Dear
How have you been? I'm doing.........in Singapre. I saw a rainbow yesterday
_________________________________________________________
Có thế điền từ gì bây giờ nhỉ, nhờ các đạo hữu chỉ giáo với, bài tập của F1 mà khó thế. @vuongtuphuong , @Vivian Nhinhi , @walrus , @Thông Nhầm Bố Vợ, @Chưa nghĩ ra tên
Dear
How have you been? I'm doing.........in Singapre. I saw a rainbow yesterday
_________________________________________________________
Có thế điền từ gì bây giờ nhỉ, nhờ các đạo hữu chỉ giáo với, bài tập của F1 mà khó thế. @vuongtuphuong , @Vivian Nhinhi , @walrus , @Thông Nhầm Bố Vợ, @Chưa nghĩ ra tên
Thường theo văn cảnh "tao thấy cầu vồng ở đây hôm qua" thì chắc chuyến đi Singapore là đi du lịch thôi. Doing a business chắc là chuẩn. Nếu không thì doing well (khoẻ) cũng được.
Thường theo văn cảnh "tao thấy cầu vồng ở đây hôm qua" thì chắc chuyến đi Singapore là đi du lịch thôi. Doing a business chắc là chuẩn. Nếu không thì doing well (khoẻ) cũng được.
Có lẽ là đến Singapore làm ăn, chắc dùng Do business là chuẩn.
Nhưng mà ta thấy chỉ có cấu trúc do business with someone thôi (I was fascinated by the different people who did business with me), như câu trên là I'm doing business in Singapre mà không có with someone liệu có ổn không nhỉ?
Hay là dùng "I'm doing my business in Singapre" nhỉ?
“Among the men and women prominent in the public life of America there are but few whose names are mentioned as often as that of Emma Goldman.”
Cao thủ nào chỉ giáo tại hạ với, trước prominent sao lại thiếu động từ to be nhỉ?
“Among the men and women prominent in the public life of America there are but few whose names are mentioned as often as that of Emma Goldman.”
Cao thủ nào chỉ giáo tại hạ với, trước prominent sao lại thiếu động từ to be nhỉ?
Sau khi Mông Cổ - giờ đã gọi mình là Nguyên triều để thay thế "đế vương thiên mệnh" tại Trung Quốc - tiêu diệt được Nam Tống (Trung Quốc), giờ muốn chiếm nốt các nước còn lại ở châu Á. Nguyên đế Hốt Tất Liệt rất quan tâm đến việc tăng thu nhập cho đế quốc, và thu nhập thì phải dựa vào giao thương. Giao thương trên bộ dựa vào Con đường tơ lụa - Nguyên triều đã nắm được. Giao thương trên biển thì họ cần làm chủ con đường tơ lụa trên biển - đi từ Ả Rập đến Đông Nam Á, sang miền nam Trung Quốc, kết thúc ở Nhật Bản. Trong đó điểm dừng chân quan trọng nhất ở Đông Nam Á để các tàu buôn lấy nước ngọt dùng trên đường là Chiêm Thành (Việt Nam).
Với lí do trên, cuối thế kỉ 13 thì Nhật Bản và Chiêm Thành là hai mục tiêu xâm lược số một của Nguyên triều. Với Nhật Bản thì Nguyên triều thực hiện hai cuộc xâm lược vào năm 1274 và 1281, đều thất bại cả. Không nhai được xương cứng thì họ tính miếng mềm hơn là Chiêm Thành. Ngay từ những năm 1270s thì Hốt Tất Liệt đã ép Chiêm Thành phải đầu hàng Nguyên, chấp nhận làm chư hầu. Chiêm Thành không chịu, và năm 1278 họ kí hiệp ước với Đại Việt, nội dung là hợp tác chống Nguyên, trong bối cảnh Nam Tống - đồng minh và lá chắn còn sót để kháng Nguyên - đã bị Nguyên nuốt trọn trong cùng năm.
Hốt Tất Liệt thấy Chiêm Thành cứng đầu thì chuyển chính sách từ ngoại giao sang chiến tranh. Năm 1283, Hốt Tất Liệt đặt mục tiêu xâm lược Chiêm Thành trước xâm lược Đại Việt, cử Toa Đô - tướng tài trong cuộc chiến với Nam Tống - lãnh đạo toàn quân Nguyên đi đường biển xuống Chiêm Thành.
Chỗ này phải nói rõ hơn về chính trị Chiêm Thành vì tổ chức quốc gia của họ khá là khác Đại Việt. Địa hình miền Trung Việt Nam bị núi sông chia cắt, dẫn đến việc Chiêm Thành không thống nhất được non sông về một mối. Đất nước của họ bao gồm 5 tiểu vương quốc, trong đó vương quốc đứng đầu vào năm 1283 là Vijaya (Đồ Bàn, nay ở Quy Nhơn, Bình Định). Các vương quốc này hỗ trợ lẫn nhau khi cần, nhưng cũng hay hục hặc. Cơ bản thì họ hợp tác làm ăn vì không ai đủ sức thầu hết việc buôn bán của toàn bộ thương cảng miền Trung Việt Nam - vốn cực kì sầm uất trong suốt một ngàn năm.
Trong cuộc chiến lần này, Vijaya chỉ nhận được sự trợ giúp từ 2 tiểu vương quốc phía Bắc, là Indrapura (Hóa Châu - Huế) và Amaravati (Châu Sa - Quảng Trị). 2 tiểu vương quốc phía Nam là Kauthara và Panduranga, hùng mạnh hơn hẳn, thì lại từng có thù nội chiến với Vijaya, nên lần này không thể hỗ trợ ra mặt, sợ Vijaya nghi mình thừa cơ nước đục.
19/12/1282, tức ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Nhâm Ngọ, Toa Đô (Sogetu) khởi 5,000 quân bộ gốc Tống từ các tỉnh Hoài Triết, Phúc Kiến, Hồ Quảng (Trung Quốc), với 100 thuyền chiến và vận tải, đi đường biển từ phía nam Trung Quốc xuống đánh thành Đồ Bàn.
Có một điều cần làm rõ, đó là số lượng quân đội thực tế không bao giờ đông như trong sách xưa chép, dù là thư tịch cổ ở phương Đông hay Tây. Lí do thì có nhiều:
Sử gia phóng tác lên để tô vẽ sự kiện cho hoành tráng.
Các phe nói tăng quân số của mình lên để khuếch trương thanh thế
Phe mình cũng mặc nhiên coi con số phóng đại của phe địch là thật. Lí do vì nếu phe ta có lỡ thua thì ta đổ tại cho địch đông. Nếu ta thắng, thì chiến thắng đối thủ người đông thế mạnh há chẳng oai hơn?
Thời xưa hay gộp dân phu vào cả con số tính toán binh lính.
Thực tế việc đào tạo lính chuyên nghiệp là rất khó và đắt. Với công nghệ kém cỏi của thời xưa thì riêng trang bị mũ, giáp, giáo sắt, có khi thêm cả vài con ngựa và bộ cung gỗ, thì chi phí này đã rất lớn rồi. Công nghệ rèn vũ khí cũng phức tạp hơn rèn nông cụ, nên thời xưa ai ra đường đeo kiếm thì không phải nhà binh cũng là con quý tộc.
Hơn nữa một đạo quân cần có số lượng rất lớn dân binh đi theo để phục dịch. Lính chuyên nghiệp cũng có nhu cầu ăn, ngủ, nghỉ, chữa bệnh, bảo trì vũ khí quân nhu. Điều này dẫn đến một lượng lớn dân phu suốt ngày nấu cơm, giặt giũ, làm đường sá, chăn ngựa, thực hiện nhiệm vụ quân y, vân vân. Ngay cả việc lính mặc giáp thôi cũng cần phu hỗ trợ để mặc cho nhanh (ví dụ giáp Minh Quang đời Trần cần 1 người hỗ trợ mà mặc vào vẫn tốn 15 phút).
Trung bình 1 người lính cần đến 4 phu đi theo. Trong điều kiện tải vận khó khăn, và lính có nhiệm vụ ăn cướp tại đất địch để giảm chi phí vận chuyển, thì có lẽ là giảm được xuống 1 lính 2 phu. Kể cả như thế thì vẫn phải có quân tiếp viện đi sau để tải lương và quân nhu.
Vậy thực tế sau khi gạt con số ảo và con số của dân phu, thì lượng lính thực tế là thấp đi nhiều. Tuy nhiên việc phóng đại con số đều có giới hạn. Theo kinh nghiệm của mình thì:
Trận nào quân ta không chắc thắng thì nói tăng quân gấp 4.
Trận nào ta chắc thắng thì nói gấp 10.
Có nghịch lí trên là vì đối phương cũng áng chừng được số lượng quân ta, dựa trên điều tra dân số, sức sản xuất nông nghiệp, sức sản xuất vũ khí. Nếu phe ta đã yếu còn nói phét lác quá, thì địch đọc vị được ngay.
Và nếu nói tăng quân gấp 10, thì khi ta thua, hậu phương phe ta dễ bị đòn tâm lí ngược. Điều này đã xảy ra trong giai đoạn cuối khởi nghĩa Lam Sơn. Giặc Minh lỡ tay chém gió số lượng quân gấp 10, nên khi bị thua một mạch từ ải Chi Lăng đến Tốt Động - Chúc Động, phần còn lại quân Minh ở thành Thăng Long hoảng quá, đều muốn xin hàng.
Như mình đã nói, thông thường sử sách hay chép phóng đại, nên chúng ta cần giảm đi một chút. Nguyên quân xuất chinh với tâm lí chắc thắng (dẫu sao Chiêm Thành Vijaya cũng không phải nước mạnh, họ còn chưa bắt nạt nổi Đại Việt), nên hẳn là quân số được tăng gấp 10.
Sử Tây đa phần chép quân Nguyên chỉ có 5,000 lính (không tính phu). Tạ Chí Đại Trường cũng đồng ý con số này. Con số này là khá hợp lí vì quân Nguyên viễn chinh tại Nhật vào năm 1274 (trước khi viễn chinh Chiêm Thành có 9 năm) cũng chỉ có 5,000 lính.
Theo mình lượng dân phu đi theo sẽ chiếm khoảng 10,000. Thông thường mình sẽ giả định là 20,000, theo tỉ lệ lính/phu 1:4 ở trên (Ngột Lương Hợp Thai đánh Đại Việt năm 1258 cũng chỉ có 2,500-3,000 kị binh và 1 vạn dân phu). Tuy nhiên do vấn đề đi lại đường biển phức tạp, tốn tiền đóng tàu lớn, và Toa Đô cũng mong đợi quân tiếp viện sau này đến, nên mình giả định ở mức thấp.
Số lượng thuyền Nguyên quân cũng là cái cần bàn. Thuyền chiến galley thời Trung cổ của châu Âu chỉ chở được 200-400 người. Thuyền của Trung Quốc thuộc loại hàng tuyển toàn thế giới lúc đó, quân Nguyên có được nhờ sử dụng hàng binh Trung Quốc, chở được tối đa 300 người (theo Marco Polo). James P. Delgado nói trong War at Sea rằng quân Nguyên chỉ có 100 thuyền là khá chuẩn. Sức chứa tối đa của đội thuyền này là 30,000 người, thì là đủ để chứa 5,000 lính và 10,000 phu dịch. Không gian thừa còn lại dành cho quân nhu, lương, và ngựa (dù rất ít, do ngựa không thích ở trên thuyền).
Tất nhiên đó là chưa kể thực tế Nguyên triều không có đủ tiền đóng tàu chiến nhiều cỡ đó, trong số trên có một vài thuyền là cải tạo lại từ thuyền trên sông, nhỏ và nhẹ hơn. Lối làm việc ăn bớt này khiến thuyền của quân Nguyên gặp bão là ngủm, chúng ta sẽ thấy nhiều trong các chiến dịch tại Nhật Bản, Chiêm Thành và Đại Việt.
Trên đường đi xuống vịnh Quy Nhơn, nhóm thuyền đi cuối của Toa Đô một số bị đắm do bão, làm chậm tiến độ vào bờ. Tuy nhiên thiệt hại cho quân Nguyên là không đáng kể.
Đến đây phải lật lại một chút. Quá trình chuẩn bị chiến tranh của quân Nguyên tốn cả năm trời, từ công tác ngoại giao để dụ hàng, khi không được thì trưng binh, đóng tàu và đưa quân viễn chinh. Và từ trước đó vài năm thì Chiêm Thành lẫn Đại Việt đều đã đoán được ý đồ của đế quốc địch. Do đó, khi Toa Đô kéo quân dọc bờ biển Nam Trung Bộ, tiến vào vịnh Quy Nhơn, thì đón đầu hắn đã có 1 tòa thành gỗ chạy dài.
Trên hình, đường kẻ dài 20 km là giả định thành gỗ do Chiêm Thành mới dựng để phòng thủ, xây dựa vào các gò đất cao có sẵn. Bên trong là vòng ngoài và vòng trong của kinh đô Đồ Bàn (Vijaya, hiện tại nằm ở xã Nhơn Hậu và Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định). Khả năng cao là thành gỗ nối với thành Cha, tại xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn, vốn là cố đô nước Lâm Ấp, sau này Chiêm Thành cải tạo nó thành công sự phòng thủ kiêm làng nghề gốm Gò Sành.
Toa Đô (Sogetu) từ phía Bắc đi tàu vòng qua vịnh Quy Nhơn, tiến vào đầm Thị Nại, đóng trại bên phía Đông của đầm. Toa Đô có 3 hướng tiếp cận như trên hình. Hướng số 1 là dọc theo nhánh trái sông Côn, tiếp cận phải bằng thủy quân. Hướng số 3 đi trên đồng bằng lớn, sẽ là địa điểm giao tranh chính nếu quân Chiêm Thành rời thành gỗ để đối mặt trực tiếp.
Toa Đô đóng quân ở ven đầm Thị Nại, thả quân ra cướp giết dân Chiêm ở ven biển Bình Định rồi lên đến Quảng Trị, nhằm cắt các tuyến tiếp viện lương thực và quân binh cho Đồ Bàn, cướp của, đồng thời do thám địa bàn, bắt thêm tù binh Chiêm Thành làm hướng đạo. Toa Đô liên tục đòi vua Chiêm Thành phải hàng, nhưng vua Indravarman V và thái tử Harijit nhất quyết không chịu. Đợi đến nửa đêm 12/2/1283, Toa Đô kéo quân công thành.
Theo phỏng đoán của mình, với việc Toa Đô đang sở hữu hơn 100 thuyền to, ông ta hẳn sẽ đợi lúc thủy triều lên cao, làm sông Côn rộng ra, để thuyền to của mình có ưu thế, giúp đại quân tiếp cận thành gỗ Chiêm Thành nhanh hơn. Lối suy nghĩ trên phần nào được ủng hộ bởi lịch thủy triều Quy Nhơn năm 2020 cũng thể hiện là nửa đêm trung tuần tháng 2 là lúc thủy triều lên cao nhất trong vài tháng trở lại.
Tất nhiên việc sử dụng lịch thủy triều năm 2020 để đoán cho năm 1283 thì khá là võ đoán, nhưng do thông tin ít ỏi của trận này, nãy giờ mình đã phải chấp nhận sử dụng rất nhiều giả định.
Đến đây cần xem lại tương quan lực lượng hai phe và đưa ra con số quân đội Chiêm Thành:
Quân Nguyên:
Bộ & thủy binh: 5,000
Kị binh: 50 (sử không nói gì nên mình cho số lượng tượng trưng)
Dân phu: 10,000
Quân Chiêm Thành:
Bộ & thủy binh: 3,000
Kị binh: 50
Tượng binh: 20.
Máy bắn đá: 100.
Dân phu: 15,000
Sử không chép gì về số lượng quân Chiêm Thành nên mình phải phỏng đoán toàn bộ.
Đầu tiên là quân đội Chiêm Thành chắc chắn là ít hơn Toa Đô. Vì nếu đông hơn thì đã đánh Toa Đô ngay khi chúng mới đến đầm Thị Nại, còn chưa chắc chân. Ngoài ra còn vì dân số thành Đồ Bàn không giúp cho quân đội nơi này đạt đến con số hàng vạn được.
Một thành phố thời trung cổ rất hiếm khi có dân số vượt 25,000. Như Thăng Long là kinh đô của Đại Việt mà cũng chỉ có 60,000 dân vào cùng thời. Chiêm Thành bị chia làm 4-5 tiểu vương quốc, đã thế lại có nền kinh tế ít trọng nông như Đại Việt, dẫn đến dân số thành Đồ Bàn nhỏ hơn Thăng Long. Theo mình dân số thành Đồ Bàn không thể vượt quá 30,000, bất chấp việc vua Chiêm có thể đã gom dân ở ngoại vi kéo hết về thành Đồ Bàn để chạy nạn giặc Nguyên.
Lính chuyên nghiệp chiếm khoảng 5% dân số, thời kì nguy nan có thể trưng binh gần gấp đôi, vậy Đồ Bàn có được 2,500 lính của họ. Trong hoàn cảnh biết trước bị địch tấn công, tin chắc Đồ Bàn sẽ kêu gọi sự trợ giúp của các tiểu vương quốc Chiêm Thành láng giềng, bao gồm Hóa Châu (Indrapura - Huế), Châu Sa (Amaravati - Quảng Trị), chắc là được thêm 500 lính. Họ có thêm sự trợ giúp từ các tù trưởng người Thượng - lực lượng tượng binh của Đồ Bàn tin là mua từ đây.
Đại Việt có hỗ trợ lính và chiến thuyền nhưng khả năng cao là đạo quân tiếp viện này mãi về sau mới tham chiến.
Nói chung Chiêm Thành không thể có quân số vượt 6,000 vì ngay ở Nhật, năm 1274 Houjou Tokimune nắm đại quyền cũng chỉ gọi được 8,000 lính. Và nước Nhật khi đó lớn mạnh hơn Vijaya còn chưa thống nhất được Chiêm Thành.
Với quân số ít hơn của Toa Đô, hi vọng của Chiêm Thành phần nào đến từ lực lượng tượng binh. Quản tượng là nghề rất khó, ngay như đế quốc Carthage hùng mạnh mà một trận không vác quá 80 voi, thì Đồ Bàn dốc túi ra mua được 20 con là tối đa. Hoàng Lê nhất thống chí chép là voi có thể lấy một địch trăm, nên dù chỉ 20 con voi cũng là rất đáng gờm.
Trên lưng voi có quản tượng và một người dùng cung hoặc nỏ hai cánh, đây là lối đánh người Chiêm Thành học được từ nước Angkor. Có khả năng voi Chiêm Thành được trang bị giáp bọc chân, vì năm 1258 trong cuộc chiến Đại Việt-Mông Cổ, quân nhà Trần đã mất nhiều voi do mã cung thủ Mông Cổ nhắm bắn vào chân voi. Tất nhiên nếu đàn voi này chủ yếu là hàng mượn từ người Thượng thì sự trang bị sẽ thấp hơn.
Vũ khí then chốt của Chiêm Thành ở trận này, ngoài tượng binh, còn có máy bắn đá hơn 100 khẩu. Sử chép là "hồi hồi pháo", thực chất đây là máy bắn đá của A-rập (counterweight trebuchet), để vận hành cần 20 người. Như vậy là Chiêm Thành mất 2,000 dân binh để phục vụ hệ thống phòng ngự này. So với máy bắn đá truyền thống thì Hồi hồi pháo bắn rất xa và khỏe, nhưng khi địch đến tận chân thành thì vũ khí này mất tác dụng.
Biết rõ nhược điểm đó (vì máy bắn đá cũng là vũ khí cả người Hán lẫn người Mông Cổ đều có kinh nghiệm sử dụng), Toa Đô kéo quân đi trong đêm, vượt tầm ngắm của các máy bắn đá Chiêm Thành. Trong đêm, dù vua Chiêm có cho máy bắn đá thử, thì do không nhìn rõ mặt sông, hiệu quả là rất thấp. Đến khi Toa Đô và hai phó tướng Trần Trọng Đạt và Trương Bàn tiếp cận sát 3 mặt thành thì máy bắn đá Chiêm đã mất phần nào tác dụng.
Hãy quay trở lại bản đồ thành Đồ Bàn vừa rồi.
Mũi tiến công số 1 là mũi thủy quân của Trần Trọng Đạt với 1,600 quân. Mũi số 2 là của bộ binh của Trương Bàn với 300. Toa Đô chủ soái cầm 3,100 quân bộ & kị còn lại đánh mặt nam rộng nhất.
Thông thường để thủ vững được thành, cần quân thủ với số lượng bằng 1/2 quân công, nên Chiêm Thành hẳn đã chia 800 quân đấu với Trần Trọng Đạt, 200 nữa với Trương Bàn, 2,100 còn lại cùng voi chiến chuẩn bị đương đầu với Toa Đô.
Trận công thành chiến kéo dài suốt 12 tiếng, tin chắc rằng trong lúc này, thuyền quân Nguyên đã quay ngược trở về trại, chở dân phu ra chiến trường để vận chuyển bao cát và xe công thành, tiếp sức cho chiến trường. Đây cũng là thời cơ để máy bắn đá Chiêm Thành trả đòn, thiệt hại chủ yếu là với thuyền của Nguyên quân, trúng đạn hỏng hóc đến bảy tám phần.
Chiến trường chính nằm ở cửa Nam thành gỗ giữa vua Chiêm và tướng Toa Đô nhà Nguyên. Mình cho rằng vua Chiêm hi vọng có thể kết thúc chiến tranh ngay trong trận này, nên đã để chủ lực phe mình đương đầu chủ lực phe địch trong một trận đánh quy ước (conventional battle), để nếu thắng lợi thì phần còn lại của quân địch cũng phải xin hàng.
Sử Trung Quốc (Kinh thế đại điển thực lục và Nguyên sử) chép là vua tướng Chiêm Thành đón đầu Toa Đô ngay tại cửa nam thành gỗ. Theo lối đánh truyền thống, hẳn là vua Chiêm đặt voi ở phía trước trung lộ, phân kị binh ở hai cánh ngoài cùng, bộ binh ở giữa. Toa Đô thì chỉ có bộ binh và kị binh. 50 kị binh chọi 50 kị binh ở hai cánh thì cơ bản là hòa và không ảnh hưởng được gì đến thế trận có hàng ngàn bộ binh trang bị giáp.
Tuy nhiên Toa Đô có ưu thế lớn từ vũ khí, đó là lựu đạn. Thời đó, quân Tống (Trung Quốc đã phát triển xong lựu đạn sơ khai, với vỏ gốm hoặc sắt, bên trong nhồi thuốc nổ, ròng dây thừng để ném. Khi Mông Cổ diệt Tống, cũng đã sở hữu công nghệ này, và mang ra thử trên người Nhật trong trận Vịnh Hakata lần thứ nhất, năm 1274. Với ưu thế lựu đạn ném ra tạo tiếng nổ làm thú vật sợ hãi, Mông Cổ dù kém về số lượng (5,000 chọi 8,000) vẫn làm quân Nhật phải rất vất vả mới thủ hòa.
Tin chắc rằng, lựu đạn Chấn Thiên Lôi này đã được Toa Đô sử dụng để đánh bại đàn voi chiến của Chiêm Thành. Voi khi bị dọa nạt thì có xu hướng chạy hỗn loạn, đạp cả vào lính phe ta, gây thiệt hại rất lớn. Điều khó hiểu duy nhất là Nguyên sử không hề chép gì về việc Toa Đô dùng lựu đạn để dọa voi Chiêm.
Cuộc chiến diễn ra ác liệt khoảng hơn nửa ngày thì quân Chiêm Thành dần núng thế, cửa nam cơ hồ không giữ nổi. Thấy tình thế bất lợi, thái tử Harijit hạ lệnh rút quân về hướng tây bắc. Quân của Toa Đô tràn vào thành, phối hợp với các cánh quân khác làm chủ hoàn toàn thành gỗ. Những dân công và binh lính Chiêm Thành ở lại chặn hậu, không rút kịp đều bị tàn sát dã man.
Quân Chiêm Thành rút về kinh đô Đồ Bàn (Vjiaya) để tránh thế mạnh ban đầu của địch. Sau lần đọ sức đầu tiên này, biết không thể trực diện ứng chiến ngay với quân Nguyên, vua Chiêm sai giết hai viên sứ Nguyên là Lưu Vĩnh Hiền và Y Lan, đốt kho tàng, bỏ lại lâu đài dinh thự rồi cùng quân đội rút lên núi Nha Hầu ở phía Bắc thành phố Quy Nhơn (hiện không rõ vị trí). Cuộc chiến giờ chuyển thành đấu trí ngoại giao, phản gián, và sau đó là đấu du kích trong nửa năm.
Không phải đảo ngữ (inversion) đâu @nhduy0607 mà thực chất nó là mệnh đề quan hệ rút gọn.
Câu gốc là “Among the men and women that areprominent in the public life of America there are but few whose names are mentioned as often as that of Emma Goldman.”
Rút gọn như thế là cần thiết trong văn viết, vì chả ai muốn đọc 1 câu văn dài hơn 30 từ.
À, cảm ơn bạn nha. Vì mình đọc thì hiểu ý như sau: there are many men and women who are prominent in the public life of America but (the most often mentioned) is Emma Goldman.
Không phải đảo ngữ (inversion) đâu @nhduy0607 mà thực chất nó là mệnh đề quan hệ rút gọn.
Câu gốc là “Among the men and women that areprominent in the public life of America there are but few whose names are mentioned as often as that of Emma Goldman.” @Chưởng Thiên
Rút gọn như thế là cần thiết trong văn viết, vì chả ai muốn đọc 1 câu văn dài hơn 30 từ.
This site uses cookies to help personalise content, tailor your experience and to keep you logged in if you register.
By continuing to use this site, you are consenting to our use of cookies.