Dạo gần đây vùng duyên hải phía tây tây nam của đông ngũ bộ châu yên ắng hẳn, giao thương đường thuỷ cũng kém hơn trước, thuyền buồm cập cảng chủ yếu sôi động vào đầu hoặc cuối tháng để nhập hàng mới, còn đâu các tuần[1] còn lại thì thưa thớt như chống dột mùa mưa. Hoành quốc nằm tại cực tây nam của đông ngũ bộ châu, tính ra chỉ là nước nhỏ, dân chúng sống tập trung vùng nông thôn và thị thành, nghề nghiệp nổi bật trong nước là phân thu phế liệu, thật vậy, Hoành quốc là quốc gia đứng thứ ba của đông ngũ bộ châu về khoản này. Cho nên ven biển người ta thường là vạn chài hay ngư phường chứ nơi đây lại là một toà thành nhỏ có tên Đồng Nham, chuyên thu thập đồng nát, ghe thuyền tới lui phần lớn thuộc lĩnh vực mua đi bán lại những phế phẩm kim loại cho nhiều mục đích khác nhau. Dù tình hình chung đang ảnh hưởng việc thông thương, song mặt hàng này chưa bao giờ lỗi thời nên dân xứ Đồng vẫn cứ yên tâm lắm lắm.
Cảng biển trông tuềnh toàng, thậm chí không có cầu tàu và đê chắn sóng, chỉ thấy hàng dài cọc bích neo đậu bằng sắt đóng chết trên bến để ghe thuyền buộc vào khi cập cảng, sóng vỗ bờ khá mạnh và gió mùa này chẳng êm dịu chút nào. Tuy vậy người ta hẳn ngạc nhiên khi thấy một chiếc thuyền nan lặng lẽ ngược gió mà tiến, trông nó tựa phiến lá tre trôi trong máng nước, điềm tĩnh lại có chút thờ ơ. Cuối cùng chiếc thuyền mong manh ấy cũng cập bến tàu, người lái thuyền dùng chèo đơn để vượt biển, từ hướng mũi cực nam đến đây, câu đầu tiên y hỏi mà đám dân chúng tò mò vây xem nghe được là:
“Đất này ăn cơm với gì?”
Vì Vương Vi nghĩ xứ nào lại không trồng được gạo? Thế nên xứ nào cũng phải ăn cơm, nếu họ trả lời ăn cơm với rau thì y sẽ ở lại còn bảo ăn cơm với thịt thì y lên bờ rồi tìm chốn khác mà đi, bởi dân ăn thịt thường không nói thật, Ái Nhân bảo thế. Kết quả, một người trung niên nước da đen bóng, dáng vẻ khắc khổ, đại diện đáp lời:
“Ở đây chúng tôi ăn cơm với đường.”
Nằm ngoài dự tính của họ Vương nhưng cũng đại khái không rơi vào trường hợp “ăn cơm với thịt”, người kia cũng đặt vấn đề lại:
“Cậu từ đâu tới đây?”
“Theo một con vịt bay trú đông là tới.”
“Ý cậu là con ngỗng? Ngỗng trú đông bay về nam, cậu là từ phía nam ngũ bộ châu đến đây?”
“Ngũ bộ châu là gì?”
Nam tử trung niên cảm thấy khó giải thích đại thể, bèn hỏi chi tiết:
“Nước của cậu tên gì vậy?”
“Nước uống được.”
“Không phải, ý tôi là cậu ở nước nào?”
“Chính như ông vừa nói đó.”
Một người trong bọn bỗng dưng xen vào:
“Tôi biết rồi, cậu ta ở nước Ngỗng, nước đó nằm gần cực nam ngũ bộ châu, tuy rằng diện tích lớn hơn nước ta nhưng dân cư khá thưa. Bọn họ làm nghề chài ấy, bơi rất cừ, nếu bác từng nghe có dân xứ nào dám bơi đua với hải lang[2] thì là họ đó!”
Trưa nay Vương Vi được phổ cập rất nhiều từ mới, y ngó người vừa lên tiếng nọ, trên đầu người đó đội một cái nón rất giống lá sen phơi khô, khá ấn tượng.
“Hải lang là con gì?”
“Nó giống cá, da vừa trắng vừa đen, răng nhỏ mà sắc, hay sống thành bầy.”
Đó là cá hổ kình! Bấy giờ Vương Vi hiểu ra cùng một thứ nhưng cũng có nhiều tên, nếu vừa nghe tên mà cho là lạ thì phải truy nguồn gốc của nó chứ đừng vội nghĩ “thứ này ta không biết”. Nam tử trung niên lên tiếng đầu tiên, quan sát mấy món họ Vương mang theo trên thuyền nan, thầm nghi sao thiếu niên này có thể vượt cả ngàn hải lí mà đến đây, trông cũng không giống bị thuỷ nạn, bèn hỏi thêm:
“Giờ cậu tính làm gì?”
“Tôi muốn lên bờ đi xem xung quanh,” Vương Vi vẫn chẳng giở nón lá xuống, dưới bóng râm và cái nắng gay gắt, khó nhìn thấy rõ toàn bộ khuôn mặt y. “Đường mà các ông ăn làm từ dừa cọ phải không?”
Người đội nón lá sen tỏ ra am hiểu, lắc đầu đáp:
“Không phải, dừa cọ nước cậu không có ở đây, chúng tôi nấu đường từ cây mía, tôi đoán nước cậu chắc cũng không có mía!”
“Ở đây không có dừa cọ ư?”
“Có các giống dừa khác nhưng không có dừa cọ, nước chúng tôi tên cũ là nước Ngang, theo chiếu sắc mới từ vua thì đất nước này gọi là Hoành quốc. Nếu cậu đã muốn lên bờ, để tôi với A Ba dẫn cậu tham quan một vòng thành Đồng Nham, cậu đồng ý không?”
“Thành Đồng Nham là công trình ở sau bến tàu?” Vương Vi cũng đã trông thấy nó.
“Đúng vậy, ‘đồng’ trong ‘đồng nát’, ‘nham’ trong ‘tạp nham’, dân chúng tôi toàn kinh doanh nghề thu mua phế liệu và phế phẩm kim loại, đứng thứ ba trong ngũ bộ châu này đấy!”
Lướt qua khoảng năm, sáu mạng đang túm tụm trước mặt, rồi đằng kia nữa, dẫu dân vùng Chài chẳng giàu nhưng ít ra bộ dạng cũng thanh thản hơn mấy người ở đây, từ đó rút ra rằng đời sống của dân bản xứ không ít vất vả, thu mua phế liệu sao? Hẳn là một nghề cơ cực.
“Tôi tên là Cực Đồng, xin hỏi quý danh của các vị?”
“Tôi là A Ba, không có họ, giống A Lục mới giới thiệu ấy!” Nam tử có làn da đen bóng cười trả lời, để lộ hàm răng dài vàng ệch.
“Tôi là A Lục, tôi với bác này không hề làm anh em gì nhé, đồng nghiệp thôi!” Người đội nón lá sen phân bua, chắc chữ “A” khá phổ biến trong cách đặt tên người nơi đây.
“Tôi là Mắn, ‘mắn’ trong ‘may mắn’, cầu cho được thế!” Thanh niên trông béo khoẻ nhất đám lên tiếng tự giới thiệu, nãy giờ gã chỉ đứng xem nghe, điệu bộ chừng hiền lành dễ bị bắt nạt.
“Ta tên Thác, thác nước ấy,” người này cao nhất, ăn mặc khá dị hợm, đội nón tầm bằng sắt có quai thao màu xám rủ dài, buộc lại dưới cái cằm nhọn. “Dân ở đây chuyên lượm đồng nhưng ta thì chỉ nhặt kẽm, là Kẽm Vương tự phong, danh xứng với thực!”
“Tôi là A Túa, gọi ‘tủa’ cũng được nhưng hơi không đúng…” Người này nhỏ con nhất, lùn và già nhất, đội nón thêu hình giống bánh tai yến với chóp nhọn, ngoại trừ A Ba thì bốn người còn lại đều đội nón, nón của Mắn giống nón lá Vi đang đội nhưng bé tới nỗi chỉ đủ che tóc.
A Túa mau mắn chìa tay với Vương Vi, ý muốn kéo y lên bến tàu vì thuyền nan làm gì có dây neo mà buộc vào cọc bích, lúc họ Vương bắt lấy tay ông ta chẳng khác gì sắt cục, thật khó tin mấy cái móng dài sơn bóng rồi còn đính đá của A Túa lại không gây sây xước gì với Vương Vi, rõ ràng ông lão này không những nhanh nhẹn mà còn khéo léo. Thế rồi nhóm sáu người họ bắt đầu “hành quân” từ cảng vào thành, tường thành chỉ cao gấp ba lần đỉnh đầu Vương Vi, khoảng mười hai xích[3], thiếu vắng hệ thống phòng thủ cơ bản là hào nước bao quanh, không xây vọng lầu cũng chẳng thấy ai canh gác, cổng vào bằng sắt đóng đinh tán cũng nhỏ hẹp tương xứng, mỗi phần tên thành là cả một tấm đồng to chảng khắc sâu hai chữ “Đồng Nham” gắn choáng hết phía trên, trông nặng nề như sắp rơi.
Dân xứ này ăn mặc có phân chia, phần lớn khoác áo ngoài kiểu tràng bạt[4] phổ thông mà vùng Chài cũng ưa chuộng: làm nghề mặc áo thuần đen, buôn tiệm mặc áo màu trắng, bán dạo mặc áo xám hoặc nâu, số ít mặc áo nhuộm chàm, còn lại chắc là du khách. Đoái lại so năm người đi cùng: A Ba và A Lục đều mặc áo đen, chú Thác thì áo trắng, Mắn với A Túa mặc loại tứ điên[5] nhưng A Túa thì diêm dúa còn Mắn lại là xám trơn.
Nhà dựng trong thành khá đồng đều, phổ biến có hai tầng, lợp ngói vảy cá, tầng trên nếu là quán ăn sẽ thừa ra dãy lan can hẹp để tăng thêm diện tích đặt bàn, cửa loại hai cánh bằng gỗ thậm chí làm bằng đồng, then cửa thuộc dạng gạt rất dễ mở, chắc do gần biển nên họ treo đèn bão làm đèn đường, thay cho bậc tam cấp là ngạch cửa cao khi bước qua phải nhìn trước kẻo vấp té. Tuy thành ở duyên hải nhưng chẳng thấy hải sản tươi sống, hỏi A Lục thì gã bảo mấy hàng cá, mực phơi khô kì thực do nhập từ nơi khác chứ dân ở đây từ nhỏ đến lớn chẳng ai từng đèo lưới ra biển lần nào, nghe Vương Vi tò mò chuyện bơi lội thì A Túa khẳng định luôn:
“Tất cả mọi người đều biết lặn, phế liệu dưới nước cũng là mỏ vàng đó, hề hề!”
Ngoài thịt biển khô thì đồ ăn vặt trên phố khá nghèo nàn, chủ yếu thấy các loại bánh bột đậu nén thành miếng tròn, bánh gạo hấp không nhân, cơm cháy chiên chan nước mắm… Nhưng có một hàng khiến Vương Vi dừng chân, vì chưa từng thấy tại quê nhà:
“Chỗ đó bán gì vậy?”
“Mía hấp đấy!” A Túa kêu lên. “Hoá ra quê cậu không có mía thật à?”
“Nước Ngỗng ở phía cực nam ngũ bộ châu, đất ẩm mưa nhiều nên mía khó trồng lắm,” A Lục giải thích. “Dù tôi có nghe nói đâu trên phía bắc một chút cũng có giống mía lùn nhưng ăn không ngọt, người ta coi là cây dại mọc hoang chứ không trồng thu hoạch.”
“Tôi tưởng mía cần nhiều nước chứ nhỉ?” A Ba thắc mắc.
“Đúng là mía thích nơi có độ ẩm cao nhưng đất phải tơi xốp, không để cho ngập úng, phía cực nam mưa quanh năm mà vào mùa mưa là một trận ngập cả vùng, bác không tin thì cứ thử hỏi cậu ấy xem!”
Thế là A Ba hỏi ngay:
“Thật vậy không cậu Đồng?”
“Ừ, quê tôi một trận mưa có thể gây lũ lụt và sạt lở đê điều, mỗi đợt nước dâng là chết hết lúa với nhiều người cũng bị lũ cuốn mất tích!” Vương Vi đáp theo thực tế, cho dù dân bơi cừ đến đâu trước dòng chảy xiết cũng chỉ là kiến trong đám cháy, ngoài may mắn ra không thể dựa vào gì khác.
“Nếu năm nào cũng xảy ra chắc mọi người đều có dự phòng trước rồi phải không?” Mắn đệm lời vào, tỏ vẻ áy náy.
Giọng Vương Vi vẫn bình thản:
“Nước lên rất nhanh, hơn nữa không ai biết khi nào thì trời mưa trút, nếu mưa nhỏ thì không sao, còn kéo lên chỗ cao ở thì cũng có lũ quét từ trên xuống, tựu trung lấy sức người không thể thắng được thiên nhiên, nếu muốn thay đổi chỉ có bỏ đi nơi khác.”
Bởi vậy mới truyền câu “mấy đời sứa vượt qua đăng”, cho dù bao nhiêu thế hệ người dân chạy lũ cũng chẳng chạy khỏi cơn nước đã định sẵn sẽ kéo về, đây không phải số mệnh mà là lựa chọn.
Đương khi bầu không khí hơi chùng xuống, thì A Túa lăng xăng nói:
“Nè tôi còn ba đồng, ai có một đồng không? Cho mượn đi!”
“Làm gì?” Chú Thác từ trên ngó xuống, như hạc ngó cóc.
“Thì đủ bốn đồng mua một góc mía chứ gì, cho cậu Đồng ăn thử vì quê cậu ấy không có!” A Túa trả lời mà không ngó lên, bởi ngó lên cũng vô ích.
Vương Vi quan sát ba đồng tiền lớn như cái bánh phục linh[6] trên tay A Túa, chúng khác với tiền đồng lưu hành ở vùng Chài: vành tròn lỗ vuông, hai bên lỗ dập nổi hai chữ “gai mai”. Y ngẫm một lúc, tại sao xứ biển lại dùng tiền có chữ “gai mai”? Thường thì tiền tệ mỗi vùng đều sẽ liên quan ít nhiều tới phong tục nơi đó, như vùng Chài dùng tiền đồng vành vuông lỗ vuông song song, trên dưới dập chữ “diện môn”, trái phải dập chữ “giăng đăng” nên gọi là tiền giăng đăng, đăng ở đây chính là loại lưới giăng ngang sông để bắt cá, thấp hơn là tiền hào và tiền xu đều bằng kẽm không có chữ nhưng xu bé hơn hào, cách tính thì cứ nhân mười tức mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng.
“Đây là tiền ‘gai mai’?” Vương Vi hỏi A Túa.
“Hả?” A Túa tưởng mình nghe nhầm.
“Không phải, cậu đọc nhầm rồi, đây là tiền ‘cây mai’,” A Lục giãi bày, “chắc cậu thấy chữ ‘cây’ thiếu chữ ‘mộc’ phải không? Vốn dĩ ban đầu là chữ ‘cây’ có chữ ‘mộc’[7] nhưng mấy năm gần đây ngân khố thiếu hụt nên triều đình lược bớt vài nét cho đỡ tốn đồng đúc, thành thử nó mới ra vậy đó!”
Dứt câu thì thở dài.
Một quốc gia coi trọng nghề gom phế liệu kim loại mà nhiều nhất trong ngành này thường là đồng với sắt, thế nhưng lại thiếu đồng sao? Vương Vi hiểu có nội tình đằng sau hiện trạng trên, cố nhiên mới quen biết không nên dò hỏi nhiều bèn gật đầu với A Lục tỏ vẻ đã minh bạch, sau đó y nói:
“Cảm ơn A Túa, nhưng tôi nghĩ là mình sẽ ở lại đây ít lâu, tôi sẽ ăn mía sau khi đi làm một công việc đàng hoàng!”
Năm người kia liền ngạc nhiên đầy mặt, trừ chú Thác bị nón che khuất thì bốn cặp mắt còn lại đều trố ra nhìn họ Vương, kiểu như vừa phát hiện chủng loại mới. Vương Vi không thấy câu nói vừa rồi của bản thân có gì bất thường, dùng ánh mắt bình thường nhìn lại bọn họ, tựa hồ cũng muốn hỏi “ngạc nhiên gì vậy”. Mấy giây tiếp theo, Mắn lên tiếng:
“Thế cậu tính làm nghề gì? Chỗ tôi đang học nghề nấu nướng, cậu muốn tham gia không?”
“Tôi không giỏi việc ăn uống, tôi định làm nghề lượm đồng nát.”
“Nghề đó thì dễ, chỉ cần sức khoẻ kèm một cái nón với một cái bao bố hay dây thừng là được!” A Túa sốt ruột bảo. “Nhưng ăn uống mà không giỏi nghĩa là sao? Cậu bị đau dạ dày à?”
“Khẩu vị của tôi không tinh tế, tôi nếm bánh giầy với thịt bò thấy giống nhau, xưa giờ tôi ăn gì cũng không cần nêm gia vị cũng chẳng thấy ngon dở!” Vương Vi nói thật, còn tại sao thì trời biết.
“Tôi hiểu rồi,” một lần nữa A Lục làm người thấu tình đạt lí nhất đám, “tính cách của cậu ấy rất thích hợp để tu nguyên, là người thanh đạm ít ham muốn.”
“Ấy, đừng có nhắc tới chuyện đó…” A Ba thều thào xong thì dáo dác ngó quanh, phố xá đã vắng hoe vì chả ai muốn tắm nắng ban trưa nếu không cần thiết.
Cho rằng mấy người này đang tưởng mình bị bất bình thường, Vương Vi vắt óc cố nghĩ ra cái gì đó và chợt nhớ:
“Tôi có sở thích là uống nước.”
“Tôi cũng vậy!” Mắn cười vỗ ngực, tìm thấy đồng minh. “Uống nước là ngon nhất!”
Bốn đồng hương còn lại của Mắn liền mất tự nhiên liếc sang gã, dường mới nhận ra có bò lạc trong đàn. A Túa phục hồi tinh thần nhanh hơn mấy người kia, quả quyết nói:
“Tôi biết cậu là người chính trực, nhưng mà khách từ xa đến chớ khách sáo, chúng tôi là chủ nhà cũng nên tiếp đãi đàng hoàng! Chỉ một góc mía thôi, không đáng bao nhiêu đâu!”
Rồi quay sang vị Kẽm Vương tự phong, yêu cầu mà không ngước lên:
“Cho mượn một đồng coi!”
“Sao lại là ta?”
“Giàu thì chớ keo, nghèo thì chớ tiện!”
“Chừng nào trả để ta còn tính lãi?”
“Mai mốt trả, lãi để đãi khách nên khỏi đi!”
Dẫu thế, chú Thác vẫn móc ra một đồng “cây mai” từ túi da đeo bên hông đưa cho A Túa, A Túa cầm đủ bốn đồng vọt qua bên kia đường, chỗ tiệm mía hấp đang ế chỏng chơ, mua một góc mía về cho Vương Vi. Góc mía là cách gọi một đoạn mía đã tước vỏ, chặt thành nhiều khúc nhỏ rồi đem hấp lên, gói lại bằng một loại lá địa phương, thơm dịu nóng hổi, Vương Vi thấy có khoảng sáu, bảy khúc bèn mời tất cả cùng ăn chung, y bảo mình đang khát nước nên không muốn ăn nhiều. Mía hấp ngọt và ráo, rỉ mật khi cắn vào từng thớ ruột xốp, sau khi nhai hết chất ngọt phải nhả bã, tuy mỗi người chỉ nếm được một khúc cỡ hai lóng tay nhưng mà vui.
Sau đó cả đám cùng bàn đến chuyện lưu trú, trong năm người bạn mới này mỗi A Ba là có nhà dù nhà gã không có cửa và tổng diện tích hơn bốn luống rau cộng lại một chút, Vương Vi tạm thời ngủ nhờ nhà gã. Nói về nghề lượm đồng tất nhiên chú Thác là rành nhất còn những người kia toàn dân nghiệp dư, rảnh mới làm kiếm thêm, vậy nên chú Thác trở thành thầy dạy nghề cho Vương Vi. Bọn họ cũng có hỏi tới cái chảo mà y luôn đeo trên vai, rõ ràng là “hàng” tốt, nhưng họ Vương nói đó là đồ gia bảo độc nhất vô nhị, dùng để tráng bánh xèo nên tuyệt đối không phải phế liệu đâu!
****
CHÚ THÍCH
[1] Mười ngày gọi là một tuần 旬.
[2] Biển là hải 海, (con) sói là lang 狼. Hải lang 海狼 nghĩa là (con) sói biển.
[3] Một tấc 𡬷 là 4 cm, mười tấc là một xích 尺 tức 40 cm.
[4] Áo dài quá gối có cổ áo xiên buộc một bên, đắp nẹp cổ dài, không xẻ vạt hai bên hông, tạm gọi là áo tràng bạt 襖長拔.
[5] Áo dài vừa phải nhưng luôn phủ mông có cổ áo tròn ôm sát và có cài nút, không viền cổ, phần cuối áo xẻ thành bốn vạt trước sau, tạm gọi là áo tứ điên 襖四顛.
[6] Bánh làm từ bột năng, nước cốt dừa, nước cốt lá dứa thơm (lá nếp), đường; tạo hình bằng khuôn, bánh thành phẩm nhỏ cỡ chung trà, ẩm và tan nhanh trong miệng khi ăn. Lúc gõ bánh khỏi khuôn phải lật khuôn lại nên gọi là phục 復, tạo hình bánh nhỏ nhưng tinh xảo nên gọi là linh 玲 (đây chỉ là cách diễn giải theo truyện).
[7] Chữ (cái) cây với kiểu viết 荄 (không có chữ mộc 木) còn gồm các âm là “cai, cay, gai, gay”; chữ (cái) cây với kiểu viết 𣘃 (có chữ 木) thì chỉ một âm “cây”.
***
LỀ
A Ba 阿 巴 (âm Hán)
A Lục 阿 戮 (âm Hán)
A 阿 (âm Hán) Túa 綉 (âm Nôm)
Cực 亟 (âm Nôm) Đồng 銅 (âm Hán)
Kẽm 𨯘 (âm Nôm) Vương 王 (âm Hán)
Mắn 敏 (âm Nôm)
Thác 𣴜 (âm Nôm)
Tủa 鎖 (âm Nôm)
*
Đồng 銅 (âm Hán) Nham 碞 (âm Nôm)
Hoành quốc 橫 國 (âm Hán)
Nước Ngang 渃 昂 (âm Nôm)
Nước Ngỗng 渃 𪄌 (âm Nôm)