Luận Truyện Tổng hợp những trích dẫn hay từ tiểu thuyết

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00
À, chính xác là con tàu ấy ở đâu ..? Đi đâu ..? Quo Vadis ..? :haha:
- "Lạc lối ở Bắc Kinh ..?" (3x :iumat:)

Chúng tôi đến Waterloo lúc 11 giờ, và hỏi chuyến tàu lúc 11 giờ 5 sẽ khởi hành từ đâu. Dĩ nhiên không ai biết; không ai ở Waterloo từng biết đâu là nơi một con tàu sẽ khởi hành, hay khi nó khởi hành thì đâu sẽ là đích đến, hay bất kỳ điều gì về việc ấy.
:nhamnho:
Người khuân vác đã mang đồ của chúng tôi xuống nghĩ rằng nó sẽ đi từ sân ga số hai, trong khi một người khuân vác khác mà anh ta đã thảo luận về vấn đề này lại nghe đồn rằng nó sẽ đi từ sân ga số một. Tuy nhiên ngài trưởng ga thì tin chắc rằng nó sẽ khởi hành ở ngay chỗ này.Để giải quyết dứt điểm vấn đề chúng tôi trèo lên tầng hỏi người quản lý giao thông, và ông này cho biết, ông ta vừa gặp một người, người đó nói rằng đã nhìn thấy con tàu ở sân ga số ba. :060:Chúng tôi đến sân ga số ba, nhưng người phụ trách ở đó nói rằng họ nghĩ đó là tàu tốc hành Southampton, hoặc là tàu khứ hồi Windsor thì đúng hơn. Nhưng họ đảm bảo đó không phải tàu đi Kingston, mặc dù họ không thể nói được tại sao họ lại chắc chắn như thế.

Thế rồi người khuân vác của chúng tôi nói rằng chắc hẳn nó phải ở sân ga phía trên; và bảo anh ta nghĩ mình biết con tàu đó. Vì thế chúng tôi đến sân ga phía trên và gặp người lái tàu, và hỏi xem anh ta có đi Kingston không. Anh ta trả lời là dĩ nhiên anh ta không thể nói chắc được, nhưng anh ta muốn nghĩ là anh ta chắc chắn thế lắm. :082: Dù sao đi nữa, nếu không lái chuyến 11 giờ 5 đi Kingston thì anh ta chắc chắn rằng mình sẽ lái chuyến 9 giờ 32 đi Virginia Water, hoặc chuyến tàu nhanh lúc 10 giờ đi đảo Wight, hay nơi nào đấy cùng hướng đó, và chúng tôi rồi sẽ biết rõ khi nào đến nơi thôi. Chúng tôi dúi một đồng nửa curon vào tay anh ta và van vỉ rằng đó hãy là chuyến 11 giờ 5 đi Kingston.

“Chẳng ai trên tuyến này biết anh là ai hay anh sẽ đi đâu cả,” chúng tôi nói. “Anh biết đường rồi đấy, anh chỉ cần lặng lẽ chuồn đi Kingston là xong mà.”

“Ừm, tôi không biết, các quý ông ạ,” con người cao thượng kia đáp, “nhưng tôi cho là một chuyến tàu nào đấy phải đến Kingston, và tôi sẽ lái nó. Đưa cho tôi đồng nửa curon nào.”

Vậy là chúng tôi đã đến Kingston bằng Hỏa xa London và Tây Nam.Sau này chúng tôi được biết con tàu chúng tôi đã đi thực ra là tàu chở thư tới Exeter, và rằng người ta đã mất hàng giờ để tìm kiếm nó ở Waterloo, và không ai biết nó đã gặp phải chuyện gì hết
. :008:


2. Đoạn này thuần túy là triết lý - opz


Danh sách đầu tiên về những thứ phải mang đi khi du lịch của chúng tôi buộc phải quăng đi. Rõ ràng các nhánh thượng nguồn sông Thames không thể lưu thông nổi một con thuyền đủ rộng để chứa hết những thứ chúng tôi gạch chân là tuyệt đối cần thiết; vậy là chúng tôi xé danh sách ấy đi và đành ngồi nhìn nhau!

George bảo:

“Các cậu biết đấy, ta đã đi hoàn toàn sai hướng. Chúng ta không nên nghĩ đến những thứ chúng ta có thể mang theo mà chỉ tính tới những thứ không thể không cần đến thôi.”

Thỉnh thoảng George hóa ra lại rất có lý. Bạn sẽ phải ngạc nhiên cho mà xem. Tôi gọi đó là trí tuệ đích thực, không đơn thuần xét đến tình huống hiện nay mà còn liên hệ đến chuyến đi của chúng tôi trên dòng sông cuộc đời nói chung. Trong hành trình ấy, biết bao người chất đầy con thuyền của họ cả mớ những thứ đồ ngu ngốc mà họ tưởng là thiết yếu cho một chuyến đi vui vẻ và thoải mái, nhưng thật sự chỉ là những thứ đồ bỏ đi vô dụng, cho đến khi con thuyền có nguy cơ bị ngập nước.

Họ đã chất đầy lên đến tận cột buồm của con thuyền nhỏ bé tội nghiệp những quần áo đẹp và những ngôi nhà to; những người hầu vô dụng, và một đám bạn bè bảnh chọe chẳng buồn quan tâm đến họ tí nào, và họ cũng chẳng quan tâm đến những người ấy nhiều hơn; những trò giải trí đắt giá mà chẳng ai thích, với lễ tiết và kiểu cách, với sự giả vờ giả vịt và sự phô trương khoe của, và với – ôi, cái thứ đồ bỏ đi nặng nhất và rồ dại nhất! – nỗi lo lắng không hiểu hàng xóm sẽ nghĩ gì, với những thứ đồ xa xỉ chỉ làm người ta phát ngấy, với những niềm vui đã phát ớn, với những buổi trình diễn trống rỗng mà, y như chiếc vương miện sắt của bọn thảo khấu ngày xưa, làm cái đầu đeo nó chảy máu và sưng phồng lên!

Đấy là những thứ đồ bỏ đi thôi, các bạn ạ – toàn là đồ bỏ đi thôi! Vứt khỏi thuyền đi. Chúng khiến con thuyền nặng nề, làm ta gần như ngất xỉu với mấy mái chèo. Chúng làm việc điều khiển con tàu trở nên vướng víu và nguy hiểm, và rồi ta sẽ chẳng bao giờ biết đến, dù chỉ trong khoảnh khắc, sự tự do khi thoát khỏi những nỗi lo lắng và bận tâm, không bao giờ có được một khoảnh khắc nghỉ ngơi dành cho sự mơ màng lười biếng – không có thời gian để ngắm nhìn bóng cơn gió nhẹ nhàng lướt qua những chỗ nước nông, ngắm ánh mặt trời lấp lánh vút qua làn sóng gợn lăn tăn, những thân cây to lớn bên bờ cúi xuống nhìn bóng của chính chúng, hay những khu rừng toàn màu xanh và ánh vàng kim, những bông bách hợp trắng và vàng, những cây bấc đu đưa ủ rũ, những cây lau cây lách, hoa phong lan, và cả hoa lưu ly xanh nữa.
Hãy vứt cái mớ đồ bỏ đi ấy đi, bạn ơi! (Quẳng gánh "vàng" đi mà sống ..? - opz :haha:) Hãy để cho con thuyền cuộc đời bạn trở nên nhẹ nhàng, chỉ chất chứa những thứ bạn cần – một tổ ấm ấm cúng và những niềm vui giản dị, một hay hai người bạn xứng đáng với danh xưng ấy, ai đó để bạn yêu và để yêu bạn, một con chó, một con mèo, và một hai cái tẩu, những thứ đủ để ăn và để mặc, và những thứ trên mức đủ để uống; vì cơn khát là một thứ nguy hiểm.

Lúc đó bạn sẽ thấy con thuyền dễ chèo hơn nhiều, và nó sẽ không dễ dàng bị lật úp, và cũng sẽ chẳng vấn đề lắm nếu nó bị lật úp thật; những thứ đồ tốt và giản dị sẽ chịu được nước. Bạn sẽ có thời gian để nghĩ ngợi cũng như để làm việc. Thời gian để say sưa tận hưởng ánh dương cuộc đời – thời gian để lắng nghe thứ âm nhạc của thần Aeolius mà cơn gió của Chúa Trời đã kéo lên quanh ta từ những sợi tơ lòng của con người ..

:056:
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00
Với đoạn trích dẫn này thì bài hát hợp lý nhất có lẽ là "Maps" .. :haha:

Harris hỏi tôi đã bao giờ vào mê cung ở lâu đài Hampton chưa. Hắn bảo hắn từng vào để chỉ đường cho ai đấy. Hắn đã nghiên cứu kỹ mê cung trên bản đồ, và nó đơn giản đến mức chừng như ngớ ngẩn – chẳng đáng hai xu tiền vé vào cửa tí nào. Harris bảo hắn nghĩ bản đồ ấy chắc hẳn là trò xỏ lá, vì nó chẳng giống thật tí nào và toàn chỉ sai đường thôi. Người Harris dẫn vào là một tay họ hàng dưới quê. Hắn bảo:“Chúng ta vào thôi, vậy là cậu có thể kể với mọi người rằng cậu đã ở đây rồi, nhưng nói chung là đơn giản lắm. Thật phi lý khi gọi nó là mê cung. Đến chỗ rẽ đầu tiên cậu cứ việc rẽ phải cho tôi. Ta đi vào đó độ mười phút rồi về ăn trưa nhé.”

Ngay sau khi vào mê cung họ đã gặp vài người, mấy người này kể lể họ đã ở đó bốn nhăm phút rồi, và thấy thế là quá đủ. Harris tuyên bố xanh rờn với mấy người này rằng nếu muốn họ có thể đi theo hắn; hắn mới vào thôi và sẽ loanh quanh chút rồi lại đi ra luôn. Họ nói hắn tốt bụng quá chừng và ngay lập tức đi theo. :057:

Trên đường đi bọn họ còn tiếp nhận một vài người khác cũng đang muốn kết thúc chuyến đi, cho đến khi tất cả mọi người trong mê cung đều nhập bọn. Những người vốn đã từ bỏ mọi hy vọng ra vào, hay mọi hy vọng gặp lại gia đình bè bạn, đã lấy lại được dũng khí khi nhìn thấy Harris và bầu đoàn của hắn, sau đó cũng gia nhập vào đoàn quân ấy, cầu Chúa ban phúc lành cho hắn. Harris nói hắn đoán tổng cộng phải có đến hai mươi người đi theo; và một người phụ nữ bế con nhỏ đã ở đây suốt cả buổi sáng cứ khăng khăng đòi bám tay hắn vì sợ sẽ lạc mất hắn.

Harris cứ tiếp tục rẽ phải, nhưng có vẻ đấy là một chặng đường dài, và tay họ hàng của hắn bảo, cái mê cung này chắc phải lớn lắm.

“Ôi, một trong những cái lớn nhất châu Âu ấy chứ,” Harris bảo.
“Ừ, chắc thế,” tay kia đáp, “vì ta đã đi ít ra là hai dặm rồi đấy.” :nhamnho:
Bản thân Harris cũng bắt đầu nghĩ có gì đó là lạ ở đây :haha:, nhưng hắn cứ nín thinh cho đến khi, rốt cuộc, họ đi ngang qua nửa cây nấm thông nằm dưới đất mà người bà con của Harris thề là đã nhìn thấy ở đó bảy phút trước. Harris bảo: “Ồ, không thể nào!” nhưng người phụ nữ có con nhỏ bảo, “Không sai tí nào,” vì chính cô đã giật nó ra khỏi tay đứa bé và vứt xuống đấy ngay trước lúc gặp Harris. Cô này còn nói thêm cô ước gì mình chưa bao giờ gặp Harris :060: , và phát biểu rằng hắn là một thằng lừa đảo. Chuyện này làm Harris cáu điên, và hắn bèn trình ra cái bản đồ và giải thích giả định của mình.

“Có thể cái bản đồ ấy chỉ đúng đường,” một người trong đoàn lên tiếng, “nếu anh biết bây giờ chúng ta đang ở chỗ quái quỷ nào trong ấy.” :nhamnho:

Harris không biết, và đề xuất rằng lúc này điều nên làm nhất là quay trở lại lối vào và bắt đầu từ đầu. Cái phần bắt đầu từ đầu của ý tưởng này không được hưởng ứng nhiệt tình cho lắm :haha:, nhưng chuyện quay trở lại lối vào thì mọi người đều nhất trí tán thành, vậy là họ bèn quay đầu, và lại đi theo Harris, theo hướng ngược lại. Mười phút nữa trôi qua, và họ thấy mình đang đứng giữa mê cung.
Lúc đầu Harris nghĩ nên giả vờ rằng đây chính là nơi hắn định đến :nhamnho:, nhưng trông đám đông có vẻ nguy hiểm quá, thế nên hắn đành quyết định coi đó là rủi ro vậy.

Dù sao chăng nữa, họ cũng đã có một cái gì đó để mà xuất phát. Họ biết họ đang ở đâu, và tấm bản đồ đã trở nên hữu dụng một lần nữa, mọi chuyện có vẻ đơn giản hơn bao giờ hết, vậy là họ khởi hành lại từ đầu lần thứ ba.
Và ba phút sau, họ trở lại giữa mê cung một lần nữa. :008:

Sau đó thì họ tuyệt đối không thể đi đến bất cứ nơi nào khác. Con đường nào họ rẽ vào cũng dẫn ra giữa mê cung. Cuối cùng việc ấy lặp đi lặp lại nhiều đến mức một vài người dừng hẳn lại, chờ cho những người khác đi vòng vòng rồi quay trở lại với họ. :nhamnho: Sau một hồi, Harris lại lôi bản đồ ra, nhưng sự xuất hiện của nó chỉ làm đám đông nổi điên lên, và họ bảo hắn cầm cái bản đồ ấy mà xéo đi. Harris bảo hắn không thể không cảm thấy rằng, ở một mức độ nào đó thì hắn đã trở nên không được ưa thích cho lắm.

Cuối cùng tất cả đều nổi điên lên và đồng thanh gọi người gác cửa, vậy là anh này xuất hiện và leo lên cái thang bên ngoài, rồi gào lên chỉ đường cho cả bọn. Nhưng đến lúc này thì mọi cái đầu đều đã quay cuồng rối loạn đến mức không thể nào hiểu được cái gì với cái gì cả, thế là anh kia bèn bảo họ cứ đứng yên đấy, anh ta sẽ đến chỗ họ. Đám đông túm tụm lại với nhau chờ đợi, và anh kia bèn trèo xuống thang và đi vào.

Anh chàng là một người gác cửa trẻ tuổi, và tình cờ thay, anh ta cũng vừa mới làm việc ở đây được ít ngày, và khi vào trong, chàng trẻ tuổi không thể tìm thấy họ, anh ta đi vòng vòng, cố tìm cách tới chỗ đám người đang kêu cứu, và rồi anh ta cũng lạc nốt. :haha: Thỉnh thoảng họ thấy anh chàng lao về phía bên kia của tường rào, rồi anh ta cũng nhìn thấy họ và lao đến chỗ họ, rồi họ chờ độ năm phút, và anh kia sẽ tái xuất hiện tại đúng chỗ lúc nãy, và hỏi họ rằng họ đã ở đâu thế. :060:

Họ phải chờ cho đến khi một người gác cổng già quay lại sau khi ăn xong bữa tối thì mới ra được bên ngoài.

Harris nói, hắn nghĩ rằng chừng nào hắn chỉ là người đứng ngoài nhận xét, thì đó là một mê cung rất tuyệt; sau đó chúng tôi đều đồng ý là trên đường về chúng tôi sẽ thử lôi George vào đấy xem sao ..
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

Không, điều đáng buồn trong trường hợp này là cái tay chủ nhà kia, chẳng quan tâm tí gì đến gỗ sồi chạm trổ, lại có cả một căn phòng vẽ ốp gỗ sồi chạm trổ, trong khi những người quan tâm tới gỗ sồi lại phải trả cả núi tiền để có được nó. Có vẻ đấy là quy luật của thế giới này. Mỗi người đều có thứ người đó chẳng thiết gì và những người khác lại sở hữu thứ anh ta đang tha thiết muốn.
:060:Ông nào đã trót lấy vợ thì chẳng có vẻ gì là muốn sở hữu món tài sản này cho lắm :haha: trong khi bọn thanh niên chưa vợ kêu gào sao mình chẳng kiếm nổi một cô. :nhamnho: Người nghèo vắt mũi không đủ đút miệng thì có đến cả đàn con ăn khỏe như hùm. Còn các cặp vợ chồng già giàu có, vốn chẳng có ai để thừa kế, thì chết không con không cái. :015:
(Con cá trong lờ, đỏ lơ con mắt; Con cá ngoài lờ, ngúc ngoắc muốn vô - Opz :nhamnho:)

Lại còn các cô nàng với người yêu của các nàng nữa chứ. Các cô rõ lắm người theo đuổi thì chẳng bao giờ ngó ngàng gì đến họ. Các cô bảo thà không có còn hơn, rồi thì bảo bọn họ làm phiền các cô, và hỏi sao họ không đi mà tán tỉnh mấy cô Smith hay cô Brown già khú đế nhan sắc tầm thường mãi chẳng có người yêu kia đi. Các cô thì chẳng cần người yêu. Các cô chẳng đời nào tính đến chuyện lấy chồng đâu!

Thôi tốt hơn là không nên nói đi nói lại mãi những chuyện này làm gì, nghe mà buồn cả người.

Ở trường tôi có một thằng mà bọn tôi gọi là Sandford và Merton. Tên thật của nó là Stivvings. Nó là thằng nhãi bất bình thường nhất tôi từng gặp trên đời. Tôi tin là nó thích học thật. Nó toàn bị mắng cho té tát vì tội ngồi dậy học tiếng Hy Lạp trong giờ ngủ; còn các động từ bất quy tắc tiếng Pháp ấy à, cứ gọi là không tài nào kéo nó dứt ra khỏi chúng được. Trong đầu nó đầy những ý nghĩ quái gở và phi tự nhiên rằng nó là kho báu của bố mẹ, là niềm tự hào của cả trường; rồi nó khao khát giành được các giải thưởng, trưởng thành và rồi ra sẽ là một người thông thái, và đại loại là tất cả những ý tưởng thần kinh kiểu ấy. Tôi chưa bao giờ biết đến một sinh vật nào kỳ lạ như thế, nhưng vô hại, xin các vị lưu ý cho, vô hại như đứa bé còn chưa chào đời ấy.

Vậy đấy, cái thằng nhóc đó thường ốm hai lần một tuần, và thế là nó không thể đến trường. Thật chưa từng có thằng nhóc nào lại đau ốm kiểu như thằng Sandford và Merton. Hễ trong phạm vi mười dặm quanh nó mà xuất hiện bất cứ căn bệnh nào đã được y học biết đến thì y như rằng nó mắc ngay bệnh ấy, mà lại bị nặng là đằng khác. Nó sẽ bị sưng phổi đúng vào những ngày tiết trời nóng nhất và bị dị ứng phấn hoa vào Giáng sinh. Sau sáu tuần khô hạn, nó sẽ bị sốt thấp khớp đốn gục; nó ra ngoài trong sương mù tháng Mười một và về nhà lử đử trong cơn say nắng. :008:

Thằng nhóc tội nghiệp. Có năm, người ta phải xì thuốc tê cho nó, nhổ sạch bộ nhá và trồng cho nó nguyên một hàm răng giả vì răng nó đau khủng khiếp quá, rồi sau đấy căn bệnh chuyển thành đau dây thần kinh mặt và bệnh đau tai. Nó lúc nào cũng cảm lạnh, chỉ trừ mỗi chín tuần hồi nó bị sốt phát ban, còn bệnh cước là bạn đồng hành hàng ngày của nó. Trong cơn đại dịch tả khủng khiếp năm 1871, vùng chúng tôi là nơi duy nhất thoát dịch. Trên toàn giáo xứ người ta chỉ biết có độc một con bệnh: con bệnh đó chính là thằng nhóc Stivvings.

Mỗi khi ốm nó đều phải nằm im trên giường, ăn thịt gà, bánh trứng và nho hái trong nhà kính; và nó sẽ nằm đó thút tha thút thít vì người ta không cho nó làm bài tập tiếng Latin và giằng cuốn ngữ pháp tiếng Đức khỏi tay nó.

Trong khi đó thì bọn tôi, những thằng nhóc khác, vốn sẵn lòng hy sinh mười học kỳ của đời đèn sách cho một ngày ốm đau và chẳng có tí tha thiết nào với việc trao cho các vị phụ huynh bất kỳ lý do gì để tự hào về mình, lại không tài nào mắc phải bệnh gì nặng hơn bị mỏi cổ. :nhamnho: Chúng tôi phí thời gian chơi nghịch ở những chỗ gió lùa vi vút, và rồi việc ấy lại thành ra có lợi cho chúng tôi, làm chúng tôi khỏe khoắn hẳn lên; và chúng tôi ra sức tọng vào bụng những thứ làm mình phát ốm, và rồi thì các thứ ấy làm chúng tôi béo ú, lại còn khiến chúng tôi thèm ăn nữa chứ. Chẳng trò gì chúng tôi nghĩ ra được lại có thể khiến chúng tôi phát ốm trước kỳ nghỉ. Rồi, ngay trong ngày đầu tiên của kỳ nghỉ, chúng tôi cảm lạnh, ho gà, và tất cả các dạng bệnh tật trên đời, dai dẳng cho đến tận lúc học kỳ mới bắt đầu; :haha: lúc ấy thì bất chấp chúng tôi có giở ra thủ đoạn gì để cưỡng lại đi chăng nữa, cả bọn bỗng nhiên khỏe như vâm, khỏe hơn bao giờ hết ấy chứ.

Đời là thế đấy; và chúng ta có là gì đâu ngoài những cọng cỏ bị nhổ bật lên, cho vào lò và nướng lên thôi.

Trở lại vấn đề gỗ sồi chạm trổ, các cụ tổ của chúng ta hẳn là đã có những ý niệm rất tinh tế về vẻ đẹp và tính nghệ thuật. Sao nào, tất cả các kho báu nghệ thuật của chúng ta ngày nay chỉ là những thứ bình thường của ba bốn trăm năm về trước được đào dưới đất lên. Tôi băn khoăn không biết những đĩa xúp, vại bia, giá nến cổ mà ngày nay chúng ta trân quý ấy có chút xíu vẻ đẹp thực chất nào không, hay chỉ là do vầng hào quang của năm tháng lấp lánh bên ngoài khiến chúng trở nên quyến rũ trong mắt chúng ta. Cái thứ “gốm lam cổ” mà chúng ta treo trên tường làm vật trang trí ấy vài thế kỷ trước chỉ là đồ gia dụng hàng ngày; còn những chàng mục đồng màu hồng và những cô chăn cừu màu vàng giờ chúng ta chuyền tay cho bạn bè ta xem để họ trầm trồ xuýt xoa, giả vờ như họ am hiểu lắm, cũng chỉ là vật trang trí tầm thường đặt trên lò sưởi mà một bà mẹ của thế kỷ mười tám hẳn sẽ đưa cho đứa con nhỏ ngậm chơi khi nó khóc quấy.

Liệu trong tương lai có thế không? Phải chăng những báu vật của thời đại này lúc nào cũng chỉ là những thứ lặt vặt rẻ tiền từ thời trước? Liệu những chồng đĩa ăn có hoa văn hình cây liễu của chúng tôi đến năm hai nghìn bao nhiêu đó có được xếp hàng trên bệ lò sưởi của đám cháu chắt? Liệu những chiếc tách trắng có viền vàng và hình bông hoa vàng đẹp đẽ bên trong (không biết thuộc loài hoa gì) mà cô giúp việc Sarah Janes của chúng tôi đã làm sứt mẻ với thái độ vô t.ư nhất đời kia, có được gắn lại cẩn thận rồi xếp ngay ngắn trên giá và chỉ bà chủ nhà mới được phép phủi bụi hay không?

Lại còn cái con chó sứ trang trí trong phòng ngủ của căn hộ tôi đi thuê ấy nữa chứ. Nó là một con chó trắng. Mắt xanh. Mũi đo đỏ điểm các đốm đen. Đầu nó dựng đứng lên đầy đau khổ, và vẻ thân thiện của nó thì mấp mé bên sự ngu đần. Chính tôi cũng chẳng mấy thích thú với nó. Nếu coi đó là một tác phẩm nghệ thuật, tôi có thể nói nó làm tôi khó chịu. Bạn bè kém tế nhị thì chế giễu nó, kể cả bà chủ nhà của tôi cũng chẳng yêu thích gì nó, và bào chữa cho sự hiện diện của nó bằng lý do nó là món quà bà cô của bà ta tặng.

Nhưng hai trăm năm sau, rất có khả năng con chó ấy sẽ được khai quật lên từ chỗ này hay chỗ khác, thiếu chân, tai bị mẻ, sẽ được bán như đồ sứ cổ và được đặt trong hộp kính. Và người ta sẽ chuyền nó qua tay nhau, trầm trồ ngưỡng mộ. Họ sẽ bị choáng ngợp trước chiều sâu tuyệt vời của màu sắc trên mũi nó, và sẽ cắm đầu cắm cổ nghiên cứu xem cái mẩu đuôi đã mất của nó đẹp đến nhường nào.

(ngờ rằng đoạn này đá xéo đên tượng Thần Vệ nữ Venus bị mất 2 cánh tay - Opz :056:)


2. Trong suy nghĩ của tôi, không có gì quyến rũ hơn một bộ cánh đi thuyền trang nhã. Nhưng một “bộ cánh đi thuyền”, nếu như tất cả các quý cô có thể hiểu được khái niệm này, là một bộ cánh có thể mặc trên một con thuyền, chứ không phải để diện trong lồng kính. Một cuộc du ngoạn sẽ bị phá hỏng hoàn toàn nếu trên thuyền có người lúc nào cũng chỉ chăm chăm nghĩ đến quần áo của họ hơn là chuyến đi. Có một lần tôi không may phải đi picnic trên sông với hai quý cô thuộc loại này. Cả bọn đã được một phen thất điên bát đảo!Cả hai cô đều phục sức đẹp đẽ – toàn các thứ đăng ten và lụa, hoa, nơ, thêm đôi giày đỏm dáng cùng găng tay mỏng manh. Nhưng những bộ cánh ấy là để đi chụp ảnh nghệ thuật chứ đâu phải để đi picnic trên sông. Đấy là những “bộ cánh đi thuyền” theo phong cách thời trang Pháp. Thật lố bịch khi mặc bộ cánh ấy lượn lờ ở bất kỳ nơi nào gần với đất, không khí và nước.

Điều đầu tiên là các quý cô nghĩ con thuyền không được sạch cho lắm. Chúng tôi đã lau sạch tất cả chỗ ngồi cho họ và khẳng định lại với họ điều ấy, nhưng họ có chịu tin đâu. Một cô lấy đầu ngón tay đeo găng di di nệm ghế và giơ kết quả khảo sát ra cho cô kia xem, và rồi cả hai thở dài thườn thượt mà ngồi xuống theo cái kiểu các vị thánh tử vì đạo đang cố tự làm mình thoải mái trên giàn thiêu. :haha: Khi chèo đôi khi ta cũng làm bắn nước lên, và có vẻ như là chỉ một giọt nước thôi cũng có thể làm hỏng những bộ cánh ấy. Vệt nước sẽ không biến đi mà hóa thành vết ố tồn tại cùng chiếc váy đến mãi mãi về sau.

Tôi là người chèo thuyền. Tôi đã làm hết sức mình. Tôi giơ mái chèo lên chỉ độ vài chục centimet, và dừng lại sau mỗi nhịp, để mái chèo rỏ bớt nước trước khi đảo lại, và tôi chỉ khua động làn nước nhẹ nhàng mỗi khi nhúng lại mái chèo xuống nước. (Thằng cha cầm mái chèo ở mũi thuyền bảo, sau một lúc thì hắn thấy mình có phần không đủ năng lực để phụ chèo với tôi, vậy nên nếu tôi cho phép thì hắn sẽ ngồi im và nghiên cứu cách chèo của tôi. Hắn nói cách chèo này khiến hắn rất hứng thú. :056:) Nhưng dù tôi đã cố gắng đến thế nào thì cũng không thể tránh khỏi đôi khi có vài giọt nước lấp lánh bắn lên mấy cái váy áo ấy.

Các cô không kêu ca gì, nhưng họ dúi dụi vào nhau và mím chặt môi lại, và mỗi khi có giọt nước nào bắn vào thì các cô lại co giật lên và run bắn cả người. Cảnh các cô phải chịu đựng trong im lặng như thế thật quý phái, nhưng nó làm tôi khó chịu không để đâu cho hết. Tôi vốn quá nhạy cảm mà lại. Tôi chèo điên dại và chẳng theo nhịp gì, càng cố ngăn lại thì tôi lại càng làm nước bắn lên nhiều hơn.

Cuối cùng tôi đành đầu hàng; tôi đề nghị đổi sang chèo mũi. Thằng cha chèo mũi nghĩ việc thay đổi này cũng tốt hơn và thế là chúng tôi đổi chỗ. Khi thấy tôi rời khỏi chỗ các quý cô buột miệng thở phào và tươi tỉnh hẳn lên trong một thoáng. Khổ thân các cô! Lẽ ra họ nên chịu đựng tôi mới phải. Bây giờ thì họ có một thằng cha vui tươi hớn hở, vô t.ư hết mức, thêm vào đó lại đần độn và độ nhạy cảm thì ngang với chú chó con Newfoundland. Quý vị có thể lườm hắn nảy lửa cả tiếng đồng hồ mà hắn không hề hay biết, kể cả hắn có nhận ra thì cũng chẳng thèm bận tâm. Hắn chèo vùn vụt, khua mái chèo rổn rảng và gửi những đợt sóng phun đều khắp cả thuyền như vòi phun nước khiến cả đám trên thuyền chẳng có lúc nào ngồi thẳng được người lên. Mỗi khi lỡ tay làm tóe hơn nửa lít nước lên một trong những chiếc váy đó, hắn sẽ bật cười một tiếng nho nhỏ dễ thương mà rằng:

“Ôi, tôi hết sức xin lỗi,” và đưa cho các cô chiếc khăn tay của hắn để lau.

“Ồ, không sao đâu,” các cô nàng tội nghiệp lúng búng trả lời và lén lút kéo mớ khăn trải và áo khoác lên che người, cố tự vệ bằng mấy cái ô đăng ten của họ.

Đến bữa trưa thì các cô gặp cả đống vấn đề. Người ta muốn các cô ngồi lên cỏ, mà cỏ thì bẩn ơi là bẩn, và mấy cái thân cây các cô được mời tựa vào thì có vẻ đã hàng tuần nay chưa được ai phủi sạch; vậy là các cô bèn trải khăn tay xuống mà ngồi cứng đơ thẳng đờ trên ấy. Thế rồi ai đó đi ngang qua, với đĩa bánh kẹp bít tết trên tay, tự dưng vấp phải rễ cây và cái bánh bay vèo đi. May thay, không có miếng nào bay trúng các cô, nhưng tai nạn này lại khiến các cô nhận ra một mối nguy mới và làm các cô vô cùng kích động; sau đó cứ mỗi khi có người nào bước lại gần mà trong tay là thứ gì đó có thể rơi xuống và tạo ra một đống bẩn thỉu là các cô lại dõi theo người ấy với một nỗi lo ngại ngày càng tăng cho đến khi anh ta ngồi xuống.

“Nào các cô gái ơi,” thằng cha Chèo Mũi vui vẻ nói với họ khi bữa trưa đã xong xuôi, “giờ thì đến đây nào, các cô phải rửa chén bát đi chứ nhỉ!”

Các cô lúc đầu chẳng hiểu thằng cha nói gì. Khi lờ mờ nhận ra ý đồ của hắn, các cô nói, các cô e rằng mình không biết rửa chén bát thế nào. :015:

“Ôi, tôi sẽ cho các cô thấy ngay thôi,” hắn gào lên, “vui cực kỳ đấy! Các cô nằm rạp ra – ý tôi là các cô hãy vươn người ra bờ sông ấy, rồi lấy nước gột sạch mọi thứ đi.”

Cô chị bảo cô em trang phục họ đang mặc không thích hợp với việc này cho lắm.

“Ôi, trang phục thế là ổn rồi,” hắn vô t.ư nói, “xắn lên là được mà.”

Và rồi hắn khiến họ làm việc đó thật. Hắn bảo mấy trò kiểu này là phân nửa sự vui thú của một cuộc picnic rồi. Các cô bèn thẽ thọt bảo việc ấy cũng thú vị ghê.
Bây giờ khi nghĩ lại, tôi hơi phân vân không hiểu thằng cha ấy có đần như bọn tôi nghĩ thật không? :haha:Hay là hắn – không, không thể nào! Hắn có cái vẻ ngây thơ vô tội thế cơ mà! :nhamnho:
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00


1. Rồi sau đó hai chàng trai trẻ kia đứng dậy và hỏi xem chúng tôi đã bao giờ nghe Ngài Slosseen Boschen (ông này vừa mới đến và đang ở phòng ăn) hát khúc nhạc vui tiếng Đức tuyệt vời của ông ta chưa.

Không ai trong chúng tôi từng nghe bài này, đó là những gì chúng tôi có thể nhớ.

Hai chàng trai trẻ bảo đó là bài hát buồn cười nhất từng được sáng tác, và nếu chúng tôi thích thì họ sẽ đi mời cái Ngài Slosseen Boschen mà họ rất thân ấy hát. Họ nói bài hát ấy buồn cười đến độ có một lần Ngài Slosseen Boschen hát trước Hoàng đế nước Đức, ngài (hoàng đế vĩ đại của nước Đức) đã phải để người ta khiêng về giường.

Họ nói không ai hát được bài ấy giống như Ngài Slosseen Boschen; ông ấy cố làm ra vẻ nghiêm trang trong suốt cả bài hát, đến nỗi người ta ngỡ rằng ông đang ngâm nga một điệu ca buồn vậy, và điều đó dĩ nhiên là làm cho nó buồn cười hơn nhiều. Họ bảo chẳng bao giờ người ta nghĩ ông ta đang hát cái gì vui vui khi nhìn vẻ mặt và nghe giọng ông hết – như thế sẽ làm hỏng bét cả bài hát. Chính cái vẻ nghiêm trang, gần như bi ai của ông đã khiến cho nó buồn cười không thể cưỡng lại nổi.
(Để rồi xem nó buồn da diết như nào ..? - opz -:nhamnho:)

Chúng tôi nói mình tha thiết muốn được nghe bài ấy, vì chúng tôi muốn cười một mẻ cho ra trò; thế là họ xuống nhà, dẫn Ngài Slosseen Boschen lên.

Ông này có vẻ rất sẵn lòng hát cho mọi người nghe, vì ông xuất hiện ngay và ngồi luôn xuống chỗ cây đàn piano mà chẳng nói năng gì.

“Ôi, bài hát sẽ làm các vị thích thú. Các vị sẽ cười lăn ra cho mà xem,” hai cậu sinh viên thì thầm khi đi ngang căn phòng và chọn lấy một vị trí kín đáo phía sau ngài Giáo sư.

Ngài Slosseen Boschen tự đệm đàn cho mình. Khúc dạo đầu chính xác là không làm nảy lên trong trí người nghe một bài hát vui. Nó đem lại cảm giác u buồn kỳ lạ. Nó khiến người ta rùng mình; nhưng chúng tôi thì thầm với nhau rằng phong cách Đức nó thế, và chuẩn bị thưởng thức nó.

Tôi thì chẳng hiểu tiếng Đức. Tôi có học ở trường nhưng đã quên sạch sau khi tốt nghiệp được hai năm, và từ đó cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Tuy nhiên tôi không muốn những người ở đấy nhận ra sự kém hiểu biết của mình; vì thế tôi nảy ra một ý, mà theo tôi, đó là một sáng kiến thông minh vô cùng. Tôi không rời mắt khỏi hai cậu sinh viên nọ và bắt chước theo họ. Khi nào họ cười khúc khích, tôi cười khúc khích, khi họ cười phá lên, tôi cũng cười phá lên; và thỉnh thoảng tự tôi cũng gia giảm thêm ít cười nụ và cười mỉm cho phong phú nữa, như kiểu tôi đã tìm ra được vài điểm dí dỏm riêng mà những người khác không phát hiện ra vậy. Tôi đã nghĩ đây là mánh đặc biệt mà chỉ riêng mình mới có.

Khi bài hát được trình bày, tôi nhận thấy khá nhiều người khác có vẻ cũng dán chặt mắt lên hai thanh niên kia y như tôi. Những người này cũng cười khúc khích khi hai cậu kia cười rúc rích, cười phá lên khi hai cậu cười phá lên; và khi hai cậu cười khúc khích rồi cười phá lên và sau đấy cười lăn cười lộn liên tục suốt cả bài hát thì đám đông cũng hoạt động liên tục như vậy.


(Dừng!!! Đoạn này na ná như câu:

- Bài diễn văn được nhiều người biết tiếng Latinh nhiệt liệt vỗ tay vì họ cũng đồng ý với diễn giả và cả những người không biết tiếng cũng vỗ tay, vì họ muốn tỏ ra là mình cũng biết.. :nhamnho:


Ấy thế mà vị giáo sư người Đức kia không có vẻ gì là vui vẻ. Lúc đầu khi chúng tôi bắt đầu cười phá lên, mặt ông có vẻ kinh ngạc cực độ, cứ như thể tiếng cười là điều cuối cùng trên đời ông trông đợi rằng sẽ được mang ra để chào đón mình. Chúng tôi nghĩ việc này thật quá chừng dí dỏm: chúng tôi nói rằng chỉ riêng vẻ nghiêm trang của ông cũng góp nửa phần vào sự buồn cười rồi. Nếu ông này có chút xíu xiu manh mối nào để biết được bản thân mình ngộ nghĩnh ra sao thì sẽ hỏng hết cả. Khi chúng tôi tiếp tục bò ra cười, sự ngạc nhiên của ông nhường chỗ cho vẻ phẫn nộ và bực mình ghê gớm, và ông bèn mắng mỏ thậm tệ tất cả lũ chúng tôi (chỉ trừ có hai cậu sinh viên ngồi sau lưng ông nên ông không nhìn thấy). Chuyện này lại khiến chúng tôi cười đến thắt cả ruột. Chúng tôi bảo nhau rằng cứ thế này thì chết hết mất thôi. Chỉ riêng lời lẽ của ông ta, chúng tôi bảo nhau thế, đã đủ khiến chúng tôi chết ngất mất rồi, nhưng thêm cái vẻ nghiêm trang giả vờ của ông ta nữa thì – ôi thôi, quả tình là quá sức chịu đựng!

Đến đoạn cuối bài hát, ông ta không còn là mình nữa. Ông ta quắc mắt nhìn khắp lượt chúng tôi với một vẻ hung tợn dữ dội đến độ nếu không được cảnh báo về cách hát các bài hát vui nhộn kiểu Đức thì chúng tôi hẳn đã bị căng thẳng lắm rồi; và ông ta còn tung vào đoạn nhạc bất thường ấy một nốt nhạc ai oán đau đớn không gì tả xiết đến độ nếu không biết trước rằng đó là một bài hát vui, chúng tôi hẳn đã trào nước mắt.

Ông ta kết thúc màn biểu diễn giữa một tràng cười ré hoàn hảo. Chúng tôi nói đó là thứ hài hước vui nhộn nhất mà chúng tôi từng được nghe từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ. Chúng tôi nói thật kỳ lạ xiết bao vì mặc dầu đã có những thứ như thế này rồi mà bàn dân thiên hạ vẫn cho rằng người Đức chẳng có chút xíu khiếu hài hước nào. Và chúng tôi hỏi giáo sư sao không dịch bài hát sang tiếng Anh để người bình thường cũng có thể hiểu được nó và nghe xem thế nào là một bài hát vui nhộn đích thực.

Thế rồi Ngài Slossenn Boschen đứng dậy và trở nên vô cùng đáng sợ. Ông ta chửi rủa chúng tôi bằng tiếng Đức (thứ ngôn ngữ tôi xét thấy cực kỳ hiệu quả cho những mục đích như thế), và ông ta nhảy nhót, vung vẩy nắm đấm và gọi chúng tôi bằng tất cả những từ tiếng Anh mà ông ta biết. Ông ta nói cả đời chưa bao giờ bị sỉ nhục đến như thế.

Hóa ra nó chẳng phải bài hát vui nhộn gì hết. Bài hát kể về một thiếu nữ sống ở núi Hartz đã hy sinh mạng sống để cứu linh hồn người yêu; và cậu này cũng chết, gặp lại linh hồn cô trên không trung, và rồi ở đoạn cuối cùng của bài hát, cậu ta phụ tình cô và bỏ đi với một linh hồn khác – tôi không nhớ rõ chi tiết, nhưng tôi biết đó là một câu chuyện buồn. Ngài giáo sư nói ông từng hát bài này cho Hoàng đế nước Đức nghe và ngài (hoàng đế Đức) đã khóc nức khóc nở như một đứa trẻ. Ông (Ngài Boschen) nói rằng nhìn chung bài hát này được coi như một trong những bài hát cảm động và bi ai nhất trong ngôn ngữ Đức.

Đúng là một tình huống gay go đối với chúng tôi – hết sức gay go. Có vẻ như không có lời giải nào. Chúng tôi nhìn quanh để tìm hai thanh niên đã gây ra việc này nhưng chúng đã lặng lẽ chuồn ra khỏi đấy ngay sau khi bài hát kết thúc. :nhamnho:

Bữa tiệc kết thúc ở đấy. Tôi chưa bao giờ thấy một bữa tiệc nào tàn lặng lẽ đến thế và với ít ồn ào đến thế. Chúng tôi thậm chí còn không chào tạm biệt nhau. Chúng tôi lần lượt xuống gác, bước rón rén và len lén nép mình vào một góc. Chúng tôi thì thầm hỏi gia nhân để lấy mũ và áo khoác, tự mở cửa, chuồn ra ngoài và rẽ ngoặt thật nhanh, tránh đụng mặt nhau được chừng nào hay chừng ấy.



2. CHÚNG TÔI BẮT GEORGE LAO ĐỘNG: bây giờ thì chúng tôi đã có hắn rồi. Dĩ nhiên hắn không muốn lao động; chẳng cần phải nói cũng biết. :nhamnho: Hắn đã lao động cật lực trong thành phố rồi, hắn giải thích thế. Harris, vốn bản tính nhẫn tâm và không dễ động lòng trắc ẩn, bảo thế này:

“Ái chà! Thế thì bây giờ cậu sẽ lao động cật lực trên sông cho có sự thay đổi; thay đổi tốt cho tất cả mọi người. Ra đi nào!”

Theo lương tâm – dù là lương tâm của George – thì hắn không thể nào phản đối được, cho dù hắn đã gợi ý rằng có lẽ sẽ hay hơn nếu hắn ở lại trên thuyền pha trà trong khi Harris và tôi kéo thuyền, vì pha trà là một công việc hết sức hao tổn thần kinh, mà Harris và tôi thì có vẻ đã mệt rồi. :haha: Tuy nhiên, câu trả lời duy nhất mà chúng tôi dành cho gợi ý này là đưa cho hắn sợi dây thừng kéo thuyền, và hắn cầm lấy rồi đi ra ngoài..
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

1. Và rồi chúng tôi nói đến hạn hán và việc này khiến George sực nhớ lại một câu chuyện rất buồn cười từng xảy ra với bố hắn. Hắn bảo bố hắn từng du ngoạn khắp xứ Wales với một người bạn và một đêm nọ, họ dừng chân tại một quán trọ nhỏ, ở đấy đã có mấy người khác, vậy là họ gia nhập vào đám đó và ở bên họ suốt cả tối.

Họ đã có một tối say sưa, thức rất khuya và đến khi về giường đi ngủ, họ (chuyện này xảy ra khi bố của George còn rất trẻ) cũng đã khá xỉn rồi. Họ (bố George và bạn của bố George) ngủ chung phòng, nhưng khác giường. Họ lấy nến và đi lên gác. Trong lúc họ bước vào phòng, cây nến nghiêng ngả va vào tường và tắt ngóm, vậy nên họ phải cởi quần áo và mò mẫm chui vào giường trong bóng tối. Họ đã làm thế, nhưng thay vì trèo lên hai cái giường khác nhau như họ tưởng, cả hai lại trèo lên cùng một giường mà không hề hay biết – một người nằm xuôi, còn người kia bò lên giường từ đầu ngược lại nên nằm gác chân lên gối.

Im lặng một lúc, rồi bố George bảo:

“Joe này!”

“Gì đấy, Tom?” giọng của Joe đáp lại từ đầu kia giường.
“Này, có một thằng cha ở trên giường tớ,” bố George bảo, “chân nó trên gối tớ đây này.” :nhamnho:

“Ái chà, kỳ lạ thật đấy, Tom,” ông bạn trả lời, “nhưng nếu không phải cũng có một thằng ở trên giường tớ thì cứ là trời đánh thánh vật tớ đi!” :haha:

“Cậu định làm gì?” bố George hỏi.
“Ái chà, tớ sẽ tống cổ nó đi,” Joe trả lời. :thedo:
“Tớ cũng thế,” bố George trả lời một cách quả quyết. :077:

Có một cuộc vật lộn ngắn ngủi, tiếp theo là hai tiếng rơi phịch trên sàn và rồi một giọng nói khá sầu thảm vang lên:

“Tớ bảo này, Tom!”

“Ừ!”

“Cậu thế nào?”
“À, nói thật là cái thằng này nó đẩy tớ bật ra khỏi giường rồi.” :060:
“Thằng của tớ cũng thế! Tớ không đánh giá cao cái quán trọ này, cậu thì sao?” :haha:


...........

2. Và sau đó chúng tôi nghĩ mình ăn tối thôi (chúng tôi đã bỏ qua bữa trà để tiết kiệm thời gian), nhưng George bảo chưa đâu; rằng tốt hơn là đầu tiên chúng tôi nên căng bạt lên trước khi trời tối, trong lúc chúng tôi còn nhìn thấy được mình đang làm gì. Thế rồi hắn nói rằng khi mọi việc xong xuôi, chúng tôi có thể ngồi ăn với tâm hồn thanh thản.
(Hợp lý - opz :056:)

Cái tấm bạt ấy cần nhiều công sức hơn so với mức tôi cho là bất kỳ ai trong ba chúng tôi dự tính. Về mặt lý thuyết, nó có vẻ vô cùng đơn giản. Ta cầm năm cái khung sắt to như những cái vòng bóng vồ khổng lồ và lắp chúng lên khắp thuyền, rồi căng lớp vải bạt lên trên chúng và buộc chặt lại: chắc chỉ mười phút là xong, chúng tôi nghĩ thế.
Như thế là đánh giá thấp nó quá. :nhamnho:

Chúng tôi giương đống khung lên và bắt đầu thả chúng xuống mấy cái lỗ dành cho chúng. Bạn sẽ không tưởng tượng được rằng đó là một công việc nguy hiểm; nhưng giờ nhìn lại, tôi thấy đúng là kỳ diệu khi bọn tôi còn sống mà kể lại chuyện này. :haha: Chúng không phải mấy cái khung, có mà là lũ yêu quái ấy chứ. :nhamnho:Đầu tiên chúng chẳng vừa với mấy cái lỗ chút nào và chúng tôi phải nhảy lên chúng, lấy chân đá, đập bằng móc thuyền, và khi lọt vào được rồi thì hóa ra chúng lại nhầm lỗ, và thế là lại phải nhổ hết lên.

Nhưng chúng không chịu bật lên cho đến khi hai người trong bọn tôi phải vật lộn với chúng mất năm phút thì bỗng dưng chúng bật lên ném chúng tôi xuống nước và nhận chìm chúng tôi. Chúng có khớp nối ở giữa và nhằm khi bọn tôi không để ý, chúng bèn kẹp các khớp nối này vào những khu vực nhạy cảm trên cơ thể chúng tôi; :002: và trong khi chúng tôi đánh vật với một bên lỗ và cố gắng thuyết phục nó làm tròn nhiệm vụ thì phía bên kia sẽ luồn ra sau lưng chúng tôi một cách hèn hạ và đập vào đầu chúng tôi.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng xử lý xong xuôi và tất cả đã sẵn sàng để phủ bạt lên. George dỡ bạt ra và buộc chặt một đầu vào mũi thuyền. Harris đứng ở giữa để chụp lấy nó từ tay George và tung nó cho tôi, còn tôi đứng ở đuôi thuyền để tóm lấy nó. Mất bao nhiêu thời gian nó mới đến tay tôi. George hoàn thành phần việc của hắn ổn thỏa, nhưng với Harris thì đây là một việc mới mẻ, và hắn làm chả ra gì.

Tôi không biết hắn đã làm thế nào, hắn cũng không sao tự lý giải được; nhưng nhờ một cách thức thần bí nào đó mà sau mười phút nỗ lực siêu nhiên, hắn cũng thành công trong việc gói gọn người vào mớ bạt ấy. :nhamnho:Hắn được gói tròn, được nhét vào trong và bọc chặt đến độ không chui ra nổi. :haha: Dĩ nhiên hắn đã vùng vẫy điên cuồng để giành lấy tự do – thứ quyền bẩm sinh của mỗi người dân nước Anh :vai: – và trong khi làm thế (chuyện này về sau tôi mới biết) hắn đổ nhào lên người George; và rồi George, miệng không ngừng chửi rủa Harris, cũng bắt đầu vùng vẫy và khiến chính mình cũng vướng vào đó rồi bị cuộn tròn lại. :060:

Lúc ấy tôi chẳng biết gì về chuyện này hết. Chính tôi cũng không hiểu việc đó ra sao. Bọn hắn bảo tôi cứ đứng yên tại chỗ mà chờ cho đến khi tấm bạt đến chỗ mình, vậy là con Montmorency và tôi cứ ngoan ngoãn đứng đó chờ. :nhamnho: Chúng tôi có thể thấy khá rõ tấm vải bạt bị giằng giật co kéo từ bên này sang bên kia; nhưng chúng tôi cho đó là một phần cách thức thực hiện công việc nên không can thiệp.

Chúng tôi cũng nghe thấy những tiếng nghèn nghẹt phát ra từ dưới lớp bạt và đoán rằng bọn hắn thấy công việc khá rắc rối, vậy là chúng tôi kết luận rằng cả hai sẽ chờ cho đến khi mọi thứ trở nên đơn giản hơn chút nữa rồi mới tham gia.
:nhamnho:
Chúng tôi chờ một lúc, nhưng vấn đề có vẻ chỉ càng lúc càng thêm phức tạp cho đến khi cuối cùng thì cái đầu của George cũng vặn vẹo thò ra ở một bên thuyền và cất tiếng.

Nó nói:

“Không đỡ bọn này một tay được hả, thằng đần kia; cứ đứng đấy như cái xác ướp cứng đờ trong lúc thấy rõ bọn này đều đang chết ngạt đây thế hả, thằng ngu kia!” :036:

Tôi không bao giờ từ chối một lời kêu gọi giúp đỡ, vì thế tôi đến gỡ bọn hắn ra; kịp thời và đúng lúc vì mặt Harris đã gần như tím ngắt.


(Đoạn dưới có vẻ là 1 triết lý quen thuộc; giống như đánh lừa não bộ vậy. Trong khi mong chờ 1 việc gì đó, để đỡ cảm thấy thời gian quá chậm, ta thường hướng suy nghĩ của mình về 1 vấn đề khác. 1 cái gần gần như thế đc gọi là giết thời gian: đọc báo; lướt face khi đợi xe, xếp hàng, etc ..

Sau đấy chúng tôi phải mất nửa tiếng đồng hồ lao động vất vả mới căng được tấm vải bạt lên cho tử tế, rồi chúng tôi dọn dẹp khoang thuyền và ăn tối. Chúng tôi bắc ấm nước lên đun ở đầu mũi thuyền rồi đi về phía đuôi thuyền, giả vờ không thèm để ý gì đến nó mà làm những việc khác.

Đó là cách duy nhất để làm cho một cái ấm nước sôi trên sông. Nếu thấy người ta đang chờ nó và đang bồn chồn lo lắng, nó sẽ chẳng bao giờ thèm réo lên. Ta phải đi ra chỗ khác và bắt đầu bữa ăn, làm như thể ta sẽ không uống tí trà nào. Thậm chí ta không được quay lại nhìn nó. Thế rồi chẳng mấy chốc ta sẽ nghe thấy tiếng nó sôi ùng ục, thèm được pha thành trà ghê gớm ..

Trong trường hợp ta đang vội muốn chết đi được, sẽ là một kế hoạch hay nếu ta nói to với nhau rằng ta chẳng cần trà và sẽ không uống tí nào hết. Ta đứng gần cái ấm để nó có thể nghe lỏm lời ta nói, và rồi ta gào lên: “Tớ chẳng muốn trà triếc gì hết; cậu có muốn không, George?” và George sẽ hét đáp lại, “Ồ không, tớ không thích trà; chúng ta có món nước chanh mà, nước trà khó tiêu kinh lên được.” Như thế thì cái ấm sẽ sôi ngay và làm tắt bếp.
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

1. ĂN:

Đi được nửa đường thì chúng tôi bèn dừng lại ăn trưa; và chính trong bữa trưa này George và tôi đã nhận được một cú sốc khá nặng.

Harris cũng bị sốc, nhưng tôi không nghĩ cú sốc của hắn có thể tệ hại bằng cú sốc của George và tôi trước sự cố ấy.

Bạn biết đấy, chuyện là thế này, chúng tôi đang ngồi trên bãi cỏ cách bờ nước khoảng chục mét và chúng tôi vừa mới ổn định chỗ ngồi để ăn thôi. Harris kẹp cái bánh nhân thịt bò vào giữa hai đầu gối mà cắt, George và tôi thì đang chầu chực với đĩa bát sẵn sàng. :057:

“Mấy cậu có thìa ở đó không?” Harris hỏi; “tớ cần một cái thìa để hứng nước thịt.”

Cái hòm ở ngay sau lưng chúng tôi và cả George lẫn tôi bèn quay lưng lại để lấy thìa. Chỉ mất chưa đầy năm giây cho việc ấy. Khi chúng tôi quay lại, Harris và cái bánh đã mất tăm! :haha:

Đó là một cánh đồng rộng trống trải. Hàng trăm mét quanh đó không có một cái cây hay mảnh bờ rào nào. Hắn ta không thể ngã lộn xuống dòng sông được, vì chúng tôi ngồi gần bờ nước hơn, và hắn phải trèo qua chúng tôi thì mới lộn xuống sông được. :056:

George và tôi giương mắt nhìn xung quanh. Rồi chúng tôi giương mắt nhìn nhau.
“Hay là cậu ta đã bị chộp lên thiên đường rồi?” tôi ngờ vực. :haha:
“Họ không thể mang cả cái bánh đi cùng được,” George nói. :nhamnho:
Lời phản đối này có vẻ có sức nặng và chúng tôi loại bỏ giả thiết về thiên đường. :082:

“Tớ cho thực chất của vấn đề,” George nêu ý kiến, dần dần trở lại với những giả thiết thông thường và thực tế hơn, “là có một vụ động đất.”

Và rồi hắn nói thêm, với một thoáng buồn trong giọng: “Ước gì cậu ấy không phải đang cắt cái bánh ấy.”

Với tiếng thở dài, chúng tôi một lần nữa đưa mắt về nơi lần cuối cùng nhìn thấy Harris và cái bánh trên trái đất này. Và, máu đông lại trong huyết quản còn tóc dựng đứng trên đầu, chúng tôi nhìn thấy ở đó cái đầu của Harris – chỉ mỗi cái đầu, không có gì khác – đang dựng thẳng trên lớp cỏ cao, mặt đỏ tưng bừng và có một vẻ căm phẫn khôn tả!

George là người đầu tiên tĩnh trí lại.

“Nói đi!” hắn gào lên, “nói cho chúng tớ biết cậu còn sống hay đã chết – và phần còn lại của cậu đâu rồi?:060:
“Ôi, đừng có ngu thế chứ!” cái đầu của Harris bảo. “Tớ tin chắc các cậu cố tình làm thế.”

“Làm gì?” George và tôi thốt lên.

“Sao kia, tống tớ vào chỗ này chứ còn gì nữa – cái trò xỏ lá chết toi chết giập! Này, chộp lấy cái bánh này.”

Và rồi trước mắt chúng tôi, cái bánh dường như chui lên từ giữa lòng đất – nhoe nhoét và méo mó, rồi sau đó Harris lồm cồm bò lên – tơi tả, lôi thôi lếch thếch và ướt sũng.

Hắn đã không nhận ra mình đang ngồi bên rìa một cái rãnh nhỏ, lớp cỏ cao che khuất tầm nhìn; và khi hơi ngửa người ra sau, hắn đã ngã lộn cổ cùng với cái bánh. :015:

Hắn nói cả đời hắn chưa bao giờ cảm thấy ngạc nhiên đến như cái lúc hắn chợt nhận thấy mình đang rơi mà không mảy may đoán được chuyện gì đang xảy ra. Lúc đầu hắn cứ tưởng ngày tận thế đã đến cơ đấy. :nhamnho:

Đến tận bây giờ Harris vẫn tin rằng George và tôi đã mưu tính hết từ trước. Ngay cả những con người vô tội nhất cũng bị những nghi ngờ bất công bám theo như thế đấy. Đúng như một nhà thơ đã viết: “Ai có thể thoát được sự vu khống?”
Quả đúng thế, ai kia chứ! :082:



2. UỐNG:
Khi đến cửa sông Hambledon chúng tôi phát hiện ra mình thiếu nước uống; vì vậy chúng tôi mang theo bình đến nhà người gác cửa sông để xin một ít.

George là người phát ngôn của chúng tôi. Hắn nở nụ cười quyến rũ và nói:

“Ôi, xin hãy cho chúng tôi một ít nước được không?”
“Dĩ nhiên rồi,” ông già lịch thiệp trả lời; “cứ lấy bao nhiêu tùy thích, còn thì để lại đó.” :056:

“Xin cảm ơn ông,” George lẩm bẩm, nhìn quanh. “Ở chỗ nào vậy… ông để nước ở chỗ nào vậy?”
“Cậu bé ơi, lúc nào nó chẳng ở đấy,” là câu trả lời chắc nịch: “ngay sau lưng cậu đấy.” :nhamnho:

“Tôi có nhìn thấy đâu,” George nói, quay lại.

“Ôi, cầu Chúa phù hộ, mắt cậu để đâu vậy?” ông già bình phẩm trong lúc xoay George lại và chỉ tay vào dòng sông. “Nhiều thế kia mà cậu không thấy sao?” :haha:

“Ôi!” George thốt lên, hiểu ra vấn đề; “nhưng chúng ta không uống con sông được, ông biết mà!”
“Không, nhưng cậu có thể uống một phần của nó mà,” :nhamnho: ông già đáp lại. “Đấy là thứ tôi đã uống mười lăm năm qua đấy.”

Sau đó George bảo ông lão rằng vẻ bề ngoài của ông có vẻ không đủ chất lượng để quảng cáo cho nhãn hiệu nước sông ấy, và rằng hắn thích nước được bơm lên hơn. :haha:

Chúng tôi xin được ít nước từ một ngôi nhà tranh ở xa hơn một chút. Tôi dám nói nếu chúng tôi tìm ngọn nguồn thì đó vẫn chỉ là nước sông thôi. Nhưng khuất mắt trông coi, vì thế cũng không vấn đề gì. :056:

Sau này, cũng cùng năm ấy, chúng tôi có thử uống nước sông một lần, nhưng không thành công cho lắm. Chúng tôi đang đi xuôi dòng và chèo vào uống trà ở một vụng nước nhỏ gần Windsor. Bình nước cạn sạch, và đó là một trường hợp hoặc đi mà không được uống trà hoặc phải lấy nước sông lên mà dùng. Harris đành liều. Hắn nói chắc cũng ổn cả thôi nếu chúng tôi đun sôi nước, những vi khuẩn độc hại trong nước sẽ chết hết khi bị đun. Vậy là chúng tôi đổ đầy ấm bằng nước trong cái vụng nhỏ của sông Thames và đun lên, chăm chú chứng kiến nó đã sôi thật.

Chúng tôi pha trà và vừa mới ngồi xuống một cách thật thư giãn để uống thì bỗng George, với tách trà sắp chạm vào môi, ngừng lại và thốt lên:

“Cái gì thế kia?”

“Cái gì là cái gì?” Harris và tôi hỏi.

“Cái kia chứ còn gì nữa!” George nói, nhìn về hướng Tây.

Harris và tôi dõi theo ánh mắt trân trối của hắn và nhìn thấy, đang tiến về phía chúng tôi trong dòng chảy lờ đờ, là một con cẩu. Đó là một trong những con cẩu lặng lẽ nhất và thanh thản nhất tôi từng gặp. Tôi chưa bao giờ thấy một con cẩu nào lại có vẻ hài lòng hơn, ung dung hơn thế. Nó đang bơi ngửa đầy mơ màng với bốn cái cẳng chổng thẳng lên trời. Đó là cái mà tôi gọi là một con chó ngon lành với bộ ngực nở nang. Nó cứ thế tiến về phía trước, thanh thản, đường hoàng và bình tĩnh, cho đến khi nó đến sát bên thuyền chúng tôi và ở đó, giữa đám lau lách, nó dừng lại và ngồi một cách thoải mái để nghỉ đêm.

George nói hắn không muốn tí trà nào nữa và dốc cạn tách trà của hắn xuống sông, Harris cũng không thấy khát và làm y hệt. Tôi thì đã uống được nửa tách rồi, nhưng tôi ước gì mình chưa làm vậy. :haha:

Tôi hỏi George hắn nghĩ liệu tôi có nguy cơ bị bệnh tả không.

Hắn nói: “Ồ không đâu,” hắn nghĩ quả thật rất nhiều khả năng tôi thoát được bệnh đó. Dù sao thì rồi nửa tháng nữa tôi sẽ biết mình có mắc hay không thôi .. :056:
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

1. Marill nhìn những cuộn len màu dưới đất, nói với Kern:

- Sanh đẻ, chào đời là như thế. Máu và những tiếng khóc, cậu hiểu không...

- Hiểu.

- Không. Cả cậu và tôi đều không hiểu. Một người đàn bà, rất giản dị. Cậu có thấy mình hơi ngốc một chút không...

- Không.

Marill lau tròng kiếng và nhìn Kern:

- Không... Nhưng tôi… À, cậu đã ăn nằm với một phụ nữ nào chưa... Chưa à... Như vậy là cậu cũng ngốc một chút... :haha:


2. - Hai tháng. Cũng chưa lâu. Nhưng vô tận.

Kern ngạc nhiên nhìn lên:

- Cô có lý. Hai năm kể như chẳng lâu bao nhiêu. Nhưng hai tháng thì vô tận. Có điều lợi là khi thời gian càng kéo dài thêm ra thì người ta có cảm tưởng như tháng ngắn lại.

3. - Có người báo với tôi, một điếu thuốc đúng lúc cũng ngang bằng với tất cả t.ư tưởng trên trái đất. :hutthuoc:

- Chắc là đúng đó – Cô gái cười và thình lình Kern thấy nàng quá đẹp.



4. Steiner đốt thuốc. Hắn hút từng hơi dài. Đốm lửa đầu thuốc rực sáng mỗi lần hắn hít khói vào.
- Hút không... Hút thuốc trong bóng tối cũng thú vị lắm. :hutthuoc:

5. - Đúng vậy. Càng xấu xa, người ta càng tưởng mình tốt, cậu sẽ thấy rõ trong những lời rao tâm tình. Muốn làm được như vậy phải có một sự tin tưởng mù quáng. Thái độ nghi ngờ và lòng vị tha chỉ trong những người thật sự văn minh. Và cũng chỉ vì hai thứ đó mà con người văn minh chịu thiệt thòi.


6. - Phần tôi thì chỉ biết là cần phải đi, không biết tới đâu...

Lão già nhai một cọng cỏ:

- Đó là những việc cần xẩy ra. Dầu sao thì cũng có những vùng đất mới mà mình có thể đến. Chỉ cần biết chờ đợi.

- Chờ đợi là việc bắt buộc làm. Nhưng trên thực tế, mình chờ đợi cái gì...?

- Kể ra thì cũng không thể biết là gì. Có khi việc đang chờ hiện tới rồi mình thất vọng. Vậy là lại chờ đợi nữa.

Kern lại nằm dài ra.

- Có thể là như vậy.


7. - Ở Prague ra sao...

- Tàm tạm. Tôi có quen một người.

- Có phải vì vậy mà tới Vienne không...

- Không hẳn chỉ có thế. Nhưng nàng cũng đang ở Vienne.

Steiner cười trong tối:

- Đừng quên mình là dân du mục, bé con. Dân du mục rất quen với những cuộc phiêu lưu, nhưng lúc cần phải lên đường, họ không bao giờ được quyền bỏ sót lại một mảnh của trái tim.

Kern lặng thinh. Steiner nói tiếp:

- Điều đó không có nghĩa là đừng phiêu lưu. Và cũng không có nghĩa là sống không cần có trái tim. Trên đường xa xứ, cái gì có hơi ấm đều đáng kể. Nhưng cũng cần nhớ, chúng ta có thể nhận rất nhiều nhưng cho lại chẳng bao nhiêu…

- Phần tôi thì chắc chẳng có gì để cho.

Tự nhiên Kern cảm thấy chán nản lạ lùng. Mình có gì để cho lại nàng ... Chỉ có tình yêu… và chỉ có thế thôi. Ít quá vậy sao...

Như đoán được ý nghĩ của Kern, Steiner cười:

- Đừng lo quá, bé con. Khi yêu, tất cả đều tốt đẹp. Cứ nhảy đại xuống sông nhưng đừng để chết chìm..


8. Ông giáo hỏi không thành tiếng:

- Không sao hả...

Kern lại gật đầu. Ông giáo nói như hơi gió:

- Mình tiếp tục với động từ “Đi”. Đây là một động từ bất quy tắc. Nào, je vais, tu vas…

- Khoan, mình lựa một động từ khác. Tiếng Pháp gọi lieben là gì...

- Lieben... Là Yêu thương. Nhưng đây là động từ có quy tắc

(Yêu thì có quy tắc và "đi" thì ko có quy tắc. Vậy nên "đi" là 1 thứ ko theo quy tắc nào cả, trở nên vô định hơn, ám ảnh hơn - opz)


9. Buổi chiều, Kern bán thêm được hai cục xà bông, một cái lược và hai hộp kẹp tóc. Tất cả được ba quan. Sau cùng, anh tạt vào một nhà buôn vải.

Bà Grunberg, chủ tiệm vải, tóc rối bù, nhìn anh qua cái kính một tròng:

- Chắc không phải là nghề của cậu...

Kern hơi ngượng:

- Dạ. Tôi không được khéo lắm.

- Tôi biết lắm. Tôi không phải là người hay bép xép. Bán cho tôi một cục xà bông đi. Ba quan đủ không...

- Dạ, dư quá nhiều.

- Không có gì gọi là dư, cũng không có gì cho là đủ. Can đảm lên.

Kern nhận tiền:

- Nếu có can đảm không thôi cũng khó sống. Điều đáng khích lệ là thỉnh thoảng gặp được một dịp may.

- Vậy ngay bây giờ cậu sắp xếp giúp tôi hàng hoá lại, mỗi giờ một quan. Như thế đã phải là một dịp may chưa...

- Dạ, đúng là một dịp may. Nhưng không nên đánh giá quá thấp sự may mắn. Tham vọng càng nhỏ thì cơ hội gặp may càng nhiều.

- Chắc cậu đã học được điều đó trong khi đi đường...

- Thưa, không phải trong lúc đi đường mà là trong lúc nghỉ ngơi. Mỗi ngày chúng tôi học thêm được một điều mới lạ ..


10. Vừa thấy Kern, Ruth đứng lên:

- Anh vừa về đúng lúc, em đang sợ…

- Sợ gì... Thường thường hễ khi mình quá lo thì lại chẳng có gì xẩy ra. Chỉ khi nào mình không cảm thấy gì cả thì tai nạn tới.

Người ngồi cùng bàn với Ruth cười:
- Đó là ngụy biện chớ không phải là triết lý. :nhamnho:


11. Binder nhún vai:

- Cũng chẳng đẹp đẽ gì. Đồng tiền cướp mất của con người nhiều tánh tốt.

- Nhưng không có tiền thì lại cũng vậy..

- Rất đúng nhưng rất ít ..
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

1. Ông bạn cho tôi cuộc sống bằng giấy tờ, tôi hiến ông bạn cái chết của một kẻ không căn cước. Khi mà những người sống không còn muốn giúp đỡ nhau thì người chết đành phải làm công việc đó” ..

2. Vấn đề là có một người chết bên cạnh mà mình thì chẳng cảm thấy gì. Thương xót, dĩ nhiên là có… nhưng cơn đau, cơn đau nát thịt tan xương thì mình không làm sao ghi nhận được. Bụng mình không bị thương. Bên cạnh mình, trong tầm tay, một người bạn đang gào thét, rên la và mình thì không một chút đau đớn nào. Đó chính là sự khả ố, sự khốn cùng. Cậu nên nhớ điều đó ..

3. Kern bỗng nhớ tới những lời của Steiner: Khi có người chết bên cạnh, mình chẳng có cảm giác gì cả. Đó là điều tai hại của thế giới. Sự bi thương không phải là cơn đau đớn. Sự bi thương có thể là một thứ hài lòng che giấu. Một thứ cảm tưởng khi tự thấy mình may mắn không phải là kẻ đang đau đớn hoặc vì kẻ ấy không phải là một người thân .

4. Kern nhận thấy đầu người nhạc sĩ tựa vào đờn như gục vào vai của người yêu. Mình không thể bị chìm đắm – Kern bỗng tỉnh táo – mình không thể phó mặc cho may rủi bởi vì cuộc sống vừa dịu hiền lại cũng vừa rất dã man. Cuộc sống là gì .? Là một âm điệu nhẹ nhàng, một lời mời gọi, một tiếng thét xé rừng hoang, một tiếng gầm chấn động những chân trời xa lạ của bóng đêm quên lãng... Mình chỉ cần biết không thể chết, không muốn chịu chết ..

5. Lão già ngẩng đầu:

- Bảy mươi tuổi cũng có cái lợi. Nếu phải chết cũng chỉ là phần nhỏ của cuộc đời ..

(nhưng nếu nó ko phải là 70, mà chỉ là 24, thì nó là lợi hay hại, hả cụ ..?)

6. Tròng kính của Marill lóe sáng:

- Không nên. Con người luôn luôn có lúc để buồn. Vả lại, ở đâu cũng có chết chóc. Những việc trái ngược nhau thường lại ở bên nhau ..

7. Potzloch siết tay Steiner:

- Chúng ta đều là những kẻ giang hồ, quá quen với các cuộc chia tay. Rồi lại sẽ gặp nhau ở một góc trời nào đó.

- Đúng vậy. Chúc ông một mùa đông hạnh phúc.

Potzloch nheo mắt đăm chiêu:

- Anh biết không, tất cả đều do thói quen. Khi đã nhìn thấy quá nhiều người đi và tới, mình đâm ra quen. Thật mà, tất cả rồi cũng trở thành thói quen thôi. Ngay cả cái mà người ta gọi là sự ngây ngất.

- Và cũng như chiến tranh. Cũng như sự đau khổ và chết chóc. Tôi biết có một người lần lượt chôn bốn người vợ trong vòng mười năm. Ông ta lấy bà cợ thứ năm. Bà nầy cũng đang sắp chết. Ông biết tôi đang sắp nói gì không... Ông ta đang kiếm bà thứ sáu. Cũng là thói quen. Tất cả chỉ trừ cái chết của chính mình.
 
Last edited:

Deathstalker

Phàm Nhân
Ngọc
4,58
Tu vi
0,00
" Lâu Lan bỗng nhiên hiểu rõ chính mình khuyết thiếu cái gì, thứ mình thiếu chính là sự nhiệt tình đối với cuộc sống. Sinh hoạt và vận mệnh của mình đã được sắp đặt sẵn, mình chỉ đang chấp hành theo mệnh lệnh." Ngũ Hành Thiên
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top