[Anh Ngữ] Animorphs ngoại truyện - Biên niên sử Ellimist

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Tcqm6pZ.jpg


Tên: The Ellimist Chronicles

Thể loại: Thiếu niên, khoa học viễn tưởng

Tác giả: K. A. Applegate


Với thế hệ 9x đời đầu trở về trước thì đa số đều đã biết đến Animorphs - bộ truyện được vô số thiếu niên hâm mộ, bao gồm cả ở Việt Nam. Trước đây NXB Trẻ đã dịch xong chính truyện, tuy nhiên một số ngoại truyện, ví dụ như The Ellimist Chronicles, đã bị bỏ qua.

Để kỉ niệm phiên bản điện ảnh của Animorphs đã được bấm máy vào hè năm ngoái, mình sẽ dịch ngoại truyện này. Còn dịch được full hay không thì không dám chắc :3

Bản gốc tiếng Anh ở đây. Phần ngoại truyện này khá riêng biệt, cho nên bạn không cần đọc chính truyện cũng hiểu được.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 0 - Mở đầu

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Đứa trẻ loài người gọi tên ta. Nó sắp chết, và vì ta vẫn tuân thủ luật chơi, nên ta không thể giúp gì cho nó hết.

Đứa trẻ loài người, một trong số những kẻ tự gọi mình là Animorphs, yêu cầu ta giải thích. Trong giây phút cuối cùng, con-người đó muốn biết rằng: Có đáng không? Đau đớn, thống khổ, sợ hãi. Bóng ma chết chóc mà nó đã trải qua, bóng ma chết chóc mà nó đã gây nên, có đáng không?

Ta chỉ nói rằng ta không thể trả lời được. Ta chỉ nói rằng cuộc chiến còn chưa chấm dứt.

“Rốt cuộc ông là ai?!”, đứa trẻ gào lên. “Tại sao ông có quyền coi chúng tôi là trò chơi? Ông xuất hiện, ông tan biến, ông chơi đùa chúng tôi, ông lợi dụng chúng tôi, ông là ai, ông là cái thứ gì? Tôi cần biết câu trả lời.”

“Đúng.” Ta đáp lại. “Ngươi xứng đáng. Ta sẽ trả lời câu hỏi vừa rồi của ngươi bằng tất cả những gì ta biết. Và khi ngươi đã biết ta là ai, ngươi sẽ lại hỏi một câu khác. Và ta cũng sẽ trả lời câu hỏi đó. Và rồi…”
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 1

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Tên đầy đủ của tôi là Lam Tầng, Thất Trụ, Đệ Nhị Phạm Vi, Hạ Sứ Giả, Tứ Thập Nhất. Tuy nhiên tôi tự đặt cho mình một cái tên khác, Toomin. Tôi thích âm điệu của cái tên này, và như thế là quá đủ với một cái tên riêng rồi.

Trong “game”, tên của tôi là Ellimist. Cũng như Toomin, bản thân từ Ellimist chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi chỉ cảm thấy nó cũng khá du dương thôi. Không ngờ rằng đó sẽ là cái tên bám theo cuộc đời tôi đến mãi bây giờ, và ở tận nơi đây.

********************

Pangaban là một giống loài đã thích nghi rất tốt với môi trường sống kì lạ của chúng. Chúng sinh tồn bên dưới một bầu trời vĩnh viễn chìm trong mây mù xám xịt. Chúng chưa bao giờ được nhìn thấy mặt trời một cách rõ nét, chưa có cả ý niệm về những ngôi sao hay các hành tinh xung quanh. Thật là trớ trêu, vì cái được gọi là hành tinh Pangaban này, thực chất chỉ là một vệ tinh quay xung quanh một hành tinh khổng lồ và thích hợp hơn nhiều cho sự sống.

Nếu giống Pangaban được ban phước cho nhìn thấy bầu trời sau lớp màn mây kia, chắc hẳn chúng đã rất khác bây giờ. Làm sao một chủng loài có thể kiềm nén ham muốn được phi hành trong không gian, sau khi đã nhìn thấy hành tinh chủ, cùng với tất cả những sự sum sê và tươi tốt của cây cỏ nơi ấy?

Nhưng loài Pangaban chẳng biết gì cả, không gì hơn cái thế giới ẩm ướt và âm u của chúng.

Một cá thể Pangaban có sáu chi. Đây vốn là cấu trúc cơ thể khá thường gặp. Phần đầu của nó được gắn trên cùng của phần thân dài, cơ bắp, đủ khỏe mạnh để phối hợp với ba cặp chân dài.

Giống Pangaban kiếm ăn ở tầng mặt nước. Bàn chân chúng rộng, có màng da, và cong gập vào bên trong, cho phép chúng di chuyển trên mặt nước vốn bao phủ hầu hết bề mặt hành tinh này. Chúng bắt mồi bằng cách thả một thứ lưới từ phần bụng chúng xuống nước, rồi gạn lấy động thực vật phù du, một nguồn thức ăn dường như vô tận.

Chúng thông minh. Không được như người Ketran, có lẽ vậy, nhưng có khả năng tự nhận thức. Chúng tự biết mình là ai. Biết rằng chúng tồn tại. Có ngôn ngữ riêng. Có văn hóa, chủ yếu bao gồm những điệu nhảy nước làm mê đắm lòng người, những nghi thức bắt mồi, và tín ngưỡng thờ phụng thủy thần, những kẻ có quyền năng ban phát hoặc thu hồi thức ăn của loài Pangaban.

Kết quả phân tích DNA cho thấy tiềm năng phát triển. Hành tinh Pangaban được nhận một lượng kha khá tia phóng xạ, không hề đến mức gây nguy hại, mà chỉ vừa đủ để tăng tỉ lệ đột biến gene. Và bất chấp hình thù kì dị, và giới hạn của tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh này, tôi tin rằng giống loài Pangaban có thể tiến hóa đến trình độ khoa học kĩ thuật ngang hàng với, để xem nào, Hội Đồng Illaman.

Chỉ có một vấn đề: Hành tinh chủ bị thống trị bởi một chủng tộc hung bạo, một giống loài gặm nhấm với bốn chi sau, hai chi trước mang tên Gunja Wave. Loài Gunja Wave vẫn còn rất nguyên thủy, chỉ mới có chút ít tự nhân thức. Nhưng DNA của chúng cũng rất có tiềm năng. Và sự hung hãn của chúng có lẽ sẽ là ưu thế nếu như hai chủng loài phải đối đầu nhau.

Dẫu vậy, tôi vẫn rất tự tin. Tôi memm bạn tôi, gã Lam Tầng, Cửu Trụ, Đệ Tam Nguy Can, Hữu Sứ Giả, Thập Nhị. Tên tự chọn của hắn là Redfar. Tên trong “game” của hắn là Inidar.

“Tao sẽ chọn loài Pangaban, nếu mày dám chơi ván này.”

“Chơi luôn”, hắn memm lại. “Mày đang đánh giá thấp sức mạnh của số đông. Mày vẫn còn mơ mộng lắm, Ellimist ạ.”

“Thế cơ đấy? Nào, tên chorkant kia hãy dỏng tai lên nghe dreth nói đây, có gan thì vào hang của ta.(1)”

Inidar cười lớn. Tiếng cười làm tôi chột dạ. Hắn có vẻ rất tự tin. Nhưng tôi không thể để lộ ra sự do dự của mình được.

“Cùng lặn xuống chứ?” Đây là nghi thức của game.

“Ở phía bên kia.” Inidar đáp, và qua đó, chấp nhận lời thách đấu.

Tôi kiểm tra lại vị trí của mình trong thế giới thực, nhìn xem liệu còn memm nào chưa được đọc hay không. Tôi không muốn bị phân tâm. Rồi, tôi mở máy, và ngay lập tức chìm vào trong thế giới game.

Ý thức tôi chìm nổi trong khoảng không hành tinh Pangaban. Trôi dạt phía trên một thứ súp xám-xanh lục quyện giữa rong biển, tảo và những con lươn, dài gần ba dặm. Tôi rảo bước trên nền của một hòn đảo phủ đầy rêu, gạt qua những bụi cây xù xì, xấu xí, và tìm được một bộ lạc Pangaban.

Giống loài Pangaban vẫn đang gạn mồi trong nước như mọi khi, nhưng chúng còn đang chơi đùa nữa. Một trò chơi với một đám đông di chuyển chậm rãi, dần thu hẹp quanh một cá nhân trong vòng tròn. Chắc chắn không phải là một trò chơi phức tạp, càng không thể so sánh với game mà tôi đang tham gia.

Dù vậy, tôi vẫn rất hài lòng. Hiển nhiên năng lực để tưởng tượng cũng như tiến hành một trò chơi là một dấu hiệu tốt cho bất cứ chủng loài nào. Đó chỉ là một trò chơi nhẹ nhàng, đơn sơ, và gần như vô nghĩa, nhưng còn có thể tiến hóa thêm. Game vẫn luôn tiến hóa trên mọi hành tinh, và trong số các chủng tộc, thì giống loài của tôi, Ketran, là ví dụ tiêu biểu nhất.

Tôi tự hỏi Inidar sẽ làm gì với giống dân Gunja Wave. Mục tiêu của trò chơi là tối thiểu hóa: Đạt được mục tiêu mà chỉ tốn ít công sức nhất có thể.

Tôi hiểu chữ “ít công sức nhất” nghĩa là thế nào. Tôi đã có kế hoạch rồi. Chỉ là một hành động đơn giản: Tôi sẽ đánh dạt mây mù ra, khiến bầu trời trở nên quang đãng hơn mười phần trăm. Nếu kế hoạch của tôi đủ chu toàn, nếu suy luận của tôi là chính xác, chỉ riêng thay đổi đó cũng ngang một cuộc cách mạng đối với loài Pangaban.

Tôi giảm tốc độ, nổi lên, rẽ trái, nghiêng cánh, và hạ cánh trên mặt nước, vô hình trong mắt loài Pangaban chậm chạp và im ắng.

Tôi thích được cảm nhận từng ngóc ngách của game. Tôi thích được ở bên trong nó. Phải đúng như thế, phải khi làn gió trên hành tinh lạ thổi qua cặp cánh, và mặt đất (hiện giờ là mặt nước) chạm vào màng bàn chân, tôi mới hiểu rõ chốn này. Và khi tôi nói nơi chốn này, ý tôi là tất cả các sinh vật.

Tôi ngước lên nhìn màn mây thăm thẳm. Không thể để quá nhiều ánh sáng xuyên qua được, nếu không toàn bộ hệ sinh thái sẽ tiêu tùng mất. Chỉ cần hé một chút thôi.

Tôi run lên vì hồi hộp. Loài Pangaban đang đứng trước một thay đổi lớn đến mức chúng không thể lường được. Lần đầu tiên, đôi mắt của chúng được chính thức mở ra. Vũ trụ quan của chúng sẽ được mở rộng thêm một tỉ phần trăm.

Tôi mỉm cười. Tôi memm cho máy chủ của game với nội dung sau: Tách dạt mây mù ra. Và thảm mây tách làm đôi. Lúc này đang là ban đêm. Tấm thảm mây rách toạc, chậm rãi, im lìm. Và trên đầu giống loài Pangaban, những ngôi sao xuất hiện. Lốm đốm trên tấm màn đêm đen vô tận, là những chấm màu cam, lam và lục.

Từ từ, từng cá thể một, loài Pangaban làm điều chúng chưa từng làm trước đây: Chúng ngước lên.

Chúng ngước lên và hú lọc bọc như nước sủi bọt.

Đoạn memm của Inidar xuất hiện trong đầu tôi. “Tăng tiến trình nhé?”

“Sao phải xoắn.” Tôi đáp, và memm cho máy chủ.

Một cơn cuồng phong! Một luồng bão táp của gió và nước và đất và thời gian. Những thay đổi điên cuồng như dòng xoáy nước. Đây là khoảnh khắc quan trọng nhất của game. Cả hai chúng tôi đều đã thực hiện công việc của mình, và giờ phải chờ xem thời gian sẽ cho ra đáp án gì.

Tôi bật mục hiển thị lên: mức biến đổi DNA, sự thay đổi khí hậu, tiến bộ của công nghệ, sự gia tăng dân số. Trong vòng hai trăm ngàn năm đầu tiên, chỉ có những thay đổi không đáng kể. Và rồi tôi bắt đầu nhận ra DNA kiểm soát thị giác và hình thể của chúng đang thay đổi. Quá trình chọn lọc tự nhiên khiến loài Pangaban dần có tầm nhìn xa hơn, có thể nhìn được màu sắc, và có cổ dài hơn.

Và rồi, đùng một cái, rắc rối đến. Hàm lượng tảo trong nước liên tục tụt xuống. Không thể nào! Tăng lượng ánh sáng mặt trời phải đồng nghĩa với tăng quy mô của hệ thực vật mới đúng. Ấy thế mà sinh vật biển lại đang chết dần.

Và rồi, trong lúc tôi vẫn đứng nguyên, mặc cho dòng thời gian xoay vần, những con lươn ăn thịt bắt đầu tấn công loài Pangaban. Số lượng cá thể Pangaban bị giảm xuống gần như không còn gì.

Sự tiến hóa DNA lại thêm một lần nữa giải cứu loài Pangaban. Xu hướng chọn lọc tự nhiên giờ thiên về giảm kích cỡ. Những cá thể nhỏ hơn sẽ nhanh nhẹn hơn, trốn thoát được lũ lươn. Nhỏ hơn và hơn nữa cho đến khi loài Pangaban trước đây cao như tòa tháp, giờ gần như không to hơn Ketran chúng tôi là bao.

Đã không còn uy hiếp từ phía loài lươn nữa. Và rồi cũng đến lúc có bước đột phá đầu tiên về công nghệ. Loài Pangaban đã biết cách làm công cụ. Một vũ khí, dĩ nhiên rồi. Một mũi lao đơn giản, dùng để lật ngược lại tình thế trong cuộc đấu tranh sinh tồn với bầy lươn. Di chuyển thành từng bầy nhỏ, giống Pangaban bắt đầu săn và ăn thịt lươn. Loài bắt cá ven sông nguyên thủy giờ đã trở thành kẻ săn mồi thực thụ.

Một triệu năm đã trôi qua, và một chủng loài khác hẳn khi xưa, giờ đang di cư khắp các vùng biển, được vũ trang bằng giáo và cung tên. Giờ chúng đã thành lập một xã hội phân cấp bậc, được cai trị bởi các chiến binh. Văn hóa của chúng cũng thay đổi, giờ chuyển sang thờ phụng một vị thần của bầu trời, người đã ban cho chúng vũ khí.

Tốt, tốt, thế là ổn lắm rồi. Thêm một triệu năm nữa. Hoặc có lẽ là hai triệu, và rồi chúng sẽ biết chế tạo thứ gì đó phức tạp hơn vũ khí, nhằm để…

Và đột nhiên, chỉ trong chớp mắt, còn ngắn hơn một tiếng bíp, mọi chỉ số đều tắt ngúm. Loài Pangaban đã biến mất. Tuyệt chủng.

Tôi chửi thề, và nghe được tiếng cười của Inidar thông qua memm.

Tôi xem replay, và giảm tốc độ tiến trình xuống. Và đây: loài Gunja Wave, vẫn còn là động vật gặm nhấm, nhưng giờ đã đứng thẳng, hạ cánh xuống hành tinh Pangaban bằng những con tàu vũ trụ thô sơ không thể tả, đã giết và ăn thịt giống Pangaban. Lũ Gunja Wave đã săn lùng ráo riết đến mức loài Pangaban tuyệt chủng. Và rồi đám Gunja Wave rời đi, để lại một hành tinh không còn sinh vật có trí tuệ nào nữa.

“Như vậy là kết thúc ván này rồi nhỉ?” Inidar hỏi.

Tôi thở dài. “Thế mày đã làm gì?”

“À, chỉ động tay một chút thôi. Tao đã tăng tốc độ sinh sản của bọn Gunja Wave thêm vài phần trăm. Điều này sẽ càng làm tăng tính hung bạo của bọn chúng. Và tao cũng đoán là mày sẽ tách lớp màn mây Pangaban ra. Sức ép từ sự gia tăng dân số, nguồn thức ăn có hạn, cộng thêm khả năng nhìn thấy rõ bề mặt hành tinh Pangaban… đám Gunja Wave của tao sẽ muốn xơi tái bọn Pangaban của mày thôi.”

“Ờ, và mọi chuyện đã diễn ra đúng như vậy.” Tôi đáp. “Tao thua kèo này.”

“Mày phải bớt ngây thơ đi, Ellimist. Sự thịnh vượng không dành cho những người giỏi giang hay tốt bụng. Nó chỉ thuộc về những kẻ có ham muốn giành lấy nó.”

“Rồi rồi, xin mày thoát game đi cho tao nhờ.” Tôi lầm bầm. “Hẹn nhau ở sân bay nhé?”

“Tao sẽ đợi ở đó, Ellimist ạ.”

Tôi tắt game, và mở mắt ra với thế giới thực.

Chú thích:
(1) Nguyên văn: “Step into my lair, said the dreth to the chorkant.” K. A. Applegate nhại theo một câu trong bài thơ The Spider and the Fly của Mary Howitt: “Come into my parlour, said the spider to the fly”.

Bản dịch thơ:

"Mời anh quá bộ vào nhà chơi!
Chú nhện đon đả bảo chú ruồi."
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 2

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Tôi là một người Ketran. Hành tinh của tôi là Ket. Tôi buộc phải nêu ra sự-thật-hiển-nhiên này chỉ vì chúng tôi cho phép khách thăm viếng từ hành tinh khác được quyền truy cập vào hệ thống Uninet của mình. Hy vọng rằng khi đoạn tin nhắn này lạc đến tai của một người thuộc Hội đồng Illaman, hoặc người được đánh số hiệu Generation, hoặc đơn giản là bất cứ một người Ketran nào khác, thì họ sẽ không đánh giá tôi là người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan(1).

Hầu hết người ngoài hành tinh đều rất bất ngờ khi chứng kiến sự sống trên miền đất của tôi. Chỉ riêng việc nói chuyện với họ cũng đủ thú vị rồi, bởi vì họ cho tôi một cái nhìn hoàn toàn khác về những thứ tưởng chừng như quá đỗi quen thuộc. Những người đầu tiên của Generation 9561, những người đầu tiên thám hiểm hành tinh Ket, còn không nhận ra sự tồn tại của chúng tôi. À thì, tất nhiên họ cũng nhìn thấy những khối pha lê chứ, họ đâu có mù, nhưng họ chỉ chăm chăm nhìn xuống mặt đất để tìm kiếm sinh vật có trí tuệ thôi.

Bề mặt hành tinh Ket gần như không cho phép sinh vật nào tồn tại trên đó, vì nó được bao phủ bởi biển axit, các dòng dung nham, và gai góc. Và thế là những người thuộc Generation 9561 (à phải là Generation 9559 mới đúng) chỉ đi loanh quanh trong bộ đồ bảo hộ, thu thập vài mẫu đất đá. Tình cờ thay, một trong số họ đã đi lạc đến một mảng của khối Đại Nam Cực, và theo đó, là lần tiếp xúc đầu tiên giữa người Ketran và người ngoài hành tinh.

Sự sống? Ở trên một khối pha lê khổng lồ đang lơ lửng ba trăm mét phía trên mặt đất? Không thể nào! Nhưng khi lần đầu chúng tôi đến hành tinh của họ, và tìm thấy nơi cư ngụ của họ xen giữa những rặng cây và dòng sông, chắc hẳn cảm giác cũng y hệt thế này.

Sự tiến hóa của người Ketran chúng tôi thật kì quặc (Thú vị thay, khi dễ dàng làm sao để hiểu rõ chu trình tiến hóa của những chủng tộc khác, trong khi lại bị bối rối bởi chính lịch sử của mình). Các nhà khoa học Ketran đều cho rằng chúng tôi đã từng sinh sống trên bề mặt hành tinh của mình, hoặc ít nhất là vào cái thời mà biển còn chưa nhiều axit sunfurơ(2) như bây giờ, thế rồi xuất hiện mối quan hệ cộng sinh giữa người Ketran và những tảng pha lê, và chúng tôi chỉ đơn giản là tiến hóa cùng nhau.

Giờ thì tất nhiên rồi, trong ít nhất là hai triệu năm trở lại đây, chúng tôi đã hình thành mối quan hệ cộng sinh khăng khít với pha lê. Tuổi hình thành của khối pha lê nơi tôi đang sống, khối Thượng Xích Đạo, đã được tính chính xác là 1.4 triệu năm. Tất nhiên chừng đó chỉ bằng nửa tuổi hình thành của Chủng Tử, tức là Thượng Xích Đạo chỉ là một khối pha lê mới trọn vẹn thành hình thôi.

Thuật ngữ cộng sinh có vẻ không thích hợp lắm nhỉ. Chúng tôi là sinh vật sống, pha lê thì không, nhưng cũng khó để mà không tưởng tượng một cách lãng mạn rằng sự vật cũng có linh hồn của riêng nó, nhỉ? Có một điều chắc chắn, đó là nếu không có pha lê, thì chúng tôi sẽ không thể tồn tại, vì chúng tôi vẫn hút chất dinh dưỡng từ đó. Và mặc dù những khối pha lê có thể tự tồn tại mà không cần đến người Ketran, chắc chắn chúng cũng không thể tự thân lớn đến nhường này được. Theo như ước tính, thì trong điều kiện thông thường, chỉ cần đạt đến kích cỡ nửa dặm vuông, thì một tảng pha lê sẽ rơi thẳng xuống mặt đất. Hiển nhiên kích cỡ 79 dặm vuông của khối Chủng Tử là hệ quả của mối quan hệ cộng sinh đó. Làm sao một khối thủy tinh lớn nhường đó có thể còn lơ lửng trên không, nếu không mượn lực từ hàng trăm ngàn người Ketran đang vỗ cánh?

Có nhiều cuộc thảo luận trên Uninet về dự án sử dụng động cơ nhân tạo để nâng pha lê. Nếu điều đó xảy ra, máy móc sẽ giải thoát chúng tôi khỏi phần lớn, hoặc thậm chí là toàn bộ công việc vỗ cánh hàng ngày. Những người ủng hộ ý tưởng trên tin tưởng rằng chúng tôi sẽ có thể dành 50% thời gian vẫn dùng để vỗ cánh để được bay tự do, thay vì chỉ có 10% như hiện tại. Nói rõ hơn, chúng tôi sẽ không còn cần duy trì các sân bay, hay phải vỗ cánh để tạo lực nâng cho pha lê nữa. Sẽ chỉ còn cần chỗ dừng chân để ăn và nghỉ, còn máy móc sẽ nâng khối pha lê lơ lửng trên bầu trời.

Nhưng tôi còn khá ngờ vực về chuyện ý tưởng đó sẽ thành hiện thực. Mỗi người trong số chúng tôi còn nhớ như in một hình ảnh, được truyền qua kí ức hàng ngàn năm, về vụ rơi của khối pha lê Hạ Bắc Nhiệt Đới. Ba trăm ngàn năm là chưa đủ để xóa nhòa đi nỗi đau này!

Chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi đã khiến tôi rùng mình. Tôi mở mắt ra và nhìn xuống. Phải, chúng tôi vẫn đang lơ lửng trên dòng dung nham Eenos. Không đâu, mặt đất không hề gần hơn so với trước khi tôi tiến vào game. Mảnh thủy tinh nơi tôi cư ngụ vẫn còn gắn chặt vào cái hang của tôi, và đôi cánh tôi vẫn đang vỗ đều đặn.

Lam Tầng là tảng pha lê nơi tôi và hàng xóm đang sinh sống. Tôi thuộc từng mỏm đá sắc bén xù xì lồi lên bề mặt của nó, cũng như biết rõ những đường chỉ tay của mình vậy. Nhìn xuyên qua những cột trụ, cột buồm, và khoảng sân được mài sáng bóng, tôi có thể thấy ranh giới mờ ảo của những cột buồm màu trắng – nơi cư trú tiếp theo. Hiện giờ tôi còn trẻ, nhưng sau khi lớn tuổi hơn, có thể tôi sẽ được chọn để chuyển sang sinh sống ở khối pha lê đó, nếu khối pha lê đạt đến độ chín cần thiết và ngả sang màu tím. Nếu vậy, tên của tôi sẽ bị thay đổi. Thật lạ lẫm biết bao. Và tôi sẽ có những huynh đệ mới, những người láng giềng mới.

Tôi liếc nhìn gã Lam Tầng, Thất Trụ, Đệ Nhị Phạm Vi, Hạ Sứ Giả, Tứ Thập Nhị, vị sư huynh nhỏ tuổi nhất của tôi. Hắn vốn hiếm khi mở miệng. Tôi đã nhiều lần dụ hắn chơi game cùng, nhưng hắn là một nhà khoa học rất ư nghiêm túc, một trong những người ủng hộ ý tưởng cơ giới hóa mà bạn vừa được nghe đó. Tôi vẫn tự gọi hắn là “Anh già Bốn mươi hai”, mặc dù tôi nghĩ hắn ta chẳng nhiều tuổi hơn tôi là bao. Tên tự chọn của hắn là Lackofa. Hắn phát âm từ đó thành “Lách-cu-vờ”. Nghe buồn cười nhỉ?

“Này, Lackofa ơi.” Tôi gọi hắn bằng giọng thật thay vì tin nhắn memm.

Hắn ngoẹo đầu, làm cho những sợi gai bù xù đến rối tinh trên đầu hắn rủ xuống. Hắn chớp chớp mấy con mắt không hề được kẻ màu. Hắn nhìn ngó lên trên không, cứ như không hề nhận ra âm thanh xuất phát từ đâu. Cuối cùng, chậm rãi, chần chừ, hắn hạ ánh mắt đỏ rực xuống nhìn tôi. “Toomin à. Chuyện gì thế?”

“Em lại thua một ván game nữa rồi.”

“Ra thế. Này nhé, nếu tôi mà có hứng thú với chuyện đó, thì tôi đã tìm đọc status về nó trên Uninet rồi. Việc cậu hỏi tôi cũng chẳng có ích gì đâu.”

Tôi không hề cụt hứng chút nào. Không ai trong số chúng tôi đòi hỏi lễ nghi xã giao từ đối phương; sự thật đó là đủ để thể hiện rằng tôi và hắn là hàng xóm tốt của nhau.

Tôi đợi, thừa biết rằng hắn sắp nổi máu tò mò lên.

“Thôi được rồi, thế tại sao cậu lại thua?”

“Thằng Redfar bảo em rằng em quá mơ mộng.”

“Hừm. Tôi không mê chơi game như cậu.” Lackofa đáp. “Mọi trò chơi đều có thể được giải mã thành đơn giản hơn. Cậu luôn luôn tìm ra được điều mấu chốt của nó – nếu như chịu để tâm. Và khi cậu đã nắm rõ quy tắc để chiến thắng, thì còn gì để bàn nữa? Tất cả chỉ là phần mềm được lập trình sẵn rồi. Phần mềm là phần mềm là phần mềm. Chán bỏ xừ.”

Tôi cáu rồi đấy. Hắn nói thế chẳng khác gì bảo tôi ngu đến mức không hiểu được ý nghĩa trò chơi.

“Nhưng Alien Civilizations(3) không đơn thuần chỉ là ‘phần mềm’. Nó là trò chơi sâu sắc nhất trong lịch sử. Có tới hơn một triệu khả năng có thể xảy ra trong game.”

“Tất cả những khả năng đó chỉ là sản phẩm của suy nghĩ của nhà lập trình game. Chắc chắn có giới hạn cho số lượng trường hợp trong game, do sự giới hạn của các điều kiện khi lập trình.”

Hắn nói đúng, phải công nhận thế, nhưng tôi không tài nào nuốt trôi cái bản mặt kiêu ngạo đó. Tôi đành thay đổi chủ đề.

“Anh có định đi nghe thông báo không?”

“Thông báo gì cơ?”

“Thông báo gì cơ? Ý anh là sao, ‘thông báo gì cơ’? Là thông báo đó. Ngay cả anh cũng phải biết em đang nói gì chứ. Người ta sắp đưa ra danh sách thành viên phụ cho phi hành đoàn của phi thuyền Bản Đồ Đệ Tam Tượng Hạn (đội vẽ bản đồ góc phần t.ư thứ ba của thiên hà). Đội EmCee ấy.”

“À, chuyện đó hả. Thứ nhất, tôi không hiểu tại sao cậu phải bay đến tận đỉnh khối pha lê, trong khi có thể lên Uninet để xem kết quả. Mà kệ cậu, tôi cũng đã biết mình nằm trong danh sách rồi.”

Phải mất mấy giây để ý nghĩa của câu nói cuối cùng mới thấm được vào đầu tôi. Hắn ta nói như thể bâng quơ vậy.

“Anh á? Ý anh là… anh nằm trong danh sách thành viên chính?

“Nhà sinh vật học thứ 3 trong phi hành đoàn.”

Hắn cố ra vẻ thờ ơ, xua xua đôi bàn tay, nhưng chẳng hề lừa được tôi. Làm sao giấu được, khi một vệt sáng hồng đã nhấp nháy trên điểm cuối của mấy sợi gai trên đầu hắn, rồi chạy dọc ngang sang tứ phía.

Tôi cảm thấy mừng thầm cho Lackofa. Thật sự luôn. Nếu không tính đến một phần khác trong tim tôi đang điên lên vì đố kị. Tôi chỉ có xác suất 1/500 để được làm thành viên phụ của tổ bay. Còn hắn thì đã chắc một suất chính thức rồi. Tuổi tác của hai chúng tôi cũng sàn sàn nhau thôi. Làm thế quái nào mà hắn đã có thành tựu hơn xa tôi mất rồi.

Đây là đoạn memm đánh thức đấy, Toomin ạ, tôi nói với bản thân, mày không nhận ra giờ là lúc nào ư. Tôi ngu quá đỗi. Tôi đã lãng phí cuộc đời mình vào game, bay lang thang vô định, và tán phét. Trong khi đó, Lackofa sắp đi vào những vùng xa xôi nhất của vũ trụ, để được là người đầu tiên tận mắt thấy những thứ mà tôi sẽ chỉ được xem tường thuật, và lại còn phải xem trên mạng nữa chứ.

Tôi câm lặng. Lackoafa không nhận ra điều đó. Hoặc đơn giản là hắn chẳng hề quan tâm.

“Thôi thì, anh Lackofa ạ, em chúc mừng anh.” Tôi đáp, chẳng giả vờ nổi một chút hân hoan nào. “Quả là một vinh dự lớn lao.”

“Thế á? Thôi thì, cứ cho là vậy đi.”

Tôi không nói gì thêm nữa.

Tức giận thì chẳng có gì là hay, nhưng tôi không nhịn nổi. Tôi tức điên với chính mình. Tôi đã không chịu đi theo bất cứ chương trình chuyên môn hóa trí tuệ nào cả. Tôi vẫn thường tự bảo mình rằng chọn một ngành duy nhất sẽ làm giới hạn sự sáng tạo. Lười biếng, đơn giản là vậy thôi. Tôi lười nhác. Tôi chỉ biết mơ mộng. Giờ tôi vẫn chỉ là thằng ma cà bông, trong khi ở tuổi này lẽ ra tôi phải được tôn trọng như một người trưởng thành rồi. Thứ duy nhất tôi quan tâm là game, vậy mà tôi còn chẳng chơi giỏi.

Tôi đang lập ra kế hoạch để thay đổi cuộc đời mình. Phải bỏ đi lối sống cũ thôi. Không được lãng phí thời gian nữa, phải chăm chỉ hơn, phải quyết chí. Tôi sẽ làm. Máy tính của tôi sẽ quá tải vì lượng giáo trình memm mà tôi sắp download xuống. Tôi có khả năng làm được điều đó. Tôi có đủ trí thông minh, chỉ là tôi chưa từng quyết tâm thôi.

Được rồi, đến lúc rồi đó, Toomin. Đưa ra lựa chọn đi. Gắng sức đi. Ngay lúc này. Làm ngay!

À nhưng mà lát nữa là đến ca bay tự do rồi. Các bạn chắc đang đợi tôi ở đó. Mà tôi cũng hẹn Inidar mất rồi. Tôi không được phép bỏ cuộc hẹn chỉ vì tôi quyết định thay đổi lối sống của mình. Cứ bay tự do đã, rồi tôi sẽ nói cho bạn bè rằng sau này họ sẽ chẳng còn nhiều cơ hội để gặp tôi nữa đâu.

Chú thích:

(1) Nguyên văn: chauvinistic. Tương truyền rằng hoàng đế Napoleon Bonarparte có một người lính trung thành mang tên Nicholas Chauvin, người liều chết chiến đấu vì quân đội Pháp đến mức thành tàn phế. Ngày nay danh từ “chủ nghĩa Sô-vanh” được dùng để chỉ trích những kẻ theo tinh thần dân tộc cực hữu.

(2) H2SO3. Khi khí SO2 được sinh ra từ hoạt động của núi lửa, và tan trong nước, thì tạo thành H2SO3.

(3) Alien Civilizations nghĩa là “những nền văn minh ngoài hành tinh”.
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 3

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Tin nhắn memm báo thức kêu tít tít, và tôi bay lên khỏi khối pha lê dưới chân, đồng thời ngắt kết nối tâm tưởng với Uninet. Tôi đang tận hưởng sự yên tĩnh trong đầu mình. Không có memm. Không báo thức, không update, không báo động, không có thông báo khuyến mãi, không có ai càu nhàu về những công việc tôi chưa hoàn thành, không bị hối thúc phải thẩm định văn bản này văn bản nọ, không có những memm than phiền “sao con không về thăm nhà” từ bố mẹ hay ông bà.

Bay tự do! Tôi lao chúi xuống, rời xa trụ pha lê nơi tôi sống ở đó.

Đôi cánh gập lại rồi mở ra, tôi liều lĩnh luồn lách qua những cột buồm và cột trụ và những mỏm pha lê mới hình thành nhô lên cao, vụt qua một cô nàng gai xoăn. Cô ta chỉ liếc theo bóng tôi một cách uể oải, nhưng đôi mắt màu lam ngọc đó thật hút hồn làm sao.

Tiếp tục lao xuống, vượt qua khỏi mê cung những cột trụ, ra đến khoảng không bên ngoài khối pha lê, đến khoảng không nơi tôi có thể cúi xuống nhìn mặt đất rõ ràng. Rõ đến mồn một, là những luồng khí gas màu vàng đang chậm rãi xoắn vặn.

Tôi dang rộng cánh, dừng lại, bay tại chỗ trên không, hít thở dồn dập khiến cho ống thở ở sau lưng nhói đau.

Từ chỗ này, tôi có được cái nhìn toàn cảnh về khối pha lê nơi mình cư ngụ. Nếu bây giờ tôi nói rằng nó thật đẹp biết bao, thì chắc chắn bạn sẽ bảo là nghe chán bỏ xừ, nhưng quả thật đúng vậy đấy. Khối pha lê choán gần hết bầu trời, nhưng ngay cả từ chỗ này, tôi có thể thấy hình dáng giống hình cầu của nó, quả cầu với những cột buồm, cột trụ và khoảng sân đang phản chiếu ánh sáng rực rỡ.

Mặt trời đang lên cao và tỏa nắng vàng ươm, và cùng lúc đó, khối pha lê đang tự quay chậm rãi, phản chiếu ánh sáng từ trời cao, theo cả triệu góc phản xạ. Màu xanh lam băng giá, màu xanh lục trắng ngần, vàng, tím, rồi lại hồng. Diệu kì biết bao.

Dân số của vùng này mới chỉ vừa vượt qua mốc nửa triệu người, và trong bất cứ thời điểm nào, luôn túc trực sẵn 90% số dân đó, vỗ cánh theo một nhịp đều đặn tưởng chừng bất tận, làm việc không ngơi nghỉ, mục đích để giữ khối pha lê treo lơ lửng trên trời cao. Số 10% còn lại có thể bay tự do, nếu họ muốn thế, nhưng thực tế thì chỉ có đám thanh niên Ketran mới ham vui như vậy. Những người lớn tuổi hơn chỉ bay tự do nếu như họ phải di chuyển vì có công việc riêng.

Tách riêng khỏi khối pha lê, như một vệ tinh nhỏ bay sát hành tinh chủ, là phi thuyền Bản Đồ Đệ Tam Tượng Hạn. MCQ3. Tàu EmCee.

Có lẽ, nó là một điềm báo cho tương lai của chúng tôi, bởi vì nhìn thoáng qua, phi thuyền trông như phiên bản đồ chơi của khối pha lê Thượng Xích Đạo, ngoại trừ việc những cột buồm và cột trụ không bị cắt vát để tạo thành hình cầu, mà thành một hình bầu dục thuôn dài, với hai nửa trên và dưới được thể hiện rõ ràng. Ở phần bụng, phi thuyền MCQ3 có bốn mũi nhọn khổng lồ, dày gấp đôi một cột trụ pha lê đã lớn đủ mức. Và đính vào mỗi mũi nhọn đó, là một hình trụ méo mó, trong suốt như nước. Đó là động cơ để di chuyển trong Zero-space(1). Và chúng rất vững vàng đấy nhé. Chỉ có một thứ khiến nhiều người khó chịu, đó là một chiếc đĩa nhỏ được đặt tại giao điểm của mũi nhọn với lõi pha lê. Ở đó, các kĩ sư chế tạo MCQ3 đã lắp đặt một động cơ phản trọng lực.

MCQ3 lơ lửng trong không trung một cách nhẹ nhàng, giữ y nguyên vị trí của nó, kháng cự hoàn toàn lực hấp dẫn của hành tinh, và không gây ra nhiều tiếng động hơn tiếng vỗ của một cặp cánh.

Như vậy cũng là hợp lí, phi thuyền được thiết kế như vậy để phòng ngừa những vụ rơi. Dĩ nhiên, làm sao có thể đoán được hết thành phần, sức ép, hay những luồng khí nóng trong bầu khí quyển của các hành tinh xa lạ? Sẽ thật phi thực tế nếu như chỉ dựa vào lực nâng từ những đôi cánh để giúp phi thuyền di chuyển trong điều kiện mà chúng ta không hề nắm rõ. Hệ thống phản trọng lực là lựa chọn chính xác.

Chỉ có điều là, động cơ phản trọng lực cũng là lựa chọn chính xác cho hành tinh Ketran. Chúng cũng không đòi hỏi nhiều công sức chế tạo. Nếu động cơ phản trọng lực được lắp đặt trên các khối pha lê nơi người Ketran sinh sống, chúng tôi sẽ không còn phải làm công việc nặng nhọc thường ngày nữa. Sẽ tha hồ bay tự do!

Với t.ư cách một game thủ, tôi thấy ý tưởng đó thật tuyệt vời. Y hệt như tình huống trong game vậy: Tiến hành một thay đổi nhỏ, nhưng mang tính đột phá, và quan sát tiến trình. Điều gì sẽ xảy ra nếu như toàn thể người Ketran được giải phóng khỏi công việc giữ cho nhà của mình trôi nổi trên không trung? Không thể đoán nổi.

Tôi ngước mắt lên nhìn phi thuyền MCQ3. Không hề che đậy ham muốn của mình. Tôi sẵn lòng bán cả gia đình mình cho mỏ quặng để được lên phi thuyền đó. Tôi tưởng tượng cảnh mình đang ở trên boong tàu.

Nhưng điều đó không xảy ra. “Gì cơ?” Tôi tự nhạo báng bản thân. “Ai mà cần một thằng game thủ trẻ măng để thực hiện chuyến thám hiểm vũ trụ vĩ đại nhất lịch sử cơ chứ?”

Bỏ qua đi. Để cho gió cuốn đi, Toomin. Đừng nhìn vào quá khứ, hãy hướng đến tương lai.

“Phải.” Tôi lầm bầm cau có. “Dùng châm ngôn xưa để xoa dịu nỗi đau.”

Tôi vỗ cánh và bay lên trên. Không tiến về phía MCQ3. Không, không phải, mà là tách xa nó, về phía đỉnh khối pha lê màu tím, nơi tôi sẽ cùng nghe thông báo với đám bạn. Giờ đó là nơi tôi không muốn đến nhất, nhưng họ, những kẻ ngốc mộng mơ, vẫn còn nuôi hy vọng.

Cả hội chúng tôi đều nộp đơn đăng kí làm thành viên phụ cho phi hành đoàn. Tại sao á? Dĩ nhiên là vì sự tương đồng tự nhiên giữa nhà thám hiểm vũ trụ với game thủ rồi. Hoặc câu vừa rồi chỉ là cách chúng tôi tự huyễn hoặc mình.

Tôi bắt được một luồng hơi nóng tuyệt hảo, và chao lượn không hề tốn sức, lên cao và cao nữa cho đến khi vượt qua hết những khối pha lê thuộc Lam Tầng, đến khu Tử Sắc Tầng, đến bến đậu có hình dạng như cái xẻng.

Redfar/Inidar đã đứng đợi ở đó rồi, ngó quanh một cách lười nhác, cạnh đó là Escobat (tên ingame là Wormer), và Doffnall, một nữ game thủ hiếm hoi, với tên ingame là Aguella.

“Này, Ellimist ơi!” Aguella gọi tên tôi. “Tớ đã xem memm về chuyện cậu để cho giống Pangaban bị tuyệt chủng trong chớp mắt. Quả là kỉ lục!”

Khi nói chuyện với nhau, chúng tôi sử dụng tên in-game của mình. Quả là ngốc nghếch, một thói quen thể hiện sự thiếu trưởng thành, mà giờ tôi mới nhận ra.

“Ván đó hả, tớ đánh chơi chơi thôi mà.” Tôi có vẻ hơi càu nhàu, trong khi giọng của cô ấy lại rất đùa vui. Thế là, để không khí vui vẻ hơn một chút, tôi nói tiếp, “Tớ muốn đấu lại. Lần sau, tớ sẽ làm cho giống dân của tớ phải bị tuyệt chủng nhanh hơn nữa cơ.”

Đám bạn tôi cười lớn. Dù chúng tôi ganh đua nhau trong game, nhưng cũng có một sự đồng thuận ngầm rằng cả bốn người đang cùng chiến đấu với chính trò chơi, cứ như bản thân game là một kẻ thù cần đánh bại vậy.

Tôi nhớ lại chuyện Lackofa bảo rằng mọi game đều có giới hạn của nó; hắn nói chẳng sai chút nào. Chắc chắn, về lâu dài, cấu trúc của trò chơi sẽ trở nên quá rõ ràng, và nó sẽ trở thành nhàm chán. Nhưng mà, ở thời điểm đó, nhà phát hành game đã kịp tung ra một game mới, tốt hơn rồi. Luôn là thế.

Wormer bắt đầu kể về một tình huống trong game, một cuộc chiến tay ba giữa một giống kí sinh, một loài ăn thịt, và một chủng tộc cộng sinh. Chỉ có mình hắn đã chơi ván đó, cho nên chúng tôi đều căng tai ra nghe. Chúng tôi chỉ toàn nói về game, trong lúc bay tự do quanh bến đậu, hỏi thăm người khác và được hỏi thăm lại. Tử Sắc Tầng là một điểm hẹn tuyệt vời cho đám thanh niên.

Không một ai đả động đến vụ thông báo, không ai muốn là người đầu tiên. Không ai muốn tỏ ra mình là đồ nhàm chán. Chúng tôi đang quá ư sảng khoái. Quá sảng khoái để nghĩ đến xác suất nhỏ tí teo được trở thành nhà phiêu lưu mạo hiểm. Mà dẫu sao thì, chúng tôi vẫn chỉ là game thủ thôi. Game mới là nhất.

Ấy thế mà tôi để ý thấy mỗi người chúng tôi thỉnh thoảng lại liếc về phía bệ đá, chỗ mà Ngôn Giả sẽ đứng ra đọc thông báo.

Tôi không còn lo lắng nữa. Tôi đã từ bỏ hết hy vọng rồi. Không gì làm bạn chán nản hơn việc chấp nhận rằng mình đã thất bại. Nhưng những người kia vẫn còn đang rất hồi hộp, và thật khó để làm như không thấy rằng họ đang phát run lên.

Tôi nói, “Các cậu biết mà, sự thật rằng trò chơi luôn có quy tắc ngầm của nó. Nếu chúng ta có thể giải mã cái quy tắc đó, thì có thể thắng hết mọi ván.” Tôi đang dẫn lại lời Lackofa và chém gió như thể mình tự nghĩ ra vậy.

“Dĩ nhiên là vậy.” Inidar đáp. “Nếu. Một chữ ‘nếu’ rất to. To tổ bố. Thực ra to đến mức...”

Hắn im lặng. Hắn chăm chú nhìn. Bốn mắt lồi ra, không chớp, đúng như trong tục ngữ vậy. Wormer và Aguella xoay vòng vòng, nhìn chăm chú, không thèm che giấu sự tập trung.

Tôi biết làm gì bây giờ? Giả vờ bay sang chỗ khác và bắt chuyện với vài cô nàng lạ hoắc ư? Tôi đành đợi ở đây vậy. Phải theo phép lịch sự thôi.

Tôi tiếp tục quan sát, cùng đợi với đám bạn mình, trong lúc vị Ngôn Giả đang chậm rãi bước về phía bệ đá.

Ông ta không còn trẻ trung gì nữa, những sợi gai dài giờ có màu đỏ gỉ sắt thay vì trong suốt. Ngôn Giả là công việc của người lớn tuổi. Họ có chất giọng phù hợp.

Tôi không muốn tỏ ra lo lắng. Thực ra thì tôi vẫn mất bình tĩnh. Cuộc sống bình bình của tôi sắp bị thay đổi trong thoáng chốc. Vậy thì hãy mau thay đổi đi! Mau làm việc của mình đi, ông già, rồi để tôi bắt đầu lối sống mới, nghiêm khắc.

“Và đây là thông báo.” Vị Ngôn Giả nói bằng giọng trầm ấm, vang vọng, đầy kinh nghiệm.

“Những cột trụ pha lê mới sắp được trồng ở hai khu Tử Sắc Tầng và Hồng Tầng. Mỗi trụ sẽ có bán kính 7 mét.”

Chúng tôi không thèm quan tâm. Hoặc là tôi không thèm quan tâm. Chắc Aguella hoặc Wormer sẽ cần lưu ý, vì bọn họ đều ở Tử Sắc Tầng.

Vị Ngôn Giả tiếp tục, “Còn bảy ngày nữa là diễn ra vũ hội giữa vùng đất của chúng ta với khối pha lê Thượng Cực Quỹ Đạo. Như các bạn đã biết, sự kiện này chỉ diễn ra một lần trong 19 năm. Thời gian biểu bay tự do sẽ được lên lịch cẩn thận, để tối đa hóa số lượng người được gặp mặt và kết đôi với những huynh đệ tỉ muội của chúng ta ở Thượng Cực Quỹ Đạo.”

Tôi nhún vai. Ít ra như vậy cũng khác với thường ngày. Coi như là làn gió mới đi. Là cơ hội để gặp gỡ người lạ và xây dựng một mối quan hệ tình cảm. May là tôi cũng chưa đến tuổi thành niên. Ít nhất, sẽ không có sức ép nào hết. Không ai trong số chúng tôi đủ tuổi cả. À, có lẽ ngoại trừ Aguella.

Tôi trộm liếc sang phía cô ấy, chú ý biểu cảm khi cô ấy nghe thông báo. Cô ấy đỏ mặt ư? Thật lạ lùng khi tưởng tượng có ngày Aguella sẽ trở thành một bà mẹ. Khó chịu thế quái nào ấy nhỉ. Cô ấy trông chẳng giống mẹ tôi một chút nào. Chắc chắn là trông trẻ hơn bà nhiều. Và đẹp hơn.

Aguella có một sự nghiêm túc mà cả tôi lẫn Inidar lẫn Wormer đều không có. Game không phải thứ duy nhất mà cô ấy lưu tâm. Cô ấy rất thích nghiên cứu về lí thuyết cảm biến thụ động(2).

Thậm chí, một mẫu thiết kế của cô ấy đã đi vào hoạt động (sau khi được chỉnh sửa) như một phần cơ chế cảm biến của phi thuyền EmCee.

“Và cuối cùng”, vị Ngôn Giả cao giọng.

“Đến lúc rồi”, Wormer lẩm bẩm.

“Tôi xin phép được thông báo tên của những thành viên phụ cho phi thuyền Bản Đồ Đệ Tam Tượng Hạn. Những cái tên sẽ được đọc theo từng khu vực. Bắt đầu từ Hồng Tầng: Hồng Tầng, Thất Thập Trụ, Đệ Nhất Xưởng, Hạ Sứ Giả, Cửu. Hồng Tầng…”

“Trong lúc đợi ông ta đọc đến tên chúng mình, có lẽ đủ để làm một ván game đấy.” Inidar làu bàu.

Cảm giác hồi hộp nhanh chóng tan ra, khi chúng tôi nhận ra mình còn phải đợi rất lâu để có thể được nghe tên. Ấy thế mà chúng tôi vẫn không hề nhúc nhích. Thỉnh thoảng có dăm ba câu nói chuyện, nhưng nói chung là vẫn căng tai lên để nghe thông báo.

Và rồi, “Tử Sắc Tầng, Nhị Trụ, Chủ Chi, Tả Sứ Giả, Nhất Bách Nhị Thập Cửu.”

Aguella há hốc miệng. Mất một lúc lâu để tôi hiểu ra vấn đề.

“Là cậu đúng không?” Tôi hỏi ngớ ngẩn. Tất nhiên tôi đã từng nghe tên trang trọng của cô ấy, nhưng đã quên từ rất lâu rồi.

Cô ấy gật đầu. Cô ấy mở miệng nói, rồi chỉ im lặng gật đầu sau đó. Trông cô ấy nhiều phần bối rối hơn là hãnh diện. Thậm chí có vẻ lo lắng.

Tôi chẳng kịp lo đến cách phản ứng kì lạ của Aguella khi được nghe tin tốt nữa. Vị Ngôn Giả cuối cùng đã đọc đến khu vực Lam Tầng. Wormer ỉu xìu xuống. Các cái tên của Tử Sắc Tầng đã được đọc hết, và trong đó không hề nhắc đến hắn ta.

Chỉ có bảy cái tên của Lam Tầng. Tên tôi được xướng lên thứ năm trong danh sách.

Trong một khoảnh khắc, não bộ tôi như bị đông cứng lại. Tôi quên cả hít thở. Đôi cánh ngừng vỗ, và suýt nữa tôi bị rơi xuống. “Có phải ông ấy vừa đọc tên tớ không?” Tôi thì thầm. “Tứ Thập Nhất, đúng chứ? Chắc chắn là không phải Tam Thập Nhất chứ?”

Wormer cố hết sức để ra vẻ chia vui với tôi. Hắn cố làm ra vẻ thường thôi. Chắc là Inidar cũng cố đấy, nhưng chẳng ra đâu vào đâu cả. Trông hắn như vừa bị đấm vào mặt, và tôi biết rằng mình càng nói để xoa dịu nỗi đau cho hắn, thì chỉ càng xát thêm muối vào vết thương thôi. Sự thương hại chẳng bao giờ làm kẻ đáng thương đỡ nhục nhã.

Nhưng dẫu sao thì phản ứng của họ cũng chẳng còn liên quan gì đến tôi nữa. Tôi biết điều đó, và họ cũng rõ, đáng buồn thay.

Bốn người chúng tôi giờ đã thành hai và hai. Wormer và Inidar sẽ ở lại. Aguella và tôi sẽ rời đi.


Chú thích:
(1) Trong Animorphs, Zero-space (vùng không gian Z) là một thế giới song song với thế giới thực, nơi mà vật thể có thể đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Bằng cách tiến vào Zero-space, tàu vũ trụ có thể đi qua nhiều thiên hà trong thời gian ngắn.

(2) Nguyên văn: passive sensors. Trong ngành vũ trụ học, cảm biến thụ động dùng để chỉ thiết bị có khả năng cảm ứng với sóng micro, nhằm đo đạc mức khuếch tán của các loại khí trên bề mặt cũng như trong khí quyển Trái Đất. Từ kết quả đó, có thể tính ra thành phần bề mặt Trái Đất, cũng như nhiệt độ, độ cao địa hình, và các đặc điểm địa-khí hậu khác. Vệ tinh nhân tạo chứa cảm biến thụ động được dùng trong ngành dự báo thời tiết, và rộng hơn là quan trắc khí hậu toàn cầu.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 4

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Tôi vội vã bay thẳng về nhà. Tôi trèo lên và gào toáng với Lackofa.

“Này! Này! Anh Lackofa ơi!”

Hắn mở mắt ra nhìn tôi và đáp lại với ánh mắt bực dọc thường dùng. “Gì nữa đây?”

“Em được chọn rồi. Em là thành viên phụ!”

“Hạng bét trong số các thành viên phụ.” Hắn chế giễu.

“Được lắm, Lackofa, nhưng lần này anh chẳng hề làm em cụt hứng chút nào đâu. Ngày hôm nay thì không được đâu. Em được lên phi thuyền EmCee! Chúng ta cùng trong phi hành đoàn. Em cũng được bay!”

“Ờ ờ. Tôi biết lâu rồi.”

“Làm sao anh biết chuyện này? Tin tức còn chưa được đăng trên Uninet cơ mà. Có 15 phút delay so với thông báo trực tiếp của Ngôn Giả.”

Hệ thống mạng toàn cầu Uninet cũng chỉ là một phát minh mới mà thôi, mới ra mắt được gần tròn 100 năm, và không ai dám cướp đi công việc truyền thống của các Ngôn Giả.

Lackofa nhắm hờ mắt. Tôi truy cập vào Uninet. Thông báo còn chưa được đăng tải. Đợi đã, nó vừa hiện ra xong. Tôi ấn vào màn hình và đọc tên bản thân, cái tên tuyệt vời, tuyệt vời làm sao. Tôi bôi đỏ dòng chữ đó và đọc lại thêm lần nữa.

Một cái tên gọn gàng, được đặt gọn gàng ở phần cuối của danh sách. Chỉ nhìn thấy nó đã khiến tôi thở phào nhẹ nhõm.

Và, tôi chợt nhận ra. “Này, Lackofa ơi. Làm sao anh biết, nếu thông báo chỉ vừa mới xuất hiện trên Uninet?”

Không có tiếng trả lời.

“Là anh đúng không.” Tôi kết luận. “Anh đã đề cử em.”

“Tại sao tôi phải làm thế?” hắn chối quanh.

“Tại sao anh phải làm thế?” Tôi lặp lại lời hắn với giọng cao hơn. “Anh còn chẳng hề thích em. Em chỉ là thằng game thủ. Một thằng game thủ thất bại. Em chỉ đứng thứ 179 trên 909 trong bảng xếp hạng game của em. Tại sao anh phải chọn em?”

Lackofa không đáp lại ngay, nhưng tôi đoán hắn biết tôi sẽ không chịu ngừng. Hắn thở dài, làu bàu gì đó, rồi, với giọng của một kẻ phạm tội đang bị khảo cung, hắn mở miệng, “Tôi đã rất hiếu kì về cách mà cậu thất bại, Toomin ạ. Và tôi là một nhà sinh vật học, nên tôi có quyền truy cập chuỗi DNA của cậu. Thực ra cậu chỉ xếp hạng 194 thôi – trận thua mới đây đã làm cậu tụt mất 15 hạng.”

“Đệch.”

“Nhưng nếu xét riêng về khoản trí tuệ phân tích thì cậu gần như đứng đầu.”

“Em á?”

“Đúng, và đừng giả ngu với tôi. Cậu biết cậu thông minh hơn mấy gã game thủ vẫn thắng cậu đều đều. Cậu thua những ván mà lẽ ra cậu chắc thắng, không phải vì thiếu cẩn thận, mà vì quá bướng bỉnh. Cậu đang chơi game ở một cấp độ hoàn toàn khác. Không cố chiến thắng, mà cố thắng bằng lòng tốt. Chủ nghĩa vị tha.”

Tôi rất xấu hổ. Và sững sờ nữa. Lackofa quan tâm đến tôi kĩ lưỡng đến mức tôi không thể ngờ nổi.

“Tóm lại”, Lackofa nói tiếp, “Chúng tôi có hàng đống nhà khoa học xuất sắc, nhà phân tích xuất sắc, phiên dịch viên xuất sắc, nhà dự báo tình huống xuất sắc, nhà vật lí học xuất sắc, kĩ sư xuất sắc, và nhà du hành vũ trụ xuất sắc trên phi thuyền MCQ3. Tôi tự hỏi rằng đoàn đội này còn thiếu cái gì nữa, và cuối cùng có đáp án. Chúng tôi cần một gã thua cuộc xuất sắc. Cho nên, ừ đấy, chính tôi đề cử cậu. Giờ thì ngậm miệng lại, cho tôi làm việc tiếp.”

Hắn nhắm mắt lại và đuổi tôi ra ngoài, lần này thì không hề nói đùa.

Kẻ thua cuộc xuất sắc á? Lại có thể vừa khen ngợi vừa nhạo báng như vậy nữa à?

Thì đó.

Một đoạn memm nháy lên, là lời mời chơi game của một tay game thủ tên là Dryhad. Tôi từ chối. Bây giờ không phải lúc chơi game. Tôi phải nghĩ nhiều thứ, phải lên kế hoạch, phải chuẩn bị cho tương lai.

Tôi làm đúng chứ? Đúng, chuẩn rồi. Rõ ràng giờ không phải lúc chơi bời. Đầu tiên và quan trọng nhất, tôi cần tìm hiểu thật kĩ về MCQ3, về động cơ Zero-space, về góc phần t.ư thứ 3 của thiên hà, và các tinh hệ của nó.

Tôi truy cập dữ liệu về MCQ3. Chỉ riêng phần tổng quan đã đủ để tôi đọc trong một năm. Không có thời gian. Mà này, tôi cần gì biết về những thông số kĩ thuật nhỉ, tôi chỉ cần… thôi thì, xem hình ảnh phi thuyền đã vậy.

Đây, đây, nó đây rồi. Một phi thuyền vũ trụ chính hiệu. Phi thuyền của tôi. MCQ3 của riêng tôi, tôi yêu nó mất rồi.

Kẻ thua cuộc xuất sắc?

Ít nhất tôi sẽ không lên phi thuyền mà không hề chuẩn bị, mà trông như một gã ngố lạc đường, không phân biệt nổi bên trong và bên ngoài của phi thuyền. Tôi sẽ nhớ như in từng inch vuông của nó.

Còn ít thời gian quá. 19 ngày. Còn bao nhiêu việc phải làm, thời gian thì thiếu thốn. Thực ra chẳng có chút thời gian nào hết. 19 ngày!

Giờ nhìn lại, những tháng ngày đó thật xa vời biết bao.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 5

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com


Đầu óc tôi chỉ nghĩ đến, thậm chí là phát cuồng lên, về phi thuyền MCQ3 và kế hoạch khởi hành. Tuy nhiên những người khác thì quan tâm đến vũ hội với thành phố Thượng Cực Quỹ Đạo. Người dân ở đó cũng là Ketran như chúng tôi thôi, tất nhiên là vậy, nhưng có lẽ là cách họ điều hành xã hội sẽ khác. Tôi nói “có lẽ” vì chúng tôi chỉ gặp họ 19 năm một lần.

Ờ thì chúng tôi cũng đã nghe tường thuật từ dân ở những thành phố(1) khác, những người đã tham gia vũ hội với cả thành phố Thượng Cực Quỹ Đạo lẫn Thượng Xích Đạo. Năm ngoái chúng tôi đã tổ chức vũ hội với Đệ Nhị Thượng Xích Đạo, thành phố anh em(2) của chúng tôi, và bọn họ đã gặp gỡ Thượng Cực Quỹ Đạo cách đây 3 năm.

Tuy nhiên, nghe kể chuyện từ 3 năm trước thì chẳng thể nào giúp bạn hiểu rõ cả một cộng đồng. Và chưa hết, lời nói của mấy người ở Đệ Nhị Thượng Xích Đạo cũng có vẻ khó tin.

Ví dụ về chuyện người Thượng Cực Quỹ Đạo rất thích nhuộm màu cho những sợi gai trên đầu. Tôi cũng không nghĩ rằng như vậy là sai trái, nhưng phải nói là kì quặc. Thì ý tôi là, màu gai là thứ bạn được thừa hưởng từ khi mới sinh ra, tại sao lại phải nhuộm nó thành màu xanh lục hay gì gì tương tự thế?

Nghiêm túc hơn mà nói, người ở Thượng Cực Quỹ Đạo đã đạt tiến bộ lớn trong công nghệ viễn thông xuyên khí quyển. Đây dĩ nhiên là một bước đột phá mang tính cách mạng. Nếu ai đó có thể truyền được tín hiệu điện vượt qua ảnh hưởng của lớp phóng xạ trên bề mặt, thì người đó có thể giúp hai khối pha lê kết nối được với nhau; chúng tôi sẽ biến từ 32 thành phố thành 1 hành tinh duy nhất. Tôi sẽ có thể chơi game cùng với những game thủ ở các thành phố khác!

Tôi sẽ có thể bị đánh bại bởi những người mà tôi chẳng bao giờ được gặp.

Nhưng có lẽ đó cũng chỉ là tin đồn thôi. Truyền điện qua pha lê thì dễ, truyền qua không khí mới khó.

Vũ hội với người Thượng Cực Quỹ Đạo sẽ không kéo dài, chỉ có vài tiếng đồng hồ thôi. Không có ai dại dột tới mức để lỡ dịp quan trọng này và lại phải chờ thêm 19 năm cả. Vì thế, mỗi người có tối đa 3 giờ để bay tự do từ các phân khu khác nhau đến điểm hẹn. Với đa số người, thời gian được bay còn ngắn hơn thế.

Tôi được xếp lịch từ rất sớm, với quãng đường bay dài nhất. Lí do vì tôi còn trẻ. Sẽ không ai ép một ông già phải bay tự do trong nửa tiếng, để rồi chỉ có vỏn vẹn 10 phút gặp mặt.

Cả thành phố đều hân hoan. Thế tôi thì sao á? Cũng thường thôi. Tôi còn phải lo chuyện khác.

Tôi đang ở nhà, xem qua một hình ảnh lập thể của phi thuyền MCQ3 đến lần thứ hai mươi, thì bất chợt nghe tiếng ai đó gọi mình từ rất gần. Tôi mở mắt ra, và Aguella đang ở ngay đối diện. Cô ấy đã lên đến tận cột trụ pha lê của tôi.

“Ellimist này. Cậu còn đợi gì nữa?”

Tôi chẳng hiểu gì hết. “Gì cơ?”

“Đến giờ rồi. Sao thế, cậu không còn định nghĩa về thời gian nữa à? Đến giờ rồi! Vũ hội ấy.”

“À. Phải.” Tôi đứng bật dậy và nhìn về phía nam. Có thể nhìn rõ khối pha lê Thượng Cực Quỹ Đạo từ vài ngày nay, nhưng nó đã to lên rất nhiều chỉ trong vài giờ qua. Thậm chí tôi còn nghĩ nó sẽ va chạm với khối pha lê của chúng tôi cơ đấy.

Aguella toét miệng cười một cách chờ mong, như đang đợi điều gì đó. Đợi tôi nhận ra điều gì đó. Tôi ngớ ra, rồi quay lại nhìn tiếp Thượng Cực Quỹ Đạo. Rồi tôi la lên.

“Nhìn kìa!”

Aguella gật đầu. “Chuẩn đấy.”

“Hình dáng của nó đã đổi sang bất đối xứng rồi. Nhìn chỗ pha lê mới mọc kia kìa.” Khối cầu, hoặc thứ đã từng là khối cầu, giờ đã xuất hiện một ụ nhỏ lồi lên. Ụ đó chỉ bằng 1/10 đường kính, nhưng quá lớn để có thể coi là một cột trụ đang đà lớn và sắp đến ngày được tỉa.

“Không hẳn bất đối xứng.” Aguella đáp. “Hoặc ít nhất, tớ nghĩ mục tiêu của họ không phải là làm cho nó bất đối xứng. Tớ không dám chắc, nhưng tớ cảm thấy ụ pha lê đó đang tạo thành một hình dáng đặc biệt. Chỉ nhìn từ phía này thì cậu không thấy được đâu, nhưng tớ nghĩ họ đang muốn làm phẳng khối pha lê từ tứ phía. Tớ nghĩ ụ lồi này được cân bằng bởi một ụ khác đối xứng với nó ở mặt đối diện.”

“Vì lí do gì…”

“Là cánh nâng.” Aguella đắc ý trả lời. “Khối pha lê Thượng Cực Quỹ Đạo đang mọc cánh.”

Lần đầu tiên, trong vòng bảy ngày qua, tôi hoàn toàn quên đi MCQ3. Cánh nâng! Đây không còn là chuyện viễn tưởng nữa rồi. Ai cũng biết là khó nâng một khối cầu hơn là một hình thuôn dẹt có cánh. Tôi từng đọc thấy rằng một cặp cánh nâng được thiết kế hợp lí sẽ giảm một nửa nhân công cần thiết để nâng khối pha lê.

“Nếu họ làm được điều đó thì quả là ngầu.” Aguella ghen tị. “Tớ tự hỏi liệu đã có ai trong số chúng ta dám thử điều này hay chưa.”

“Có lẽ.” Tôi đáp một cách ngờ vực. Tôi nhớ lại hình ảnh của các Trí Giả trong nghị viện. Một nửa bọn họ đã già đến mức họ chỉ làm khối pha lê nặng thêm thay vì có sức để nâng nó. Tôi dám cá rằng vài người trong số họ đang trợn mắt há mồm khi nhìn thấy đôi cánh của khối Thượng Cực Quỹ Đạo.

“Thôi được rồi, đi nhanh.” Cô ấy giục tôi.

Chúng tôi bay tự do, nhanh và liều lĩnh. Không chậm lại dù chỉ một giây. Aguella, do là con gái, nên dĩ nhiên là bay nhanh hơn tôi, nhưng cô ấy vẫn giảm tốc để đợi tôi bắt kịp. Tôi mượn lực từ luồng gió từ cặp cánh của cô ấy, bám sát phía sau. Ưu điểm của việc này là tôi có tầm nhìn tuyệt vời, vừa thấy được toàn cảnh đôi cánh sắp thành hình của khối pha lê, và cả Aguella nữa. Bàn chân cô ấy thật đáng yêu.

Lạc đề rồi, Toomin, tôi tự nhủ. Lúc này đừng có nghĩ linh tinh.

Mones(3)! Cô ấy đang thả mones cho chính tôi!

Cho tôi ư? Không thể nào, Aguella thiếu gì người theo đuổi. Cô ấy xinh đẹp, cơ thể gọn gàng, vững chắc, lại thông minh, hóm hỉnh, xinh đẹp, rất xinh đẹp.

Hình như hơi nhiều “xinh đẹp”, tôi tự nhủ. Và quả thật: Aguella đang tỏa ra mones. Còn tôi, chỉ biết đứng ngây ra trong làn gió ấy.

Tôi rẽ sang trái, giũ sạch mùi hương trên người. Điều này khiến tôi bị chậm lại, nhưng cũng tốt. Tôi cần không khí tinh khiết.

Tôi hít mạnh để nạp lại dưỡng khí nhưng gần như không kịp nữa. Những sợi gai trên đầu tôi ngứa ngáy hết cả. Sao cô ấy lại làm thế nhỉ? Cô ấy chỉ là bạn chơi game thôi mà! Tôi bực mình kinh khủng, và nếu tính đến chuyện còn phải bay tiếp, còn vũ hội nữa, còn… tóm lại là tôi khó chịu.

Chắc hẳn cô ấy đã nhận ra việc tôi tự dưng tụt lại phía sau. Chắc chắn là cô ấy đã biết rồi. Bố khỉ. Tôi tụt lại xa quá. Tốt lắm, bây giờ cô ấy sẽ tha hồ giận tôi, trong khi tôi không còn chút tâm trạng nào để tỏ ra đứng đắn và lịch sự và thoải mái nữa. Đầu óc tôi rối rắm hết cả.

“Chúng ta sắp đến nơi rồi.” Aguella hô lên. “Cậu nhìn xem!”

“Hả? Nhìn vào đâu cơ?” Tôi càu nhàu.

“Phía trước kia là người dân của thành phố Thượng Cực Quỹ Đạo. Trông họ cũng ngang cỡ tuổi chúng mình thôi.”

“Ừ, nhưng mà này, câu biết đấy Aguella, tuổi chúng mình cũng không bằng nhau đâu.”

Cô ấy cười thích thú. Tiếng cười đó làm tôi khó chịu. “Chúng ta gần như bằng tuổi đấy Toomin – nếu xét về mặt thể chất. Còn nếu xét về mặt tinh thần…” Cô ấy lại cười tiếp, giọng cười giễu cợt, ra vẻ bề trên, nhưng lại có vẻ thân mật đến mức giật mình.

Tôi nuốt nước bọt, và cố gắng quên rằng cô ấy vừa gọi tên riêng của tôi, không phải tên trong game. Trước đây cô ấy luôn gọi tôi bằng Ellimist. Chưa bao giờ là Toomin.

Ái chà, hay đấy nhỉ. Ái chà, tuyệt ra phết.

Tôi cố lờ đi câu đùa của Aguella, điệu cười của cô ấy, và, cố gắng hết sức, cố lờ đi cả mùi mones còn vương vấn đâu đây nữa. Tôi tập trung nhìn về phía những người khách của Thượng Cực Quỹ Đạo.

Có khoảng hai đến ba trăm người từ thành phố khác, đang dàn đều trên một khối pha lê rộng hai dặm vuông. Cũng khá giống với người Thượng Xích Đạo chúng tôi. Quang cảnh giống như hai đám mây lấp lánh bị côn trùng bao phủ vậy.

Tôi quay lại nhìn thành phố quê nhà mình. Giờ trông nó thật lỗi mốt, nhàm chán, khi được đặt cạnh thiết kế cách tân với cặp cánh nâng của Thượng Cực Quỹ Đạo. Tôi cảm thấy như đang bị chế nhạo. Thành phố của tôi lớn hơn, cổ kính hơn, và theo ý riêng tôi, thì rực rỡ sắc màu hơn. Nhưng Thượng Cực Quỹ Đạo là hình ảnh của tương lai, và riêng ý nghĩ đó thôi đủ bào mòn niềm tự hào của tôi rồi.

Tôi đảo mắt nhìn quanh những người khách lạ đó, cố tìm xem có ai có bộ gai được nhuộm màu như được nghe kể không, nhưng xem ra họ chẳng khác gì chúng tôi. Như cụ tôi từng nói, “ai sinh ra cũng giống ai, hai cộng bốn thì bằng bốn cộng hai”, họ có hai chân, bốn cánh, bốn mắt, và hai tay.

Aguella và tôi vẫy tay với một đôi người Thượng Cực Quỹ Đạo có vẻ thân thiện. Trông họ ngang tuổi chúng tôi, đều là đàn ông. Một người có bộ gai màu vàng mượt tự nhiên và mắt màu be. Người còn lại thì nổi bật hơn, vì có cặp cánh to tổ bố. Chúng tôi cùng nhau bay đến ngã t.ư, và nổi trong không trung, giữ một khoảng cách theo phép lịch sự.

“Đây là bạn tôi, Doffnall”, tôi mở lời, giới thiệu Aguella bằng tên tự chọn của cô ấy. “Còn tôi là Toomin.”

“Gã này là Oxagast, bạn tôi, còn tôi là Menno.” Anh chàng có cặp cánh to đáp lại.

“Rất hân hạnh được gặp các bạn.” bốn chúng tôi đồng thanh.

“Các cậu có một con tàu vũ trụ vượt thiên hà!” Menno buột miệng nói.

Cậu ta nói đúng lúc tôi mở miệng, “Các cậu đã xây dựng một cặp cánh nâng cho thành phố!”

Cả đám chúng tôi cười phá lên, và tôi thấy thoải mái hơn một chút. Họ cũng tò mò về đối phương hệt nhưng chúng tôi vậy, và về phần mình, tôi cũng có thứ gì đó để tự hào.

“Ừ, đó là phi thuyền Bản Đồ Đệ Tam Tượng Hạn.”, tôi nói, mà không thèm ra vẻ khiêm tốn chút xíu gì, chốt thêm câu cuối, “Doffnall và tớ là thành viên phi hành đoàn.”

“Thành viên chính thức?” Oxagast hỏi tò mò.

Aguella cười xòa. “Không, rất tiếc, bọn tớ không phải nhà khoa học gì hết đâu. Chỉ là hai đứa game thủ gặp may thôi.”

Chúng tôi nói chuyện về gaming và về khả năng phát triển của hệ thống Uninet liên thành phố.

Menno há hốc mồm ra như muốn nói gì đó, rồi ngậm miệng lại, cố nặn ra một nụ cười. Ánh nhìn long lanh của Oxagast đổi sang trong suốt.

“Nếu điều đó xảy ra thì thật tuyệt.” Oxagast nói dửng dưng.

Rồi Aguella đổi chủ đề sang chuyện cặp cánh nâng.

“Thế các Trí Giả ở chỗ các cậu không phản đối ý tưởng đó à?” Aguella hỏi.

Hai người kia liếc nhau. “Ồ có chứ. Cho nên chúng tôi thực hiện một cuộc trưng cầu dân ý.”

“Một cuộc gì cơ?”

“Chúng tớ bầu phiếu. Mỗi người được phép đưa ra quyết định của mình, đồng ý hoặc phủ quyết, rồi tổng kết lại. Thiết kế cánh nâng được chấp thuận, với tỉ lệ 61% thông qua.”

Chắc trông Aguella và tôi sốc đến lồi mắt ra.

Menno cười khẩy, gật đầu hài lòng với ánh nhìn ghen tức của bọn tôi, nói tiếp, “Chúng tớ đang làm một cuộc cách mạng.”

“Cách mạng? Tại sao cơ?”

Menno vẫy tay về phía khối pha lê của cậu ta. “Bởi-vì điều đó là cần thiết. Bọn tớ không muốn tiến trình lịch sử bị chậm lại chỉ vì các Trí Giả. Sự tiến bộ sẽ phải đến. Tiến bộ vượt bậc. Phải đưa ra quyết định ngay. Chỉ còn hai năm nữa thôi, cặp cánh nâng của thành phố này sẽ hoàn thành. Cuộc sống của bọn tớ sẽ không bao giờ còn như trước kia nữa.”

“Ừ, tớ cũng nghĩ là sẽ khác lắm.” Tôi đáp cho có lệ. Không biết tôi đang cáu giận, ghen tị, hay là cả hai? Chỉ có một điều chắc chắn, đó là tôi đang mất bình tĩnh.

Oxagast không hào hứng như Menno. “Sau khi cặp cánh nâng được hoàn thiện, chúng tớ sẽ có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn, và xã hội sẽ có bước tiến lớn. Ý tưởng cơ bản là như vậy.”

“Dĩ nhiên là thế.” Menno nói tiếp. “Phi thuyền MCQ3 của các cậu á? Không có ý giễu cợt đâu, nhưng so với phương tiện của chúng tớ, thì nó chỉ là đồ chơi không hơn không kém. Thượng Cực Quỹ Đạo sẽ lãnh đạo bước tiến của người Ketran, và những nơi khác chỉ biết học theo thôi. Chắc chắn khi các cậu hoàn thành hành trình ở góc phần t.ư thứ ba của thiên hà, rồi quay về, mọi thứ sẽ khác xa.”

“Khác biệt chưa hẳn là đã tốt hơn”, tôi lầm bầm. Tôi đang nghĩ đến giống dân Pangaban.

Nhưng Menno công kích lại liền. “Cậu là game thủ mà lại sợ sự thay đổi sao? Thế người ở Thượng Xích Đạo các cậu chơi game gì? Chỉ có game thiên về điều khiển ý kiến số đông là đáng chơi. Với quyền t.ư do bầu phiếu, và những thay đổi sắp đến, chúng tớ sẽ không còn là những con cờ bị nhấc lên đặt xuống bởi các Trí Giả nữa. Giờ chúng tớ chính là các Trí Giả. Chúng tớ là người chơi cờ, không phải quân cờ.”

“Dù là game nào đi nữa, cũng đòi hỏi sự cân bằng giữa thay đổi và sự vững chắc.” Tôi cãi lại. “Trò chơi – ít nhất là trò mà bọn tớ đang chơi – yêu cầu đưa ra thay đổi nhỏ nhất, ít gây chú ý nhất – và đạt được kết quả mong-muốn.”

“Thì cũng giống bọn tớ thôi.” Oxagast đồng tình. “Chỉ là gần đây có một số game thủ”, cậu ta liếc sang Menno, “một số game thủ muốn thay đổi điều đó.”

“Tớ và đồng bọn tự gọi mình là những nhà cách mạng.” Menno cười tự đắc. “Chúng tớ không muốn bị ràng buộc. Tại sao phải là tối thiểu? Tại sao phải là thay đổi nhỏ nhất có thể? Tại sao không trực tiếp tiến vào game, nhập vai vào một nhân vật, và trực tiếp kiểm soát chúng? Hiểu ý tớ chưa? Tại sao game thủ lại phải xuất hiện vô hình trong game cơ chứ? Cách mạng!”

Tôi nghe thấy tiếng báo hết giờ. Đã đến lúc phải quay lại. Cuộc nói chuyện thật ngắn ngủi, cơ mà tôi lại muốn thở phào.

“Rất cảm ơn vì cuộc nói chuyện này.” Tôi tạm biệt một cách vội vã.

Aguella và Oxagast cũng tạm biệt bằng cách tương tự. Nhưng Menno cố tình nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, “Đừng sợ những thay đổi, anh bạn Thượng Xích Đạo à. Nó rồi sẽ đến, dù cậu có muốn hay không.” Và rồi, trước sự ngạc nhiên sững sờ của tôi, cậu ta chắp hai tay lại và la lên, “Cách mạng!” Đó không phải là câu chào hay tạm biệt, đó là khẩu hiệu của niềm tin. Là một lời thách thức.

*************************

Aguella chẳng nói nhiều cho lắm trong cuộc gặp mặt vừa rồi, nhưng trên đường bay về, cô ấy liến thoắng.

“Cậu ta nói đúng, cứ thử nhìn vào thành quả của họ xem! Cánh nâng. Tại sao lại thế? Có phải vì họ thay đổi luật pháp không? Cũng như cái cách họ thay đổi luật game ấy?”

“Ờ, nhưng chắc gì cậu ta đã dành nhiều chiến thắng trong game cơ chứ.” Tôi nhận xét.

“Có lẽ sẽ có ngày chúng mình được chơi game cùng với họ.” Aguella đáp.

“Chắc sẽ sớm hơn cậu nghĩ đấy”, tôi đáp, đang nghĩ đến hình dáng của khối pha lê Thượng Cực Quỹ Đạo.

Liệu người dân ở đó có giải quyết được vấn đề liên lạc liên thành phố hay không? Đó mới thực sự là một cuộc cách mạng, còn tuyệt diệu hơn cả việc giành quyền lãnh đạo từ tay các Trí Giả.

Tất nhiên hệ thống phát tín hiệu điện của họ sẽ là vô nghĩa nếu như các thành phố khác không có bộ tiếp nhận sóng. Trong trường hợp đó, sẽ chẳng khác gì tiếng gọi bị mất hút vào trong thinh không.

Tôi đã nghĩ vậy đấy, chỉ nhằm tự thỏa mãn bản thân.


Chú thích:
(1) Kể từ lúc này mình sẽ dịch chữ “khối pha lê” sang “thành phố”. Lí do thì mời các bạn xem chú thích 2.

(2) Nguyên văn: sister crystal. Trong tiếng Anh có thuật ngữ sister cities, dùng để chỉ các cặp thành phố có sự liên kết hợp tác về mặt giao thương cũng như văn hóa. Các sister cities có thể thuộc hai quốc gia khác nhau. Để được công nhận là sister cities, cả hai thành phố phải đưa ra một tuyên ngôn chung. Ở Việt Nam, thuật ngữ này được dịch là “thành phố anh em”, ví dụ như Đà Nẵng là thành phố anh em của hơn 30 thành phố trên thế giới.

(3) Có lẽ từ mones ở đây là viết gọn của pheromone, một hợp chất hóa học mà một số động vật (ví dụ bướm) tiết ra để hấp dẫn bạn tình.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 6

Dịch: walrus

Nguồn: bachngocsach.com

Ngày hôm sau, khối pha lê Thượng Cực Quỹ Đạo đã hoàn toàn khuất dấu. Tôi lên tàu MCQ3 lần đầu tiên.

Mọi thứ trên đời này bao gồm giả lập và hiện thực. Và tôi phải nói rằng, dù cho có giống hiện thực đến nhường nào đi nữa, thì giả lập vẫn có vấn đề chí mạng, đó là bạn biết rõ nó chỉ là giả lập. Còn hiện thực thì, ờ, dĩ nhiên là chân thật rồi.

Vì là người bảo trợ cho tôi, nên Lackofa cũng kiêm luôn cả làm hướng dẫn viên.

Aguella được tuyển chọn theo chu trình thông thường, cho nên cô ấy không có người bảo trợ nào cả, thành ra có cả lợi thế lẫn thua thiệt.

Thiệt ở chỗ cô ấy sẽ không biết phải hỏi ai khi gặp vấn đề cả. Cho nên cô ấy phải bám theo tôi, như thế lại hay. Còn lợi thế hả, cô ấy không phải lo mình sẽ làm bẽ mặt người bảo trợ của bản thân.

Lackofa chào đón tôi bằng những lời sau: "Cậu chỉ cần đừng tỏ ra quá ngu là được. Tôi chỉ cầu mong thế thôi."

Tàu MCQ3 được đóng theo những quy tắc chuẩn mực. Nó là một khối pha lê được nắn thành hình bầu dục thay vì hình cầu. Có bến đậu cho đủ 104 thành viên phi hành đoàn - cả phi công chính lẫn phụ. Nhưng tất nhiên là không ai phải vỗ cánh thường trực để nâng tàu cả. Chúng tôi có thể tự dùng sức chính mình để đưa tàu bay lên, nếu muốn, tuy nhiên chẳng cần thiết phải tốn công như vậy. Tôi chợt ước gì khối pha lê Thượng Xích Đạo của chúng tôi có cánh nâng.

Tàu MCQ3 tồn tại trong một trường lực, có bao gồm một bầu khí quyển riêng, và chúng tôi hy vọng rằng như vậy sẽ đẩy văng các mảnh đá vụn trôi nổi trong không gian ra xa con tàu, xuyên suốt hành trình. Nếu vùng trọng trường này mất hiệu lực, chúng tôi sẽ không còn không khí để thở. Do vậy, có một hệ thống ống dẫn phức tạp chạy ngầm bên trong các cọc và trụ tàu, có nhiệm vụ bơm không khí sạch đến từng bến đậu.

"Hai cô cậu chỉ cần giật ống dây từ cổ áo, và rồi," Lackofa giải thích tiếp. "và đặt nó vào trong lỗ thở của cô cậu, như thế đó. Sau đó thở bình thường cho đến khi vùng trường lực được khôi phục, hoặc đến khi cô cậu chết cóng. Chỉ có một trong hai khả năng đó thôi."

"Vậy nếu bọn em không đứng sẵn ở bến đậu thì sao ạ?" Aguella hỏi. "Giả sử bọn em đang đậu trên cành?"

"Có lối thoát hiểm ở khu vực đó." Lackofa đáp. "Câu hỏi hay. Cô cũng biết tính toán đấy."

Nghe đến đây, tôi hơi giật mình. Phải chăng Lackofa đang tận dụng cơ hội được nói chuyện trực tiếp với Aguella? Cô ấy không thả mones như lần trước chứ? Không đâu, nếu cô ấy làm vậy thì tôi sẽ nhận ra ngay.

Tôi cố lờ đi kí ức về chuyện đó, vỗ vỗ đôi cánh, hy vọng chúng sẽ xếp lại gọn gàng sau lưng. Chẳng ích gì. Mọi người thường dọa nhau về chuyện bị dính mones, nhưng chẳng ai thèm nói rõ bao giờ thì hiệu ứng của mones mới kết thúc.

"Nếu trường lực mất tác dụng trong lúc chúng ta đang bay qua vùng không gian Z thì sao ạ?" Tôi hỏi.

Lackofa tặng tôi một ánh mắt khinh miệt. "Chúng ta sẽ ngay lập tức bị văng ra khỏi không gian Z và trở lại với không gian thường, và khi đó cậu sẽ lại thở qua ống khí hoặc chết rét thôi. À, mà chưa hết đâu? Rất khó để bay trong chân không. Cho nên nếu bầu khí quyển bị mất hiệu lực, cậu cần về bến đậu ngay lập tức."

Trong chớp nhoáng, tôi tưởng tượng ra cảnh mình đang đập cánh trong vô vọng, còn còn con tàu MCQ3 thì đang trôi về phía những ngôi sao xa xăm nào đó.

À thì, có ai dám nói du hành vũ trụ là chuyện vặt đâu. Những người Generation thuộc thế hệ 9561 tuyên bố rằng họ đã hi sinh gần mười phần trăm dân số của thế hệ 9547, thế hệ người Generation đầu tiên đi vào vũ trụ. Họ cũng mất đi sáu phần trăm của thế hệ 9548 nữa. Thậm chí gần đây nhất là thế hệ 9558 cũng đã có khá nhiều người chết trong các tai nạn liên quan đến du hành trong không gian.

Cơ bản là những người Generation có tuổi thọ bình quân khá thấp. Họ là như vậy đấy. Những dạng sống tổ chức thành bầy đàn thường không quan tâm lắm đến sinh mạng của một cá nhân.

"Bám theo tôi, giữ vững tốc độ, và đừng chạm vào bất cứ thứ gì," Lackofa chỉ đạo. Hắn bay lên phía trên, và chúng tôi bám theo sau. Vượt qua những hệ thống cọc chống, bến đậu phức tạp, một vài trong số đó còn đang được lắp đặt và hoàn thiện.

Hắn dẫn chúng tôi đến một cành đậu mà tôi chưa hề thấy bao giờ - dù là qua hệ thống giả lập đi nữa. Trông nó như một cái bát nằm nghiêng, rộng cỡ 17 mét, đầy đèn nhấp nháy, màn hình hiện số và hình ảnh. Nó được làm toàn bộ bởi kim loại, sợi carbon và pha lê phẳng mịn. Ánh sáng mờ nhạt quây xung quanh, làm tôi thấy ngột ngạt.

"Cái gì thế này?" Tôi hỏi. "Em không hề thấy nó trong hình ảnh giả lập!"

"Dĩ nhiên là không có trong đó." Lackofa nói. "Đây là trung tâm chỉ huy sao lưu. Trong trường hợp tai nạn nặng nề đến tận máy chủ, người ta sẽ dùng đến cỗ máy này để đưa phi thuyền tiếp tục vận hành.

"Làm sao có thể?"

"Đơn vị này được thiết kế để hoạt động độc lập. Bề ngoài thì cậu không nhìn ra được đâu, nhưng nó có động cơ riêng, tạo ra được vùng trọng lực. Khi xảy ra tai nạn đến mức ngay cả con tàu cũng ngừng hoạt động, cục sắt này sẽ tự tách ra khỏi tàu, và bay tiếp.

"Mà không.... mà không cần ai lái." Tôi đáp, không thể tin rằng trên đời lại có thứ gì đáng khâm phục như thế. "Và nó không nằm trong hình ảnh trên hệ thống giả lập."

Ánh mắt Lackofa lạnh như băng. "Không, nó không xuất hiện trong hệ thống giả lập. Và nó cũng sẽ không bao giờ xuất hiện trên mạng Uninet. Cậu cần phải hiểu điều này: Đây không giống với cuộc sống trước kia của cậu đâu. Hành trình này gian khổ hơn rất nhiều so với một cuộc khám phá khoa học đầy mơ mộng. Và chắc chắn nó cũng không phải trò đùa."

Giọng hắn khiến tôi lạnh sống lưng. Aguella và tôi liếc nhau đầy ẩn ý.

Chúng tôi tiếp tục bay đứng trên một cành pha lê sắc cạnh, tối màu. Trôi nổi trên cao hơn rất nhiều so với quê nhà của mình, nhưng vẫn nằm trong bầu khí quyển quen thuộc. Nhưng bất chợt tôi nhận ra rằng chúng tôi đã bay vượt quá một ranh giới.

"Có thứ gì ở ngoài kia không anh?" Tôi hỏi Lackofa.

Hắn chậm rãi lắc đầu. "Chúng ta không biết chắc chắn. Nhưng hai năm trước, một con tàu không rõ nguồn gốc đã xuất hiện từ trong không gian Z, chỉ cách chúng ta một triệu dặm, và đã tiến vào vùng cảnh báo của radar chúng ta. Như các cô cậu biết đấy, cứ 6 tháng một lần, chúng ta lại phóng 26 tàu tiếp tế để bảo trì cho trạm radar. Nhờ may mắn, người ta đã phát hiện con tàu chỉ hai tháng sau khi nó xuất hiện. Chúng ta đã phóng môt con tàu không người lái ra để đánh chặn và điều tra. Nhưng nó không bao giờ quay trở lại. Hai tháng sau, người ta đã nhận được tín hiệu radar từ một tàu tiếp tế khác. Hóa ra tàu của người ngoài hành tinh đã bắn rơi tàu không người lái của chúng ta bằng một thứ vũ khí phát xạ tia năng lượng bậc cao. Không có dấu hiệu sự sống trên con tàu ngoài hành tinh đó. Tôi đoán nó được lập trình để tự phòng vệ. Người ta đã cài đặt thêm trường lực bảo vệ và tăng tốc độ cho một con tàu không người lái khác, và lại dùng nó để do thám con tàu ngoài hành tinh nói trên."

"Lần này chúng ta đã may mắn. Phi thuyền ngoài hành tinh vẫn bắn rơi được tàu của chúng ta, nhưng trước khi nó kịp xuyên thủng hệ thống phòng thủ, tàu do thám của ta đã bám dính vào mục tiêu và hút được dữ liệu máy tính của nó.

"Chỉ có duy nhất một vấn đề: Khi tàu không người lái của phe ta tách khỏi mục tiêu, tàu đối phương đã bắn trúng thêm một lần nữa và làm hư hại nặng nó. Người ta đã tìm được xác tàu, nhưng chỉ khôi phục được một phần dữ liệu."

"Chúng ta lấy được những gì?" Aguella hỏi vội vàng.

Lackofa do dự. Và rồi, "Tôi hy vọng hai cô cậu hiểu rõ rằng: Không được để lộ chuyện này ra công chúng. Hình phạt là tử hình." Hắn ta nhắc lại chậm rãi, từ tốn, "Tử hình".

Tôi chết điếng. Tử hình? Đối với tiết lộ một bí mật? Họ sẽ xử tử tôi? Giam tôi lại cho đến khi tôi chết vì đói khát và cô độc, rồi ném xác tôi xuống dưới biển dung nham?

"Mỗi chủng tộc ngoài hành tinh mà chúng ta đã gặp đều yêu chuộng hòa bình." Lackofa nói. "Nhưng giống dân này, giống dân đã đóng con tàu ma đó, thì không. Bằng chứng là chúng đã đáp trả bằng hành động vô cùng bạo lực, dù chỉ là với một khiêu khích rất nhỏ. Cực kì bạo lực. Chúng tự xưng là Capasin. Do con tàu trên xuất hiện từ hướng của góc phần t.ư thứ 3, nên người ta đoán rằng hành tinh Capasin cũng ở khu vực đó. Nhiệm vụ của MCQ3 là liên hệ với giống dân này và cố gắng đạt được thỏa thuận hòa bình."

"Nếu đám người Capasin đó không muốn hòa bình?" Aguella hỏi.

Lackofa cười khẩy. "Vậy thì chúng ta cần thu thập đầy đủ thông tin để có thể chuẩn bị cho một cuộc chiến. Chúng ta có một lợi thế: Người Capasin không biết chúng ta tồn tại. Nếu chúng ta gặp họ, chúng ta phải giữ bí mật về vị trí hành tinh của mình. Đôi khi", hắn trầm ngâm nói tiếp, "những điều tưởng chừng như là rắc rối, hóa ra lại là phước lành".

"Ý anh là gì vậy?"

"Hành tinh của người Generation thế hệ 9561 có mức phóng xạ nền rất thấp, nên họ có thể giao tiếp dễ dàng thông qua việc phát và nhận sóng vô tuyến. Những bước sóng đó lan tỏa dễ dàng, cô cậu cũng biết rồi đó." Hắn vẫy tay mơ hồ về phía bầu trời. "Sóng vô tuyến của người Generation vẫn được phát liên tục vào không gian. Ai mà biết kẻ nào sẽ thu và giải mã tín hiệu của các bước sóng đó cơ chứ? Ai mà biết được những kẻ thù mà người Generation đã thu hút. Còn chúng ta, vẫn là hoàn toàn vô hình đối với thiên hà này. Có lẽ như thế lại tốt hơn."
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 7
Dịch: walrus
Nguồn: bachngocsach.com

Trong vòng ba tuần, tôi tìm hiểu kĩ con tàu MCQ3 cũng như phiên bản giả lập của nó. Tôi thuộc tên từng cột buồm, cột trụ, ghế ngồi, hệ thống bảo lưu thông tin. Tôi thậm chí còn nắm được kiến thức chung về cách vận hành động cơ không gian Z như ai.

Tôi đã gặp nhiều thành viên phi hành đoàn, bao gồm cả những người đóng vai trò thiết yếu. Tôi thậm chí đã được gặp mặt một trong số ba Trí Giả sẽ chỉ huy phi hành đoàn. Đúng kiểu người già khó tính, ông ta chỉ cằn nhằn vài câu vô thưởng vô phạt với tôi rồi cũng trở lại ghế làm việc.

Bất cứ lúc nào được phép bay tự do, tôi dành toàn bộ thời gian đó ở trên tàu. Và thời gian bay tự do của tôi cũng được tăng gấp 3 lần (lí do vì chỉ còn vài ngày nữa thì con tàu sẽ cất cánh, nên tôi được giảm bớt thời gian lao động công ích).

Tôi hầu như không có thời gian rảnh để chơi game nữa, và chắc là Inidar khá phật ý vì vụ này. Quan hệ giữa chúng tôi giờ khá căng thẳng. Không chỉ bởi vì tôi không còn dành thời gian để chơi cùng cậu ta được nữa, mà còn vì lí do khiến tôi không thể chơi game.

Chúng tôi tiếp tục trao đổi memms, hẹn giờ chơi game, nhưng chẳng chơi được ván nào hết.

Thay vào đó, tôi thường xuyên gặp Aguella. Tôi vẫn đợi cô ấy mone tôi một lần nữa, nhưng may thay, điều đó không lặp lại nữa. May thay.

Dù vậy tôi tự hỏi tại sao cô ấy không làm vậy nữa? Tôi đã làm gì sai à? Do cách tôi phản ứng lại chăng? Chắc tôi chỉ giống một thằng trẻ con nhát gái?

Không quan trọng nữa rồi. Không phải là lúc để lo lắng vẩn vơ khi sắp tham gia một chuyến thám hiểm vũ trụ quan trọng và đầy nguy hiểm.

Chỉ đơn giản là muốn biết lí do vì sao thôi. Và trong lúc chúng tôi trợ giúp việc lắp đặt vài bến đậu cuối cùng, tôi có chút manh mối.

Lúc đó có hai chúng tôi, và một phụ nữ tự chọn tên mình là Jicklet. Jicklet nằm trong phi hành đoàn thiết yếu – chị ấy là kỹ thuật viên thứ năm. Chị ấy hiểu rõ công việc của bản thân, nhưng không giống hầu hết các chuyên gia khác, chị ấy không nể nang gì mỗi khi chúng tôi lỡ tỏ ra không thạo việc.

"Nhiệm vụ của tất cả các phi hành gia không thiết yếu chỉ có thế này thôi, đó là học mỗi thứ một ít. Tức là các cô cậu sẽ là thành viên dự bị cho moi vị trí trên tàu. Được rồi, bây giờ cậu, Toomik, dùng dao để cạo hết lớp keo thừa.” Vừa giải thích, chị ta vừa bóp keo dính từ tuýp ra.

"Dạ, tên em là Toomin."

"Rồi rồi, tên gì mà chẳng thế, Toomid. Làm cho tử tế. Để thừa lại một chút."

Tôi gạn bỏ lớp keo đã khô một nửa, cẩn thận để lại một hạt keo thừa cỡ 3 mm. Nhưng lúc gạt bỏ keo thừa vào thùng rác thì không được khéo léo lắm.

"Cậu đừng làm rơi vãi ra đấy”, Jicklet dặn. "Chúng ta đang ở trên các động cơ. Nếu làm rơi chất dễ cháy vào trong đó thì thôi xong. Thế, như thế. Làm tốt lắm. Giờ thì đánh bóng chỗ này, và khi làm xong xuôi thì ới tôi một tiếng để tôi nghiệm thu. "

Chị ấy vỗ vỗ cánh rồi bay sang hướng dẫn một đôi khác cũng mới vào làm. Aguella và tôi thở phào nhẹ nhõm.

Và tiếp theo, cả thành phố Thượng Xích Đạo chao đảo.

Đầu tôi bị búa rơi trúng. Cơn chấn động khiến cánh tôi co quắp lại. Quay mòng mòng. Lửa, lửa cháy mọi nơi!

Một giây trước, tôi còn đang làm việc và cười toe toét với Aguella, và ngay sau đó tai tôi chảy máu, mắt thì mù đặc. Không tài nào t.ư duy nổi.

Chuyện gì đã xảy ra?

Tôi bị cắt xé bởi hàng chục mảnh thủy tinh. Một viên cỡ 15 cm cắm xuyên qua tay trái. Tôi kéo nó ra, gào lên đau đớn, vẫn còn đang rơi tự do.

Chuyện gì đã xảy ra?

Aguella - cô ấy ở đâu? Không thể hiểu nổi chuyện gì nữa. Những mảnh vụn thủy tinh lấp lánh xoay tròn bay tứ tung và rơi rụng xung quanh tôi.

Tàu MCQ3 vẫn lơ lửng ở đó. Aguella đâu rồi?

"Aguella! Aguella!"

Tôi nghe thấy một tiếng rên, gần như không nhận ra nổi. Tôi nhìn lên và thấy cô ấy. Cô ấy đang bám tay vào một cột trụ chưa được đánh bóng.

Và rồi, chuyện đó lại xảy ra. Và lần này tôi nhìn thấy nó. Trước mắt tôi là cô bạn của mình, máu màu cam chảy thành dòng dọc trên gò má. Nhưng phía trên cô ấy, phía trên tàu MCQ3, phía trên những cột buồm thưa thớt, là ống xả khói, đầu tàu, mũi nhọn tàu của phi thuyền người ngoài hành tinh. Nó chậm rãi bay qua bầu khí quyển. Không chút nào giống với phi thuyền của người Generation hay Illaman. Không giống với bất cứ thứ gì tôi từng nhìn thấy hay thậm chí là tưởng tượng.

Dường như nó đang bay vòng quanh khối pha lê thành phố của tôi, quan sát, chờ đợi, và rồi lại phát pháo. Một chùm năng lượng màu đỏ nhạt. Chùm tia bắn trúng lõi khối pha lê vốn đã bị hư hỏng thảm hại. Tôi chỉ nghĩ được rằng mình sắp bị choáng váng, trước khi khối pha lê phát nổ vì quá tải nhiệt.

Quê hương của tôi đang rơi xuống. Nó đã vỡ thành hai mảnh rồi. Một mảnh vỡ bằng một phần ba khối pha lê đang xoay tít trong không trung. Những đôi cánh đập trong điên cuồng, nhưng không thể nhấc nổi khối pha lê lên. Chắc hẳn bọn họ sẽ chẳng còn sống được nữa đâu.

Phần còn lại của khối Thượng Xích Đạo đang bị cháy và hư hỏng. Nhưng nó vẫn còn lơ lửng trong không trung. Tôi nhìn thấy tất cả các sư huynh và sư tỉ của mình đang cố sức bình sinh để nâng thành phố lên. Bất cứ ai đang bay tự do đều cố tìm chỗ đậu, dùng hết sức đập cánh để nâng khối pha lê.

Nhưng phi thuyền ngoài hành tinh không chịu thôi. Lần này nó không dùng vũ khí laser. Lần này nó phóng ra phi tiêu thép dày đặc như một đám mây. Nhỏ, nhỏ đến mức gần như không thể nhìn thấy bằng mắt thường, hàng triệu thanh kim loại có gắn xích cắm xuống. Âm thanh giống như tiếng phun của núi lửa. Những mũi phi tiêu chỉ được phóng trong vỏn vẹn năm giây, không hơn, nhưng sau đó tất cả người Ketran đều bị xuyên thủng. Cả thành phố như được ngâm trong máu.

Xác chết dần gục ngã. Thành phố bắt đầu rơi. Lao xuống, xuống, và tăng vận tốc vì không còn ai níu giữ. Sẽ mất một lúc lâu để rơi hết độ cao 500 km.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Chương 8
Dịch: walrus
Nguồn: bachngocsach.com

"Aguella!" Tôi cuống quít bay đến. Cô ấy còn tỉnh, nhưng sắp lịm rồi.

"Đậu xuống đi, lũ ngu! Đậu xuống!" có tiếng gào. Là Jicklet. "Chuẩn bị tăng tốc!"

Động cơ rừ rừ khởi động. Tôi cố ôm lấy Aguella; cô ấy đang gắng gượng vỗ cánh. Tôi ôm và nhấc cô ấy lên, mang đến điểm đậu gần nhất.

Chính là điểm đậu chúng tôi vừa lắp đặt xong. Tôi đặt cô ấy dựa lưng vào đó.

"Bám chắc vào! Nghe kĩ: bám chắc vào!"

Aguella gật đầu, mắt quay mòng mòng, vẫn còn đang choáng. Ngực cô ấy thắt lại. Cô ấy đậu được rồi. Giờ là phần tôi. Điểm đậu gần nhất còn lại cách đây 15 m.

Tên người ngoài hành tinh thấy chúng tôi rồi. Chắc chắn ban đầu chúng tôi chỉ giống như khung cảnh của khối pha lê thôi. Nhưng giờ hắn thấy chúng tôi còn sức vỗ cánh, còn đang an toàn. Và hắn chưa làm gì cả. Sao lại thế? Chúng tôi đâu còn sức đánh trả. Vô vọng rồi.

Con tàu ngoài hành tinh bay lù đù, chĩa họng pháo vào chúng tôi. Tay tê dại, tôi quờ quạng vào điểm đậu, xoay, bám chặt, và rồi tên người ngoài hành tinh phát pháo.

Lần này là lazer. Chính xác chí mạng. Trúng ngay giữa thành phố.

Nhưng rào chắn đã được dựng vừa kịp, nhất định là ai đó còn sức điều khiển. Tại điểm tiếp xúc với rào chắn, tia lazer chóe đỏ, tạo thành luồng hào quang rực rỡ.

Tên người ngoài hành tinh lùi lại. Tôi truy cập vào mạng Uninet, đăng nhập, quan sát thông tin lưu trong hệ thống. Động cơ cần 95% nhiên liệu mới chạy nổi. Chúng tôi đang nạp đến 65%.

Người thân tôi chết cả rồi. Bố mẹ, chết. Inidar, chết, Wormer, chết. Tôi nhìn xuống, thành phố của tôi vẫn đang rơi. Rơi bao lâu thì hết 500 km? Rơi bao lâu thì chạm biển dung nham, vỡ ra, và cháy thành tro bụi?

Tàu người ngoài hành tinh bay tại chỗ. Như đang tò mò. Thích thú. Như nhà khoa học quan sát vi khuẩn qua kính hiển vi.

Và rồi một phi thuyền nhỏ, giống tàu mẹ, nhưng nhỏ hơn và có cánh, lao ra từ thân tàu mẹ. Nó lượn vòng rồi tăng tốc, về phía chúng tôi. Nó lại gần rào chắn. Nó bị ngừng lại. Động cơ chúng tôi đang ở 80% nhiên liệu.

Phi thuyền nhỏ húc về phía trước, rất chậm. Nó đâm vào rào chắn, khoan thọc vào.

Rào chắn vẫn còn đó. Động cơ đạt 84%. Tôi bắt đầu nhìn được bóng người, thân ảnh đằng sau cửa sổ trong suốt ở khoang lái phi thuyền địch. Hắn chỉ cách tôi chưa tới 10m. Tôi thấy hắn, hắn thấy tôi. Chúng tôi biết nhau rồi đấy.

Phi thuyền địch đổi sang màu đỏ, như đang tự làm nóng. Nó sáng rực lên và rực lên đến khi làm mắt tôi hoa váng.

Hắn chọc thủng rào chắn mất thôi.

Chúng tôi chẳng có gì. Không vũ khí. Tôi biết vũ khí trông như thế nào, game thủ nào chả thế? Tôi cũng biết tàu của người Generation trang bị súng ống tận răng. Nhưng người Ketran thì không. Chưa từng có.

Mũi phi thuyền ngoài hành tinh xuyên ngập vào rào chắn. Nó xuyên chậm rãi. Nó hút và bẻ gãy rào chắn và tiến rất chậm, nhưng vẫn nhanh hơn con số và thanh nhiên liệu của động cơ chúng tôi. Chúng tôi không kịp chạy nữa. Rào chắn thủng xong là chúng tôi xong đời.

Không gì trong tay. Không vũ khí. Không công cụ. Chỉ có con dao tôi dùng để...

Cạo. Cạo và cắt!

Thật ngớ ngẩn. Loại hành động khi cùng quẫn. Loại hành động ngu ngốc làm trò cười cho game thủ khác.

Loại hành động duy nhất tôi còn.

Tôi bay. Tôi bay đến một cột tháp. Cột nhọn hoắt, chưa được mài theo tiêu chuẩn an toàn phổ thông.

Tôi mang được bao nhiêu cân? Bình thường tôi biết mỗi mét cột nặng bao nhiêu, tôi phải biết, nhưng tôi không, và cũng không còn thời gian nữa.

Tôi đoán. 2 m. Tôi vác được như thế. Tôi vớ lấy chân cột và dừng lại, suýt thì trượt tay mất con dao. Tôi bắt đầu cắt vòng quanh cây cột rộng cỡ cổ chân. Cắt. Cắt. Đừng lo chuyện khác.

Cột bắt đầu rung. Tôi lùi lại và húc thân mình vào cột. Cột gãy ngọt. Đủ ngọt rồi. Vết cắt không đẹp, như đủ dùng.

Tôi ôm cột bằng hai tay và nhấc lên. Không quá nặng, còn giữ được. Nhưng khó xoay quá.

Tôi ôm cột dưới nách, chống chân trụ, rồi vỗ cánh.

Tôi bay thẳng về phía phi thuyền nhỏ của địch. Nhanh hơn, nhanh hết sức, điên cuồng, đừng lo vẩn vơ, đừng lo làm sao sống sót.

Như trong phim quay chậm, bóng người sau cửa kính quay đầu lại. Hắn chỉ có hai mắt, nhìn về phía trước. Xanh lam. Rất đẹp. Đôi mắt xanh nhìn tôi, rồi mở rộng. Tên người ngoài hành tinh nghĩ gì? Sợ? Khinh bỉ? Kinh hỉ?

Ánh sáng đỏ của phi thuyền tỏa ra chói lòa, mắt tôi chỉ hơi hé được, chỉ đủ nhìn đôi mắt xanh kia.

Tôi đâm. Mũi cột chọc vào vỏ kim loại, đâm sâu 30 cm, rồi dừng lại. Tôi rút cột ra. Đầu nhọn vẫn còn trên cột.

Tôi lùi lại, dốc hết sức, và lần này luồn xuống dưới phi thuyền địch và đâm lên. Lại được thêm một vết thủng sâu nữa.

Nhưng ánh sáng đột nhiên giảm cường độ. Thì ra rào chắn của chúng sắp thủng rồi.

Độ cao, thằng ngu này, dùng trọng lực chứ, đầu tôi tự dưng chửi tôi. Ờ thế mới đúng chứ!

Tôi đập cánh lấy độ cao. Lên, lên nữa, đôi mắt xanh vẫn nhìn theo tôi, nhưng mà, có vẻ như, hắn, tò mò hơn là căm hận.

Lên gần 10 m rồi. Nào! Tôi bổ nhào xuống. Cánh đập rầm rầm trong không gian, tôi chĩa mũi cột xuống, đầu nhọn hướng vào mục tiêu.

Mũi nhọn đâm thủng phi thuyền địch, tận vào khoang lái. Đâm xuyên xuống. Không có tiếng nổ. Không khói lửa gì cả. Nhưng khi tôi thả tay ra, và để mình trượt qua cửa kính, tôi nhìn thấy tên người ngoài hành tinh vẫn mở mắt trợn trừng.

Mũi nhọn đã đâm thủng khoang lái, và đâm thủng sọ hắn.

Và cuối cùng, trong lúc phi thuyền địch lọt nửa thân qua rào chắn của tàu MCQ3, động cơ của chúng tôi cuối cùng đã chạy

Trong chốc lát, tôi nhìn thấy vũ trụ như sụp đổ. Và một giây sau tôi trôi nổi trong màu trắng vô định của Zero-space.

Phi thuyền nhỏ của người ngoài hành tinh vẫn còn bên cạnh. Gã người ngoài hành tinh tôi vừa giết vẫn còn mở đôi mắt xanh trong veo.
 
Last edited:

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top