vẫn là những bí quyết cổ truyền không được truyền thụ ra ngoài, nhưng theo ước tính từ khi chuẩn bị tôi tới khi hoàn thành phải trải qua không dưới 30 bước công việc. Ngày nay nhiều bí quyết không còn giữ được sự nguyên thủy nữa. Ví như trong truyền thuyết thì công việc quạt gió cho lò để có thể đúc phôi và bước rèn kiếm nhất định phải là các đồng nam và đồng nữ. Những người không sạch sẽ sẽ không được phép tới gần lò lửa. Còn thợ học việc cũng chia ra nhiều đẳng cấp khác nhau, tuy nhiên theo số ít các chủ lò rèn kiếm hiện nay còn sót lại tại Long Tuyền cho biết thì một người sáng dạ muốn rèn được kiếm cũng phải mất từ 6 đến 10 năm. Còn muốn rèn được bảo kiếm thì số thời gian đó phải là gấp đôi hoặc gấp ba lần. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể có cơ duyên.

Trở lại với những thanh bảo kiếm của Âu Dã Tử, sở dĩ chúng vang danh thiên hạ không chỉ vì sự quý giá về giá trị sử dụng mà đẳng cấp của nó luôn gắn với những nhân vật lừng danh trong lịch sử Trung Hoa.



Thanh Trạm Lư là thanh bảo kiếm nổi danh trong cuộc tranh hùng Ngô - Việt. Khi đó Việt Vương Câu Tiễn thất bại đã dâng thanh Trạm Lư cho Ngô Vương Phù Sai. Ngô Vương Phù Sai coi đó là báu vật bảo quốc ngày đêm đeo bên mình. Người chủ tiếp theo của Trạm Lư là Sở Chiêu Vương của nước Sở, sau này sau một quá trình thất lạc đến thời Tống nó lại nằm trong tay danh tướng Nhạc Phi, chỉ đến khi Nhạc Phi chịu oan Tần Cối và chết thì không còn tung tích của Trạm Lư bảo kiếm. Chính vì phải dâng thanh Trạm Lư mà Câu Tiễn mới tiếp tục sai Âu Dã Tử rèn lên 3 thanh Thái A, Long Uyên và Công Bố. Sau nhờ ba thanh bảo kiếm đó, Câu Tiễn đã trả thù Phù Sai, tiêu diệt nước Ngô.

Thanh bảo kiếm Thuần Quân cũng không hề kém cạnh với người anh em của nó khi người chủ là danh tướng Ngũ Tử t.ư. Nó đã cùng với Ngũ Tử t.ư giành rất nhiều thắng lợi trên sa trường. Tuy nhiên số phận của bảo kiếm Thuần Quân lại quá ngắn ngủi. Trước khi người chủ của nó không can ngăn được Ngô Vương Phù Sai đắm chìm trong mỹ nhân và rượu thịt để đến nỗi mất nước vào tay Việt Vương Câu Tiễn, Ngũ Tử t.ư đã quẳng Thuần Quân xuống dòng Tiền Đường.

Nhưng nổi tiếng nhất, được nhắc đến nhiều nhất và vang danh nhất trong thiên hạ chính là những thanh kiếm đã thống nhất thiên hạ là Long Uyên, Thái A và Công Bố. Chính nhờ 3 thanh bảo kiếm mà đích thân Âu Dã Tử rèn nên mà Việt Vương Câu Tiễn đã chiến thắng quân đội của Ngô Vương Phù Sai. Tuy nhiên tới năm 235 trước Công nguyên, nước Việt bị nước Sở tiêu diệt, đến năm 222 trước Công nguyên Sở lại bị Tần thôn tính, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, hai thanh Long Uyên và Công Bố mà Sở vương đeo bên mình bị Tần Thủy Hoàng tước đoạt. Từ đó lịch sử của hai thanh bảo kiếm này đã gắn chặt với sự nghiệp thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng, chính vì vậy có thể nói đây chính là hai thanh bảo kiếm vẻ vang nhất trong số những thanh bảo kiếm của Âu Dã Tử rèn nên.

Về hai thanh Can Tương và Mạc Gia, đây là cặp bảo kiếm mang đầy tính huyền thoại truyền thuyết. Năm 492 trước Công nguyên, sau khi Âu Dã Tử rèn xong kiếm cho Việt Vương Câu Tiễn, Việt Vương Câu Tiễn đã xuất sư phạt Ngô. Trong lần xuất sư đó, nước Việt phải liên kết với nước Sở. Sở Vương từ lâu đã nghe danh những thanh bảo kiếm của nước Việt, vì vậy đưa ra điều kiện phải có được những thanh bảo kiếm thì mới xuất quân. Ban đầu Câu Tiễn ngần ngại mãi chưa quyết, sau nghĩ đến đại cục, không có cách nào khác bèn vời đến sự giúp đỡ của Âu Dã Tử và vợ chồng Can Tương. Theo sách “Ngô Việt Xuân Thu”, khi Can Tương tìm được quặng sắt vô cùng quý giá và cho dựng lò luyện kiếm. Luyện trăm ngày mà quặng sắt chẳng chịu chảy ra, vợ ông là Mạc Gia thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: “Kim loại này phải có nhân khí mới tan được”. Nghe vậy, Mạc Gia tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm, kim loại tan ra và Can Tương rèn được hai thanh bảo kiếm mang tên mình và người vợ yêu quý!

Ngày nay, không biết thanh kiếm nào còn, thanh kiếm nào mất, nhưng có một điều, với sự lao động miệt mài và những bí kíp chân truyền của mình, làng nghề Long Tuyền đã trở thành vùng đất linh thiêng, ông tổ nghề rèn kiếm Âu Dã Tử đã trở thành huyền thoại mãi tồn tại ở Trung Quốc.

(Tinh hoa võ học Trung Hoa)
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
[h=3]1.Thái A [/h]
Thái A bảo kiếm
Tương truyền Thái A do Âu Dã Tử bậc thầy rèn kiếm Trung Quốc tạo ra.Là bội kiếm của Phục Niệm, chưởng môn Nho gia.Nghe đồn chỉ có uy lực phát ra từ nội tâm mới có thể phát huy hết sức mạnh của kiếm này.
Thái A bảo kiếm có nước kiếm sắc ngọt, chém sắt như bùn (tước thiết như nê) sau này rơi về tay Tần Thủy Hoàng Đế. Tần Vương sau khi nhất thống thiên hạ đã cho cắm thanh kiếm báu này trên núi Trâu Tịch để tế cáo trời đất và được coi như một bảo vật trấn quốc.Ngày nay còn hay không thì em không biết vì trẻ trâu bán đồng nát là chuyện thường tình
ah.png

[h=3]2.Long Tuyền Kiếm[/h]
Long Tuyền Bảo Kiếm
Giai thoại nói về xuất xứ của Long tuyền kiếm như sau :
Âu Dã Tử được coi là ông tổ của nghề rèn kiếm đồng thời cũng được coi là người rèn kiếm nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Một lần ngao du, ông đã thấy mạch nước Long Tuyền trên núi Tần Khê, Triết Giang có ánh sắc kim khí. Biết nơi đây có quặng sắt quý, ông đã cho xẻ núi và lấy được một mảnh “thiết anh” (sắt tốt). Được Sở vương giúp đỡ, ông đã dồn hết tinh lực và luyện nên bộ ba thanh bảo kiếm có tên Long Tuyền, Thái A, Công Bố. Thanh Long Tuyền kiếm dài ba thước sắc thì được đem dâng cho Sở Vương.
Chắc do lý do Long tuyền kiếm mở màn cho loạt kiếm dài 3 tấc sắc bén nên sau này những thanh kiếm qua lăng kính văn học đều được gọi là Long Tuyền kiếm và cụm từ “tay vung ba thước Long Tuyền kiếm” đã trở thành một khẩu ngữ quen thuộc.
Sau này Tiết Chúc, một người rất giỏi về xem kiếm khi được nhìn thấy ba thanh kiếm này đã phải thốt lên: “màu sắc đẹp như hoa phù dung mới nở, sáng rực như sao băng”.
 

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00

Với bản tính cương trực, liêm chính, Lưu Bá Ôn mặc dù đã về ở ẩn và không muốn tiếp xúc với quan lại, nhưng ông không hoàn toàn có thể bỏ ngoài những sự việc chướng tai gai mắt của cuộc đời. Một lần ông thấy bọn đào binh Minh Dương nổi loạn tại Đạm Dương, giết người cướp của, tàn hại bá tánh trong khi bọn quan lại địa phương sợ bị trách tội nên không dám báo cáo tình hình. Thế là Lưu Bá Ôn đã nhờ con trai mình là Lưu Liễn viết tấu chương gửi cho triều đình yêu cầu trừng trị bọn chúng.

Thế nhưng phe cánh của Hồ Duy Dung trong triều đã lợi dụng việc này để viết một tấu chương vu cho Lưu Bá Ôn tội âm mưu xây mộ tại Đạm Dương để lợi dụng vương khí ở đây mưu chuyện bất chính và sai Tuần Kiểm ty chiếm đất, xua đuổi dân chúng để lấy đất xây mộ, khiến dân chúng nổi loạn. Chu Nguyên Chương nghe qua rất bực tức nên đã hạ chiếu chỉ cắt hết bổng lộc của họ Lưu. Biết là có người muốn hại mình, nhưng trước tình hình phe đảng của Hồ Duy Dung chiếm lĩnh triều đình, Lưu Bá Ôn không thể tự thanh minh cho mình mà buộc phải đến “nhận lỗi” trước mặt Chu Nguyên Chương để tránh họa sát thân. Chu Nguyên Chương thấy vậy nên cũng bỏ qua không truy cứu nữa.

Sau lần đó, Lưu Bá Ôn dọn về ở hẳn tại kinh đô và đóng cửa ở lỳ trong nhà, không tiếp xúc với ai để tránh tạo cớ cho Hồ Duy Dung vu hại. Tuy nhiên, trước tình hình thời cuộc ngày càng tồi tệ, nhất là khi biết Hồ Duy Dung đã được vua thăng lên làm Thừa tướng, Lưu Bá Ôn buồn rầu mà chẳng bao lâu sinh bệnh. Ông nói: Hồ Duy Dung lên làm Thừa tướng, chắc chắn sẽ sinh đại họa, quốc gia sẽ gặp đại loạn, sinh linh lại phải chịu tai ương. Nếu lời nói của tôi không ứng nghiệm, thì đó chính là đại hồng phúc của bá tánh nhân dân. Trái lại, nếu lời nói của tôi ứng nghiệm, thì cuộc sống của đông đảo chúng sinh biết làm sao đây?

Câu nói đó lọt đến tai khiến Hồ Duy Dung càng căm tức và quyết tâm trù dập Bá Ôn. Quá phẫn uất trước nạn quyền thần lộng hành, bệnh tình của ông càng lúc trở nên nguy kịch. Chu Nguyên Chương thấy thế không khỏi thương cảm nên đã đích thân viết biểu văn gửi đến Bá Ôn và phái sứ giả hộ tống ông trở về quê nhà. Có điều, bệnh của Lưu Bá Ôn không hề thuyên giảm và chỉ một tháng sau đó (năm 1375) ông qua đời, hưởng thọ 64 tuổi. Có thuyết cho rằng Hồ Duy Dung đã sai thầy thuốc của mình mang độc dược đến hại chết Lưu Bá Ôn. Vì trước lúc Lưu Bá Ôn chết, ông nói rằng khi uống thuốc của Hồ Duy Dung mang đến thì thấy trong bụng có một vật cứng như đá, to bằng nắm tay.

Dù bị hãm hại và bạc đãi, Lưu Bá Ôn vẫn một lòng trung thành với triều đình nhà Minh. Lúc lâm chung, Lưu Bá Ôn đã gọi các con trai Lưu Liễn, Lưu Cảnh đến và đưa tác phẩm “Thiên văn thư” cho Liễn cùng một bản tấu chương bàn luận về thế sự, phương pháp trị nước cho Cảnh. Ông dặn Liễn và Cảnh rằng Hồ Duy Dung chuyên quyền bạo ngược thể nào cũng gặp tai họa. Vì vậy sau khi Hồ Duy Dung và phe đảng bị diệt trừ thì Liễn và Cảnh hãy đem bản tấu chương cùng “Thiên văn thư” đến dâng cho Chu Nguyên Chương.

Đúng như Lưu Bá Ôn dự đoán, khi Hồ Duy Dung và bè đảng nắm hết quyền hành, lộng quyền phách lối, nên bị Chu Nguyên Chương nghi ngờ. Nghi án Lưu Bá Ôn bị hạ độc cũng được cho điều tra lại. Trước tình hình đó, Hồ Duy Dung đã âm mưu làm phản nhưng bị bại lộ, thế là ông ta cùng toàn bộ phe đảng bị Chu Nguyên Chương xử tử. Lúc này, Chu Nguyên Chương lại nhớ đến Lưu Bá Ôn. Lưu Liễn và Lưu Cảnh nhân cơ hội đó đã vào cung, dâng “Thiên văn thư” cùng bản tấu chương của cha mình cho nhà vua. Nhận thấy tâm huyết của vị lão thần trung thành, Chu Nguyên Chương cảm động nói:

- Khi Lưu Bá Ôn còn sống, cả triều đình đều là bọn phe đảng, chỉ riêng có một mình ông ấy là không theo chúng, nên mới bị chúng hạ độc.

Để tri ân lòng trung thành và những đóng góp to lớn của Lưu Bá Ôn, năm 1380, Chu Nguyên Chương đã hạ lệnh cho con cháu của Lưu Cơ được hưởng tước lộc truyền từ đời này qua đời khác, đó là tước Thành ý Bá.

Lời bàn:

Theo các sử gia đương thời, Lưu Bá Ôn là bậc văn võ song toàn, là nhà mưu lược có một không hai vào thời ấy và cũng là bậc văn thần khai quốc hàng đầu của nhà Minh ở Trung Quốc ngày xưa. Và điều mà hậu thế ngày nay còn kính phục ở ông là triết lý “quan bức, dân phản”. Vâng, điều ấy không ai có thể phủ nhận, vì thời nào và ở đâu cũng vậy, nếu quan lại mà hà hiếp, tham lam và tàn bạo thì ở đó dân chúng ắt sẽ nổi lên làm phản. Vì nhân dân mới chính là những người làm nên lịch sử, đẩy thuyền đi cũng là nước, mà làm lật thuyền cũng là nước và sức dân còn mạnh hơn sức nước.

Chưa hết, hậu thế còn biết đến Lưu Bá Ôn là một nhà thiên văn học, nhà địa lý tài ba. Trong con mắt của các thầy phong thủy thời đó, Lưu Bá Ôn là bậc thầy về thần cơ diệu toán, là nhân vật để lại dấu ấn trong lịch sử phong thủy của Trung Quốc và thế giới. Tiếc rằng, một “thần nhân” như vậy mà cũng không hiểu số phận cũng như kết cục cuộc đời của mình, để đến nỗi cuối đời bị bất hạnh, thậm chí bị đầu độc mà chết? Thế mới biết, thuật phong thủy không cứu nổi con người, thầy địa lý cũng không cứu nổi chính mình, mà chỉ có những ai ở hiền mới gặp lành mà thôi.

Lưu Bá Ôn là công thần khai quốc của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, nên ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi và đỗ tiến sĩ, rồi được bổ làm quan, nhưng vì bị chèn ép, chỉ trích nên ông bỏ về ở ẩn năm 1360.

Sau khi Chu Nguyên Chương khởi nghiệp và đã lấy lễ mời ông ra giúp. Ban đầu, Lưu Bá Ôn tỏ ra miễn cưỡng và phải nhiều lần được khuyên giải, thúc giục ông mới chịu đi. Tuy nhiên, sau khi triệu kiến Chu Nguyên Chương, Bá Ôn cho rằng mình đã gặp được minh chúa nên quyết định theo phò. Ông đệ trình bản “Thời vụ thập bát sách” (tức 18 sách lược vận dụng trong tình thế đương thời) và được Chu Nguyên Chương tán thưởng, ví ông như Trương Lương.

Từ đó, ông trở thành một mưu sĩ tài ba của Chu Nguyên Chương, giúp Chu Nguyên Chương lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt khác như Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành, nhiều lần biến nguy thành an. Các chiến thắng quan trọng ở thành Thái Bình, An Khánh, Giang Châu, hồ Bà Dương chống Trần Hữu Lượng, ở Kiến Đức chống lại Trương Sĩ Thành, cũng như việc quy hàng của Phương Quốc Trân và nhiều thế lực địa phương khác đều do Lưu Bá Ôn bày mưu tính kế. Đặc biệt tại hồ Bà Dương, ông cùng với Chu Nguyên Chương trực tiếp chỉ huy cuộc chiến và đã một lần cứu thoát Chu Nguyên Chương khỏi bị đạn pháo của quân địch bắn trúng.

Chủ trương của Lưu Bá Ôn là đánh Trần Hữu Lượng trước rồi mới tiêu diệt Trương Sĩ Thành sau, vì ông nhận xét rằng Trương Sĩ Thành là người thụ động, chỉ biết bo bo giữ lấy lãnh địa của mình, trong khi tập đoàn Trần Hữu Lượng là một thế lực hiếu chiến, nguy hiểm, vì vậy cần phải thanh toán trước để diệt trừ hậu họa. Chiến lược này đã tỏ ra đúng đắn và chứng tỏ Lưu Bá Ôn hiểu rất rõ bản chất của kẻ địch. Bản thân Trần Hữu Lượng sau khi bị đánh bại ở Giang Châu, biết mình thua là do mưu kế của Lưu Bá Ôn, đã than rằng:

- Dưới tay ta thiếu một mưu sĩ như Lưu Bá Ôn. Sau này kẻ tiêu diệt ta, chắc chắn chính là Bá Ôn rồi. Chả lẽ ý trời nghiêng về Chu Nguyên Chương, nên mới sai Bá Ôn tới trợ giúp đó chăng?

Năm 1367, ông lại bày mưu cho Chu Nguyên Chương chiếm Sơn Đông, Hà Nam, rồi tiến đánh kinh đô của nhà Nguyên là Đại Đô (nay là Bắc Kinh), khiến vua Nguyên Huệ Tông (1333-1370) tháo chạy, triều Nguyên sụp đổ. Khi đại cuộc đã định xong, Lưu Bá Ôn được giữ chức Ngự sử trung thừa kiêm Thái sư lệnh, tước Thành Ý Bá. Kể từ đó ông cùng với Tống Liêm (1310-1381) giúp vua chế định mọi công việc, từ khoa cử, hình pháp cho đến lễ nhạc...

Tuy nhiên, do tính tình cương trực, liêm chính, sẵn sàng trừng trị thẳng tay bất cứ gian thần nào - cho dù đó là hoàng thân quốc thích hay đại công thần. Vì thế, Lưu Bá Ôn đã gây hiềm thù với nhiều đại thần trong triều. Giữa lúc đó, Chu Nguyên Chương lại đang rắp tâm hãm hại công thần, nên tháng 8 năm Hồng Vũ thứ nhất (khoảng tháng 10 năm 1368), ông dâng sớ xin từ quan, nhưng mãi đến năm 1371, ông mới được về nghỉ sau khi từ chối ngôi vị thừa tướng.

Sau khi từ quan, ông về vùng thôn dã sống ẩn dật, tuyệt đối tránh dây dưa với quan trường và giới quan lại, thậm chí còn yêu cầu bạn bè chỉ gọi mình đơn giản là Bá Ôn hay Bá Ôn huynh, chứ đừng đề cập đến chức tước của mình. Ông không thích được mọi người khen về những chiến công khi xưa.

Lời bàn:

Trong lịch sử phong kiến ở Trung Quốc, không có vị vua tạo lập triều đại mới mà xuất thân từ tầng lớp dưới đáy xã hội, nhưng lại mang đậm màu sắc truyền kỳ như Chu Nguyên Chương. Ông có tài thao lược, có tầm nhìn sâu xa, suốt cuộc đời xử lý công việc chính trị cần cù và là vị vua có thành tựu nổi bật hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Lẽ tất nhiên là nếu một mình Chu Nguyên Chương thì cũng chẳng làm nên trò trống gì, mà thần thiêng là nhờ bộ hạ. Quả đúng là như vậy, bởi thời ấy Chu Nguyên Chương đã có được sự phò tá đắc lực của các danh sĩ nổi tiếng như Từ Đạt, Lý Văn Trung, Lý Thiện Trường, Uông Quảng Dương và các tướng tài là Lam Ngọc, Lý Đằng, Cao Bân, Trương Phụ... và nhân vật xuất chúng là Lưu Bá Ôn.

Về sau, vua Minh Vũ Tông, vị vua thứ 11 của nhà Minh đã khen tặng Lưu Bá Ôn là nhà mưu lược có một không hai đã giúp cho triều đình vượt sông bình định thiên hạ, cũng là bậc văn thần khai quốc đứng hàng đầu. Tiếc rằng, một con người tài ba lỗi lạc đến mức trên thông thiên văn, dưới tường địa lý như Lưu Bá Ôn vậy mà đến cuối đời cũng phải vội vã từ quan để lo bảo toàn mạng sống cho mình. Thế mới hay rằng, quy luật của các triều đại phong kiến là vậy. Khi đã có ngai vàng và quyền lực trong tay thì khai quốc công thần cũng trở thành vô nghĩa. Bởi thế các triều đại phong kiến ngày xưa không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn - thịnh rồi suy. Muốn sâu gốc bền rễ, mong hậu thế đừng ai quên điều này.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top