[Anh Ngữ] Lưu ý khi dịch tiểu thuyết tiếng Anh

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Lần trước có bạn đặt thread hỏi xin dịch tiểu thuyết tiếng Anh để lấy kinh nghiệm, và hôm nay thì mình nhớ ra là mình từng viết guide về cái đó thật, chỉ là chưa đăng lên đây thôi.
Chủ yếu nó là những nhận xét khi mình dịch Tsukihime, thành ra ví dụ có thể hơi lạ mắt.
Có 6 vấn đề cần bàn:

1. Câu bị động (Passive voice)
Cấu trúc thể bị động trong tiếng Anh rất khác tiếng Việt. Có ba lưu ý chính:

• Cảm xúc người nói (mood)
Trong tiếng Việt, thể bị động thường hay mang yếu tố cảm xúc người nói, thể hiện thông qua hai từ “được” (văn cảnh tốt) và “bị” (văn cảnh không tốt). Tiếng Anh hầu như không có phân chia này (trừ cấu trúc get passive sẽ được nói sau), do đó người dịch cần bổ sung tùy theo tình huống.

• Trật tự từ (syntax)
Trước tiên cần tham khảo ví dụ:
  • Dịch Eng: Naturally, she's always surrounded by a crowd
  • Dịch thô: Nên chẳng có gì lạ khi cô ấy luôn được vây quanh bởi một đám đông.
  • Biên dịch: Nên chẳng có gì lạ khi cô ấy luôn được đám đông vây quanh.
  • Biên dịch 2: Nên chẳng có gì lạ khi đám đông luôn vây quanh cô ấy.
Tiếng Việt không hay dùng thể bị động có “bởi”, vì sẽ gây dài dòng. Có hai cách giải quyết: một là đảo lại trật tự từ thành SOV (Subject – Object – Verb), hai là đổi lại câu văn về thể chủ động như trên.

• Câu bị động không chủ thể (agentless passive)
Tiếng Anh có đặc điểm là phải có chủ ngữ mới thành câu văn hoàn chỉnh. Tuy nhiên có một số trường hợp trong đó chủ ngữ hoặc không cần phải nêu, hoặc là người nói không biết để mà nêu. Vì không thể viết câu không có chủ ngữ, nên dịch giả tiếng Anh đã đổi chúng thành câu bị động:
  • Dịch Eng: The main gate is locked at seven, and all the entrances to the mansion are to be locked at eight.
  • Dịch thô: Cổng chính bị khóa lúc bảy giờ, và mọi lối vào biệt thự phải bị khóa lúc tám giờ.
  • Biên dịch: Đến bảy giờ là khóa cổng chính, còn tám giờ thì khóa mọi lối vào biệt thự.
Tiếng Việt cho phép và ưu tiên lược chủ ngữ như trên (chúng ta tự hiểu rằng người khóa cửa là người nói, dù trong câu văn gốc không nêu).

2. Get
Đầu tiên cần bàn đến passive voice có kèm get. Khác câu bị động thông thường, sử dụng get hàm ý rằng hành động xảy ra trong câu là nằm ngoài tầm kiểm soát của chủ ngữ.
  • Dịch Eng: Please do take care not to get attacked by any dogs on your way to school.
  • Dịch thô: Xin hãy cẩn thận đừng để bị tấn công bởi bất cứ con chó nào trên đường anh đi học.
  • Biên dịch: Anh nhớ chú ý đừng để bị chó cắn trên đường đi học nhé.
Get someone to do something mang nghĩa “kiên trì khiến cho ai đó phải làm việc gì”
  • Dịch Eng: It's taken me seven days to get her to remember my name.
  • Biên dịch: Tao mất bảy ngày mới làm cho chị ấy nhớ được tên tao đó.
Get to do something = be able to do something:
  • Dịch Eng: She will never get to finish what she tried to say.
  • Biên dịch: Cô ấy sẽ không bao giờ nói được hết câu.
Thường thì get hay được dùng tương đương với feel/think.
  • Dịch Eng: Somehow, I get the feeling Kohaku-san has missed the point.
  • Biên dịch: Không hiểu sao, tôi có cảm giác Kohaku-san hiểu nhầm vấn đề rồi.
Get on/get along mang nghĩa “thân thiết”:
  • Dịch Eng: Tohno-kun, you really do get on well with Inui-kun.
  • Biên dịch: Tohno-kun thật sự là rất thân với Inui-kun đó.
Have got to (abbr. gotta) = I think they certainly…, dịch ngắn gọn thành “hẳn là”:
  • Dịch Eng: She has got to be suspicious, but she bows and leaves the room.
  • Biên dịch: Hẳn là cô ấy thấy đáng ngờ, nhưng cô vẫn cúi chào và rời khỏi phòng.
Cuối cùng là get yourself together, nghĩa là “xốc lại bản thân”:
  • Dịch Eng: Please warm yourself up, eat dinner, and get yourself together before you go home.
  • Biên dịch: Em phải làm ấm người, ăn tối này, và chỉn chu lại rồi hẵng về nhà.
3. It-construction
Do tính chất phải bắt đầu câu với chủ ngữ, dù cho phải dùng chủ ngữ giả It, tiếng Anh nhiều khi khá trúc trắc. Ví dụ hiển nhiên và cơ bản nhất là khi mô tả thời tiết.
  • Dịch Eng: It is a beautiful day outside, and the dry wind signals the end of summer.
  • Biên dịch: Ngoài trời thật đẹp, và làn gió hanh báo hiệu mùa hè đã hết.
Phổ biến nhất là it-clause, trong đó it đóng vai trò đại từ nhân xưng (third-person pronoun) đại diện cho văn cảnh trước đó. Nếu dịch là “nó” thì khá chướng mắt.
  • Dịch Eng: And the one who changed me wasn't Hisui, it was her sister, Kohaku-san.
  • Biên dịch: Và người thay đồ cho tôi không phải Hisui, mà là Kohaku-san chị cô ấy.
Một cấu trúc thường gặp: It seems/looks/appears (like), dịch thành “có vẻ như”:
  • Dịch Eng: It seems Arihiko is close with Senpai.
  • Biên dịch: Có vẻ như Arihiko khá thân với Senpai.
Tương tự là it can be:
  • Dịch Eng: Ah, could it be that your anemia was acting up again?
  • Biên dịch: À, hay là do chứng thiếu máu của mày lại xuất hiện?
Với dạng cleft-sentence dưới đây thì it is được sử dụng để nhấn mạnh danh từ đứng sau:
  • Dịch Eng: It is also a rule that one must try not to go walking around in the mansion after ten.
  • Biên dịch: Cũng còn quy định rằng không ai được đi lại trong biệt thự sau mười giờ tối.
Cấu trúc trên một lần nữa:
  • Dịch Eng: It is my duty to come and wake you, Shiki-sama.
  • Biên dịch: Nhiệm vụ của tôi là đến đánh thức Shiki-sama.
Còn khá nhiều ví dụ, chẳng hạn adjective clause. Phương án chung là lược bỏ “nó” nếu được.
  • Dịch Eng: Yes, but it is uncommon for her to come home before dusk like today.
  • Biên dịch: Vâng, nhưng thường thì cô ấy không hay về nhà trước hoàng hôn như hôm nay đâu ạ.
Đôi khi cách giải quyết tốt nhất với adjectival clause là hoán đổi tính từ xuống cuối câu:
  • Dịch Eng: We're going back the same way, so it wouldn't be strange for us to go together for part of the way, right!?
  • Biên dịch: Bọn mình đi về cùng một hướng, nên nếu có về cũng nhau trên một phần đường thì cũng không có gì lạ, nhỉ!?
Trong ví dụ trên, từ “lạ” (strange) đã được đảo xuống cuối cho hợp với trật tự từ trong tiếng Việt.

4. For some reason
Đây là một thành ngữ phổ biến, cách dịch phổ thông là “không biết tại sao” hoặc “bất chợt”.
  • Dịch Eng: I feel tired for some reason.
  • Biên dịch: Không hiểu sao, tôi thấy mệt.
5. Though
Though khi đứng đầu câu thì là “mặc dù”, tương đương với although/even though:
  • Dịch Eng: Though it does seem rather black and blubbery.
  • Biên dịch: Tuy nhiên trông nó lại như có màu đen và giống mỡ động vật.
Tuy nhiên though đứng cuối câu lại mang nghĩa however (tuy nhiên):
  • Dịch Eng: Sure. Let's keep it short though.
  • Biên dịch: Dĩ nhiên rồi. Nhưng mà ngắn gọn thôi nhé.
6. Still
Chúng ta đều biết still khi làm trạng từ giữa câu thì mang nghĩa “vẫn còn”:
  • Dịch Eng: The doctor is still smiling.
  • Biên dịch: Ông bác sĩ vẫn nở nụ cười.
Tuy nhiên tiếng Anh-Mĩ thường dùng still ở đầu câu với vai trò tương đương however. Đôi lúc từ này còn được diễn đạt thành but still hoặc but even still:
  • Dịch Eng: Still, to notice and then just ignore her would be somewhat cruel.
  • Biên dịch: Nhưng nếu nhận ra cô ấy rồi mà lại lờ đi thì cũng hơi quá đáng.
 
Last edited:

sweetzarbie

Trúc Cơ Sơ Kỳ
Dịch Giả Trường Sinh
Ngọc
2.933,07
Tu vi
65,00
Tiếng Việt không hay dùng thể bị động có “bởi”, vì sẽ gây dài dòng. Có hai cách giải quyết: một là đảo lại trật tự từ thành SOV (Subject – Object – Verb), hai là đổi lại câu văn về thể chủ động như trên.

Chưa bao giờ thấy ai nhận xét một câu đúng như vậy.
Bây giờ ai cũng học tiếng Anh, các sách dạy tiếng cứ dịch từng chữ, dùng chữ "bởi" làm câu bị động khi dịch ra tiếng Việt. Bao thế hệ học theo, rốt cục nói viết tiếng Việt theo kiểu Anh, đọc muốn trẹo miệng nhưng riết rồi quen, trong khi câu tiếng Việt rất đơn giản lại không dùng.
10 người hết 9,9 viết sẽ thấy "Nên chẳng có gì lạ khi cô ấy luôn được vây quanh BỞI một đám đông." rất tự nhiên trong khi cái câu "Nên chẳng có gì lạ khi đám đông luôn vây quanh cô ấy. " thì không có bao nhiêu người biết viết hết.

Con chuột bị ăn bởi con mèo.
Hướng dẫn được viết bởi @walrus rất hữu ích :D
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Đọc lại bài viết của mình lần thứ 2 và vẫn thấy thuật ngữ rất ư là... chuyên sâu (technical). Mong các bạn thông cảm và google hộ mình.

Bây giờ ai cũng học tiếng Anh, các sách dạy tiếng cứ dịch từng chữ, dùng chữ "bởi" làm câu bị động khi dịch ra tiếng Việt. Bao thế hệ học theo, rốt cục nói viết tiếng Việt theo kiểu Anh, đọc muốn trẹo miệng nhưng riết rồi quen, trong khi câu tiếng Việt rất đơn giản lại không dùng.
Mình từng đọc 1 bài phân tích của 1 nhà ngôn ngữ học Việt, và ông ấy hàm ý rằng trước đây tiếng Việt không có thể bị động với "bởi"; đó là cấu trúc tiếng Việt mượn từ ngôn ngữ châu Âu như tiếng Bồ Đào Nha, được dùng quá nhiều nên thành thuần Việt. Ngay cả chữ "bởi" cũng nghe giống "by" trong tiếng Anh.

Tiếng Việt cổ điển dùng từ "phải" để nói về thể bị động:
  • Mày cẩn thận kẻo phải đòn = mày cẩn thận kẻo bị ăn đòn
  • Ông phải gió rồi, đang nằm trong nhà = ông bị trúng gió rồi, đang nằm trong nhà.
  • Chị ấy cứ như phải tai phải vạ = chị ấy cứ như bị nhận tai nhận vạ
Khá bất ngờ là cấu trúc trên cũng không xuất phát từ tiếng Việt! Đây là cấu trúc mượn từ cổ văn Trung Quốc, ví dụ sử gia t.ư Mã Thiên dùng chữ "phải rượu" để nói về "bị say rượu". Lưu ý mình dùng chữ "cổ văn" ở đây là ám chỉ văn học viết, còn văn học nói Trung Hoa chưa chắc đã nói như vậy; các tác giả thường có thói quen viết gọn hơn văn nói để tiết kiệm giấy.
 
Last edited:

sweetzarbie

Trúc Cơ Sơ Kỳ
Dịch Giả Trường Sinh
Ngọc
2.933,07
Tu vi
65,00
Mình từng đọc 1 bài phân tích của 1 nhà ngôn ngữ học Việt, và ông ấy hàm ý rằng trước đây tiếng Việt không có thể bị động với "bởi"; đó là cấu trúc tiếng Việt mượn từ ngôn ngữ châu Âu như tiếng Bồ Đào Nha, được dùng quá nhiều nên thành thuần Việt. Ngay cả chữ "bởi" cũng nghe giống "by" trong tiếng Anh.

Tiếng Việt cổ điển dùng từ "phải" để nói về thể bị động:
  • Mày cẩn thận kẻo phải đòn = mày cẩn thận kẻo bị ăn đòn
  • Ông phải gió rồi, đang nằm trong nhà = ông bị trúng gió rồi, đang nằm trong nhà.
  • Chị ấy cứ như phải tai phải vạ = chị ấy cứ như bị nhận tai nhận vạ
Khá bất ngờ là cấu trúc trên cũng không xuất phát từ tiếng Việt! Đây là cấu trúc mượn từ cổ văn Trung Quốc, ví dụ sử gia t.ư Mã Thiên dùng chữ "phải rượu" để nói về "bị say rượu". Lưu ý mình dùng chữ "cổ văn" ở đây là ám chỉ văn học viết, còn văn học nói Trung Hoa chưa chắc đã nói như vậy; các tác giả thường có thói quen viết gọn hơn văn nói để tiết kiệm giấy.

Cám ơn @walrus đã nêu thêm một ví dụ về chữ "phải" để diễn tả ý bị động rất hay. Sweet quên mất kiểu diễn đạt này, đọc văn của các tác giả miền Bắc rất hay gặp.
Mình chưa bao giờ cho là chữ "Bởi"dùng để diễn tả ý bị động là thuần Việt, mà chỉ cho rằng đó là một thứ tiếng Việt lai căng. Bởi việc học ở nước ta luôn máy móc và rập khuôn nên mới vậy.
Tiếng Việt có cấu trúc bị động riêng. Khi chủ hành động biết rõ là ai thì viết thẳng ở dạng chủ động. Nếu viết "Chương trình được thực hiện bởi Minh" nghe rất kỳ cục. Sweet thấy khi xưa người ta xài chữ do : Loạt phóng sự/chương trình này do nhóm XYZ thực hiện, xin mời quý thính đón nghe vào thứ X hàng tuần... Nói xưa cũng chẳng xưa lắm, ít nhất cũng là khoảng 20-30 năm về trước. Sweet đọc sách báo của cả 2 thời cũ mới thì thấy vậy.
Về việc bạn nói chữ "phải" mượn từ cổ văn Trung Quốc thì Sweet thấy thế này.
Mình thấy tinh thần bài Trung Quốc hiện nay rất cao, cũng thấy sợ sức mạnh tuyên truyền.
Gần đây dịch truyện, đọc cột phiên âm Hán Việt trong QT rất nhiều mới thấy không biết bao nhiêu là dấu vết ngữ âm để lại. Bạn có dịp đọc sách báo đầu thế kỷ, đọc văn thơ, thậm chí là văn thơ, lời hát cổ bản, nam bình, nam ai,... Huế của các vị quý tộc thời đó sẽ có nhiều điểm tương đồng.
Tiếng Việt với chữ Hán có nhiều điểm tương đồng, Sweet gọi nó là giao thoa văn hóa, không nói mượn.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top