[Sáng Tác] Thương Sinh Quái Khách [truyện tiên hiệp]

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Truyện THƯƠNG SINH QUÁI KHÁCH
Tác giả: A BẰNG
Thể loại: Tiên hiệp, nhân sinh
Lưu ý: Truyện gốc được viết bằng tiếng Việt, một số tên riêng được chú thích thêm bằng chữ Hán - Nôm.
Giới thiệu ngắn:
Có thiếu niên vì một món nợ mà đi khắp thiên hạ,
Có thiếu nữ vì muốn giàu có mà khiêu chiến bảy mươi toà thành,
Có tên trộm toan làm chuyện xấu nhưng toàn đổ sông đổ bể,
Có thư sinh gắng làm việc tốt song chỉ thấy tan cửa nát nhà,
Có vị đại năng không gì không thấu,
Có vị đại quân chẳng biết gì cả,
Có một đứa trẻ rất là hay ho,
Có một ông già nghìn thu để hận...
Thương sinh, xích tử, bạch câu; đều hướng trời cao mà tiến!
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 1: Hai đứa trẻ trên lầu nổi
Lạn Nguyệt lâu thực chất là một chiếc thuyền kiểu dáng đặc biệt, ngoài phần thân chìm dưới nước thì bên trên giống mặt bè phẳng hình chữ nhật, trên bè giả này cất toà lầu cao ba tầng, còn mở chợ đêm ở các khoảng trống thừa xung quanh lầu. Để nhấn mạnh ý nghĩa tên gọi, trên đỉnh nóc gắn một mảnh trăng khuyết lớn làm từ dạ quang châu, có thể nói khi bóng tối buông xuống cửa biển Lạn Kha thì lầu Lạn Nguyệt trở thành mĩ nhân duy nhất, của cảnh sắc và trong lòng người dân chốn này. Vào đêm rằm, Lạn Nguyệt lâu cho bắc cầu phao bằng gỗ nối từ chỗ thuyền đậu xa mép nước tới bến tạm của dân chài trên bờ cát, ai muốn ra xem không cần tự chèo thuyền nan thuyền thúng như mọi khi, đấy cũng là dịp để bọn trẻ con ùa lên thuyền tham quan mà chẳng sợ bị người lớn cấm cản. Cầu phao được dựng từ giấc chiều, có tay vịn là lưới bện thừng, mặc dù dân sông nước đều thạo bơi lội nhưng ban đêm khó nói trước, cầu được bắc rất chắc chắn cẩn thận.
Hoạt động chính trên thuyền là gì? Gồm nhà hàng, sòng bạc, hội đấu giá. Do mức sống người dân xứ Chài so với nơi khác chỉ ở tầm trung nên giá cả trên lầu cũng được điều chỉnh cho phù hợp, ấy vậy nên vẫn hay thấy lão phú hộ béo họ Do và đứa con trai đổ đốn của lão tới lui Lạn Nguyệt hằng đêm, ngoài ra mối ruột của thuyền còn có không ít tay chơi nức tiếng khác trong vùng. Hôm nay cũng rằm, chợ đêm dưới lầu huyên náo tiếng trẻ con, chúng kéo bạn hàng xóm lên thuyền chơi, coi đùa thoả thích, trăng tròn vành vạnh như nụ cười hiền từ rủ xuống đám con trẻ tuy nghèo mà vô t.ư, đổ bóng nơi góc tối một đứa nhóc lặng thinh đứng hóng gió. Nó cứ đứng đó, không bị ai để ý, mái tóc dài và dày tới mức như bờm của mãnh sư, rẽ ngôi giữa thừa một lọn lệch từ đây sang kia như chiếc lá trúc rơi ngang trên đỉnh đầu vậy, nó tên là Vương Vi, có thể tay không đuổi được gấu.
Cha mẹ của Vương Vi là hai ông bà lão sanh con mọn, lần lượt qua đời vì tuổi già, nói nào ngay Vương Vi vừa mãn tang mẹ vào mùng chín tháng ba năm ngoái trong khi giỗ cha thì ngay mùng một tháng một. Trong thôn Ất mười ba hộ dân, nhà của Vương Vi thuộc hàng nghèo nhì thì không ai nghèo nhất nhưng chắc chắn là vui vẻ nhất, chuyện bà Vương sanh con ở tuổi năm mươi lăm đúng là chuyện lạ đồn suốt xóm trên xóm dưới, từ lúc Vương Vi ra đời ngôi nhà chỉ hai vợ chồng già liền nô nức như ngày nào cũng đang đón Tết. Bẩm sinh Vương Vi giống hệt những đứa trẻ khác, cũng ốm vặt, cũng đòi ăn nhiều, lớn chút thì bộc lộ thông minh và biết nghe lời, thích làm việc nhà từ nhỏ, thích những cỗ xe hay chạy ngang dưới dốc đồi trên con đường huyết mạch của thôn. Hai lần người thân qua đời, Vương Vi đều không khóc cũng chẳng tỏ ra đau buồn, càng lúc càng lạnh lùng hơn khiến xóm giềng nghĩ rằng nó bị trầm cảm, dần dần ít nói chuyện và thường bỏ lên núi ở qua đêm, lần lần dân thôn truyền tai nhau mấy việc ấy rồi đồn thành chuyện không hay, dù Vương Vi đã là trẻ mồ côi nhưng họ càng xa cách nó.
Hôm nay là lần đầu tiên Vương Vi bước lên Lạn Nguyệt lâu, nó từng nghe đám trẻ chăn bò kể um trời rằng đây là lầu tiên có tiên nữ ngụ ở, cách đây chừng năm nó bèn từ thôn đi bộ đường cái ra bờ biển xem, chỉ thấy một căn nhà lớn màu mè xây trên bè nổi, người ra vào toàn dân thường, chẳng thấy tiên nhân nào cả! Nhưng nó cũng thắc mắc, tại sao thứ lớn như vậy có thể dập dềnh trên mặt nước mà không bị chìm? Vì vậy, nó mới xuất hiện ở đây đêm nay. Vương Vi lắng tai nghe được tiếng quay của thứ gì đó nằm gần cuối bè, có lẽ là một dạng cơ máy ngầm, trên thuyền cũng có ròng rọc nhưng tinh vi hơn loại dùng kéo gàu nước lên miệng giếng, nó còn thấy vài kiểu xe đẩy nhỏ có thể bật mở các ngăn bằng một cái gạt duy nhất, nhiều lắm, những thứ này không phải phép thuật, chỉ là máy móc tinh vi mà thôi. Nếu có gì khó lý giải căn cơ nhất thì chính là “mảnh trăng” trên đỉnh nóc mái của lầu, “mảnh trăng” ấy phát sáng không nhờ đèn, không giống loại nến chụp cốc thuỷ tinh mà gã họ Do từng khoe khoang ở quán rượu Hương Lâu của lão Ngũ, “dạ quang châu” thì càng không phải vì con lão Ngũ là thằng Ngủ bảo thứ của báu đó ban ngày cũng sáng rực chứ không chỉ ban đêm. Vương Vi ngước nhìn “mảnh trăng” lần nữa, thầm đoán là do bôi bột lân tinh vì bột lân tinh rất nhạy tối, loại bột này lại tương đối rẻ nhưng để trát kín một “mảnh trăng” như vậy thì tốn không ít, so với đồ thật thì đồ giả đúng là kém hơn vạn phần, nó chuyển ánh nhìn sang vầng trăng lơ lửng tầng cao, thấy mây mỏng bay ngang tựa tấm áo the trôi trên sông giặt đồ, văng vẳng tiếng cô gái nào đó la í ới vói theo…
Bịch!
Thằng vừa cắm đầu va vào nó ngã dúi dụi, trán cụng bè nghe cái “cộp”, thân nó như tấm sắt chắn tên khiến người ta đau kêu ôi ối, thằng tự gây tai nạn ngẩng đầu lên liền trợn mắt vì tưởng gặp ma nhưng hoá ra lại không phải kẻ lạ, đó là Tân Cố con nhà ông chủ Tân chuyên chở gạo cho vùng Chài.
“Vi? Là mày… Sao mày cũng ở đây!”
Tân Cố lồm cồm hiên ngang đứng dậy, vội vã chỉnh lại tóc tai, vuốt mặt mũi, ban đêm mặc áo màu vàng quần màu đỏ, làng trên xóm dưới đùa thành câu: mặc đồ chìm không mang họ Tân, mặc đồ mới không mang họ Nhân. Họ Tân nhớ mặt Vương Vi chẳng do thân thiết gì mà bởi vì nó có họ, vùng Chài có tám thôn đặt tên từ một đến tám là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, riêng Nhâm, Quý thuộc thuỷ mà dân sông nước sợ thuỷ tai nên loại ra; Tân Cố ở thôn Giáp cả thôn chỉ mỗi nó có họ, thôn Ất chỉ nhà Vương Vi họ Vương và thêm cái nhà họ Nhân nữa là hai nhà, xét tiếp sáu thôn còn lại gom đủ mười họ: Tân, Vương, Nhân, Ngũ, Do, Bát, Tần, Môn, Cổ, Vi. Cái họ Tần thì có một mạng mà còn là con nuôi được đặt tên cho, nhà họ Vi có đứa tên Vương thành thử đọc ngược Vi Vương thành Vương Vi nên cũng dễ nhớ, hiềm nỗi thằng nhóc hảo ngọt đó theo chú lên phố ba năm trước bị thương hàn qua đời rồi, lúc Vi Vương còn sống rất hay theo Tân Cố đi trộm gà xuyên thôn nên hắn nhớ lắm. Có điều Vương Vi so với Vi Vương cứ như voi với sóc ấy, nghĩa là nhóc hảo ngọt thì nhanh còn thằng hảo lì này thì chậm nhưng nó mạnh như quỷ, có mỗi nó là dám vào rừng U Minh ở rìa vùng Chài, hơn nữa nó cứ đi ra đi vô như thể nhà nó ở trong đó vậy, chẳng biết bà mẹ già của nó bị cái gì đè mà sinh ra nó nữa…
Vương Vi không trả lời câu hỏi của thằng đối diện, nó không thích thằng này vì nhà hắn chẳng nghèo nhưng ưa ăn cắp vặt, ngay cả mớ nấm mới mọc dưới đụn rơm nhà nó cũng ráng mò vào trộm bằng hết, đúng là giàu mà không sang, phú mà không quý. Giờ nghe tên này mở miệng tiếp liền khẳng định suy nghĩ của nó đúng:
“À mà mày còn xu nào không? Cho tao mượn một ít đi, mày biết nhà tao mà, cứ lại gặp tía tao đòi là được!”
Nhà ông Tân chở gạo là địa chỉ thân quen của dân xứ này, dù chưa đến lần nào nhưng chỉ cần hỏi dọc đường là người ta trỏ tới tận cửa, huống hồ con ổng mang danh “chồn cay, tay trộm lành nghề” đâu đâu cũng biết mặt.
“Mượn làm gì?”
“Tía dặn tao mua thuốc điếu mà hồi nãy tao quên nên lấy tiền mua kẹo cho tụi nó hết rồi, mày còn nhiêu cho tao mượn đi, mai trả!”
Thật ra, bấy giờ Vương Vi nghĩ thế này: lão Tân làm nghề chở gạo cũng mau mắn phết, ta tính đến học nghề thử, sau này lên phố bán gạo sẽ lời hơn. Khi ấy Vương Vi cũng không tưởng tượng được bước ngoặt của cuộc đời nó nằm ở số tiền mà nó sắp cho Tân Cố mượn, nằm ở những lời mà nó sắp thốt ra. Vương Vi thường giắt xâu tiền dưới thắt lưng, đó không chỉ là tiền mà còn là vũ khí, cùng với đôi dép của ba và cái chảo của mẹ, Vương Vi không coi trọng gì khác. Nó rút sợi dây kết mấy đồng xu ra, đếm thấy đủ mười một đồng, tức chẳng rơi xu nào từ nhà đến đây, trước khi xuất hành nó đã đếm kĩ hai lượt rồi. Tân Cố thấy đối phương có mười một đồng liền đảo lia, mắt hắn thấy tiền thì sáng thấy chữ thì tối, cái danh “chồn cay” không phải để chơi, việc chi chứ địa đồ dòm giỏ là bản lĩnh giữ nhà của họ Tân đây. Hắn vét túi quần được hai xu nữa, hiện tại gộp tổng tiền đôi bên là mười ba xu, đủ mua cái gì đó tương đối ở Lạn Nguyệt lâu.
“Tao với mày hùn là đủ tiền mua thuốc cho tía tao rồi…”
“Ai hùn với mày?”
“Thì tao mượn của mày, mười một xu, thế nha!”
Tân Cố quơ nắm tiền trên tay Vương Vi nhét túi quần mình rồi chạy đi, Vương Vi không đuổi theo, ngó cái bóng lưng màu vàng vừa thốt lên câu:
“Mai là tao trả à, yên tâm đi!”
Bầu không khí tuyệt hảo của buổi đêm không vì sự kiện nho nhỏ này mà trở xấu đi, Vương Vi tiếp tục đứng trong bóng tối ngắm trăm, tự nhủ muốn gặp chủ nhân của toà lầu này, hỏi về những thứ máy móc kia. Không xét chuyện kinh doanh thì Lạn Nguyệt lâu thực sự là nơi gắn bó với kỉ niệm của dân vùng Chài, mọi người đều thích tới đây lãm cảnh du ngoạn rồi trở về nhà, thuyền không thu phí ra vào trong khu chợ đêm nên ngay cả những người nghèo nhất cũng có thể lên chơi ngắm nghía, một nơi thật sự tuyệt vời. Vương Vi cả nghĩ, nếu một ngày nào đó mình còn sống, lập được cơ ngơi, sẽ giúp con cháu của chủ thuyền một tâm nguyện; dám nghĩ như vậy, chỉ có Vương Vi.
***
LỀ
Chài 𩵝 (âm Nôm)
Hương 香 (âm Hán) Lâu 𥹰 (âm Nôm)
Lạn Kha 爛 柯 (âm Hán)
Lạn Nguyệt lâu 爛 月 樓 (âm Hán)
U Minh 幽 明 (âm Hán)
*
Tân Cố 新 故 (âm Hán)
Vi 幃 (âm Hán) Vương 𥿁 (âm Nôm)
Vương Vi 王 爲 (âm Hán)
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 1: Hai đứa trẻ trên lầu nổi
Lạn Nguyệt lâu thực chất là một chiếc thuyền kiểu dáng đặc biệt, ngoài phần thân chìm dưới nước thì bên trên giống mặt bè phẳng hình chữ nhật, trên bè giả này cất toà lầu cao ba tầng, còn mở chợ đêm ở các khoảng trống thừa xung quanh lầu. Để nhấn mạnh ý nghĩa tên gọi, trên đỉnh nóc gắn một mảnh trăng khuyết lớn làm từ dạ quang châu, có thể nói khi bóng tối buông xuống cửa biển Lạn Kha thì lầu Lạn Nguyệt trở thành mĩ nhân duy nhất, của cảnh sắc và trong lòng người dân chốn này. Vào đêm rằm, Lạn Nguyệt lâu cho bắc cầu phao bằng gỗ nối từ chỗ thuyền đậu xa mép nước tới bến tạm của dân chài trên bờ cát, ai muốn ra xem không cần tự chèo thuyền nan thuyền thúng như mọi khi, đấy cũng là dịp để bọn trẻ con ùa lên thuyền tham quan mà chẳng sợ bị người lớn cấm cản. Cầu phao được dựng từ giấc chiều, có tay vịn là lưới bện thừng, mặc dù dân sông nước đều thạo bơi lội nhưng ban đêm khó nói trước, cầu được bắc rất chắc chắn cẩn thận.
Hoạt động chính trên thuyền là gì? Gồm nhà hàng, sòng bạc, hội đấu giá. Do mức sống người dân xứ Chài so với nơi khác chỉ ở tầm trung nên giá cả trên lầu cũng được điều chỉnh cho phù hợp, ấy vậy nên vẫn hay thấy lão phú hộ béo họ Do và đứa con trai đổ đốn của lão tới lui Lạn Nguyệt hằng đêm, ngoài ra mối ruột của thuyền còn có không ít tay chơi nức tiếng khác trong vùng. Hôm nay cũng rằm, chợ đêm dưới lầu huyên náo tiếng trẻ con, chúng kéo bạn hàng xóm lên thuyền chơi, coi đùa thoả thích, trăng tròn vành vạnh như nụ cười hiền từ rủ xuống đám con trẻ tuy nghèo mà vô t.ư, đổ bóng nơi góc tối một đứa nhóc lặng thinh đứng hóng gió. Nó cứ đứng đó, không bị ai để ý, mái tóc dài và dày tới mức như bờm của mãnh sư, rẽ ngôi giữa thừa một lọn lệch từ đây sang kia như chiếc lá trúc rơi ngang trên đỉnh đầu vậy, nó tên là Vương Vi, có thể tay không đuổi được gấu.
Cha mẹ của Vương Vi là hai ông bà lão sanh con mọn, lần lượt qua đời vì tuổi già, nói nào ngay Vương Vi vừa mãn tang mẹ vào mùng chín tháng ba năm ngoái trong khi giỗ cha thì ngay mùng một tháng một. Trong thôn Ất mười ba hộ dân, nhà của Vương Vi thuộc hàng nghèo nhì thì không ai nghèo nhất nhưng chắc chắn là vui vẻ nhất, chuyện bà Vương sanh con ở tuổi năm mươi lăm đúng là chuyện lạ đồn suốt xóm trên xóm dưới, từ lúc Vương Vi ra đời ngôi nhà chỉ hai vợ chồng già liền nô nức như ngày nào cũng đang đón Tết. Bẩm sinh Vương Vi giống hệt những đứa trẻ khác, cũng ốm vặt, cũng đòi ăn nhiều, lớn chút thì bộc lộ thông minh và biết nghe lời, thích làm việc nhà từ nhỏ, thích những cỗ xe hay chạy ngang dưới dốc đồi trên con đường huyết mạch của thôn. Hai lần người thân qua đời, Vương Vi đều không khóc cũng chẳng tỏ ra đau buồn, càng lúc càng lạnh lùng hơn khiến xóm giềng nghĩ rằng nó bị trầm cảm, dần dần ít nói chuyện và thường bỏ lên núi ở qua đêm, lần lần dân thôn truyền tai nhau mấy việc ấy rồi đồn thành chuyện không hay, dù Vương Vi đã là trẻ mồ côi nhưng họ càng xa cách nó.
Hôm nay là lần đầu tiên Vương Vi bước lên Lạn Nguyệt lâu, nó từng nghe đám trẻ chăn bò kể um trời rằng đây là lầu tiên có tiên nữ ngụ ở, cách đây chừng năm nó bèn từ thôn đi bộ đường cái ra bờ biển xem, chỉ thấy một căn nhà lớn màu mè xây trên bè nổi, người ra vào toàn dân thường, chẳng thấy tiên nhân nào cả! Nhưng nó cũng thắc mắc, tại sao thứ lớn như vậy có thể dập dềnh trên mặt nước mà không bị chìm? Vì vậy, nó mới xuất hiện ở đây đêm nay. Vương Vi lắng tai nghe được tiếng quay của thứ gì đó nằm gần cuối bè, có lẽ là một dạng cơ máy ngầm, trên thuyền cũng có ròng rọc nhưng tinh vi hơn loại dùng kéo gàu nước lên miệng giếng, nó còn thấy vài kiểu xe đẩy nhỏ có thể bật mở các ngăn bằng một cái gạt duy nhất, nhiều lắm, những thứ này không phải phép thuật, chỉ là máy móc tinh vi mà thôi. Nếu có gì khó lý giải căn cơ nhất thì chính là “mảnh trăng” trên đỉnh nóc mái của lầu, “mảnh trăng” ấy phát sáng không nhờ đèn, không giống loại nến chụp cốc thuỷ tinh mà gã họ Do từng khoe khoang ở quán rượu Hương Lâu của lão Ngũ, “dạ quang châu” thì càng không phải vì con lão Ngũ là thằng Ngủ bảo thứ của báu đó ban ngày cũng sáng rực chứ không chỉ ban đêm. Vương Vi ngước nhìn “mảnh trăng” lần nữa, thầm đoán là do bôi bột lân tinh vì bột lân tinh rất nhạy tối, loại bột này lại tương đối rẻ nhưng để trát kín một “mảnh trăng” như vậy thì tốn không ít, so với đồ thật thì đồ giả đúng là kém hơn vạn phần, nó chuyển ánh nhìn sang vầng trăng lơ lửng tầng cao, thấy mây mỏng bay ngang tựa tấm áo the trôi trên sông giặt đồ, văng vẳng tiếng cô gái nào đó la í ới vói theo…
Bịch!
Thằng vừa cắm đầu va vào nó ngã dúi dụi, trán cụng bè nghe cái “cộp”, thân nó như tấm sắt chắn tên khiến người ta đau kêu ôi ối, thằng tự gây tai nạn ngẩng đầu lên liền trợn mắt vì tưởng gặp ma nhưng hoá ra lại không phải kẻ lạ, đó là Tân Cố con nhà ông chủ Tân chuyên chở gạo cho vùng Chài.
“Vi? Là mày… Sao mày cũng ở đây!”
Tân Cố lồm cồm hiên ngang đứng dậy, vội vã chỉnh lại tóc tai, vuốt mặt mũi, ban đêm mặc áo màu vàng quần màu đỏ, làng trên xóm dưới đùa thành câu: mặc đồ chìm không mang họ Tân, mặc đồ mới không mang họ Nhân. Họ Tân nhớ mặt Vương Vi chẳng do thân thiết gì mà bởi vì nó có họ, vùng Chài có tám thôn đặt tên từ một đến tám là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, riêng Nhâm, Quý thuộc thuỷ mà dân sông nước sợ thuỷ tai nên loại ra; Tân Cố ở thôn Giáp cả thôn chỉ mỗi nó có họ, thôn Ất chỉ nhà Vương Vi họ Vương và thêm cái nhà họ Nhân nữa là hai nhà, xét tiếp sáu thôn còn lại gom đủ mười họ: Tân, Vương, Nhân, Ngũ, Do, Bát, Tần, Môn, Cổ, Vi. Cái họ Tần thì có một mạng mà còn là con nuôi được đặt tên cho, nhà họ Vi có đứa tên Vương thành thử đọc ngược Vi Vương thành Vương Vi nên cũng dễ nhớ, hiềm nỗi thằng nhóc hảo ngọt đó theo chú lên phố ba năm trước bị thương hàn qua đời rồi, lúc Vi Vương còn sống rất hay theo Tân Cố đi trộm gà xuyên thôn nên hắn nhớ lắm. Có điều Vương Vi so với Vi Vương cứ như voi với sóc ấy, nghĩa là nhóc hảo ngọt thì nhanh còn thằng hảo lì này thì chậm nhưng nó mạnh như quỷ, có mỗi nó là dám vào rừng U Minh ở rìa vùng Chài, hơn nữa nó cứ đi ra đi vô như thể nhà nó ở trong đó vậy, chẳng biết bà mẹ già của nó bị cái gì đè mà sinh ra nó nữa…
Vương Vi không trả lời câu hỏi của thằng đối diện, nó không thích thằng này vì nhà hắn chẳng nghèo nhưng ưa ăn cắp vặt, ngay cả mớ nấm mới mọc dưới đụn rơm nhà nó cũng ráng mò vào trộm bằng hết, đúng là giàu mà không sang, phú mà không quý. Giờ nghe tên này mở miệng tiếp liền khẳng định suy nghĩ của nó đúng:
“À mà mày còn xu nào không? Cho tao mượn một ít đi, mày biết nhà tao mà, cứ lại gặp tía tao đòi là được!”
Nhà ông Tân chở gạo là địa chỉ thân quen của dân xứ này, dù chưa đến lần nào nhưng chỉ cần hỏi dọc đường là người ta trỏ tới tận cửa, huống hồ con ổng mang danh “chồn cay, tay trộm lành nghề” đâu đâu cũng biết mặt.
“Mượn làm gì?”
“Tía dặn tao mua thuốc điếu mà hồi nãy tao quên nên lấy tiền mua kẹo cho tụi nó hết rồi, mày còn nhiêu cho tao mượn đi, mai trả!”
Thật ra, bấy giờ Vương Vi nghĩ thế này: lão Tân làm nghề chở gạo cũng mau mắn phết, ta tính đến học nghề thử, sau này lên phố bán gạo sẽ lời hơn. Khi ấy Vương Vi cũng không tưởng tượng được bước ngoặt của cuộc đời nó nằm ở số tiền mà nó sắp cho Tân Cố mượn, nằm ở những lời mà nó sắp thốt ra. Vương Vi thường giắt xâu tiền dưới thắt lưng, đó không chỉ là tiền mà còn là vũ khí, cùng với đôi dép của ba và cái chảo của mẹ, Vương Vi không coi trọng gì khác. Nó rút sợi dây kết mấy đồng xu ra, đếm thấy đủ mười một đồng, tức chẳng rơi xu nào từ nhà đến đây, trước khi xuất hành nó đã đếm kĩ hai lượt rồi. Tân Cố thấy đối phương có mười một đồng liền đảo lia, mắt hắn thấy tiền thì sáng thấy chữ thì tối, cái danh “chồn cay” không phải để chơi, việc chi chứ địa đồ dòm giỏ là bản lĩnh giữ nhà của họ Tân đây. Hắn vét túi quần được hai xu nữa, hiện tại gộp tổng tiền đôi bên là mười ba xu, đủ mua cái gì đó tương đối ở Lạn Nguyệt lâu.
“Tao với mày hùn là đủ tiền mua thuốc cho tía tao rồi…”
“Ai hùn với mày?”
“Thì tao mượn của mày, mười một xu, thế nha!”
Tân Cố quơ nắm tiền trên tay Vương Vi nhét túi quần mình rồi chạy đi, Vương Vi không đuổi theo, ngó cái bóng lưng màu vàng vừa thốt lên câu:
“Mai là tao trả à, yên tâm đi!”
Bầu không khí tuyệt hảo của buổi đêm không vì sự kiện nho nhỏ này mà trở xấu đi, Vương Vi tiếp tục đứng trong bóng tối ngắm trăm, tự nhủ muốn gặp chủ nhân của toà lầu này, hỏi về những thứ máy móc kia. Không xét chuyện kinh doanh thì Lạn Nguyệt lâu thực sự là nơi gắn bó với kỉ niệm của dân vùng Chài, mọi người đều thích tới đây lãm cảnh du ngoạn rồi trở về nhà, thuyền không thu phí ra vào trong khu chợ đêm nên ngay cả những người nghèo nhất cũng có thể lên chơi ngắm nghía, một nơi thật sự tuyệt vời. Vương Vi cả nghĩ, nếu một ngày nào đó mình còn sống, lập được cơ ngơi, sẽ giúp con cháu của chủ thuyền một tâm nguyện; dám nghĩ như vậy, chỉ có Vương Vi.
***
LỀ
Chài 𩵝 (âm Nôm)
Hương 香 (âm Hán) Lâu 𥹰 (âm Nôm)
Lạn Kha 爛 柯 (âm Hán)
Lạn Nguyệt lâu 爛 月 樓 (âm Hán)
U Minh 幽 明 (âm Hán)
*
Tân Cố 新 故 (âm Hán)
Vi 幃 (âm Hán) Vương 𥿁 (âm Nôm)
Vương Vi 王 爲 (âm Hán)
 
Last edited:

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 1: Hai đứa trẻ trên lầu nổi
Lạn Nguyệt lâu thực chất là một chiếc thuyền kiểu dáng đặc biệt, ngoài phần thân chìm dưới nước thì bên trên giống mặt bè phẳng hình chữ nhật, trên bè giả này cất toà lầu cao ba tầng, còn mở chợ đêm ở các khoảng trống thừa xung quanh lầu. Để nhấn mạnh ý nghĩa tên gọi, trên đỉnh nóc gắn một mảnh trăng khuyết lớn làm từ dạ quang châu, có thể nói khi bóng tối buông xuống cửa biển Lạn Kha thì lầu Lạn Nguyệt trở thành mĩ nhân duy nhất, của cảnh sắc và trong lòng người dân chốn này. Vào đêm rằm, Lạn Nguyệt lâu cho bắc cầu phao bằng gỗ nối từ chỗ thuyền đậu xa mép nước tới bến tạm của dân chài trên bờ cát, ai muốn ra xem không cần tự chèo thuyền nan thuyền thúng như mọi khi, đấy cũng là dịp để bọn trẻ con ùa lên thuyền tham quan mà chẳng sợ bị người lớn cấm cản. Cầu phao được dựng từ giấc chiều, có tay vịn là lưới bện thừng, mặc dù dân sông nước đều thạo bơi lội nhưng ban đêm khó nói trước, cầu được bắc rất chắc chắn cẩn thận.
Hoạt động chính trên thuyền là gì? Gồm nhà hàng, sòng bạc, hội đấu giá. Do mức sống người dân xứ Chài so với nơi khác chỉ ở tầm trung nên giá cả trên lầu cũng được điều chỉnh cho phù hợp, ấy vậy nên vẫn hay thấy lão phú hộ béo họ Do và đứa con trai đổ đốn của lão tới lui Lạn Nguyệt hằng đêm, ngoài ra mối ruột của thuyền còn có không ít tay chơi nức tiếng khác trong vùng. Hôm nay cũng rằm, chợ đêm dưới lầu huyên náo tiếng trẻ con, chúng kéo bạn hàng xóm lên thuyền chơi, coi đùa thoả thích, trăng tròn vành vạnh như nụ cười hiền từ rủ xuống đám con trẻ tuy nghèo mà vô t.ư, đổ bóng nơi góc tối một đứa nhóc lặng thinh đứng hóng gió. Nó cứ đứng đó, không bị ai để ý, mái tóc dài và dày tới mức như bờm của mãnh sư, rẽ ngôi giữa thừa một lọn lệch từ đây sang kia như chiếc lá trúc rơi ngang trên đỉnh đầu vậy, nó tên là Vương Vi, có thể tay không đuổi được gấu.
Cha mẹ của Vương Vi là hai ông bà lão sanh con mọn, lần lượt qua đời vì tuổi già, nói nào ngay Vương Vi vừa mãn tang mẹ vào mùng chín tháng ba năm ngoái trong khi giỗ cha thì ngay mùng một tháng một. Trong thôn Ất mười ba hộ dân, nhà của Vương Vi thuộc hàng nghèo nhì thì không ai nghèo nhất nhưng chắc chắn là vui vẻ nhất, chuyện bà Vương sanh con ở tuổi năm mươi lăm đúng là chuyện lạ đồn suốt xóm trên xóm dưới, từ lúc Vương Vi ra đời ngôi nhà chỉ hai vợ chồng già liền nô nức như ngày nào cũng đang đón Tết. Bẩm sinh Vương Vi giống hệt những đứa trẻ khác, cũng ốm vặt, cũng đòi ăn nhiều, lớn chút thì bộc lộ thông minh và biết nghe lời, thích làm việc nhà từ nhỏ, thích những cỗ xe hay chạy ngang dưới dốc đồi trên con đường huyết mạch của thôn. Hai lần người thân qua đời, Vương Vi đều không khóc cũng chẳng tỏ ra đau buồn, càng lúc càng lạnh lùng hơn khiến xóm giềng nghĩ rằng nó bị trầm cảm, dần dần ít nói chuyện và thường bỏ lên núi ở qua đêm, lần lần dân thôn truyền tai nhau mấy việc ấy rồi đồn thành chuyện không hay, dù Vương Vi đã là trẻ mồ côi nhưng họ càng xa cách nó.
Hôm nay là lần đầu tiên Vương Vi bước lên Lạn Nguyệt lâu, nó từng nghe đám trẻ chăn bò kể um trời rằng đây là lầu tiên có tiên nữ ngụ ở, cách đây chừng năm nó bèn từ thôn đi bộ đường cái ra bờ biển xem, chỉ thấy một căn nhà lớn màu mè xây trên bè nổi, người ra vào toàn dân thường, chẳng thấy tiên nhân nào cả! Nhưng nó cũng thắc mắc, tại sao thứ lớn như vậy có thể dập dềnh trên mặt nước mà không bị chìm? Vì vậy, nó mới xuất hiện ở đây đêm nay. Vương Vi lắng tai nghe được tiếng quay của thứ gì đó nằm gần cuối bè, có lẽ là một dạng cơ máy ngầm, trên thuyền cũng có ròng rọc nhưng tinh vi hơn loại dùng kéo gàu nước lên miệng giếng, nó còn thấy vài kiểu xe đẩy nhỏ có thể bật mở các ngăn bằng một cái gạt duy nhất, nhiều lắm, những thứ này không phải phép thuật, chỉ là máy móc tinh vi mà thôi. Nếu có gì khó lý giải căn cơ nhất thì chính là “mảnh trăng” trên đỉnh nóc mái của lầu, “mảnh trăng” ấy phát sáng không nhờ đèn, không giống loại nến chụp cốc thuỷ tinh mà gã họ Do từng khoe khoang ở quán rượu Hương Lâu của lão Ngũ, “dạ quang châu” thì càng không phải vì con lão Ngũ là thằng Ngủ bảo thứ của báu đó ban ngày cũng sáng rực chứ không chỉ ban đêm. Vương Vi ngước nhìn “mảnh trăng” lần nữa, thầm đoán là do bôi bột lân tinh vì bột lân tinh rất nhạy tối, loại bột này lại tương đối rẻ nhưng để trát kín một “mảnh trăng” như vậy thì tốn không ít, so với đồ thật thì đồ giả đúng là kém hơn vạn phần, nó chuyển ánh nhìn sang vầng trăng lơ lửng tầng cao, thấy mây mỏng bay ngang tựa tấm áo the trôi trên sông giặt đồ, văng vẳng tiếng cô gái nào đó la í ới vói theo…
Bịch!
Thằng vừa cắm đầu va vào nó ngã dúi dụi, trán cụng bè nghe cái “cộp”, thân nó như tấm sắt chắn tên khiến người ta đau kêu ôi ối, thằng tự gây tai nạn ngẩng đầu lên liền trợn mắt vì tưởng gặp ma nhưng hoá ra lại không phải kẻ lạ, đó là Tân Cố con nhà ông chủ Tân chuyên chở gạo cho vùng Chài.
“Vi? Là mày… Sao mày cũng ở đây!”
Tân Cố lồm cồm hiên ngang đứng dậy, vội vã chỉnh lại tóc tai, vuốt mặt mũi, ban đêm mặc áo màu vàng quần màu đỏ, làng trên xóm dưới đùa thành câu: mặc đồ chìm không mang họ Tân, mặc đồ mới không mang họ Nhân. Họ Tân nhớ mặt Vương Vi chẳng do thân thiết gì mà bởi vì nó có họ, vùng Chài có tám thôn đặt tên từ một đến tám là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, riêng Nhâm, Quý thuộc thuỷ mà dân sông nước sợ thuỷ tai nên loại ra; Tân Cố ở thôn Giáp cả thôn chỉ mỗi nó có họ, thôn Ất chỉ nhà Vương Vi họ Vương và thêm cái nhà họ Nhân nữa là hai nhà, xét tiếp sáu thôn còn lại gom đủ mười họ: Tân, Vương, Nhân, Ngũ, Do, Bát, Tần, Môn, Cổ, Vi. Cái họ Tần thì có một mạng mà còn là con nuôi được đặt tên cho, nhà họ Vi có đứa tên Vương thành thử đọc ngược Vi Vương thành Vương Vi nên cũng dễ nhớ, hiềm nỗi thằng nhóc hảo ngọt đó theo chú lên phố ba năm trước bị thương hàn qua đời rồi, lúc Vi Vương còn sống rất hay theo Tân Cố đi trộm gà xuyên thôn nên hắn nhớ lắm. Có điều Vương Vi so với Vi Vương cứ như voi với sóc ấy, nghĩa là nhóc hảo ngọt thì nhanh còn thằng hảo lì này thì chậm nhưng nó mạnh như quỷ, có mỗi nó là dám vào rừng U Minh ở rìa vùng Chài, hơn nữa nó cứ đi ra đi vô như thể nhà nó ở trong đó vậy, chẳng biết bà mẹ già của nó bị cái gì đè mà sinh ra nó nữa…
Vương Vi không trả lời câu hỏi của thằng đối diện, nó không thích thằng này vì nhà hắn chẳng nghèo nhưng ưa ăn cắp vặt, ngay cả mớ nấm mới mọc dưới đụn rơm nhà nó cũng ráng mò vào trộm bằng hết, đúng là giàu mà không sang, phú mà không quý. Giờ nghe tên này mở miệng tiếp liền khẳng định suy nghĩ của nó đúng:
“À mà mày còn xu nào không? Cho tao mượn một ít đi, mày biết nhà tao mà, cứ lại gặp tía tao đòi là được!”
Nhà ông Tân chở gạo là địa chỉ thân quen của dân xứ này, dù chưa đến lần nào nhưng chỉ cần hỏi dọc đường là người ta trỏ tới tận cửa, huống hồ con ổng mang danh “chồn cay, tay trộm lành nghề” đâu đâu cũng biết mặt.
“Mượn làm gì?”
“Tía dặn tao mua thuốc điếu mà hồi nãy tao quên nên lấy tiền mua kẹo cho tụi nó hết rồi, mày còn nhiêu cho tao mượn đi, mai trả!”
Thật ra, bấy giờ Vương Vi nghĩ thế này: lão Tân làm nghề chở gạo cũng mau mắn phết, ta tính đến học nghề thử, sau này lên phố bán gạo sẽ lời hơn. Khi ấy Vương Vi cũng không tưởng tượng được bước ngoặt của cuộc đời nó nằm ở số tiền mà nó sắp cho Tân Cố mượn, nằm ở những lời mà nó sắp thốt ra. Vương Vi thường giắt xâu tiền dưới thắt lưng, đó không chỉ là tiền mà còn là vũ khí, cùng với đôi dép của ba và cái chảo của mẹ, Vương Vi không coi trọng gì khác. Nó rút sợi dây kết mấy đồng xu ra, đếm thấy đủ mười một đồng, tức chẳng rơi xu nào từ nhà đến đây, trước khi xuất hành nó đã đếm kĩ hai lượt rồi. Tân Cố thấy đối phương có mười một đồng liền đảo lia, mắt hắn thấy tiền thì sáng thấy chữ thì tối, cái danh “chồn cay” không phải để chơi, việc chi chứ địa đồ dòm giỏ là bản lĩnh giữ nhà của họ Tân đây. Hắn vét túi quần được hai xu nữa, hiện tại gộp tổng tiền đôi bên là mười ba xu, đủ mua cái gì đó tương đối ở Lạn Nguyệt lâu.
“Tao với mày hùn là đủ tiền mua thuốc cho tía tao rồi…”
“Ai hùn với mày?”
“Thì tao mượn của mày, mười một xu, thế nha!”
Tân Cố quơ nắm tiền trên tay Vương Vi nhét túi quần mình rồi chạy đi, Vương Vi không đuổi theo, ngó cái bóng lưng màu vàng vừa thốt lên câu:
“Mai là tao trả à, yên tâm đi!”
Bầu không khí tuyệt hảo của buổi đêm không vì sự kiện nho nhỏ này mà trở xấu đi, Vương Vi tiếp tục đứng trong bóng tối ngắm trăm, tự nhủ muốn gặp chủ nhân của toà lầu này, hỏi về những thứ máy móc kia. Không xét chuyện kinh doanh thì Lạn Nguyệt lâu thực sự là nơi gắn bó với kỉ niệm của dân vùng Chài, mọi người đều thích tới đây lãm cảnh du ngoạn rồi trở về nhà, thuyền không thu phí ra vào trong khu chợ đêm nên ngay cả những người nghèo nhất cũng có thể lên chơi ngắm nghía, một nơi thật sự tuyệt vời. Vương Vi cả nghĩ, nếu một ngày nào đó mình còn sống, lập được cơ ngơi, sẽ giúp con cháu của chủ thuyền một tâm nguyện; dám nghĩ như vậy, chỉ có Vương Vi.
***
LỀ
Chài 𩵝 (âm Nôm)
Hương 香 (âm Hán) Lâu 𥹰 (âm Nôm)
Lạn Kha 爛 柯 (âm Hán)
Lạn Nguyệt lâu 爛 月 樓 (âm Hán)
U Minh 幽 明 (âm Hán)
*
Tân Cố 新 故 (âm Hán)
Vi 幃 (âm Hán) Vương 𥿁 (âm Nôm)
Vương Vi 王 爲 (âm Hán)
Chương này mình đăng thử, admin xoá hộ mình cho đỡ trùng nha! Cảm ơn nhiều.
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 2: Vỡ lở
Trời về khuya lạnh càng lạnh hơn, khách khứa vãng cảnh nối nhau ra về gần hết, còn sót đôi ba cặp đôi hẵng lừng khừng bày tỏ chưa đủ nỗi lòng, Vương Vi cũng toan về nhà thì chợt thấy một nhóm ba người hai lớn một nhỏ đang lôi kéo nhau ra tới mé thuyền tại hướng cửa biển. Người nhỏ trong nhóm lại là Tân Cố, tên nhóc mà Vương Vi mới cho mượn tiền ban nãy, hai người lớn hơn mặc áo quần có may diềm thêu trông khá đắt tiền, bọn họ còn đang cười nói với nhau chừng vui vẻ chợt thấy họ Tân lắc đầu liền trở mặt, ra dáng hăm doạ, Tân Cố bị hai tên lớn hơn ép trước mặt, sau lưng là nước, bi hài ở chỗ nó là dân xứ Chài nhưng bơi tệ và không bơi biển được. Vương Vi đứng bất động quan sát tình hình, nó đoán ra vài chi tiết, ví dụ như thằng nhóc đấy ăn cắp vặt quen tay chắc là vừa thó cái gì trên thuyền hoặc thậm chí ở trong lầu, hai tên người lớn cũng không phải khổ chủ chạy theo đòi lại của mà là đòi chia chác, tuổi hai tên này chừng khoảng hai mươi, trông mặt hoa da phấn nhưng có thói côn đồ thì chưa chắc đã trói gà không chặt. Tân Cố bị một tên nắm áo nhấc bổng lên chìa ra khỏi lan can bè, tên còn lại vừa chỉ chỏ như đang dạy đời, thằng nhóc hổng chân quơ quẫy trên không, la ó mắng tục, cuối cùng tự dưng quay đầu nhìn thấy chủ nợ đang xem kịch từ xa với khuôn mặt không cảm xúc.
“Ê Vi, cứu tao!” Hắn ta gào to, ứa nước mắt. “Hai thằng này tính giết tao thiệt đó!”
Tiếng la thất thanh khiến cả thuyền chú ý, vài người sợ chuyện vội vàng theo cầu phao rời khỏi thuyền, trên thuyền cũng có cảnh vệ khoảng bốn, năm thành viên vội xúm ra can, hỏi han hai tên thanh niên đang bắt nạt một đứa nhóc mới chín, mười tuổi. Vương Vi vẫn không làm gì cả, bên kia đã bắt đầu động can qua, lần đầu tiên nó thấy một tên ẻo lả lại đá bay được một gã võ biền to gấp đôi mình, quả nhiên hai cái tên mặc đồ diêm dúa này có ngón nghề, tuy vậy do chúng bận đối phó mấy tay cảnh vệ nên ném thứ vướng víu là Tân Cố xuống thuyền cái “bịch”. Bấy giờ tên hành hung họ Tân suốt nãy, quát cảnh cáo:
“Mày nằm im đó, cấm nhúc nhích! Đợi tụi tao xử lí hết mấy thằng bao đồng này rồi xử mày sau!”
Cảnh vệ từ trên lầu xuống thêm mấy người nữa cũng không phải đối thủ của hai thanh niên kia, Vương Vi ngó thằng thôn trên thật sự lăn ra giả chết, hắn đang ở ngoài tầm tay chân của đám hỗn chiến, ắt đang ôm hy vọng trai cò níu nhau ngư ông nhổm chạy. Đêm nay nếu đánh, phải có thương vong, Vương Vi hiểu thế.
“Khoan đã!”
Hai tên thanh niên vừa đạp hết đám cảnh vệ cho lau sàn thì thấy một thằng nhóc mặc áo bạc màu, gấu áo quần đều tua rách, đi guốc mộc, tóc đen dày như bờm thú song mặt mũi sáng láng lắm, có điều ánh mắt hơi ớn lạnh. Tên này nhìn tên kia như hội ý, mà giờ trông kĩ chắc hai tên này sinh đôi, sao giống nhau y hệt, một tên lên tiếng trước hẳn là anh trong hai anh em:
“Nhóc là bạn của thằng bé kia à? Cũng sống ở đây sao?”
Vương Vi không trả lời câu hỏi:
“Võ công của hai người là học ở đâu?”
“Hả?”
Tên anh ngạc nhiên, em của gã lại mừng ra mặt, sốt sắng nói:
“Đệ muốn học võ công à? Hai anh em chúng ta là Ngạc Nhiên và Ngạc Thật, đều là đệ tử quan môn ở Thôi Vũ Môn, nếu đệ bằng lòng bái sư thì chúng ta có thể cùng một thầy đó!”
Nói xong cả hai cười rộ.
“Võ công thôi chưa đủ, còn gì hay hơn nữa không?”
Vương Vi linh cảm chúng đang giấu giếm, với cách hai tên này đánh cảnh vệ cũng chẳng ra dáng võ phu, chỉ là ỷ mạnh đánh bật đối thủ mà thôi.
“Có!” Ngạc Thật bước tới trước, khoa tay như xảo thuật, lật ra một cái chén trắng loại uống trà sao, đưa cho Vương Vi xem. “Đệ thử chỉ ngón tay vào lòng chén, sẽ thấy có điều kì diệu xảy ra!”
“Đừng, Vi!” Tân Cố đang giả chết bỗng sống lại, hét bể giọng.
Đương lúc Ngạc Nhiên tức giận đá thằng nhóc đang úp sấp rơi cái tòm xuống nước thì em gã cũng rống to lên, như bị thọc tiết.
“Gì vậy?”
Ngạc Nhiên quay đầu, thấy tay trái của em trai mình chỉ còn cổ tay, toàn bộ phần bàn tay đã bị thằng nhóc tên Vi kia bóp thành đống bầy nhầy, cái chén cũng bị nó giằng lấy mất.
“Mày muốn chết!”
Ngạc Nhiên lao lên mặc cho Ngạc Thật lăn lộn khóc to, ban nãy y đá người ta cũng vui sướng lắm, giờ đến lượt mình thì không ung dung được vậy, còn Ngạc Nhiên đấm đá liên tục vào khoảng không, thằng nhóc cùng cái chén như trò hoa mắt đùa cợt gã. Vương Vi xác định tên này không biết võ nhưng khá nhanh, dù vẫn thua con khỉ già mà nó từng giao chiến năm đó, khó lường nhất là cái chén này trông thì giống sứ song dùng hết sức cũng bóp không nát, là làm từ chất liệu gì vậy?
Vương Vi doạ nạt:
“Tao giết em mày trước đã!”
Rồi xông sượt qua vai Ngạc Nhiên bằng một bước lướt không chạm sàn, túm cổ Ngạc Thật đang loạn trí vì bị thương nặng, nó giả giơ tay trái ra một đòn chặt trí mạnh xuống đầu tên em, quả nhiên Ngạc Nhiên cũng không thể không dùng bản lĩnh thật. Bấy giờ bên mạn thuyền có đứa lóp ngóp tìm cách bò lên, không ai khác ngoài Tân Cố, hắn vừa phát hiện sau khi no nước rằng cái lầu này không phải nổi trên bè mà thật ra là một chiếc thuyền nguỵ trang, nhờ bị lặn sâu hắn mới thấy có chân vịt ngầm và mỏ neo bên dưới, việc ấy cũng chẳng đáng tự hào cho cam, chỉ mỗi họ Tân cảm thấy mình đã được khai sáng.
Trở lại chuyện trên thuyền, muốn diễn tả nhiều cũng không có gì nhiều để diễn tả, vì Vương Vi phản xạ nghiêng đầu liền né được thanh giản mà Ngạc Nhiên nện tới, nó xoay eo cực đại như miếng khăn vắt khô nước, tung một cú đấm xuyên vào ngực đối thủ khiến gã bay ngược trở ra một đoạn ngắn, hộc máu đầy sàn. Ngạc Thật chẳng rõ ra sao mà đã chết giấc nằm ngay đơ, còn anh trai y vừa ôm ngực vừa gằn từng tiếng:
“Mày… mày là quỷ… không, không đúng… mày là nguyên sĩ… tại sao… chỗ này… lại… có… nguyên… sĩ?”
Hai chữ cuối gã thốt rất khó khăn, người thường lĩnh một quyền này đã chết lập tức vì tim tụ máu bầm nhưng gã thậm chí vẫn còn nói được. Hiện tại gã không muốn đánh tiếp, đánh tiếp sẽ chết, dù vẫn còn vài thứ phòng thân chưa ném ra nhưng phải dùng để giành phần thắng thì tiếc quá, gã rút từ trong áo một miếng giấy màu lam, truyền chút nguyên năng vào thì miếng giấy sáng lên, xung quanh gã đột nhiên phủ trùm khói xám đen, gã cũng biến mất. Vương Vi không thể nhìn xuyên qua lớp khói ấy, dựa vào động tĩnh vọng nơi màng nhĩ mà biết đối phương đang kéo nhau tẩu thoát, nếu có cơ hội ắt sẽ quay lại báo thù, nhưng nó chẳng sợ những kẻ vừa thiếu bản lĩnh vừa không có gan:
“Quỷ ở trong bóng tối, không nơi nào mà bóng tối không thể phủ lên.”
Đó cũng là câu cuối cùng mà Ngạc Nhiên nghe được, gã cùng em trai và một người nữa đã rút khỏi thuyền ngay khi chùm tia màu lục huyền bí nhá sáng, để lại lúc khói tan là đám cảnh vệ nằm la liệt, không còn khách khứa, không còn Vương Vi, không thấy Tân Cố. Vương Vi lên bờ lúc gần tảng sáng, ở một bãi cát hoang vắng, nó đã bơi suốt đêm, mang theo cái chén giằng được từ tay Ngạc Thật, nó đoán thứ này có ẩn tình nên tìm chỗ nghiên cứu.
Đầu tiên, Vương Vi thử dùng cái chén múc nước biển nhưng nó khô ran tựa hồ miệng chén bị bịt kín bằng tấm màng căng vô hình, tiếp theo nó đổ nước biển vào chén theo phương thẳng đứng thì đổ bao nhiêu cũng không đầy ắp được giống cái hố không đáy vậy. Rồi nó nhặt mấy thứ vụn vặt như vỏ sò trái dừa gần đó trút tất vào thì cái chén đều hút hết, úp ngược lắc cỡ nào cũng không rơi ra, tuy nhiên tên Ngạc Thật từng dụ nó chỉ tay vào chén, lẽ nào thứ này cũng chứa được vật sống? Hoặc, có thể giết vật sống rồi thu nhỏ xác chứa ở trong. Vương Vi thử thêm vài lần, lại muốn cầm về chờ Ái Nhân ghé xem thử nhưng nghĩ đồ của kẻ bất lương thì chắc cũng là của bất nghĩa, vứt quách cho khỏi bẩn tay, thế là nó ném cái chén ra xa, rơi chìm ngoài biển rộng, sau đó thì trở về nhà mình, định bụng ngày mai tới nhà ông Tân chở gạo xem tình hình thế nào.
Còn Tân Cố? Hắn bị Ngạc Nhiên quơ theo cùng với Ngạc Thật, ba mạng cùng xuất hiện ở nơi nào đó mà cả ba đều không biết tên, trú tạm trong một hang động vừa tìm thấy, trời còn chưa sáng. Ngạc Thật được băng bó xong ngủ rồi còn Tân Cố thì bị anh trai y đập một trận nhừ tử khiến nó khai ra tên của Vương Vi, còn xin Ngạc Nhiên được vào Thôi Vũ Môn gì đó làm đệ tử. Ngạc Nhiên tung cước đá thằng nhóc lăn đụng vách hang, chửi thề đã miệng rồi mới nói:
“Mày nghĩ ai cũng có thể làm nguyên sĩ à? Thằng bạn mày tụi tao thấy nó mặt đẹp nên định dụ nó về làm bổ túc nhân cho tụi tao, mày tưởng cái thứ quê mùa nghèo hèn như tụi mày mà xứng lên núi bái sư tu nguyên sao? Biết thân biết phận đi, thằng nhóc Vương Vi đó, lần sau gặp lại tao không để nó chết nhanh được đâu! Còn mày, biểu hiện tốt thì tao để cho sai vặt, nhược bằng không thì làm bữa tối hôm nay đi!”
“Nấu… nấu ăn, em không có biết!” Tân Cố lí nhí đáp.
“Nấu cái gì ăn?” Ngạc Nhiên hét vào mặt thằng nhóc. “Chỗ khỉ ho cò gáy này ngay cả chuột cũng không thấy, thịt mày chia làm đôi hai anh em tao còn chưa đủ nhét kẽ răng nữa!”
Mặt họ Tân không còn hột máu, đối phương có nói hay làm gì nữa cũng chẳng biết nốt, gục xỉu luôn rồi. Ngạc Thật bị trận ỏm tỏi đánh thức, mệt mỏi mở mắt nhìn anh trai mình trông như chậu gốm chưa nung đã bị đụng méo, thở dài than:
“Đúng là xui xẻo, em còn tưởng trước khi đi đầu thai còn được vui chơi vài hôm, bắt nạt vài tên yếu nhớt, kết quả… ài, chúng ta đã bi lại còn thảm hơn cả cái thảm chùi chân của lão đồ tể đó nữa!”
Ngạc Nhiên đang không vui, nghe vậy càng nhăn tít:
“Sắp tới là đi thám bảo, có phải đi chết đâu mà em làm như lên pháp trường không bằng! Còn chút nữa là tiến cảnh rồi lại cứ không chịu cố gắng, để một thằng nhóc giống con gái bóp vỡ tay, lão già đó mà nghe được coi có đánh em thành cái mền rách không!”
“Em chính là không muốn tiến cảnh!” Ngạc Thật khổ sở nói. “Tuyệt Hàn làm cái gì? Rõ ràng là ‘tuyệt mệnh’ thì có! Thám bảo thì thám bảo, thám bảo không phải chỉ dành cho đám nguyên sĩ gì đó sao? Bắt chúng ta đi làm đá dò đường, anh cũng biết mà sao còn hăm hở? Chúng ta đi vào đó, chết không ai đền thì thôi, ngay cả xác họ cũng không thèm nhặt về chôn, đi làm gì để nhục dữ vậy?”
Ngạc Nhiên hơi đuối lí, im lặng một chút mới lên tiếng:
“Em cứ suốt ngày bàn lùi làm gì? Bây giờ không đi, sau cũng phải đi! Huống hồ trong hiểm nguy cũng có cơ hội thăng tiến, còn hơn như ngày xưa chúng ta cứ lang thang bụi bờ hết chỗ này tới chỗ khác, bữa đói bữa no, phải cúi đầu vâng dạ mãi thì có nhục không? Chúng ta cố gắng đến giờ vì cái gì? Không phải vì tương lai có thể tốt hơn hiện tại sao?”
Ngạc Thật nghe anh nói, giơ bàn tay cụt của mình lên, càng thêm nản chí.
“Trên đời này vốn bất công, anh nghĩ chúng ta ráng sức nhiều vậy có thật là có tương lai hay không? Như cái thằng nhóc giống con gái đó, nó còn chưa lớn đủ nữa mà đã mạnh vậy rồi, thử cho nó đứng ngoài sân chiêu tài xem, mấy lão già già không chịu chết của đám tông môn khinh người kia có tranh nhau nhận nó làm đệ tử đến vỡ đầu không? Còn chúng ta? Cực khổ chạy vạy khắp mười mấy cửa mới được nhận, còn phải bái một lão đồ tể làm thầy, tương lai có mà ở sọt rác…”
Ngạc Nhiên bị bầu không khí u ám của em mình ảnh hưởng, không nói nữa, ném vài cành cây khô vào đống lửa, lại ngó sang đứa nhóc vô tích sự mà mình bắt nhầm, phiền muộn đánh thượt một hơi.
***
LỀ
Ngạc Nhiên 諤 然 (âm Hán)
Ngạc Thật 諤 實 (âm Hán)
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 3: Quyết tâm
Tân Cố cũng không biết mình tỉnh dậy lúc nào, đương lơ mơ ngủ mê thì bị một tên mặc áo vàng đá lấy đá để, quát đi nhặt củi hái quả trong rừng, dù rất sợ rừng có thú dữ nhưng nó vẫn phải đi, vừa đi vừa hồi hồn tưởng lại những chuyện hôm qua, nhớ tới cái chén quý bị Vương Vi cướp mất. Cái chén đó họ Tân trông thấy khi tình cờ lỉnh được lên lầu sau vụ mượn tiền của Vương, trên hành lang tầng một, phải nói nội thất xa hoa khôn tả, hắn dòm tới lui phát hiện có chiếc hộp gỗ vừa đẹp vừa lạ nhưng không bị khoá bèn nhân khi vắng người lén mở ra xem. Vân trên chén lưu chuyển rất kì diệu chắc là từ loại đá ngọc nào đó đẽo thành song lại nhẹ hều tựa giấy, đoan chắc thứ này đắt tiền Tân Cố liền lận nó dưới mấy lớp áo rồi rón rén vòng lên tầng trên, định tiếp tục giở nghề táy máy. Dè đâu trời đất bất dung gian, động tác của nó bị hai tên anh chị kia rình sẵn bắt quả tang, hơn nữa món nó vừa thó vốn là mục tiêu của họ, hai bên đôi co một hồi, Ngạc Nhiên bảo đổi với Tân một túi gạo thơm lấy cái chén, coi như thuận mua vừa bán. Tân Cố sao đành chịu thiệt, một túi gạo thơm? Nhà bố nuôi hắn là dân chở gạo hành nghề ba mươi năm có lẻ, giá gốc một cân gạo bao nhiêu họ Tân nằm lòng tất thảy bảy mươi loại gạo thường cùng ba loại gạo quý, gạo thơm trong miệng hai tên này cùng lắm đáng giá tám cân mười tám hào, ấy là tính nới chứ dân vùng Chài chịu chi trừ họ Do ra thì ăn loại năm cân ba hào đã coi như sang cả rồi.
Thấy Tân Cố ngoan cố, hai anh em họ Ngạc quay sang hăm doạ đòi tố hắn trộm cắp đồ trên lầu, Tân Cố vẫn cố chấp không giao chén và bỏ chạy nên bị bọn chúng rượt theo, bị ép tới mép bè, thấy họ Tân không dám nhảy xuống nước tẩu thoát thì chúng càng lấn tới, sau đó Tân Cố cầu cứu Vương Vi… Ngẫm kĩ vào khoảnh khắc xoay lưng bỏ trốn, hắn nghe thoáng Ngạc Thật hỏi anh của y rằng “đó là pháp bảo hay linh cụ”, Tân Cố từng đọc mấy truyện linh dị, thầm nghĩ nhẽ đâu cái chén này có phép thuật thật à, thế nên lúc Ngạc em dụ Vương Vi chạm vào cái chén hắn mới la lên cảnh báo, lỡ tên Vương bị gì thì một mình Tân làm sao đoạt bảo từ hai tên anh chị này? Kết quả, đồ quý lại bị họ Vương nẫng mất, bản thân thì trở thành chân chó cho đám côn đồ, khiến Tân Cố hận không để đâu cho hết. Khổ nỗi chốn khỉ ho cò gáy này, cho uống mật gấu Tân ta cũng chẳng dám đào tẩu, thà chịu đựng một chút kiểu gì hai anh em chúng cũng phải tìm tới khu dân cư thôi, chứ có phải khỉ đâu mà thích sống mãi trong rừng rú, đến lúc đấy lựa cơ hội thoát thân mới là khôn ngoan. Trong cái rủi có cái may, Tân Cố kiếm được một bụi táo dại kha khá trái chín, hắn cởi áo làm bọc nhét hết số quả ngon mới hái, mót thêm ít cành khô gãy rụng trên thảm rừng, ngang qua một thân cây bị gấu chà lưng còn lưu vết…
Ngạc Nhiên còn đang lầm bầm gì đó với con cá gỗ trên tay thì thấy thằng nhóc ăn cắp xám mặt chạy về, hét to lên rằng:
“Có gấu!”
Ngạc Thật đã lành thương ngồi chờ thời một bên, bực dọc nạt:
“Đừng có giở trò lười biếng để gạt tụi tao! Kêu mày đi nhặt củi thì mày đi loanh quanh rồi la có gấu để lấp liếm chuyện về tay không chứ gì? Mấy trò ranh này anh mày rành lắm, để tao cho mày một trận bỏ cái tật khai man!”
Ngạc em đã đứng lên song Tân Cố khoa tay điên cuồng, chỉ chỏ về phía ngoài hang, giọng khản đặc:
“Có gấu thật mà! Nó… nó mới ở gần đây thôi, em từng gặp một con trên rừng U Minh rồi nên không nhầm được đâu!”
Càng thốt càng hoảng hơn, cuối cùng hắn thều thào chốt:
“Chúng ta chạy mau đi!”
Con cá gỗ sáng nhẹ ánh lục rồi trơ khối như cũ, Ngạc Nhiên nghe giọng điệu hốt hoảng của họ Tân cũng hơi nghi, bảo đứa em trai:
“Có gấu cũng tốt, chúng ta đi săn lấy ít thịt, chuẩn bị lên đường về môn nữa. Để trễ ngày giờ, sư phụ sẽ không vui đâu!”
Thần sắc của Tân Cố xám như tro:
“Săn… să… săn gấu hả?”
Ngạc Thật vốn chưa từng cãi lời anh, vả lại thứ thỏ đế như thằng nhóc này dám gây ra sóng gió gì, vì vậy y hất hàm với tên sai vặt:
“Săn gấu thì sao? Nãy mày nói có gấu thì giờ đi làm mồi dụ nó cho tụi tao, nhớ ráng chạy cho nhanh, mày chết trước khi tụi tao kịp giết nó thì làm ma đói là lỗi của mày!”
Chồn cay vùng Chài bỗng thấy chết trong lòng nhiều ít…
Trước khi cuộc săn của anh em họ Ngạc kết thúc với chiến lợi phẩm thì tại thôn Giáp, nhà ông chủ chở gạo họ Tân xuất hiện một vị khách tuy quen mà lạ, quen vì Vương Vi khá nổi tiếng, lạ vì nó hầu như chẳng khi nào lên đây mua gạo hay nhờ chở về giùm. Lúc ông bà Vương còn sống thì Tân Đỗ thi thoảng còn thấy mặt, từ khi Vương ông mất là đứt mối làm ăn luôn, có câu “nghèo rớt mồng tơi” nhưng nhà đó nghèo tới nỗi không có mồng tơi để rớt, tội nghiệp Vương bà chắc toàn nhai rau rừng củ dại do thằng con đi đào bới linh tinh sống qua ngày, cũng chẳng được bao lâu thì mất. Thằng nhóc con mọn tuy mạnh nhưng tính kị người, nó làm cho ai cũng không được mà nó tới nhà người nào ngồi quá hai canh giờ là trong nhà ấy sẽ có thành viên bị đau ốm, hễ chó gà thấy nó liền trốn hết về ổ, còn nhà ai đang có người bệnh yếu mà gặp phải nó thì chắc chắn hẹo luôn, nó đừng đến nhà ai hết là người ta mừng lắm. Thế nên hôm nay mắc dịch mắc gió gì mới tảng sáng lại thấy Vương Vi đứng chình ình trước cổng, Tân Đỗ phát rầu trong dạ nhưng trước kia cũng từng quen biết không lẽ đuổi thẳng? Hơn nữa phép làm ăn sao bất lịch sự vậy được, đành ra chào hỏi xem thử ngọn gió độc nào thổi thằng nhóc tới.
“Chào chú, cháu đến tìm Tân Cố.”
“Nó lại trộm nấm nhà cháu à?”
“Không ạ, tối qua trên Lạn Nguyệt lâu nó mượn cháu mười một xu, bảo cháu tới gặp chú để đòi.”
“Nó bảo thế nào?”
“Cứ lại gặp tía tao đòi là được!”
“Tía của nó có phải là chú đâu? Nó bảo cháu đến gặp tía nó thì là tía nó trả chứ sao lại là chú?”
“Tía của nó là ai?”
“Là cha ruột của nó đấy, ông ấy lên bàn thờ gia tiên được mấy năm rồi…”
Vương Vi vỡ vạc rằng cái trò đổ vạ người chết này là hai cha con họ Tân thông đồng, chuyện Tân Cố làm con nuôi của Tân Đỗ hoặc đã mồ côi cha chưa biết thật giả, nhưng chắc chắn mười một xu này Tân Đỗ không nhận trả nợ giùm thằng con hay ăn cắp vặt của lão, huống hồ đợt nấm lần trước phải do Vương Vi túm đầu thủ phạm lên rừng hái nấm đền cho nó chứ có bao giờ Tân Cố hoàn lương. Vương Vi không muốn gây chuyện nơi xứ mình ở, thêm việc nó biết Tân Cố đã bị hai tên chưa rõ gốc gác bắt đi, hai tên đó còn học được thuật che mắt, giả chúng tạm cuốn gói khỏi vùng này thì tung tích của thằng nhóc ấy có trời mới biết. Rồi nó chợt nảy ra một ý tưởng, đáng ra nó nên nghĩ tới sớm hơn nhưng bây giờ bắt đầu cũng không quá muộn, do vậy Vương Vi chẳng đôi co với lão chở gạo, chỉ nhắn rằng:
“Chừng nào chú gặp Tân Cố thì nhắc nó giùm cháu: mười một xu, nhớ phải trả.”
Dứt câu, nó gật đầu chào Tân Đỗ rồi xoay gót rời thôn Giáp, Tân Đỗ rõ mười mươi thằng nhóc này hay im ỉm nhưng không phải dạng chịu nhịn gì, gọi với theo:
“Có mười một xu thôi, cháu không bỏ qua được à?”
Vương Vi nghe xong, dừng bước quay đầu lại hỏi:
“Có mười một xu thôi, chú thay nó trả cho cháu được không?”
Tân Đỗ làm thinh, Vương Vi mặc kệ lão, tiếp tục đi bộ về nhà, dọc đường chó gà chui đâu mất dạng, nhiều nhà tin nhảm bèn vội vã đóng cửa sổ tránh “âm khí” bay vào nhà. Dẫu sao toàn làng trên xóm dưới cả, Tân Đỗ tin rằng thằng nhóc hâm dở đấy chẳng dám làm gì quá đáng, trẻ con ấy mà cùng lắm ẩu đả vài bận là quên, ngay cả người lớn cũng biết “đánh nhau chia gạo, chào nhau ăn cơm” thì chuyện mượn vặt giữa bọn nít nôi càng chẳng đáng nói tới. Có điều thằng ôn con của lão đi ngủ lang nhà ai sao qua giờ chưa thấy về vậy nhỉ? Nãy Vương Vi bảo là gặp Cố trên cái lầu trăng gió ngoài biển, lẽ nào… Nếu Tân Đỗ gẫm lại lời nhắn của Vương Vi ắt sẽ phát hiện điểm bất thường nhưng lão quá bận với những mối mang chở gạo hằng ngày, Tân Cố thảng hoặc đi bụi đôi ba bữa rồi về cũng đâu phải chưa từng xảy ra, vì vậy lão chẳng để ý đến việc ấy nữa.
Bấy giờ ban trưa, khói than và mùi thịt nướng toả ra từ cửa hang lộ thiên, Ngạc Nhiên cùng Ngạc Thật đánh chén no say, thêm vò rượu lạnh mà Tân Cố không có phần, thôi thì ít nhất nó cũng được miếng thịt lưng gấu to bản. Hoá ra với những lực sĩ thì chuyện giết gấu cũng giống như đánh chó mà thôi, Tân Cố nay đổi ý hâm mộ, tưởng tượng cái thân gầy còm của mình một ngày nào đó cũng có thể bẻ cong sắt, đập vỡ đá tảng đã thấy hưng phấn rồi, huống hồ nghe hai anh em họ trò chuyện càng hiểu thêm nhiều hơn về cái thế giới bao la của “nguyên sĩ”. “Nguyên sĩ” trong lời họ có thể bay đi, đánh nhau trên không, thậm chí hô mây gọi mưa cũng chẳng gì là khó, các “nguyên sĩ” vốn đều từ người thường tu luyện mà thành, chỉ cần tìm được danh sư, đầu nhập tông phái là có thể biến mọi thứ mà người thường cho là hoang đường thành việc nắm trong lòng bàn tay. Đợi anh em họ Ngạc ngà ngà say, Tân Cố đánh bạo hỏi mấy chuyện mình thắc mắc qua nay, ví dụ như lúc Ngạc Nhiên bảo Vương Vi là nguyên sĩ, hắn cũng học lóm được cách “nói chuyện đàng hoàng” ra dáng con nhà văn vẻ:
“Ngạc đại huynh, huynh nói xem thằng nhóc Vương Vi đó là nguyên sĩ thật sao? Nhưng mà nó ở xóm dưới từ nhỏ, nó hơn đệ tầm một, hai tuổi gì đó nhưng xưa giờ chả thấy nó bái sư nhập môn gì hết, nhà còn nghèo nát nữa, chỉ được cái đầu óc ngu si, tứ chi phát triển! Bảo nó đánh gấu cùng lắm chỉ đuổi được gấu bỏ chạy, chứ không có giết được gấu như hai huynh đâu!”
Chừng khi no bụng người ta dễ tính hơn, Ngạc Nhiên hừ một tiếng, liếc họ Tân:
“Lúc đó tao tưởng nó là nguyên sĩ vì người thường làm sao đả thương được tụi tao? Có điều nếu nó thật là nguyên sĩ thì chỉ cần dùng một ngón tay là đã giết sạch cả đám rồi, ngay cả ngăn tao xài phù nó còn không biết nữa, cùng lắm coi như có t.ư chất tu luyện thôi, so với lực sĩ thật sự thì chỉ là nghé con so với hổ!”
“Nghĩa là phải mạnh như nó mới tu luyện được sao, đại huynh?” Tân Cố thấp thỏm hỏi.
“Không cần!” Ngạc Thật dường xem việc cụt chi tương tự việc rụng tóc, chẳng nề hà gì chuyện xài một tay làm tất tần tật, y cũng nốc hơi nhiều chất men, lúc nãy Tân Cố dùng mưu dụ gấu lao vào giữa hai gốc cây sát nhau khiến con thú bị mắc kẹt giúp anh em y hạ gấu dễ dàng hơn, chút chuyện này giúp nâng giá trị của thằng nhóc lên một nấc, họ Ngạc nhớ lại ban đầu mình tu luyện cũng chẳng dễ dàng gì, bèn khai sáng cho họ Tân chút ít. “Trừ phi mày mắc bệnh bẩm sinh hoặc dạng thâm căn cố đế tổn thương nguyên uyên mới không thể tu luyện được, nguyên uyên chính là sinh lực của mày, nguyên uyên bị tổn thương thì tuổi thọ sẽ giảm, nguyên sĩ chính nhờ tu luyện mà mở rộng và củng cố nguyên uyên nên được trường sinh, biến nguyên uyên thành nguyên năng để sử dụng thuật pháp. Nhưng trước khi mày mơ mộng tới việc trở thành nguyên sĩ thì mày phải trải qua bước đại củng cố thân thể giống tụi tao làm cơ sở, những hành giả thành tựu được bước cơ sở này thì gọi là lực sĩ, lực sĩ đương nhiên không bằng nguyên sĩ nhưng chắc chắn mạnh hơn người thường, nếu tu công pháp đặc biệt còn có thể đao thương bất nhập!”
“Đệ từng đọc trong tiểu thuyết thấy có câu ‘đao thương bất nhập, thuỷ hoả bất xâm’, có phải chính là chỉ mấy vị nguyên sĩ không?”
“Mấy tên múa bút viết thì dễ chứ thực hành đâu có dễ vậy,” Ngạc anh cười nhạt, “muốn đạt tới ‘đao thương bất nhập, thuỷ hoả bất xâm’ thì mày phải có thêm nhiều thứ khác chứ không chỉ một thân tu luyện là đủ rồi đâu!”
“Nhiều thứ khác?” Tân Cố tròn xoe mắt.
“Như cái chén mà mày ăn cắp trên lầu đó, thứ đó như tao đoán là một pháp bảo cấp thấp, tuy là cấp thấp nhưng nếu biết phát huy tác dụng thì dùng nó giết gấu có khác gì chảo trâu đem luộc gà lôi!”
“Thật sao?” Họ Tân thất vọng kêu lên. “Tiếc quá đi mất, lại bị thằng Vi đó cướp được!”
“Nó có lấy được cũng chả biết xài, ráng giữ làm của coi chừng còn mang vạ sát thân!” Ngạc Nhiên tỏ ra chẳng mặn mà lắm với món đồ đã rơi khỏi tay, mềm nắn rắn buông là kinh nghiệm của người từng trải.
“Mà anh này,” Ngạc Thật bỗng dưng nhớ ra chi tiết. “Khu của nó ở toàn người thường sao lại có pháp bảo được? Lúc anh phát hiện cái chén, em còn sợ chủ lầu là nguyên sĩ nữa cơ!”
“Chủ lầu họ Tần, thực là một người thường, chẳng biết tu luyện gì cả!” Ngạc Nhiên tặc lưỡi. “Nhưng mà họ Tần này xét con cháu dòng chính có không ít nguyên sĩ, nghe nói người đạt thành tựu cao nhất trong số họ còn là khách khanh của một tông phái lớn! Bởi vậy cơ ngơi của Tần gia rải rác nhiều nơi, cái thuyền đó chắc là kinh doanh cho vui chứ mở sòng bạc ở vùng toàn dân đặt đổ ước bằng hào với xu, có mà lỗ vốn!”
Tân Cố nín thở ngồi nghe, bởi hắn biết hỏi nhiều sẽ làm người ta bực, cứ chờ tới lượt người ta hỏi mình rồi nhân dịp đấy hỏi lại mới trúng, thuở lê la quán rượu moi tin đã hiểu được điều này. Lại nhắc tới quán rượu, giá mà đang ở thôn Đinh thì hay, quán Hương Lâu của lão Ngũ tồn không ít rượu đặc sản, hắn mà đi quịt được vài vò của lão cho hai anh em này uống ắt còn hóng được nhiều chuyện hơn. Nhưng hiện tại họ Tân đã chẳng thiết tha việc tìm cách về nhà với ông chú nuôi kêu bằng bố nữa, hắn muốn đi theo hai gã này học sự phi thường, lúc trở lại mới là áo gấm hồi hương, đặng còn ra oai với làng trên xóm dưới…
Điều Tân Cố nghĩ có điểm trùng với ý định của Vương Vi, vào chiều hôm ấy không ai thấy một chiếc thuyền nan lặng lẽ hạ thuỷ cách lầu Lạn Nguyệt hơn năm mươi lí, người trên thuyền cắt tóc ngắn, mặc áo đơn đội nón lá, giắt một đôi dép sau lưng cùng đeo một cái chảo trên vai, chèo thuyền rời khỏi phạm vi vùng Chài, ra biển. Tuy Vương Vi chẳng hề tự nhủ một đi không trở lại song lần xuất hành này thật vô cùng dài xa, hơn trăm năm sau vùng Chài cũng chẳng còn là nơi có thể về thăm được nữa.
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 4: Một góc mía
Dạo gần đây vùng duyên hải phía tây tây nam của đông ngũ bộ châu yên ắng hẳn, giao thương đường thuỷ cũng kém hơn trước, thuyền buồm cập cảng chủ yếu sôi động vào đầu hoặc cuối tháng để nhập hàng mới, còn đâu các tuần[1] còn lại thì thưa thớt như chống dột mùa mưa. Hoành quốc nằm tại cực tây nam của đông ngũ bộ châu, tính ra chỉ là nước nhỏ, dân chúng sống tập trung vùng nông thôn và thị thành, nghề nghiệp nổi bật trong nước là phân thu phế liệu, thật vậy, Hoành quốc là quốc gia đứng thứ ba của đông ngũ bộ châu về khoản này. Cho nên ven biển người ta thường là vạn chài hay ngư phường chứ nơi đây lại là một toà thành nhỏ có tên Đồng Nham, chuyên thu thập đồng nát, ghe thuyền tới lui phần lớn thuộc lĩnh vực mua đi bán lại những phế phẩm kim loại cho nhiều mục đích khác nhau. Dù tình hình chung đang ảnh hưởng việc thông thương, song mặt hàng này chưa bao giờ lỗi thời nên dân xứ Đồng vẫn cứ yên tâm lắm lắm.
Cảng biển trông tuềnh toàng, thậm chí không có cầu tàu và đê chắn sóng, chỉ thấy hàng dài cọc bích neo đậu bằng sắt đóng chết trên bến để ghe thuyền buộc vào khi cập cảng, sóng vỗ bờ khá mạnh và gió mùa này chẳng êm dịu chút nào. Tuy vậy người ta hẳn ngạc nhiên khi thấy một chiếc thuyền nan lặng lẽ ngược gió mà tiến, trông nó tựa phiến lá tre trôi trong máng nước, điềm tĩnh lại có chút thờ ơ. Cuối cùng chiếc thuyền mong manh ấy cũng cập bến tàu, người lái thuyền dùng chèo đơn để vượt biển, từ hướng mũi cực nam đến đây, câu đầu tiên y hỏi mà đám dân chúng tò mò vây xem nghe được là:
“Đất này ăn cơm với gì?”
Vì Vương Vi nghĩ xứ nào lại không trồng được gạo? Thế nên xứ nào cũng phải ăn cơm, nếu họ trả lời ăn cơm với rau thì y sẽ ở lại còn bảo ăn cơm với thịt thì y lên bờ rồi tìm chốn khác mà đi, bởi dân ăn thịt thường không nói thật, Ái Nhân bảo thế. Kết quả, một người trung niên nước da đen bóng, dáng vẻ khắc khổ, đại diện đáp lời:
“Ở đây chúng tôi ăn cơm với đường.”
Nằm ngoài dự tính của họ Vương nhưng cũng đại khái không rơi vào trường hợp “ăn cơm với thịt”, người kia cũng đặt vấn đề lại:
“Cậu từ đâu tới đây?”
“Theo một con vịt bay trú đông là tới.”
“Ý cậu là con ngỗng? Ngỗng trú đông bay về nam, cậu là từ phía nam ngũ bộ châu đến đây?”
“Ngũ bộ châu là gì?”
Nam tử trung niên cảm thấy khó giải thích đại thể, bèn hỏi chi tiết:
“Nước của cậu tên gì vậy?”
“Nước uống được.”
“Không phải, ý tôi là cậu ở nước nào?”
“Chính như ông vừa nói đó.”
Một người trong bọn bỗng dưng xen vào:
“Tôi biết rồi, cậu ta ở nước Ngỗng, nước đó nằm gần cực nam ngũ bộ châu, tuy rằng diện tích lớn hơn nước ta nhưng dân cư khá thưa. Bọn họ làm nghề chài ấy, bơi rất cừ, nếu bác từng nghe có dân xứ nào dám bơi đua với hải lang[2] thì là họ đó!”
Trưa nay Vương Vi được phổ cập rất nhiều từ mới, y ngó người vừa lên tiếng nọ, trên đầu người đó đội một cái nón rất giống lá sen phơi khô, khá ấn tượng.
“Hải lang là con gì?”
“Nó giống cá, da vừa trắng vừa đen, răng nhỏ mà sắc, hay sống thành bầy.”
Đó là cá hổ kình! Bấy giờ Vương Vi hiểu ra cùng một thứ nhưng cũng có nhiều tên, nếu vừa nghe tên mà cho là lạ thì phải truy nguồn gốc của nó chứ đừng vội nghĩ “thứ này ta không biết”. Nam tử trung niên lên tiếng đầu tiên, quan sát mấy món họ Vương mang theo trên thuyền nan, thầm nghi sao thiếu niên này có thể vượt cả ngàn hải lí mà đến đây, trông cũng không giống bị thuỷ nạn, bèn hỏi thêm:
“Giờ cậu tính làm gì?”
“Tôi muốn lên bờ đi xem xung quanh,” Vương Vi vẫn chẳng giở nón lá xuống, dưới bóng râm và cái nắng gay gắt, khó nhìn thấy rõ toàn bộ khuôn mặt y. “Đường mà các ông ăn làm từ dừa cọ phải không?”
Người đội nón lá sen tỏ ra am hiểu, lắc đầu đáp:
“Không phải, dừa cọ nước cậu không có ở đây, chúng tôi nấu đường từ cây mía, tôi đoán nước cậu chắc cũng không có mía!”
“Ở đây không có dừa cọ ư?”
“Có các giống dừa khác nhưng không có dừa cọ, nước chúng tôi tên cũ là nước Ngang, theo chiếu sắc mới từ vua thì đất nước này gọi là Hoành quốc. Nếu cậu đã muốn lên bờ, để tôi với A Ba dẫn cậu tham quan một vòng thành Đồng Nham, cậu đồng ý không?”
“Thành Đồng Nham là công trình ở sau bến tàu?” Vương Vi cũng đã trông thấy nó.
“Đúng vậy, ‘đồng’ trong ‘đồng nát’, ‘nham’ trong ‘tạp nham’, dân chúng tôi toàn kinh doanh nghề thu mua phế liệu và phế phẩm kim loại, đứng thứ ba trong ngũ bộ châu này đấy!”
Lướt qua khoảng năm, sáu mạng đang túm tụm trước mặt, rồi đằng kia nữa, dẫu dân vùng Chài chẳng giàu nhưng ít ra bộ dạng cũng thanh thản hơn mấy người ở đây, từ đó rút ra rằng đời sống của dân bản xứ không ít vất vả, thu mua phế liệu sao? Hẳn là một nghề cơ cực.
“Tôi tên là Cực Đồng, xin hỏi quý danh của các vị?”
“Tôi là A Ba, không có họ, giống A Lục mới giới thiệu ấy!” Nam tử có làn da đen bóng cười trả lời, để lộ hàm răng dài vàng ệch.
“Tôi là A Lục, tôi với bác này không hề làm anh em gì nhé, đồng nghiệp thôi!” Người đội nón lá sen phân bua, chắc chữ “A” khá phổ biến trong cách đặt tên người nơi đây.
“Tôi là Mắn, ‘mắn’ trong ‘may mắn’, cầu cho được thế!” Thanh niên trông béo khoẻ nhất đám lên tiếng tự giới thiệu, nãy giờ gã chỉ đứng xem nghe, điệu bộ chừng hiền lành dễ bị bắt nạt.
“Ta tên Thác, thác nước ấy,” người này cao nhất, ăn mặc khá dị hợm, đội nón tầm bằng sắt có quai thao màu xám rủ dài, buộc lại dưới cái cằm nhọn. “Dân ở đây chuyên lượm đồng nhưng ta thì chỉ nhặt kẽm, là Kẽm Vương tự phong, danh xứng với thực!”
“Tôi là A Túa, gọi ‘tủa’ cũng được nhưng hơi không đúng…” Người này nhỏ con nhất, lùn và già nhất, đội nón thêu hình giống bánh tai yến với chóp nhọn, ngoại trừ A Ba thì bốn người còn lại đều đội nón, nón của Mắn giống nón lá Vi đang đội nhưng bé tới nỗi chỉ đủ che tóc.
A Túa mau mắn chìa tay với Vương Vi, ý muốn kéo y lên bến tàu vì thuyền nan làm gì có dây neo mà buộc vào cọc bích, lúc họ Vương bắt lấy tay ông ta chẳng khác gì sắt cục, thật khó tin mấy cái móng dài sơn bóng rồi còn đính đá của A Túa lại không gây sây xước gì với Vương Vi, rõ ràng ông lão này không những nhanh nhẹn mà còn khéo léo. Thế rồi nhóm sáu người họ bắt đầu “hành quân” từ cảng vào thành, tường thành chỉ cao gấp ba lần đỉnh đầu Vương Vi, khoảng mười hai xích[3], thiếu vắng hệ thống phòng thủ cơ bản là hào nước bao quanh, không xây vọng lầu cũng chẳng thấy ai canh gác, cổng vào bằng sắt đóng đinh tán cũng nhỏ hẹp tương xứng, mỗi phần tên thành là cả một tấm đồng to chảng khắc sâu hai chữ “Đồng Nham” gắn choáng hết phía trên, trông nặng nề như sắp rơi.
Dân xứ này ăn mặc có phân chia, phần lớn khoác áo ngoài kiểu tràng bạt[4] phổ thông mà vùng Chài cũng ưa chuộng: làm nghề mặc áo thuần đen, buôn tiệm mặc áo màu trắng, bán dạo mặc áo xám hoặc nâu, số ít mặc áo nhuộm chàm, còn lại chắc là du khách. Đoái lại so năm người đi cùng: A Ba và A Lục đều mặc áo đen, chú Thác thì áo trắng, Mắn với A Túa mặc loại tứ điên[5] nhưng A Túa thì diêm dúa còn Mắn lại là xám trơn.
Nhà dựng trong thành khá đồng đều, phổ biến có hai tầng, lợp ngói vảy cá, tầng trên nếu là quán ăn sẽ thừa ra dãy lan can hẹp để tăng thêm diện tích đặt bàn, cửa loại hai cánh bằng gỗ thậm chí làm bằng đồng, then cửa thuộc dạng gạt rất dễ mở, chắc do gần biển nên họ treo đèn bão làm đèn đường, thay cho bậc tam cấp là ngạch cửa cao khi bước qua phải nhìn trước kẻo vấp té. Tuy thành ở duyên hải nhưng chẳng thấy hải sản tươi sống, hỏi A Lục thì gã bảo mấy hàng cá, mực phơi khô kì thực do nhập từ nơi khác chứ dân ở đây từ nhỏ đến lớn chẳng ai từng đèo lưới ra biển lần nào, nghe Vương Vi tò mò chuyện bơi lội thì A Túa khẳng định luôn:
“Tất cả mọi người đều biết lặn, phế liệu dưới nước cũng là mỏ vàng đó, hề hề!”
Ngoài thịt biển khô thì đồ ăn vặt trên phố khá nghèo nàn, chủ yếu thấy các loại bánh bột đậu nén thành miếng tròn, bánh gạo hấp không nhân, cơm cháy chiên chan nước mắm… Nhưng có một hàng khiến Vương Vi dừng chân, vì chưa từng thấy tại quê nhà:
“Chỗ đó bán gì vậy?”
“Mía hấp đấy!” A Túa kêu lên. “Hoá ra quê cậu không có mía thật à?”
“Nước Ngỗng ở phía cực nam ngũ bộ châu, đất ẩm mưa nhiều nên mía khó trồng lắm,” A Lục giải thích. “Dù tôi có nghe nói đâu trên phía bắc một chút cũng có giống mía lùn nhưng ăn không ngọt, người ta coi là cây dại mọc hoang chứ không trồng thu hoạch.”
“Tôi tưởng mía cần nhiều nước chứ nhỉ?” A Ba thắc mắc.
“Đúng là mía thích nơi có độ ẩm cao nhưng đất phải tơi xốp, không để cho ngập úng, phía cực nam mưa quanh năm mà vào mùa mưa là một trận ngập cả vùng, bác không tin thì cứ thử hỏi cậu ấy xem!”
Thế là A Ba hỏi ngay:
“Thật vậy không cậu Đồng?”
“Ừ, quê tôi một trận mưa có thể gây lũ lụt và sạt lở đê điều, mỗi đợt nước dâng là chết hết lúa với nhiều người cũng bị lũ cuốn mất tích!” Vương Vi đáp theo thực tế, cho dù dân bơi cừ đến đâu trước dòng chảy xiết cũng chỉ là kiến trong đám cháy, ngoài may mắn ra không thể dựa vào gì khác.
“Nếu năm nào cũng xảy ra chắc mọi người đều có dự phòng trước rồi phải không?” Mắn đệm lời vào, tỏ vẻ áy náy.
Giọng Vương Vi vẫn bình thản:
“Nước lên rất nhanh, hơn nữa không ai biết khi nào thì trời mưa trút, nếu mưa nhỏ thì không sao, còn kéo lên chỗ cao ở thì cũng có lũ quét từ trên xuống, tựu trung lấy sức người không thể thắng được thiên nhiên, nếu muốn thay đổi chỉ có bỏ đi nơi khác.”
Bởi vậy mới truyền câu “mấy đời sứa vượt qua đăng”, cho dù bao nhiêu thế hệ người dân chạy lũ cũng chẳng chạy khỏi cơn nước đã định sẵn sẽ kéo về, đây không phải số mệnh mà là lựa chọn.
Đương khi bầu không khí hơi chùng xuống, thì A Túa lăng xăng nói:
“Nè tôi còn ba đồng, ai có một đồng không? Cho mượn đi!”
“Làm gì?” Chú Thác từ trên ngó xuống, như hạc ngó cóc.
“Thì đủ bốn đồng mua một góc mía chứ gì, cho cậu Đồng ăn thử vì quê cậu ấy không có!” A Túa trả lời mà không ngó lên, bởi ngó lên cũng vô ích.
Vương Vi quan sát ba đồng tiền lớn như cái bánh phục linh[6] trên tay A Túa, chúng khác với tiền đồng lưu hành ở vùng Chài: vành tròn lỗ vuông, hai bên lỗ dập nổi hai chữ “gai mai”. Y ngẫm một lúc, tại sao xứ biển lại dùng tiền có chữ “gai mai”? Thường thì tiền tệ mỗi vùng đều sẽ liên quan ít nhiều tới phong tục nơi đó, như vùng Chài dùng tiền đồng vành vuông lỗ vuông song song, trên dưới dập chữ “diện môn”, trái phải dập chữ “giăng đăng” nên gọi là tiền giăng đăng, đăng ở đây chính là loại lưới giăng ngang sông để bắt cá, thấp hơn là tiền hào và tiền xu đều bằng kẽm không có chữ nhưng xu bé hơn hào, cách tính thì cứ nhân mười tức mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng.
“Đây là tiền ‘gai mai’?” Vương Vi hỏi A Túa.
“Hả?” A Túa tưởng mình nghe nhầm.
“Không phải, cậu đọc nhầm rồi, đây là tiền ‘cây mai’,” A Lục giãi bày, “chắc cậu thấy chữ ‘cây’ thiếu chữ ‘mộc’ phải không? Vốn dĩ ban đầu là chữ ‘cây’ có chữ ‘mộc’[7] nhưng mấy năm gần đây ngân khố thiếu hụt nên triều đình lược bớt vài nét cho đỡ tốn đồng đúc, thành thử nó mới ra vậy đó!”
Dứt câu thì thở dài.
Một quốc gia coi trọng nghề gom phế liệu kim loại mà nhiều nhất trong ngành này thường là đồng với sắt, thế nhưng lại thiếu đồng sao? Vương Vi hiểu có nội tình đằng sau hiện trạng trên, cố nhiên mới quen biết không nên dò hỏi nhiều bèn gật đầu với A Lục tỏ vẻ đã minh bạch, sau đó y nói:
“Cảm ơn A Túa, nhưng tôi nghĩ là mình sẽ ở lại đây ít lâu, tôi sẽ ăn mía sau khi đi làm một công việc đàng hoàng!”
Năm người kia liền ngạc nhiên đầy mặt, trừ chú Thác bị nón che khuất thì bốn cặp mắt còn lại đều trố ra nhìn họ Vương, kiểu như vừa phát hiện chủng loại mới. Vương Vi không thấy câu nói vừa rồi của bản thân có gì bất thường, dùng ánh mắt bình thường nhìn lại bọn họ, tựa hồ cũng muốn hỏi “ngạc nhiên gì vậy”. Mấy giây tiếp theo, Mắn lên tiếng:
“Thế cậu tính làm nghề gì? Chỗ tôi đang học nghề nấu nướng, cậu muốn tham gia không?”
“Tôi không giỏi việc ăn uống, tôi định làm nghề lượm đồng nát.”
“Nghề đó thì dễ, chỉ cần sức khoẻ kèm một cái nón với một cái bao bố hay dây thừng là được!” A Túa sốt ruột bảo. “Nhưng ăn uống mà không giỏi nghĩa là sao? Cậu bị đau dạ dày à?”
“Khẩu vị của tôi không tinh tế, tôi nếm bánh giầy với thịt bò thấy giống nhau, xưa giờ tôi ăn gì cũng không cần nêm gia vị cũng chẳng thấy ngon dở!” Vương Vi nói thật, còn tại sao thì trời biết.
“Tôi hiểu rồi,” một lần nữa A Lục làm người thấu tình đạt lí nhất đám, “tính cách của cậu ấy rất thích hợp để tu nguyên, là người thanh đạm ít ham muốn.”
“Ấy, đừng có nhắc tới chuyện đó…” A Ba thều thào xong thì dáo dác ngó quanh, phố xá đã vắng hoe vì chả ai muốn tắm nắng ban trưa nếu không cần thiết.
Cho rằng mấy người này đang tưởng mình bị bất bình thường, Vương Vi vắt óc cố nghĩ ra cái gì đó và chợt nhớ:
“Tôi có sở thích là uống nước.”
“Tôi cũng vậy!” Mắn cười vỗ ngực, tìm thấy đồng minh. “Uống nước là ngon nhất!”
Bốn đồng hương còn lại của Mắn liền mất tự nhiên liếc sang gã, dường mới nhận ra có bò lạc trong đàn. A Túa phục hồi tinh thần nhanh hơn mấy người kia, quả quyết nói:
“Tôi biết cậu là người chính trực, nhưng mà khách từ xa đến chớ khách sáo, chúng tôi là chủ nhà cũng nên tiếp đãi đàng hoàng! Chỉ một góc mía thôi, không đáng bao nhiêu đâu!”
Rồi quay sang vị Kẽm Vương tự phong, yêu cầu mà không ngước lên:
“Cho mượn một đồng coi!”
“Sao lại là ta?”
“Giàu thì chớ keo, nghèo thì chớ tiện!”
“Chừng nào trả để ta còn tính lãi?”
“Mai mốt trả, lãi để đãi khách nên khỏi đi!”
Dẫu thế, chú Thác vẫn móc ra một đồng “cây mai” từ túi da đeo bên hông đưa cho A Túa, A Túa cầm đủ bốn đồng vọt qua bên kia đường, chỗ tiệm mía hấp đang ế chỏng chơ, mua một góc mía về cho Vương Vi. Góc mía là cách gọi một đoạn mía đã tước vỏ, chặt thành nhiều khúc nhỏ rồi đem hấp lên, gói lại bằng một loại lá địa phương, thơm dịu nóng hổi, Vương Vi thấy có khoảng sáu, bảy khúc bèn mời tất cả cùng ăn chung, y bảo mình đang khát nước nên không muốn ăn nhiều. Mía hấp ngọt và ráo, rỉ mật khi cắn vào từng thớ ruột xốp, sau khi nhai hết chất ngọt phải nhả bã, tuy mỗi người chỉ nếm được một khúc cỡ hai lóng tay nhưng mà vui.
Sau đó cả đám cùng bàn đến chuyện lưu trú, trong năm người bạn mới này mỗi A Ba là có nhà dù nhà gã không có cửa và tổng diện tích hơn bốn luống rau cộng lại một chút, Vương Vi tạm thời ngủ nhờ nhà gã. Nói về nghề lượm đồng tất nhiên chú Thác là rành nhất còn những người kia toàn dân nghiệp dư, rảnh mới làm kiếm thêm, vậy nên chú Thác trở thành thầy dạy nghề cho Vương Vi. Bọn họ cũng có hỏi tới cái chảo mà y luôn đeo trên vai, rõ ràng là “hàng” tốt, nhưng họ Vương nói đó là đồ gia bảo độc nhất vô nhị, dùng để tráng bánh xèo nên tuyệt đối không phải phế liệu đâu!
****
CHÚ THÍCH
[1] Mười ngày gọi là một tuần 旬.
[2] Biển là hải 海, (con) sói là lang 狼. Hải lang 海狼 nghĩa là (con) sói biển.
[3] Một tấc 𡬷 là 4 cm, mười tấc là một xích 尺 tức 40 cm.
[4] Áo dài quá gối có cổ áo xiên buộc một bên, đắp nẹp cổ dài, không xẻ vạt hai bên hông, tạm gọi là áo tràng bạt 襖長拔.
[5] Áo dài vừa phải nhưng luôn phủ mông có cổ áo tròn ôm sát và có cài nút, không viền cổ, phần cuối áo xẻ thành bốn vạt trước sau, tạm gọi là áo tứ điên 襖四顛.
[6] Bánh làm từ bột năng, nước cốt dừa, nước cốt lá dứa thơm (lá nếp), đường; tạo hình bằng khuôn, bánh thành phẩm nhỏ cỡ chung trà, ẩm và tan nhanh trong miệng khi ăn. Lúc gõ bánh khỏi khuôn phải lật khuôn lại nên gọi là phục 復, tạo hình bánh nhỏ nhưng tinh xảo nên gọi là linh 玲 (đây chỉ là cách diễn giải theo truyện).
[7] Chữ (cái) cây với kiểu viết 荄 (không có chữ mộc 木) còn gồm các âm là “cai, cay, gai, gay”; chữ (cái) cây với kiểu viết 𣘃 (có chữ 木) thì chỉ một âm “cây”.
***
LỀ
A Ba 阿 巴 (âm Hán)
A Lục 阿 戮 (âm Hán)
A 阿 (âm Hán) Túa 綉 (âm Nôm)
Cực 亟 (âm Nôm) Đồng 銅 (âm Hán)
Kẽm 𨯘 (âm Nôm) Vương 王 (âm Hán)
Mắn 敏 (âm Nôm)
Thác 𣴜 (âm Nôm)
Tủa 鎖 (âm Nôm)
*
Đồng 銅 (âm Hán) Nham 碞 (âm Nôm)
Hoành quốc 橫 國 (âm Hán)
Nước Ngang 渃 昂 (âm Nôm)
Nước Ngỗng 渃 𪄌 (âm Nôm)
 

A Bằng

Phàm Nhân
Ngọc
219,00
Tu vi
0,00
Chương 5: Chợ đồng nham
“Theo voi hít bã mía!”
Đó là câu miệt thị ở xứ này mà Vương Vi vừa học được, đối tượng của câu vừa rồi chính là y còn kẻ phát ngôn thì là ai đó trong đám du thủ du thực ngồi cả nắm bên góc đường, “bã mía” khả năng chỉ đồng nát còn “voi” ở đây chắc chắn là chú Thác, tính ra y cũng gặp may vì mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay tay lão làng trong ngành. Nghề lượm đồng nát cần hai yếu tố trên hết: kĩ lưỡng cùng may mắn; kĩ lưỡng không bỏ sót món phế liệu nào có thể nhặt và hay cũng chưa bằng hên, đôi lúc ruột của thứ xoàng xĩnh lại rất cầu kì khi bóc tách phân loại.
Vương Vi đã “nhập môn” được một tháng, trước tiên cần thuộc lòng mọi ngõ ngách trong và ngoài thành, những chỗ hay xuất hiện phế liệu không chỉ bãi rác mà có thể là ngay dưới cửa sổ tầng hai của nhà mạ bạc, lúc nhặt nhạnh nhớ cẩn thận trên đầu và nên đội hai lớp nón. Tiếp theo cần học dùng trực giác và kiến thức để phán đoán giá trị của từng mảnh phế liệu, không phải bạ gì cũng nhặt, hơn nữa cũng giống đương bữa ăn chung chớ thấy đồ ngon liền vội gắp sạch, bởi có nhiều “đồng môn” khác cùng tác nghiệp trong thành nên đôi khi cố tình nhường lại cho họ một phần ấy mới thật biết làm ăn. Cuối cùng là cách trả giá, gồm một chuỗi liên hoàn: nắm giá gốc, biết giá thị trường chung, mặc cả kiếm lời khi giao dịch với giá trôi nổi; giá thị trường là giá niêm yết bởi cơ quan thu mua của triều đình gọi là phủ Thiện Lí, giá gốc là giá thẩm định bởi thợ chế tác kim loại và thường sít sao so với giá thị trường nên người ta chỉ mua giá gốc chứ không bán giá gốc, giá trôi nổi gần như là tiêu chuẩn đối với dân làm nghề thu thập phế liệu.
Thêm việc nữa phải biết là quy đổi tiền tệ trên cả Hoành quốc hơi khác so với vùng Chài, một đồng “cây mai” bằng ba mươi hào kẽm, trên đồng “cây mai” là đồng tiền cổ chỉ dành cho tầng lớp cao sử dụng buôn bán với nhau, hệ thống tiền xu đã bị bãi bỏ khoảng ba mươi năm trước. Giá cả sinh hoạt trong thành Đồng Nham khá đắt đỏ vì hầu hết nhu yếu phẩm phải nhập từ bên ngoài, mỗi bữa ăn đều cần tính toán chi li, chưa kể nếu thuê chỗ trọ thì luôn đau đáu tiền ở trước kì trả cho chủ thuê. Dù Vương Vi không phải lo vấn đề nơi trú và nấu ăn thì vẫn phải đắn đo chuyện mua thực phẩm và thuế nghề, thuế nghề lượm đồng là một nhánh của thuế thu mua phế liệu, đánh vào tất cả đối tượng hành nghề này trên đất của quốc gia, bất kể có tên trong sổ hộ tịch hay không, dân nước khác tới làm vẫn được và mức thuế phải đóng cũng tương đương người nước Ngang. Trước, thuế nghề phế liệu từng ở mức đỉnh điểm là sáu phần mười trên tổng một giao dịch, do khi ấy lực lượng trong ngành bùng nổ đông đến nỗi đường xá sạch bong không một miếng rác, người nào hớ hênh để giày dép không đúng chỗ bị dân nghề nhầm là đồ thải thì xác định mất của chẳng biết kêu ai, thúc đẩy triều đình chủ động đánh thuế mạnh tay để người ta tự sớt bớt nhân lực qua nghề khác.
Dạo gần đây do trên kinh sắc chiếu chiêu mộ thợ đúc đồng và kêu gọi dân chúng đóng góp đồng cho quốc gia nhưng không nêu mục đích cụ thể, hệ luỵ là giá đồng tăng kéo giá các kim loại khác leo cao theo vì đồng hút thì người ta chuyển sang sắt cũng như những loại hợp kim khác để chế tác đồ sinh hoạt và giảm giá thành. Hiện tại thuế lượm đồng đang ở mức hai phần mười và có thể sẽ hạ thêm nữa, do đợt vơ vét đồng quá mạnh tay của triều đình khiến không ít dân nghề lượm bất mãn giải nghệ hoặc chuyển ngành làm suy yếu khả năng thu hồi phế liệu đồng, lượng đồng nguyên tồn trong nước cũng chẳng còn bao nhiêu, ngay cả đồng phế phẩm cũng khan hiếm và bị hớt ngay trong xưởng để đem cống lên ngân khố quốc gia. Những ngành có đồng là nguyên liệu trong sản xuất bị ảnh hưởng dây chuyền khiến vật giá từ đầu vào tới sản phẩm đầu ra cứ thế đội dồn, lái buôn và dân thường đều chịu tác động tiêu cực mà nguyên nhân lại không đến từ bên ngoài. Thế nên trước khi hoàng đế cùng nội các ra sắc lệnh mới nhằm bình ổn tình hình ngành kim loại trong nước nói chung thì mọi người đành tự liệu cơm gắp mắm, đi bước nào tính bước nấy.
Kể tới đây, chú Thác trầm ngâm rồi nói:
“Rất nhiều người nghi ngờ sắp có chiến tranh nên cần đồng đúc hoả khí, kì thực khả năng này là thấp vì nước Ngang vốn nghèo tài nguyên cũng không có vị trí chiến lược trên bản đồ, mấy trăm năm nay chưa từng phải vẽ lại địa giới lần nào, đáng lo hơn là có thể đang ngầm xảy ra một sự kiện tranh giành nào đó giữa các thế lực cắm rễ trong triều nội… Tuy hiện tại dân nghề chúng ta đang được hời nhưng theo ta thấy không nên gióng trống khua chiêng khiến quan trên chú ý, có mấy vụ chủ vựa đồng nát được triệu tập lên kinh tiến vua rồi chả thấy về nữa, e rằng sự thật đằng sau không đơn giản đâu!”
Nói xong lại tiếp tục nhặt nhạnh mớ đồng thiếc vỡ trong đụn rác sau chợ đồng nham và giảng cho Vương Vi nghe cách quan sát bằng mắt thường để xác định thành phần của phế liệu đồng. Đây là ngôi chợ lớn nhất thành Đồng Nham nên được hưởng “ké” cái tên, mặt tiền của chợ khá giống chợ thường là bán tạp hoá, khúc giữa bán thịt, cá, rau, cải, đồ tươi v.v khúc đuôi mới bán những thứ có liên quan tới nghề mà họ Vương đang theo học nhưng là “đồng mới” chứ không phải “đồng nát”, có thể kể đến như: nồi, xanh[1], niêu, chảo, cuốc, mai… Người nước Ngang có câu “ba cây mai vàng không bằng nửa ang đồng nát”, tiền “cây mai” đúc từ vàng tức đồng tiền cổ có giá trị cao nhất trong hệ thống tiền tệ của Hoành quốc, so với đồng thường thì đồng cổ được khắc thêm hai chữ “uyên bảo” nằm dọc, xứ khác người ta đong gạo bằng ang[2] gỗ nhưng ở xứ này thì ang đồng lại không hiếm, một đồng tiền cổ mua được hàng chục cái ang đồng mới nhưng trong mắt dân bản xứ thì ang đồng vẫn trọng thị hơn, thế là đủ hiểu giá trị quan của bọn họ như thế nào rồi.
Đồ đồng phế liệu đa phần là hợp kim đồng chứ rất hiếm loại ròng, các xưởng nấu đồng sẽ nung chảy và loại bỏ tạp chất của chúng để lọc ra đồng nguyên chất, rồi đổ khuôn tạo thành khối đồng mới, từ đó bắt đầu vòng đời tiếp theo của những “bạn đồng”. Thành Đồng Nham bắt cặp với những thành khác trên khắp Hoành quốc thì về mặt nào cũng thua, song đếm sơ sơ cũng thấy tới ba xưởng chế tác đồng đã hoạt động ít nhất hai mươi năm trở lên, đó là chưa kể đến các xưởng kim loại khác như sắt, gang và bạc, kẽm thì không có nhưng chỗ thu mua nó lại đầy ngoài cảng. Hoàn toàn đặc biệt đối với tiêu chuẩn thẩm mỹ xứ Đồng, bận nọ A Ba kể cho Vương Vi nghe lần duy nhất viếng thăm kinh thành của gã, gã bảo mấy cô thứ dân còn cài trâm vàng chứ cung nữ là chê chỉ xài trâm đồng, trâm sắt thì mỗi đàn ông cài, bệ vua ngồi cũng bằng đồng chỉ phần rìa ngoài mới dát vàng trang trí mà thôi, sứ giả nước khác lần đầu đi sứ sang đây cũng phải trầm trồ trước những phẩm vật chế tác tinh xảo bằng đồng trong cung nội cũng như trang sức của hoàng hậu và các thứ phi. Có thể thấy “bạn đồng” làm vua xứ Đồng, cớ sao chú Thác lại nhất định chỉ gom bán kẽm? Lão giãi bày như vầy:
“Cái gì nhiều thì người ta tham, cái gì hiếm thì người ta quý, cái gì vừa vừa thì người ta nhàm. Ta trước giờ chỉ thích đồ quý vì không có nhiều để tham cũng không quá vừa phải để nhàm, cứ vậy làm mãi mà không thấy chán!”
Tuy rằng Vương Vi chẳng thể thông cảm với ý kiến của chú Thác nhưng y phải công nhận sự kiên trì của lão với con đường bản thân lựa chọn, vì dù kẽm vẫn là mặt hàng có nhu cầu song gần như đứng chót bảng phế liệu do thành phẩm chứa kẽm quá ít, chú Thác tiêu tốn rất nhiều thời gian để đi lại khắp nơi gom góp loại phế liệu này nhưng lão chọn thành Đồng Nham làm “điểm tập kết” mà địa chỉ cụ thể, là phòng ba mươi ba trên tầng ba của căn nhà duy nhất có ba tầng ở toà thành này: Hương Lâu. Hương Lâu không phải quán rượu như quán của lão Ngũ mà là khách sạn cho thuê phòng dài hạn nhưng không bao ăn, dù cũng có bán điểm tâm vào mỗi sáng dưới tầng trệt với giá chát hơn cả vỏ cau già, ngay khách ruột kiểu chú Thác còn phải lắc đầu bỏ qua bữa thực đơn bốn món ba mươi đồng của khách sạn. Nhờ vậy Vương Vi mới biết một góc mía hấp mà y được A Túa mời ăn vào cái ngày đầu tiên bỡ ngỡ đến đây thực là một món gia hào[3], bốn đồng đó đủ mua gạo ăn hai tháng cho một người dù gạo ở đây không dẻo ngon như vùng Chài.
Mía được trồng trên khắp nước Ngang là loại thân cao dong dỏng, không bì được độ ngọt nước với giống mía thân mập tròn lẳn của hai quốc gia láng giềng song mía cao được cái ít bệnh, dễ trồng và phù hợp với thổ nhưỡng bản quốc, năng suất cũng đồng đều hiếm khi mất mùa. Dân trồng mía đa phần làm nông hỗn hợp nên loại đường nấu từ mía vốn có giá khá cao, người nghèo ăn cơm với đường kì thực là thứ đường than tức phần cặn dưới đáy mẻ đường: đun chảy đường than với cơm nguội thành hỗn hợp sệt rồi ăn kèm cơm mới nấu, chính là cái mà A Ba gọi là “ăn cơm với đường”. A Ba ăn cơm với đường rất thường xuyên, còn Vương Vi lâu lâu mới hỏi lại hỏi trúng ngay đối tượng chuyên ăn cơm với đường…
Nước Ngang cũng có mấy điều thú vị dẫu mót ra mới biết:
Làm nguyên sĩ thì cứ hất mặt lên trời,
Không phải nguyên sĩ thì chỉ được biết đến nguyên suý,
Chữ nguyên không được dùng riêng,
“Tu nguyên” không được nhắc tới…
Bốn câu trên nối làm vòng tròn, câu trước tiếp câu sau, tạo thành luật bất thành văn từ ngoại ô vô thành thị, từ thứ dân lẫn thượng quan, từ nước ngang sang xóm giềng, tựu trung đều vì bọn họ sợ người tu nguyên. Những vấn đề nhạy cảm thế này trừ A Lục thì chẳng ai dám hé răng nói thẳng, đến gã ta cũng phải mượn say lấy gan mà trút lời, gã bất mãn cái triều đình mà gã cho là “thấy khó vội lui”, gã bực bội những kẻ ngồi trên đầu trên cổ lê dân nhưng khom lưng khuỵ gối với hàng quyền quý, gã căm ghét xã hội toàn là mắt điếc tai ngơ trước bao nhiêu thói tệ lộng hành, gã từng viết sớ dâng vua nhưng lại bị nội thị gạt đi, gã đốt bỏ thư trai treo ấn từ quan của mình để chọc tức tất cả hàng ngũ đồng liêu, gã đi lượm đồng nát không phải để mưu sinh mà là để rứt hận… Mấy bận gã bí tỉ là đám bạn từ A Túa tới chú Thác đồng lòng bỏ chạy trước, Mắn ráng trụ lại thêm chút nữa cũng vội cáo từ, chỉ mỗi A Ba giờ thêm Cực Đồng là chịu ngồi rửa tai nghe gã nhai suốt mấy canh[4] liền. A Ba có lần thốt riêng với Vương Vi thế này:
“Chắc cậu cho rằng tôi thuộc kiểu ưa nhiều chuyện, nhưng mà con người ta ai cũng có bức xúc trong lòng, không làm cho được thì ảo não, không nói ra được thì sanh bệnh, đã dám nói mà không dám làm thì cấm họ nói làm gì? Tôi thì tôi chẳng hiểu mấy lời của A Lục, dù sao cậu ta cũng là dân có ăn học chứ tôi còn không biết mặt chữ, tên của tôi có nghĩa là ‘cơm cháy’ cũng nhờ cậu ta chỉ tôi mới biết, xưa giờ tôi cứ tưởng tên mình có nghĩa là ‘leo trèo’ vì nhiều người cũng tưởng thế, thành thử không có A Lục nhắc thì tôi vẫn còn bị viết sai tên! Vậy đó, cậu ta buồn muốn kể lể thì tôi ngồi nghe, nghe rồi cũng quên hết, chí ít tôi thấy người ta đã cô độc còn bị bỏ rơi thì tôi không chịu được!”
Gã hẵng bảo thêm rằng:
“Ai chê tôi bao đồng thì tôi cũng chịu, tính tôi nó thế, miễn là không trái lòng mình thì cứ thoải mái thôi, làm trái lòng mình sẽ khổ tâm lắm, giống như cố tình mặc áo trái vậy, dù người ta không phát hiện thì mình cũng cảm thấy hổ thẹn trong lòng!”
A Ba luôn mặc áo màu đen may hai lớp, phần dây buộc thì nằm trong đai lưng vải, vậy nên gã bảo gã mặc áo trái chẳng sợ bị nhìn ra là có cơ sở, cách duy nhất để phân biệt bằng mắt là thử tìm miếng nẹp cổ, nhưng cái miếng ấy cũng màu đen mà lại mảnh nữa nên trừ phi soi kĩ mới thấy. Về chuyện tên họ thì chắc A Lục có họ vì người nước Ngang có sử dụng họ trong tên, thấy Vương Vi biết chữ gã cũng khoái lắm, gã tiết lộ tên huý của gã là chữ “lục” trong “sĩ khả lục bất khả nhục”[5] nhưng gã sợ cái tên ấy có sát khí nên tự đặt tên hiệu là chữ khác nhưng trùng âm “lục”. Còn nguyên chữ “a” vốn chỉ cái dốc núi do tích xưa kể rằng thuỷ tổ người nước Ngang ra đời trên dốc núi nên hàng hậu duệ hay lấy chữ này kèm vào tên, hơn nữa chữ “a” rất dễ phát âm lại cũng dễ nhớ, vì cớ đây mà người ở đông ngũ bộ châu hễ thấy ai lấy chữ “A” làm đầu tên gọi liền cho đối phương là người nước Ngang, dẫu rằng ở nhiều quốc gia khác thì chữ “a” trong tên chẳng phải hiếm.
Trường hợp chọn tên hiệu trùng âm tên huý như A Lục cũng không phải hi hữu, bàn đâu xa, trong nhóm bạn mới của Vương Vi có A Túa là một ví dụ, bận kia y thấy gã kí tên vào một hoá đơn gạo với chữ “Túa” lạ hoắc, sau gã giải thích là tên huý của gã hay bị đọc nhầm thành âm “thùa” nên gã kí chữ này cho chắc, đã bị đặt biệt danh “Tủa” thì thôi chứ cả tên cúng cơm của mình cũng thành tên khác trong miệng người ta thì oan uổng quá! Gã tự nhận mình không có họ, giống chú Thác và Mắn, vậy nên gã tò mò Cực Đồng là gồm họ hay tên và được giải đáp là toàn tên không họ.
Tất nhiên Vương Vi biết họ và tên của mình viết ra sao, cái tên của y không phải do cha mẹ đặt mà do một người lạ đặt; “vi” mang nghĩa đơn giản là “làm”, muốn làm gì cũng đều thành được cả!
****
CHÚ THÍCH
[1] Loại chảo sâu có hai quai, đáy tròn và bằng phẳng, thường làm bằng đồng, gọi là cái xanh 丐𥑥.
[2] Dụng cụ đong gạo hình vuông, đóng bằng gỗ, chứa được khoảng mười kí (kg) gạo một lần đong, gọi là cái ang 丐盎.
[3] Ngon, tốt là gia 嘉, thức ăn là hào 餚. Gia hào 嘉餚 nghĩa là đồ ăn ngon, mĩ vị.
[4] Trong một đêm tính từ bảy giờ tối hôm nay đến năm giờ sáng hôm sau, được chia làm năm khoảng thời gian, mỗi khoảng như vậy kéo dài hai giờ (120 phút) gọi là một canh 更.
[5] Kẻ sĩ (có phẩm hạnh) thà chịu bị giết phanh thây chứ không chịu khuất phục = Sĩ khả lục bất khả nhục 士可戮不可辱. Hàm nghĩa coi trọng khí tiết hơn cả tính mạng.
***
LỀ
A Ba 阿 爬 (âm Hán)
A Lục 阿 勠 (âm Hán)
A 阿 (âm Hán) Túa 逎 (âm Nôm)
Hương Lâu 香樓 (âm Hán)
Thiện Lí phủ 繕理府 (âm Hán)
 

hoangsang

Phàm Nhân
Administrator
BNS's Member
Chương 5: Chợ đồng nham
“Theo voi hít bã mía!”
Đó là câu miệt thị ở xứ này mà Vương Vi vừa học được, đối tượng của câu vừa rồi chính là y còn kẻ phát ngôn thì là ai đó trong đám du thủ du thực ngồi cả nắm bên góc đường, “bã mía” khả năng chỉ đồng nát còn “voi” ở đây chắc chắn là chú Thác, tính ra y cũng gặp may vì mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay tay lão làng trong ngành. Nghề lượm đồng nát cần hai yếu tố trên hết: kĩ lưỡng cùng may mắn; kĩ lưỡng không bỏ sót món phế liệu nào có thể nhặt và hay cũng chưa bằng hên, đôi lúc ruột của thứ xoàng xĩnh lại rất cầu kì khi bóc tách phân loại.
Vương Vi đã “nhập môn” được một tháng, trước tiên cần thuộc lòng mọi ngõ ngách trong và ngoài thành, những chỗ hay xuất hiện phế liệu không chỉ bãi rác mà có thể là ngay dưới cửa sổ tầng hai của nhà mạ bạc, lúc nhặt nhạnh nhớ cẩn thận trên đầu và nên đội hai lớp nón. Tiếp theo cần học dùng trực giác và kiến thức để phán đoán giá trị của từng mảnh phế liệu, không phải bạ gì cũng nhặt, hơn nữa cũng giống đương bữa ăn chung chớ thấy đồ ngon liền vội gắp sạch, bởi có nhiều “đồng môn” khác cùng tác nghiệp trong thành nên đôi khi cố tình nhường lại cho họ một phần ấy mới thật biết làm ăn. Cuối cùng là cách trả giá, gồm một chuỗi liên hoàn: nắm giá gốc, biết giá thị trường chung, mặc cả kiếm lời khi giao dịch với giá trôi nổi; giá thị trường là giá niêm yết bởi cơ quan thu mua của triều đình gọi là phủ Thiện Lí, giá gốc là giá thẩm định bởi thợ chế tác kim loại và thường sít sao so với giá thị trường nên người ta chỉ mua giá gốc chứ không bán giá gốc, giá trôi nổi gần như là tiêu chuẩn đối với dân làm nghề thu thập phế liệu.
Thêm việc nữa phải biết là quy đổi tiền tệ trên cả Hoành quốc hơi khác so với vùng Chài, một đồng “cây mai” bằng ba mươi hào kẽm, trên đồng “cây mai” là đồng tiền cổ chỉ dành cho tầng lớp cao sử dụng buôn bán với nhau, hệ thống tiền xu đã bị bãi bỏ khoảng ba mươi năm trước. Giá cả sinh hoạt trong thành Đồng Nham khá đắt đỏ vì hầu hết nhu yếu phẩm phải nhập từ bên ngoài, mỗi bữa ăn đều cần tính toán chi li, chưa kể nếu thuê chỗ trọ thì luôn đau đáu tiền ở trước kì trả cho chủ thuê. Dù Vương Vi không phải lo vấn đề nơi trú và nấu ăn thì vẫn phải đắn đo chuyện mua thực phẩm và thuế nghề, thuế nghề lượm đồng là một nhánh của thuế thu mua phế liệu, đánh vào tất cả đối tượng hành nghề này trên đất của quốc gia, bất kể có tên trong sổ hộ tịch hay không, dân nước khác tới làm vẫn được và mức thuế phải đóng cũng tương đương người nước Ngang. Trước, thuế nghề phế liệu từng ở mức đỉnh điểm là sáu phần mười trên tổng một giao dịch, do khi ấy lực lượng trong ngành bùng nổ đông đến nỗi đường xá sạch bong không một miếng rác, người nào hớ hênh để giày dép không đúng chỗ bị dân nghề nhầm là đồ thải thì xác định mất của chẳng biết kêu ai, thúc đẩy triều đình chủ động đánh thuế mạnh tay để người ta tự sớt bớt nhân lực qua nghề khác.
Dạo gần đây do trên kinh sắc chiếu chiêu mộ thợ đúc đồng và kêu gọi dân chúng đóng góp đồng cho quốc gia nhưng không nêu mục đích cụ thể, hệ luỵ là giá đồng tăng kéo giá các kim loại khác leo cao theo vì đồng hút thì người ta chuyển sang sắt cũng như những loại hợp kim khác để chế tác đồ sinh hoạt và giảm giá thành. Hiện tại thuế lượm đồng đang ở mức hai phần mười và có thể sẽ hạ thêm nữa, do đợt vơ vét đồng quá mạnh tay của triều đình khiến không ít dân nghề lượm bất mãn giải nghệ hoặc chuyển ngành làm suy yếu khả năng thu hồi phế liệu đồng, lượng đồng nguyên tồn trong nước cũng chẳng còn bao nhiêu, ngay cả đồng phế phẩm cũng khan hiếm và bị hớt ngay trong xưởng để đem cống lên ngân khố quốc gia. Những ngành có đồng là nguyên liệu trong sản xuất bị ảnh hưởng dây chuyền khiến vật giá từ đầu vào tới sản phẩm đầu ra cứ thế đội dồn, lái buôn và dân thường đều chịu tác động tiêu cực mà nguyên nhân lại không đến từ bên ngoài. Thế nên trước khi hoàng đế cùng nội các ra sắc lệnh mới nhằm bình ổn tình hình ngành kim loại trong nước nói chung thì mọi người đành tự liệu cơm gắp mắm, đi bước nào tính bước nấy.
Kể tới đây, chú Thác trầm ngâm rồi nói:
“Rất nhiều người nghi ngờ sắp có chiến tranh nên cần đồng đúc hoả khí, kì thực khả năng này là thấp vì nước Ngang vốn nghèo tài nguyên cũng không có vị trí chiến lược trên bản đồ, mấy trăm năm nay chưa từng phải vẽ lại địa giới lần nào, đáng lo hơn là có thể đang ngầm xảy ra một sự kiện tranh giành nào đó giữa các thế lực cắm rễ trong triều nội… Tuy hiện tại dân nghề chúng ta đang được hời nhưng theo ta thấy không nên gióng trống khua chiêng khiến quan trên chú ý, có mấy vụ chủ vựa đồng nát được triệu tập lên kinh tiến vua rồi chả thấy về nữa, e rằng sự thật đằng sau không đơn giản đâu!”
Nói xong lại tiếp tục nhặt nhạnh mớ đồng thiếc vỡ trong đụn rác sau chợ đồng nham và giảng cho Vương Vi nghe cách quan sát bằng mắt thường để xác định thành phần của phế liệu đồng. Đây là ngôi chợ lớn nhất thành Đồng Nham nên được hưởng “ké” cái tên, mặt tiền của chợ khá giống chợ thường là bán tạp hoá, khúc giữa bán thịt, cá, rau, cải, đồ tươi v.v khúc đuôi mới bán những thứ có liên quan tới nghề mà họ Vương đang theo học nhưng là “đồng mới” chứ không phải “đồng nát”, có thể kể đến như: nồi, xanh[1], niêu, chảo, cuốc, mai… Người nước Ngang có câu “ba cây mai vàng không bằng nửa ang đồng nát”, tiền “cây mai” đúc từ vàng tức đồng tiền cổ có giá trị cao nhất trong hệ thống tiền tệ của Hoành quốc, so với đồng thường thì đồng cổ được khắc thêm hai chữ “uyên bảo” nằm dọc, xứ khác người ta đong gạo bằng ang[2] gỗ nhưng ở xứ này thì ang đồng lại không hiếm, một đồng tiền cổ mua được hàng chục cái ang đồng mới nhưng trong mắt dân bản xứ thì ang đồng vẫn trọng thị hơn, thế là đủ hiểu giá trị quan của bọn họ như thế nào rồi.
Đồ đồng phế liệu đa phần là hợp kim đồng chứ rất hiếm loại ròng, các xưởng nấu đồng sẽ nung chảy và loại bỏ tạp chất của chúng để lọc ra đồng nguyên chất, rồi đổ khuôn tạo thành khối đồng mới, từ đó bắt đầu vòng đời tiếp theo của những “bạn đồng”. Thành Đồng Nham bắt cặp với những thành khác trên khắp Hoành quốc thì về mặt nào cũng thua, song đếm sơ sơ cũng thấy tới ba xưởng chế tác đồng đã hoạt động ít nhất hai mươi năm trở lên, đó là chưa kể đến các xưởng kim loại khác như sắt, gang và bạc, kẽm thì không có nhưng chỗ thu mua nó lại đầy ngoài cảng. Hoàn toàn đặc biệt đối với tiêu chuẩn thẩm mỹ xứ Đồng, bận nọ A Ba kể cho Vương Vi nghe lần duy nhất viếng thăm kinh thành của gã, gã bảo mấy cô thứ dân còn cài trâm vàng chứ cung nữ là chê chỉ xài trâm đồng, trâm sắt thì mỗi đàn ông cài, bệ vua ngồi cũng bằng đồng chỉ phần rìa ngoài mới dát vàng trang trí mà thôi, sứ giả nước khác lần đầu đi sứ sang đây cũng phải trầm trồ trước những phẩm vật chế tác tinh xảo bằng đồng trong cung nội cũng như trang sức của hoàng hậu và các thứ phi. Có thể thấy “bạn đồng” làm vua xứ Đồng, cớ sao chú Thác lại nhất định chỉ gom bán kẽm? Lão giãi bày như vầy:
“Cái gì nhiều thì người ta tham, cái gì hiếm thì người ta quý, cái gì vừa vừa thì người ta nhàm. Ta trước giờ chỉ thích đồ quý vì không có nhiều để tham cũng không quá vừa phải để nhàm, cứ vậy làm mãi mà không thấy chán!”
Tuy rằng Vương Vi chẳng thể thông cảm với ý kiến của chú Thác nhưng y phải công nhận sự kiên trì của lão với con đường bản thân lựa chọn, vì dù kẽm vẫn là mặt hàng có nhu cầu song gần như đứng chót bảng phế liệu do thành phẩm chứa kẽm quá ít, chú Thác tiêu tốn rất nhiều thời gian để đi lại khắp nơi gom góp loại phế liệu này nhưng lão chọn thành Đồng Nham làm “điểm tập kết” mà địa chỉ cụ thể, là phòng ba mươi ba trên tầng ba của căn nhà duy nhất có ba tầng ở toà thành này: Hương Lâu. Hương Lâu không phải quán rượu như quán của lão Ngũ mà là khách sạn cho thuê phòng dài hạn nhưng không bao ăn, dù cũng có bán điểm tâm vào mỗi sáng dưới tầng trệt với giá chát hơn cả vỏ cau già, ngay khách ruột kiểu chú Thác còn phải lắc đầu bỏ qua bữa thực đơn bốn món ba mươi đồng của khách sạn. Nhờ vậy Vương Vi mới biết một góc mía hấp mà y được A Túa mời ăn vào cái ngày đầu tiên bỡ ngỡ đến đây thực là một món gia hào[3], bốn đồng đó đủ mua gạo ăn hai tháng cho một người dù gạo ở đây không dẻo ngon như vùng Chài.
Mía được trồng trên khắp nước Ngang là loại thân cao dong dỏng, không bì được độ ngọt nước với giống mía thân mập tròn lẳn của hai quốc gia láng giềng song mía cao được cái ít bệnh, dễ trồng và phù hợp với thổ nhưỡng bản quốc, năng suất cũng đồng đều hiếm khi mất mùa. Dân trồng mía đa phần làm nông hỗn hợp nên loại đường nấu từ mía vốn có giá khá cao, người nghèo ăn cơm với đường kì thực là thứ đường than tức phần cặn dưới đáy mẻ đường: đun chảy đường than với cơm nguội thành hỗn hợp sệt rồi ăn kèm cơm mới nấu, chính là cái mà A Ba gọi là “ăn cơm với đường”. A Ba ăn cơm với đường rất thường xuyên, còn Vương Vi lâu lâu mới hỏi lại hỏi trúng ngay đối tượng chuyên ăn cơm với đường…
Nước Ngang cũng có mấy điều thú vị dẫu mót ra mới biết:
Làm nguyên sĩ thì cứ hất mặt lên trời,
Không phải nguyên sĩ thì chỉ được biết đến nguyên suý,
Chữ nguyên không được dùng riêng,
“Tu nguyên” không được nhắc tới…
Bốn câu trên nối làm vòng tròn, câu trước tiếp câu sau, tạo thành luật bất thành văn từ ngoại ô vô thành thị, từ thứ dân lẫn thượng quan, từ nước ngang sang xóm giềng, tựu trung đều vì bọn họ sợ người tu nguyên. Những vấn đề nhạy cảm thế này trừ A Lục thì chẳng ai dám hé răng nói thẳng, đến gã ta cũng phải mượn say lấy gan mà trút lời, gã bất mãn cái triều đình mà gã cho là “thấy khó vội lui”, gã bực bội những kẻ ngồi trên đầu trên cổ lê dân nhưng khom lưng khuỵ gối với hàng quyền quý, gã căm ghét xã hội toàn là mắt điếc tai ngơ trước bao nhiêu thói tệ lộng hành, gã từng viết sớ dâng vua nhưng lại bị nội thị gạt đi, gã đốt bỏ thư trai treo ấn từ quan của mình để chọc tức tất cả hàng ngũ đồng liêu, gã đi lượm đồng nát không phải để mưu sinh mà là để rứt hận… Mấy bận gã bí tỉ là đám bạn từ A Túa tới chú Thác đồng lòng bỏ chạy trước, Mắn ráng trụ lại thêm chút nữa cũng vội cáo từ, chỉ mỗi A Ba giờ thêm Cực Đồng là chịu ngồi rửa tai nghe gã nhai suốt mấy canh[4] liền. A Ba có lần thốt riêng với Vương Vi thế này:
“Chắc cậu cho rằng tôi thuộc kiểu ưa nhiều chuyện, nhưng mà con người ta ai cũng có bức xúc trong lòng, không làm cho được thì ảo não, không nói ra được thì sanh bệnh, đã dám nói mà không dám làm thì cấm họ nói làm gì? Tôi thì tôi chẳng hiểu mấy lời của A Lục, dù sao cậu ta cũng là dân có ăn học chứ tôi còn không biết mặt chữ, tên của tôi có nghĩa là ‘cơm cháy’ cũng nhờ cậu ta chỉ tôi mới biết, xưa giờ tôi cứ tưởng tên mình có nghĩa là ‘leo trèo’ vì nhiều người cũng tưởng thế, thành thử không có A Lục nhắc thì tôi vẫn còn bị viết sai tên! Vậy đó, cậu ta buồn muốn kể lể thì tôi ngồi nghe, nghe rồi cũng quên hết, chí ít tôi thấy người ta đã cô độc còn bị bỏ rơi thì tôi không chịu được!”
Gã hẵng bảo thêm rằng:
“Ai chê tôi bao đồng thì tôi cũng chịu, tính tôi nó thế, miễn là không trái lòng mình thì cứ thoải mái thôi, làm trái lòng mình sẽ khổ tâm lắm, giống như cố tình mặc áo trái vậy, dù người ta không phát hiện thì mình cũng cảm thấy hổ thẹn trong lòng!”
A Ba luôn mặc áo màu đen may hai lớp, phần dây buộc thì nằm trong đai lưng vải, vậy nên gã bảo gã mặc áo trái chẳng sợ bị nhìn ra là có cơ sở, cách duy nhất để phân biệt bằng mắt là thử tìm miếng nẹp cổ, nhưng cái miếng ấy cũng màu đen mà lại mảnh nữa nên trừ phi soi kĩ mới thấy. Về chuyện tên họ thì chắc A Lục có họ vì người nước Ngang có sử dụng họ trong tên, thấy Vương Vi biết chữ gã cũng khoái lắm, gã tiết lộ tên huý của gã là chữ “lục” trong “sĩ khả lục bất khả nhục”[5] nhưng gã sợ cái tên ấy có sát khí nên tự đặt tên hiệu là chữ khác nhưng trùng âm “lục”. Còn nguyên chữ “a” vốn chỉ cái dốc núi do tích xưa kể rằng thuỷ tổ người nước Ngang ra đời trên dốc núi nên hàng hậu duệ hay lấy chữ này kèm vào tên, hơn nữa chữ “a” rất dễ phát âm lại cũng dễ nhớ, vì cớ đây mà người ở đông ngũ bộ châu hễ thấy ai lấy chữ “A” làm đầu tên gọi liền cho đối phương là người nước Ngang, dẫu rằng ở nhiều quốc gia khác thì chữ “a” trong tên chẳng phải hiếm.
Trường hợp chọn tên hiệu trùng âm tên huý như A Lục cũng không phải hi hữu, bàn đâu xa, trong nhóm bạn mới của Vương Vi có A Túa là một ví dụ, bận kia y thấy gã kí tên vào một hoá đơn gạo với chữ “Túa” lạ hoắc, sau gã giải thích là tên huý của gã hay bị đọc nhầm thành âm “thùa” nên gã kí chữ này cho chắc, đã bị đặt biệt danh “Tủa” thì thôi chứ cả tên cúng cơm của mình cũng thành tên khác trong miệng người ta thì oan uổng quá! Gã tự nhận mình không có họ, giống chú Thác và Mắn, vậy nên gã tò mò Cực Đồng là gồm họ hay tên và được giải đáp là toàn tên không họ.
Tất nhiên Vương Vi biết họ và tên của mình viết ra sao, cái tên của y không phải do cha mẹ đặt mà do một người lạ đặt; “vi” mang nghĩa đơn giản là “làm”, muốn làm gì cũng đều thành được cả!
****
CHÚ THÍCH
[1] Loại chảo sâu có hai quai, đáy tròn và bằng phẳng, thường làm bằng đồng, gọi là cái xanh 丐𥑥.
[2] Dụng cụ đong gạo hình vuông, đóng bằng gỗ, chứa được khoảng mười kí (kg) gạo một lần đong, gọi là cái ang 丐盎.
[3] Ngon, tốt là gia 嘉, thức ăn là hào 餚. Gia hào 嘉餚 nghĩa là đồ ăn ngon, mĩ vị.
[4] Trong một đêm tính từ bảy giờ tối hôm nay đến năm giờ sáng hôm sau, được chia làm năm khoảng thời gian, mỗi khoảng như vậy kéo dài hai giờ (120 phút) gọi là một canh 更.
[5] Kẻ sĩ (có phẩm hạnh) thà chịu bị giết phanh thây chứ không chịu khuất phục = Sĩ khả lục bất khả nhục 士可戮不可辱. Hàm nghĩa coi trọng khí tiết hơn cả tính mạng.
***
LỀ
A Ba 阿 爬 (âm Hán)
A Lục 阿 勠 (âm Hán)
A 阿 (âm Hán) Túa 逎 (âm Nôm)
Hương Lâu 香樓 (âm Hán)
Thiện Lí phủ 繕理府 (âm Hán)
Bạn đăng truyện sang bên Reader nhé, link đăng ký tài khỏa: Reader - Đăng ký account
Bên forum chỉ để thảo luận, không đăng truyện nhé bạn. :thank:
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

  • Top