Luận Truyện Quang Âm Chi Ngoại - Nhĩ Căn

H

Hứa Thanh

Guest
Giờ mà có tiền bơm cho lao nhĩ 100củ gì đó bảo lão ra nhanh hơn tí ko biết được ko nhỉ
 
T

ThieuMot

Guest
quá được luôn. :)))
火 候 图 论
《易》之为书,三百八十四交。火之为数,三百八十四铢。故舍乾坤以为鼎器,坎离为药物。
之外,初一、用屯、蒙。初二、用需、讼。初三、用师、比。初四、用小畜、履。初五、用泰、否。初六、用同人、大有。初七、用谦、豫。初八、用随、蛊。而金计半斤。初九、用临、观。初十、用噬嗑、賁。十一、用剥、复。十二、用无妄、大畜。十三、用颐、大过。十四、用咸、恒。十五、用遁、大壮。十六、用晋、明夷。十七、用家人、睽。十八、用蹇、解。十九、用损、益。二十、用夬、垢。二十一、用萃、升。二十二、用困、井。二十三、用革、鼎。而水半斤。二十四、用震、艮。二十五、用渐、归妹。二十六、用丰、旅。二十七、用巽、兑。二十八、用涣、节。二十九、用中孚、小过。三十、用既济、未济。顷刻而周,周而复始。自日月运行,一寒一暑。天地氤氲,万物化醇。倒造化,翻乾坤。窃宇宙,盗阴阳。达天地之至道,始可与言此也。
或问乾、坤、坎、离之体。
曰:“周天火候之时,坎离交矣。坎离交,则乾坤交会矣。夫天道下降,地气上升,乃乾坤之用也。坎者,乾交坤也。离者,坤交乾也。其他卦象,不过设体耳。亦不可泥象寻爻,而火候之法始见。”
又曰;“似子言之,不过范围天地,运行日月而已。而炉鼎图又列八卦于鼎中,火侯图又升五位于泥丸,布平桥于卯酉,何也?”
“天机固不容泄言,既至此,隐之何为?且河出图,洛出书。天尚自泄,况千人乎?”
客曰:“止。余闻泄天机而殃及九祖。”
“独不闻度一人,而福及九祖乎?吾以吾之丹法,尽底无隐,而传于有缘之士。苟有信士,一人为仙,某岂无功乎?”
客曰:“子之用心,非某能知及之。”
曰:“是炉也,是鼎也,乃进火,进水之理耳。水、火无过一气耳。气之升也,吾以心接之,即火也。气之降也,吾以静待之,即水也。此绵绵若存之时,子午进用之功也。斯时也,方是偃月炉具之时。夫性见则气生,气生则金生,金生则气多,气多则金愈旺。此二者交相为用也。金旺于中,烛破浮云。露出一勾真性,如月之明,乃偃月炉也。存养之义,则金气盛而全尽,烛见一轮明月,乃全性也。既见全性,又返金性,则吾身皆真性、命为之主。此用火之时也,盖二者未融为一,而用火炼之,炼作纯金也。包含性命,通体皆阳。浮沉自在,爱日恋月,好游顶门,时至道成。奋厉而脱,霹雳一声,身非我有。吁嘻!人人可以如此而成功。人而自弃之,若是可哀也哉!余见总篇,方其九转既周,沐浴已竟。火力终焉,一星不灭。故动 ,一风以吹之。巽风者,鼎下之片缕耳。阖则为乾,辟则为巽,阖则为嘘,辟则为吸。何以能开辟?亦无非一意使之然。”
或曰:“巽,西方之位。以子所言,巽乃中宫。毋乃反乎?”
曰;“西方者,巽之用也。中宫者,巽之体也。吾自心生一意,而降于巽位,其象始辟,则吾言实兼体用而训也。继之以乾。乾:金。而火乃金精,故遇而炎火张设。须坎以抑之,抑之而不能止,则有反攻于下之患。故止以良,而又嘘以巽。巽上一画属阳,止火非阳不行。故遇震而稍焰,遇离而复炎。又止以坤。坤,水也。火从水起,如遇其兑。兑,又西方之卦也。故自尾闾,徐徐升上,而至泥丸。顶为天门,为正午之地。午属火,遂加煌。又接之以心。心,火也。接者,神也,乃神火也。又加煌。至卯酉,若直下则刑德临门,危其大哉!故一立而各为二道。今日之卯酉,昔日之坤、艮也。火,气也。气降而复升之理,故归于肾府,化为真水而用之。盖文火性柔而难化,遇卯木必克土。遂以火克木,则土不受克矣。武火性强而易化,降自酉。酉属金,金生水,归于鼎。”
曰:“何谓文,何谓武?”
曰:“文火自三关上至于天矣,武火是午宫与心火也。大凡火侯,只此一场,大有危险。丹士宜一战而胜,则天下定矣。平日周天火候,切不可以为则也。然此亦不可执著,彼亦不可执著。”
庆云开尽现鸿蒙,仿佛空中见祖宗。
风定七星还在水,依稀残韵上飘空。
Hỏa hậu đồ luận
Sách dịch viết về 384 hào
giao nhau. Hỏa tính ra số là 384 thù. Cho nên lấy càn khôn làm lò vạc, khảm ly
làm thuốc.
Ngòai ra, mồng 1 dụng
Truân, Mông; mồng 2 dụng Nhu, Tụng; mồng 3 dụng Sư, Tỷ; mồng 4 dụng Tiểu súc,
Lý; mồng 5 dụng Thái, Bĩ; mồng 6 dụng Đồng nhân, Đại hữu; mồng 7 dụng Khiêm, Dự;
mồng 8 dụng Tùy, Cổ; và kim tính nửa cân. Mồng 9 dụng Lâm, Quan; mồng 10 dụng
Phệ hạp, Bí; mười một dụng Bác, Phục; mười hai dụng Vô vọng, Đại súc; mười ba dụng
Di, Đại quá; mười bốn dụng Hàm, Hằng; mười lăm dung Độn, Đại tráng; mười sáu dụng
Tấn, Minh di; mười bảy dụng Gia nhân, Khuê; mười tám dụng Kiểu, Giải; mười chín
dụng Tổn, Ích; hai mươi dụng Quải, Cấu; hai mốt dụng Tụy, Thăng; hai mươi hai dụng
Khốn, Tỉnh; hai mươi ba dụng Cách, Đỉnh; và thủy là nửa cân. Hai mươi bốn dụng
Chấn, Cấn; hai mươi lăm dụng Tiệm, Quy muội; hai mươi sáu dụng Phong, Lữ; hai
mươi bảy dụng Tốn, Đòai; hai mươi tám dụng Hóan, Tiết; hai mươi chín dụng Trung
phu, Tiểu quá; ba mươi dụng Ký tế, Vị tế. Chỉ trong phút chốc mà đi khắp, đi khắp
rồi quay lại ban đầu. Do nhật nguyêt vận hành một lạnh một nóng mà trời đất hun
hấp, vạn vật chuyển hóa thuần hậu. Đảo ngược tạo hóa, lật ngược càn khôn, trộm
vũ trụ, cướp âm dương. Đạt đến đạo tối cao của trời đất thì mới có thể cùng nói
về điều này.
Có người hỏi về thể của
Càn, Khôn, Khảm, Ly.
Đáp: “Khi vận hỏa hậu chu
thiên thì Khảm ly giao nhau. Khảm ly giao thì càn khôn gặp gỡ. Phàm đạo trời
giáng xuống, khí đất bay lên, đó là cái dụng của càn khôn. Khảm là càn giao với
khôn. Ly là khôn giao với càn. Tượng quẻ khác nhau chẳng qua để làm rõ cái thể
mà thôi. Nên không được cho rằng nệ vào tượng lần theo hào mới thấy được phép hỏa
hậu.”
Có người nói: “Theo lời
ông nói, chẳng qua xoay quanh trời đất, vận hành nhật nguyệt mà thôi. Nhưng Lô
đỉnh đồ lại xếp bát quái trong vạc, hỏa hậu đồ lại đưa ngũ vị lên Nê hòan, đặt
Bình kiều ở mão dậu, sao vậy?”
“Thiên cơ vốn không dễ nói
ra lời, đã đến lúc này còn ẩn dấu àm gì? Sông Hà nổi lên sơ đồ (Hà đồ)”, sông Lạc
nổii lên sách (Lạc thư). Vậy là trời còn tự tiết lộ, huống là người, không thế
sao?”
Khách nói: “Thôi, tôi nghe
tiết lộ thiên cơ thì tai ương liên lụy đến chín đời tổ tiên.”
“Ông há không nghe cứu độ
một người thì phúc cho chín đời tổ tiên sao? Ta đem đan pháp của ta ghi hết cả
không chút che dấu, và truyền cho người có duyên. Nếu người có lfong tin theo
thì khi được một người thành tiên, tá há không có công ư?”
Khách trả lời: “Sự dụng
công của ông, không phải tôi không hiểu.”
Đáp: “Lò này, vạc này là
cái lý của sự tiến hỏa, tiến thủy. Thủy, hỏa không gì ngòai nhất khí. Khí thăng
lên, ta dùng tâm tiếp nó tức là hỏa. Khí giáng xuống ta dùng tĩnh đãi nó đó tức
là thủy. Khi miên miên nhược tồn như vậy chính là công phu tiến dụng vào giờ tý
ngọ. Lúc này mới chính là lúc có lò yển nguyệt. Phàm tính hiện thì khí sinh,
khí sinh thì kim sinh, kim sinh thì khí nhiều, khí nhiều thì kim càng mạnh. Hai
cái này tương giao thành ra dụng. Kim thịnh vượng bên trong sẽ soi thấu phù
vân, lộ ra một chân tính hình lưỡi câu, giống như ánh sáng của trăng, đó chính
là lò yển nguyệt. Tồn dưỡng thích hợp thì kim khí thịnh và tòan vẹn, chiếu hiện
một vầng trăng sáng, đó chính là tòan tính. Khi tính đã tòan lại trở về kim khí
thì thân ta được làm chủ bởi chân tính và chân mệnh. Lúc dụng hỏa này, do cả
hai chưa hòa thành một nên cần dùng hỏa luyện chúng, luyện thành thuần kim chứa
đựng cả tính và mệnh, tòan thân đều là dương. Dù nổi chìm luôn tự tại, yêu nhật
luyến nguyệt thỏa thích ngao du ở Đỉnh môn, cho đến khi thành đạo, nỗ lực vượt
qua gian khó để siêu thóat, chỉ trong chớp mắt, thân này đã không còn vướng bận
ta.
Ôi chao! Mọi người đều có
thể thành công như vậy nhưng người ta t.ư bỏ nó, thật đáng buồn thây! Ta xem cả
phần này chu tòan về cửu chuyển, đầy đủ về mộc dục. Hỏa lực đã xong một vì sao không tắt. Nên động
lên một cơn gió để thổi nó. Gió tốn chính là những làn khí dưới đỉnh. Đóng lại thì thành càn
(trời), mở ra thành tốn (gió), đóng lại là thở ra, mở ra
là hít vào. Vậy sao có
thể mở ra được? Cũng không phải không dùng đến nhất ý.”
 
火 候 图 论
《易》之为书,三百八十四交。火之为数,三百八十四铢。故舍乾坤以为鼎器,坎离为药物。
之外,初一、用屯、蒙。初二、用需、讼。初三、用师、比。初四、用小畜、履。初五、用泰、否。初六、用同人、大有。初七、用谦、豫。初八、用随、蛊。而金计半斤。初九、用临、观。初十、用噬嗑、賁。十一、用剥、复。十二、用无妄、大畜。十三、用颐、大过。十四、用咸、恒。十五、用遁、大壮。十六、用晋、明夷。十七、用家人、睽。十八、用蹇、解。十九、用损、益。二十、用夬、垢。二十一、用萃、升。二十二、用困、井。二十三、用革、鼎。而水半斤。二十四、用震、艮。二十五、用渐、归妹。二十六、用丰、旅。二十七、用巽、兑。二十八、用涣、节。二十九、用中孚、小过。三十、用既济、未济。顷刻而周,周而复始。自日月运行,一寒一暑。天地氤氲,万物化醇。倒造化,翻乾坤。窃宇宙,盗阴阳。达天地之至道,始可与言此也。
或问乾、坤、坎、离之体。
曰:“周天火候之时,坎离交矣。坎离交,则乾坤交会矣。夫天道下降,地气上升,乃乾坤之用也。坎者,乾交坤也。离者,坤交乾也。其他卦象,不过设体耳。亦不可泥象寻爻,而火候之法始见。”
又曰;“似子言之,不过范围天地,运行日月而已。而炉鼎图又列八卦于鼎中,火侯图又升五位于泥丸,布平桥于卯酉,何也?”
“天机固不容泄言,既至此,隐之何为?且河出图,洛出书。天尚自泄,况千人乎?”
客曰:“止。余闻泄天机而殃及九祖。”
“独不闻度一人,而福及九祖乎?吾以吾之丹法,尽底无隐,而传于有缘之士。苟有信士,一人为仙,某岂无功乎?”
客曰:“子之用心,非某能知及之。”
曰:“是炉也,是鼎也,乃进火,进水之理耳。水、火无过一气耳。气之升也,吾以心接之,即火也。气之降也,吾以静待之,即水也。此绵绵若存之时,子午进用之功也。斯时也,方是偃月炉具之时。夫性见则气生,气生则金生,金生则气多,气多则金愈旺。此二者交相为用也。金旺于中,烛破浮云。露出一勾真性,如月之明,乃偃月炉也。存养之义,则金气盛而全尽,烛见一轮明月,乃全性也。既见全性,又返金性,则吾身皆真性、命为之主。此用火之时也,盖二者未融为一,而用火炼之,炼作纯金也。包含性命,通体皆阳。浮沉自在,爱日恋月,好游顶门,时至道成。奋厉而脱,霹雳一声,身非我有。吁嘻!人人可以如此而成功。人而自弃之,若是可哀也哉!余见总篇,方其九转既周,沐浴已竟。火力终焉,一星不灭。故动 ,一风以吹之。巽风者,鼎下之片缕耳。阖则为乾,辟则为巽,阖则为嘘,辟则为吸。何以能开辟?亦无非一意使之然。”
或曰:“巽,西方之位。以子所言,巽乃中宫。毋乃反乎?”
曰;“西方者,巽之用也。中宫者,巽之体也。吾自心生一意,而降于巽位,其象始辟,则吾言实兼体用而训也。继之以乾。乾:金。而火乃金精,故遇而炎火张设。须坎以抑之,抑之而不能止,则有反攻于下之患。故止以良,而又嘘以巽。巽上一画属阳,止火非阳不行。故遇震而稍焰,遇离而复炎。又止以坤。坤,水也。火从水起,如遇其兑。兑,又西方之卦也。故自尾闾,徐徐升上,而至泥丸。顶为天门,为正午之地。午属火,遂加煌。又接之以心。心,火也。接者,神也,乃神火也。又加煌。至卯酉,若直下则刑德临门,危其大哉!故一立而各为二道。今日之卯酉,昔日之坤、艮也。火,气也。气降而复升之理,故归于肾府,化为真水而用之。盖文火性柔而难化,遇卯木必克土。遂以火克木,则土不受克矣。武火性强而易化,降自酉。酉属金,金生水,归于鼎。”
曰:“何谓文,何谓武?”
曰:“文火自三关上至于天矣,武火是午宫与心火也。大凡火侯,只此一场,大有危险。丹士宜一战而胜,则天下定矣。平日周天火候,切不可以为则也。然此亦不可执著,彼亦不可执著。”
庆云开尽现鸿蒙,仿佛空中见祖宗。
风定七星还在水,依稀残韵上飘空。
Hỏa hậu đồ luận
Sách dịch viết về 384 hào
giao nhau. Hỏa tính ra số là 384 thù. Cho nên lấy càn khôn làm lò vạc, khảm ly
làm thuốc.
Ngòai ra, mồng 1 dụng
Truân, Mông; mồng 2 dụng Nhu, Tụng; mồng 3 dụng Sư, Tỷ; mồng 4 dụng Tiểu súc,
Lý; mồng 5 dụng Thái, Bĩ; mồng 6 dụng Đồng nhân, Đại hữu; mồng 7 dụng Khiêm, Dự;
mồng 8 dụng Tùy, Cổ; và kim tính nửa cân. Mồng 9 dụng Lâm, Quan; mồng 10 dụng
Phệ hạp, Bí; mười một dụng Bác, Phục; mười hai dụng Vô vọng, Đại súc; mười ba dụng
Di, Đại quá; mười bốn dụng Hàm, Hằng; mười lăm dung Độn, Đại tráng; mười sáu dụng
Tấn, Minh di; mười bảy dụng Gia nhân, Khuê; mười tám dụng Kiểu, Giải; mười chín
dụng Tổn, Ích; hai mươi dụng Quải, Cấu; hai mốt dụng Tụy, Thăng; hai mươi hai dụng
Khốn, Tỉnh; hai mươi ba dụng Cách, Đỉnh; và thủy là nửa cân. Hai mươi bốn dụng
Chấn, Cấn; hai mươi lăm dụng Tiệm, Quy muội; hai mươi sáu dụng Phong, Lữ; hai
mươi bảy dụng Tốn, Đòai; hai mươi tám dụng Hóan, Tiết; hai mươi chín dụng Trung
phu, Tiểu quá; ba mươi dụng Ký tế, Vị tế. Chỉ trong phút chốc mà đi khắp, đi khắp
rồi quay lại ban đầu. Do nhật nguyêt vận hành một lạnh một nóng mà trời đất hun
hấp, vạn vật chuyển hóa thuần hậu. Đảo ngược tạo hóa, lật ngược càn khôn, trộm
vũ trụ, cướp âm dương. Đạt đến đạo tối cao của trời đất thì mới có thể cùng nói
về điều này.
Có người hỏi về thể của
Càn, Khôn, Khảm, Ly.
Đáp: “Khi vận hỏa hậu chu
thiên thì Khảm ly giao nhau. Khảm ly giao thì càn khôn gặp gỡ. Phàm đạo trời
giáng xuống, khí đất bay lên, đó là cái dụng của càn khôn. Khảm là càn giao với
khôn. Ly là khôn giao với càn. Tượng quẻ khác nhau chẳng qua để làm rõ cái thể
mà thôi. Nên không được cho rằng nệ vào tượng lần theo hào mới thấy được phép hỏa
hậu.”
Có người nói: “Theo lời
ông nói, chẳng qua xoay quanh trời đất, vận hành nhật nguyệt mà thôi. Nhưng Lô
đỉnh đồ lại xếp bát quái trong vạc, hỏa hậu đồ lại đưa ngũ vị lên Nê hòan, đặt
Bình kiều ở mão dậu, sao vậy?”
“Thiên cơ vốn không dễ nói
ra lời, đã đến lúc này còn ẩn dấu àm gì? Sông Hà nổi lên sơ đồ (Hà đồ)”, sông Lạc
nổii lên sách (Lạc thư). Vậy là trời còn tự tiết lộ, huống là người, không thế
sao?”
Khách nói: “Thôi, tôi nghe
tiết lộ thiên cơ thì tai ương liên lụy đến chín đời tổ tiên.”
“Ông há không nghe cứu độ
một người thì phúc cho chín đời tổ tiên sao? Ta đem đan pháp của ta ghi hết cả
không chút che dấu, và truyền cho người có duyên. Nếu người có lfong tin theo
thì khi được một người thành tiên, tá há không có công ư?”
Khách trả lời: “Sự dụng
công của ông, không phải tôi không hiểu.”
Đáp: “Lò này, vạc này là
cái lý của sự tiến hỏa, tiến thủy. Thủy, hỏa không gì ngòai nhất khí. Khí thăng
lên, ta dùng tâm tiếp nó tức là hỏa. Khí giáng xuống ta dùng tĩnh đãi nó đó tức
là thủy. Khi miên miên nhược tồn như vậy chính là công phu tiến dụng vào giờ tý
ngọ. Lúc này mới chính là lúc có lò yển nguyệt. Phàm tính hiện thì khí sinh,
khí sinh thì kim sinh, kim sinh thì khí nhiều, khí nhiều thì kim càng mạnh. Hai
cái này tương giao thành ra dụng. Kim thịnh vượng bên trong sẽ soi thấu phù
vân, lộ ra một chân tính hình lưỡi câu, giống như ánh sáng của trăng, đó chính
là lò yển nguyệt. Tồn dưỡng thích hợp thì kim khí thịnh và tòan vẹn, chiếu hiện
một vầng trăng sáng, đó chính là tòan tính. Khi tính đã tòan lại trở về kim khí
thì thân ta được làm chủ bởi chân tính và chân mệnh. Lúc dụng hỏa này, do cả
hai chưa hòa thành một nên cần dùng hỏa luyện chúng, luyện thành thuần kim chứa
đựng cả tính và mệnh, tòan thân đều là dương. Dù nổi chìm luôn tự tại, yêu nhật
luyến nguyệt thỏa thích ngao du ở Đỉnh môn, cho đến khi thành đạo, nỗ lực vượt
qua gian khó để siêu thóat, chỉ trong chớp mắt, thân này đã không còn vướng bận
ta.
Ôi chao! Mọi người đều có
thể thành công như vậy nhưng người ta t.ư bỏ nó, thật đáng buồn thây! Ta xem cả
phần này chu tòan về cửu chuyển, đầy đủ về mộc dục. Hỏa lực đã xong một vì sao không tắt. Nên động
lên một cơn gió để thổi nó. Gió tốn chính là những làn khí dưới đỉnh. Đóng lại thì thành càn
(trời), mở ra thành tốn (gió), đóng lại là thở ra, mở ra
là hít vào. Vậy sao có
thể mở ra được? Cũng không phải không dùng đến nhất ý.”
# Đồ luận Hỏa Hậu

Kinh Dịch là một cuốn sách bao gồm ba trăm tám mươi t.ư giao. Hỏa có số là ba trăm tám mươi t.ư chu. Do đó, lấy Càn Khôn làm đỉnh khí, Khảm Ly làm dược vật.

Ngoài ra:
- Sơ nhất, dùng Truân, Mông
- Sơ nhị, dùng Nhu, Tụng
- Sơ tam, dùng Sư, Tỷ
- Sơ tứ, dùng Tiểu Súc, Lý
- Sơ ngũ, dùng Thái, Bĩ
- Sơ lục, dùng Đồng Nhân, Đại Hữu
- Sơ thất, dùng Khiêm, Dự
- Sơ bát, dùng Tùy, Cổ

Mà Kim tính nửa cân.

- Sơ cửu, dùng Lâm, Quán
- Sơ thập, dùng Phệ Hạp, Bí
- Thập nhất, dùng Bác, Phục
- Thập nhị, dùng Vô Vọng, Đại Súc
- Thập tam, dùng Duy, Đại Quá
- Thập tứ, dùng Hàm, Hằng
- Thập ngũ, dùng Độn, Đại Tráng
- Thập lục, dùng Tấn, Minh Di
- Thập thất, dùng Gia Nhân, Quế
- Thập bát, dùng Kiển, Giải
- Thập cửu, dùng Tổn, Ích
- Nhị thập, dùng Quải, Cấu
- Nhị thập nhất, dùng Tụy, Thăng
- Nhị thập nhị, dùng Khốn, Tỉnh
- Nhị thập tam, dùng Cách, Đỉnh

Mà Thủy nửa cân.

- Nhị thập tứ, dùng Chấn, Cấn
- Nhị thập ngũ, dùng Tiệm, Quy Muội
- Nhị thập lục, dùng Phong, Lữ
- Nhị thập thất, dùng Tốn, Đoài
- Nhị thập bát, dùng Hoán, Tiết
- Nhị thập cửu, dùng Trung Phu, Tiểu Quá
- Tam thập, dùng Ký Tế, Vị Tế

Trong khoảnh khắc mà chu toàn, chu toàn rồi lại bắt đầu. Từ vận hành của nhật nguyệt, một hàn một thử. Trời đất ấm áp, vạn vật hóa thuần. Đảo lộn tạo hóa, lật đổ càn khôn. Trộm lấy vũ trụ, đoạt lấy âm dương. Đạt được đạo chí cao của thiên địa, mới có thể bàn về điều này.

Hoặc hỏi về thể của Càn, Khôn, Khảm, Ly.

Đáp: "Vào thời Chu Thiên Hỏa Hậu, Khảm Ly giao nhau. Khảm Ly giao, thì Càn Khôn gặp gỡ. Thiên đạo hạ giáng, địa khí thăng lên, đó là dụng của Càn Khôn. Khảm là Càn giao Khôn. Ly là Khôn giao Càn. Các quẻ tượng khác, bất quá chỉ là thiết lập hình thể mà thôi. Cũng không thể câu nệ vào tượng tìm hào, mà pháp hỏa hậu mới hiện."

Lại nói: "Như lời ngươi nói, bất quá là phạm vi thiên địa, vận hành nhật nguyệt mà thôi. Mà đồ Lô Đỉnh lại liệt Bát Quái trong đỉnh, đồ Hỏa Hậu lại thăng Ngũ Vị tại Nê Hoàn, bố Bình Kiều tại Mão Dậu, là sao?"

"Thiên cơ vốn không thể tiết lộ, đã đến nước này, ẩn giấu làm chi? Hơn nữa Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư. Trời còn tự tiết lộ, huống chi nghìn người sao?"

Khách nói: "Thôi! Ta nghe tiết lộ thiên cơ mà tai ương đến cửu tổ."

"Sao không nghe độ một người, mà phúc đến cửu tổ sao? Ta lấy đan pháp của ta, tận đáy không giấu, mà truyền cho kẻ hữu duyên. Nếu có tín sĩ, một người thành tiên, ta há không công sao?"

Khách nói: "Tâm ý của tiên sinh, chẳng phải ta có thể biết được."

Đáp: "Cái lô này, cái đỉnh này, chính là đạo lý tiến hỏa, tiến thủy vậy. Thủy, Hỏa không quá một khí vậy. Khí thăng lên, ta dùng tâm tiếp nó, tức là Hỏa vậy. Khí hạ xuống, ta dùng tĩnh đợi nó, tức là Thủy vậy. Đây là lúc miên miên nhược tồn, công phu tiến dụng ở Tý Ngọ vậy. Thời này, mới là lúc Yển Nguyệt Lô đầy đủ. Phàm tính hiện thì khí sinh, khí sinh thì kim sinh, kim sinh thì khí nhiều, khí nhiều thì kim càng vượng. Hai cái này tương hỗ làm dụng vậy. Kim vượng ở giữa, chiếu phá phù vân. Lộ ra một móc chân tính, như ánh sáng của mặt trăng, đó là Yển Nguyệt Lô vậy. Nghĩa của tồn dưỡng, tức là kim khí thịnh mà hoàn tận, soi thấy một vầng minh nguyệt, đó là toàn tính vậy. Đã thấy toàn tính, lại trở về kim tính, thì thân ta đều là chân tính, mệnh làm chủ nó. Đây là lúc dùng hỏa vậy, bởi hai cái chưa dung làm một, mà dùng hỏa luyện nó, luyện thành thuần kim vậy. Bao hàm tính mệnh, thông thể đều dương. Phù trầm tự tại, ái nhật luyến nguyệt, thích du đỉnh môn, thời đến đạo thành. Phấn lệ mà thoát, sét đánh một tiếng, thân chẳng phải ta có. Ôi! Người người đều có thể như thế mà thành công. Người mà tự bỏ đi, thật đáng thương thay!"

Đáp: "Tây phương là dụng của Tốn. Trung cung là thể của Tốn. Ta từ tâm sinh một ý, mà hạ xuống vị Tốn, tượng của nó bắt đầu mở, thì lời ta thật sự bao gồm cả thể và dụng mà giảng vậy. Tiếp theo là Càn. Càn là Kim. Mà Hỏa chính là Kim tinh, nên gặp nhau mà ngọn lửa bừng lên. Cần dùng Khảm để ức chế, ức chế mà không thể ngừng, thì có họa phản công ở dưới. Cho nên dừng lại để tốt, rồi lại thổi bằng Tốn. Một hào trên của Tốn thuộc Dương, ngăn lửa phi Dương không thể đi. Nên gặp Chấn mà hơi bốc lên, gặp Ly mà lại bùng cháy. Lại dừng bằng Khôn. Khôn là Thủy. Hỏa từ Thủy khởi, như gặp Đoài của nó. Đoài lại là quẻ Tây phương. Nên từ Vĩ Lư, từ từ thăng lên, mà đến Nê Hoàn. Đỉnh là Thiên Môn, là địa phương chính Ngọ. Ngọ thuộc Hỏa, liền thêm rực rỡ. Lại tiếp bằng Tâm. Tâm là Hỏa. Tiếp là Thần, tức là Thần Hỏa. Lại thêm rực rỡ. Đến Mão Dậu, nếu đi thẳng xuống thì Hình Đức lâm môn, nguy hiểm biết bao! Nên một lập mà mỗi cái thành hai đạo. Mão Dậu ngày nay, chính là Khôn, Cấn ngày xưa. Hỏa là Khí. Khí hạ xuống rồi lại thăng lên, nên về Thận Phủ, hóa thành Chân Thủy mà dùng. Bởi Văn Hỏa tính nhu mà khó hóa, gặp Mộc ở Mão ắt khắc Thổ. Bèn dùng Hỏa khắc Mộc, thì Thổ không bị khắc. Võ Hỏa tính mạnh mà dễ hóa, hạ từ Dậu. Dậu thuộc Kim, Kim sinh Thủy, về nơi đỉnh."

Hỏi: "Thế nào là Văn, thế nào là Võ?"

Đáp: "Văn Hỏa từ Tam Quan lên đến Thiên vậy, Võ Hỏa là Ngọ cung với Tâm Hỏa vậy. Đại phàm Hỏa Hậu, chỉ một trường này, rất mực nguy hiểm. Đan sĩ nên một trận mà thắng, thì thiên hạ định vậy. Bình nhật Chu Thiên Hỏa Hậu, tuyệt không thể lấy làm chuẩn vậy. Nhưng cái này cũng không thể chấp trước, cái kia cũng không thể chấp trước."

Khánh Vân khai tận hiện Hồng Mông,
Phỏng phất không trung kiến Tổ Tông.
Phong định Thất Tinh hoàn tại thủy,
Y hi tàn vận thượng phiêu không.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top