Luận Truyện Tổng hợp những trích dẫn hay từ tiểu thuyết

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
“Chúng ta yêu con bởi vì con là một con hải âu. Một con hải âu xinh đẹp. Chúng ta chưa từng phủ nhận khi nghe con nói con là mèo, bởi điều đó an ủi chúng ta rằng con muốn giống chúng ta, nhưng con khác với chúng ta và chúng ta vui với sự khác biệt đó. Chúng ta đã không cứu được mẹ con, nhưng chúng ta có thể giúp con. Chúng ta đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. Chúng ta đã dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con trở thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đình của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đã học được một điều đáng tự hào: chúng ta học được cách trân trọng, quý mến và yêu thương một kẻ không giống chúng ta! Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thật sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta hiểu được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay”.
Có trích dẫn này mới thấy mình cần phải mua tựa sách này về. Cảm ơn huynh đệ tỷ muội.
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00
1. Phải nói Planchet ban ngày can đảm hơn ban đêm. :nhamnho:Tuy nhiên tính thận trọng tự nhiên chẳng rời gã một phút. Gã không quên bất kỳ sự cố nào trong cuộc du hành lần trước, và luôn coi tất cả những ai gã chạm trán ở trên đường là kẻ thù. Việc đó dẫn đến gã không rời chiếc mũ trong tay khiến cho D' Artagnan sợ do sự lễ phép thái quá của người hầu, người ta coi mình là người tầm thường, nên đã quở trách Planchet thậm tệ.

Tuy nhiên, quả thật hoặc những người qua đường cảm động vì sự nhã nhặn của Planchet :haha: hoặc lần này chẳng có ai rình rập trên đường, hai người tới Săngtily không gặp bất trắc gì và xuống ngựa ở lữ quán Saint-Martin lớn, vẫn cái lữ quán họ đã dừng chân chuyến đi trước.

Chủ quán thấy một chàng trai, theo sau có một tên hầu tay dắt hai ngựa, liền trịnh trọng tiến ra ngưỡng cửa. Mà vì đã đi được mười một dặm, nên D' Artagnan cho là nên nghỉ, dù Porthos có còn trong quán hay không còn đấy nữa. Rồi có thể sẽ là thiếu thận trọng nếu chưa chi đã hỏi xem chàng ngự lâm kia ra sao, nghĩ vậy, D' Artagnan xuống ngựa, giao ngựa cho người hầu rồi vào một phòng dành cho những ai muốn ngồi riêng, gọi một chai vang loại thượng hạng và một bữa điểm tâm càng ngon càng tốt, làm tăng thêm thiện cảm của chủ quán vốn là đã có từ lúc mới gặp lữ khách.

Vì thế, D' Artagnan được phục vụ nhanh chóng lạ kỳ.

Binh đoàn cận vệ tuyển mộ trong số đệ nhất quý tộc của vương quốc, và D' Artagnan với một người hầu theo sau, lại đi du hành với bốn người ngựa đẹp, mặc dầu bộ đồng phục giản dị vẫn không khỏi khiến người ta trọng nể. Chủ quán muốn đích thân phục vụ. Thấy thế D' Artagnan bảo mang ra hai chiếc cốc và gợi chuyện.

- Thật tình, ông chủ thân mến ạ - D' Artagnan rót đầy hai cốc và nói - tôi đã gọi loại vang hảo hạng của ông, và nếu ông lừa tôi, ông sẽ bị trừng phạt ở chỗ ông mắc tội, vì tôi ghét uống một mình, ông sẽ uống cùng tôi. Ông hãy nâng cốc và ta cùng uống. Ta uống chúc cái gì nhỉ, ở cái gì không phật lòng ai được nhỉ? À ta uống cho sự thịnh vượng của lữ quán ông.

- Quý ông làm cho tôi vinh dự quá - chủ quán nói - tôi xin thành thực cảm ơn lời chúc của ông. Quả thật hình như đây không phải lần đầu tiên tôi có vinh dự được gặp ngài.

- Ồ, tôi qua Săngtily có lẽ tới chục lần rồi ấy chứ và trong số chục lần ấy, ít ra tôi cũng dừng lại ở quán ông ba bốn lần. Ông nhớ chứ, tôi vừa ở quán này cách đây mười hai ngày gì đó. Tôi dẫn đường cho mấy người bạn tôi, mấy ông ngự lâm quân, rồi một ông cậy mình là ngự lâm quân cãi lộn với một người lạ, người này chẳng biết kiếm cớ gì gây sự với ông ấy.

- À, thôi đúng rồi! - Chủ quán nói - Tôi nhớ hết chuyện đó. - Có phải là ông Porthos quý ngài muốn nói với tôi không?

- Đúng, đấy là tên người bạn đồng hành của tôi. Lạy Chúa, ông chủ thân mến, nói cho tôi biết nào, bạn tôi có gặp chuyện không may gì không?

- Nhưng quý ngài chắc đã rõ ông ấy không thể tiếp tục lên đường.

- Quả vậy, ông ấy có hứa đuổi kịp chúng tôi, nhưng chúng tôi không gặp lại.
- Ông ấy đã cho chúng tôi cái vinh dự là ở lại đây. :009:

- Sao? Ông ấy đã cho ông vinh dự ở lại đây?
- Vâng, thưa ông, trong lữ quán này. Chúng tôi còn rất lo ngại nữa. :060:

- Về chuyện gì?
- Về các khoản chi dùng của ông ấy. :008:

- Nhưng ông ấy dùng gì thì ông ấy sẽ trả chứ.

- Ôi, thưa ông, ông đúng là bôi cao xoa vào máu tôi rồi! Chúng tôi đã ứng trước những khoản lớn, và sáng nay nữa, nhà phẫu thuật tuyên bố với chúng tôi, nếu ông Porthos không trả tiền ông ấy, chính tôi phải chịu phạt, bởi vì chính tôi cho người đi tìm ông ấy.

- Nhưng Porthos bị thương ư?

- Thưa ông, tôi không thể nói ra với ông.

- Sao, ông không thể nói với tôi? Ông chắc phải biết rõ hơn ai hết chứ.

- Vâng, nhưng trong tình trạng hiện thời của chúng tôi, chúng tôi không nói tất cả những gì mình biết được thưa ông, nhất là khi người ta đã báo trước tai của chúng tôi đảm bảo cho lưỡi của chúng tôi. :015:

- Vậy tôi có thể gặp Porthos không?

- Được chứ, thưa ông. Ông hãy theo cầu thang lên tầng một gõ cửa phòng số 1. Có điều ông phải báo trước là chính ông.

- Sao, tôi báo trước là chính tôi?

- Vâng, bởi ông có thể gặp chuyện rủi.

- Chuyện rủi nào xảy đến với tôi?

- Ông Porthos có thể tưởng lầm ông là người nhà này, và trong lúc tức giận, có thể đâm cho ông một mũi gươm xuyên qua người hoặc bắn vỡ sọ ông.

- Thế ông đã làm gì ông ấy?
- Chúng tôi chỉ đòi tiền ông ấy thôi. :015:

- Ôi đồ quỷ! Tôi hiểu chuyện rồi. Đòi tiền trong khi không còn nữa thì Porthos luôn bậy bạ rồi. :nhamnho: Nhưng tôi biết chắc là ông ấy còn nhiều tiền kia mà.

- Thì tôi cũng nghĩ như thế, thưa ông. Nhà hàng chúng tôi vốn rất quy củ, tính toán hàng tuần, được khoảng tám ngày chúng tôi đưa ông ấy hóa đơn, nhưng hình như chúng tôi đưa không đúng lúc, vừa mới nói được câu đầu về chuyện thanh toán, ông ấy đã chửi vang lên, đúng là đêm trước ông ấy đánh bạc thật. :015:

- Thế nào, đánh bạc đêm trước. Với ai?

- Ôi, Chúa ơi, ai biết được? Với một quý ông đi qua, và ông Porthos ngỏ ý chơi bạc với ông kia.

- Thế là kẻ khốn khổ nhẵn túi?

- Luôn cả con ngựa nữa thưa ông, vì khi người lạ mặt sắp ra đi, tôi thấy người hầu của ông ta đóng yên vào con ngựa của ông Porthos. Lúc đó chúng tôi cũng ra hỏi với người khách lạ, nhưng người này trả lời chúng tôi đừng dây vào chuyện không liên quan đến mình, và con ngựa đó là của ông ta. Chúng tôi cũng đã báo ngay cho ông Porthos điều gì vừa xảy ra, nhưng ông ấy bảo chúng tôi là đồ xấc láo mới đi nghi ngờ lời nói của một nhà quý tộc và rằng một khi ông ta đã nói con ngựa ấy là của ông ta, ắt nó là của ông ta. :nhamnho:

- Tôi thừa biết điều đó rồi! - D' Artagnan lẩm nhẩm. :nhamnho:
Ông chủ quán tiếp tục:

- Thế là tôi cho người đến nói với ông ấy rằng vì hình như chúng ta không thể đi đến một thỏa thuận nào về việc thanh toán, tôi hy vọng ít nhất ông cũng tỏ ra biết điều, ban cho đồng nghiệp của tôi ở lữ quán Chim Phượng hoàng cái ân huệ đón ông sang bên đó. :haha:

Nhưng ông Porthos đáp lại rằng, vì quán của tôi tốt nhất, ông muốn lưu lại đây. Câu trả lời quá tâng bốc ấy khiến tôi không dám vật nài ông đi nữa. :002: Tôi chỉ dám giới hạn xin ông trả lại căn phòng là phòng đẹp nhất lữ quán, vui lòng lên căn phòng xinh xắn ở tầng ba. Nhưng ông Porthos nói lúc nào ông cũng ngóng đợi người tình của ông là một trong những phu nhân quyền quý nhất triều đình, tôi đành phải hiểu rằng căn phòng mà ông đem lại cho tôi vinh dự là đã cư trú ở đấy chắc còn tồi tàn hơn nhiều đối với một nhân vật như thế. Tuy nhiên, dù nhận ra điều ông nói là hoàn toàn có thật tôi vẫn cứ vật nài ông, nhưng rồi chẳng thèm bàn cãi gì với tôi ông vớ luôn khẩu súng ngắn đặt lên bàn ngủ và tuyên bố chỉ cần nói ướm một câu về việc chuyển phòng dù sang phòng khác hay quán khác, ông sẽ bắn vỡ sọ kẻ nào dại dột đi xen vào chuyện chỉ liên quan đến ông, vì thế, từ lúc đó, không ai dám vào phòng ông, nếu không phải tên đầy tớ của ông.

- Vậy Mousqueton cũng ở đây?

- Vâng thưa ông, hắn đi đâu đó năm ngày rồi trở về mặt mũi cau có. Hình như trong chuyến đi hắn cũng gặp những chuyện bực bội. Khốn thay, hắn nhanh nhẹn tháo vát hơn chủ hắn cho nên cái gì cần cho chủ là hắn lục tung lên bằng được, vì nghĩ nếu hỏi có thể lại bị từ chối, hắn cứ lấy phứa mà chẳng hỏi ai.

- Thật ra - D' Artagnan trả lời - tôi luôn nhận thấy ở Mousqueton một lòng tận tụy và trí thông minh rất cao.

- Có thể đúng đấy, thưa ông, nhưng giả thử mà mỗi năm hắn đến tìm tôi bốn lần thì sau khi tiếp xúc với trí thông minh và lòng tận tâm ấy, chắc chắn tôi sẽ khuynh gia bại sản. :086:


- Không, Porthos sẽ trả ông.

- Hừm! - Chủ quán tỏ vẻ nghi ngờ.

- Porthos là người được một vị đại phu nhân yêu quý, bà ta sẽ không để ông ấy trong tình trạng lúng túng và khốn khó đang mắc với ông đâu.

- Nếu như tôi dám nói ra điều tôi tin trong chuyện này…

- Ông tin thế nào?

- Còn hơn là tin, mà là biết.

- Điều mà ông biết?

- Mà còn biết chắc chắn nữa.

- Nhưng ông biết chắc chắn điều gì?

- Tôi nói là tôi biết cái bà đại phu nhân ấy.

- Ông?

- Vâng, tôi.

- Thế làm thế nào ông biết được?

- Ồ, thưa ông, liệu tôi có thể tin được tính kín đáo của ông không?

- Ông nói đi, xin thề danh dự của người quý tộc, ông sẽ không phải hối tiếc về sự tin cậy của ông đâu.

- Đó, ông xem, sự lo lắng cũng làm được khối việc đấy chứ.

- Ông đã làm được những việc gì?

- Ồ, chẳng có gì ngoài việc một chủ nợ có quyền làm.

- Rốt cuộc là cái gì?

- Ông Porthos trao cho chúng tôi một bức thư cho bà nữ Công tước đó, và dặn chúng tôi bỏ vào hòm thư. Gã đầy tớ của ông ấy chưa về. Vì ông ấy không thể rời khỏi phòng mình, ông ấy phải nhờ chúng tôi.

- Rồi sao?

- Đáng lẽ bỏ thư vào hòm thư, việc ấy không bao giờ chắc chắn cả, nhân một tên hầu bàn của tôi có việc phải đi Paris, tôi ra lệnh cho nó mang thẳng bức thư đến tận tay bà Công tước. Như thế là làm tròn ý định của ông Porthos đã hết sức tin cậy trao cho chúng tôi bức thư, có phải không?

- Gần như thế.

- Thế ông có biết cái bà đại phu nhân ấy là thế nào không?

- Không, tôi có được nghe Porthos nhắc đến, có thế thôi.

- Ông có biết cái bà tự nhận là nữ Công tước ấy là người thế nào không?

- Tôi xin nhắc lại, tôi không quen biết bà ta.

Đó là bà biện lý già ở Satơlê, tên là bà Coquenard, bà ta ít nhất cũng năm mươi tuổi và vẫn có vẻ còn ghen tuông ghê lắm.

- Tôi thấy điều đó khá lạ lùng, một nữ Quận chúa mà lại cư trú ở phố Lũ gấu.

- Làm sao ông biết chuyện đó?

- Bởi vì bà ta nổi cơn tam bành khi nhận bức thư, và nói rằng ông Porthos là một kẻ thay lòng đổi dạ, rằng lại vì một con mụ nào nữa mà xơi nhát gươm kia.

Nhưng ông ấy bị xơi một nhát gươm thật à?

- Ôi, lạy Chúa! Tôi vừa nói gì đấy nhỉ?

- Ông nói là Porthos bị xơi một nhát gươm.

- Vâng, nhưng ông ấy cấm ngặt tôi không được nói.

- Tại sao vậy?

- Sao ư? Thưa ông, tại vì ông ấy đã huênh hoang sẽ đâm xiên qua cái người lạ mặt mà ông để mặc cho cãi nhau ấy, và rồi chính cái người lạ mặt kia, trái lại, đã cho ông Porthos lăn kềnh ra đất, bất chấp mọi thói anh hùng rơm của ông ấy. Mà vì ông Porthos là một người quá tự phụ, nên trừ đối với bà nữ Công tước mà ông tưởng làm bà ta thích thú bằng việc kể những chuyện phiêu lưu của mình, ông không muốn thú nhận với bất kỳ ai rằng ông đã xơi một nhát gươm.

- Như thế, tức là một nhát gươm khiến ông ta nằm liệt giường?

- Và một nhát gươm bậc thầy, tôi xin cam đoan với ông như vậy. Chắc linh hồn bạn ông phải đóng chốt trong thể xác ông ấy. :015:

- Ông có mặt ở đây à?

- Thưa ông, tôi đi theo họ là do hiếu kỳ, thành thử tôi được nhìn thấy trận đấu, còn các đấu sĩ lại không nhìn thấy tôi.

- Thế trận đấu diễn ra thế nào?

- Ồ! Không lâu đâu, tôi đảm bảo như thế. Họ đều giữ thế thủ, người lạ mặt làm một đòn nhử, rồi doãi chân, tất cả quá nhanh đến nỗi ông Porthos mới định đỡ thì gần một gang tay sắt đã găm vào ngực ông rồi. Ông ngã ngửa ra đằng sau. Người lạ mặt gí ngay mũi gươm vào họng ông. Ông Porthos thấy mạng mình đã trong tay địch thủ, liền xin thua. Người lạ hỏi tên ông và khi biết tên ông là Porthos chứ không phải D' Artagnan, liền đỡ ông ấy dậy dìu về lữ quán, rồi lên ngựa và biến mất.

(và lát sau...)

Phía trên cầu thang, chiếc cửa dễ nhận ra nhất ở hành lang, trên cửa kẻ chữ số 1 khổng lồ bằng sơn đen, D' Artagnan gõ một tiếng, bên trong có tiếng mời cứ vào, và chàng bước vào.

Nhìn thấy bạn, Porthos reo lên mừng rỡ và Mousqueton kính cẩn đứng lên nhường chỗ cho chàng.

- Ôi, Mẹ kiếp! Là cậu ư - Porthos nói với D' Artagnan - Rất mừng là cậu đã đến, nhưng xin lỗi nếu như mình không ra đón cậu được.

Nhưng Porthos vừa nhìn D' Artagnan vừa nói tiếp - cậu biết chuyện gì xảy với mình chứ?
- Không. :nhamnho:

- Chủ quán không nói gì với cậu à?
- Tôi hỏi thăm anh rồi lên thẳng đây thôi. :nhamnho:

Porthos thở phào nhẹ nhõm. D' Artagnan tiếp tục hỏi:

- Thế có chuyện gì xảy ra với anh ư, Porthos thân mến?

- Xảy ra với mình khi mình nhoài người về phía địch thủ mà mình đã xỉa cho hắn ba nhát rồi đấy chứ, mình định kết liễu hắn bằng nhát thứ t.ư, thế là chân mình giẫm lên một hòn đá, và mình bị trẹo gối. (chém gió vê lờ) :nhamnho:

- Thật thế ư?

- Thề danh dự mà! Cũng may cho thằng đểu ấy, chứ không mình đã cho nó chết toi tại chỗ rồi, mình đảm bảo với cậu như vậy.

- Và rồi nó ra sao?

- Ồ, mình cũng chẳng biết gì hết. Nó bị thế là đủ lắm rồi. Nó chuồn mất mà không dám đòi những gì còn lại. :thedo:

 

KiAZP

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
"Cuộc sống không chỉ là quãng thời gian ta đã sống, đã tồn tại, mà còn là những gì ta sẽ để lại dấu ấn của mình trong cuộc đời này. Trên chặng đường đó, ta được ước mơ, được trải nghiệm, được vượt qua thử thách, được thể hiện và sống thật với chính mình, cùng những nỗi buồn, hạnh phúc, sai lầm và nỗi đau. Để cuối cuộc đời chúng ta có quyền nhớ lại, hồi tưởng và kể lại những ký ức không quên đó... và chúng ta phải đấu tranh để bảo vệ được những ký ức tuyệt vời đó" - Marquez
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00
Mặc dầu khốn khó và tàn tật, trước kia hắn đã từng được biết những ngày khấm khá hơn.


Năm mười lăm tuổi, hắn bị xe nghiền nát hai chân trên đường cái đi Varville. Từ đó, hắn đi ăn mày lê lết trên các ngả đường, qua sân các trại ấp, đu người trên đôi nạng làm hai vai hắn so lên đến mang tai. Đầu hắn như tụt vào giữa hai ngọn núi.


Là một đứa trẻ được cha xứ ở Billettes tìm thấy trong một cái hố, đêm hôm trước ngày lễ Vong nhân, hắn được đặt tên là Nicholas Toussaint, được nuôi làm phúc, chẳng biết học hành là cái gì, bị què quặt sau khi uống vài cốc rượu mạnh của bác làm bánh mì trong làng mời – chuyện đùa để cười chơi – và, từ đấy, trở thành kẻ du đãng, hắn chẳng biết làm gì khác ngoài việc ngửa tay đi ăn xin.


Ngày xưa, bà nam tước Avary thí bỏ cho hắn ngủ trong một thứ cũi chó đầy rơm rạ, bên cạnh chuồng gà, trong cái trại giáp liền với lâu đài; và vào những ngày đói kém lớn, hắn chắc chắn lúc nào cũng có được một mẩu bánh mì và một cốc rượu táo ở trong bếp. Thường khi vào bếp hắn lại còn nhận được vài xu của bà cụ quý tộc từ trên bậc thềm hoặc từ cửa sổ buồng cụ vứt xuống cho. Bây giờ thì bà cụ mất rồi.


Trong các làng, người ta chẳng còn cho hắn được mấy hột: người ta nhẵn mặt hắn quá đi rồi; từ bốn chục năm nay nhìn thấy hắn vác cái thân hình rách rưới và méo mó trên đôi chân gỗ đi hết nhà nọ sang nhà kia, người ta đã chán hắn. Vậy mà hắn chẳng muốn rời đi, vì trên trái đất hắn chẳng biết nơi nào khác ngoài cái vùng này gồm ba, bốn xóm là nơi hắn đã kéo lê cuộc sống cùng khổ của hắn. Hắn đã đặt ranh giới cho đời ăn xin của hắn và có lẽ hắn sẽ chẳng bao giờ đi quá những giới hạn mà xưa nay hắn vẫn không vượt qua.


Hắn không biết thế giới có còn trải dài xa nữa không sau những hàng cây chắn tầm mắt hắn. Hắn không hề tự hỏi điều đó. Và khi bà con nông dân, chán ngấy vì lúc nào cũng gặp hắn ở bờ đồng, bờ mương của họ, kêu lên bảo hắn:


Tại sao mày không chịu đi sang các làng khác, mà cứ khập khà khập khiễng quanh đây mãi thế hử?


Thì hắn chẳng nói chẳng rằng lảng đi, mơ hồ cảm thấy sợ sự xa lạ, cái sợ của kẻ nghèo khó mờ mờ lo ngại nghìn thứ, những bộ mặt mới, những lời chửi rủa, những cái nhìn nghi kỵ của những người không biết hắn, và các ông sen đầm cứ đi từng đôi trên đường cái và làm cho hắn, theo bản năng, phải chui vào các bụi rậm hoặc nấp vào sau những đống sỏi.


Nhác trông thấy họ ở xa, lấp loáng dưới ánh nắng, hắn bỗng nhanh nhẹn lạ thường, nhanh nhẹn như một con quái vật tìm chỗ ẩn. Hắn buông đôi nạng té nhào xuống như mảnh giẻ rách, rồi thu tròn mình lại, trở nên bé tí xíu, không trông thấy được, nằm rạp như con thỏ rừng trong hang, những tã rách nâu của hắn lẫn vào màu đất.


Tuy nhiên, chẳng bao giờ hắn có chuyện lôi thôi với bọn họ. Nhưng hắn mang cái đó trong dòng máu, tựa hồ hắn thừa hưởng cái sợ ấy và cái mưu mẹo ấy của cha mẹ hắn, mà hắn không hề biết là ai.


Hắn chẳng có nơi nào nương thân, không có nhà, không có lều, không có chỗ trú mưa nắng. Mùa hè, hắn ngủ khắp nơi, mùa đông hắn lẻn vào hầm các kho thóc hoặc vào các chuồng bò một cách rất tài. Bao giờ hắn cũng tếch trước khi người ta biết có hắn ở đó. Hắn biết những lỗ hổng để chui vào các nhà; và cánh tay hắn quen dung đôi nạng thành ra khỏe lạ thường, nên chỉ nhờ sức tay mà hắn leo lên được tận các kho chứa cỏ, đôi khi hắn ở lì trên đó bốn năm ngày liền, nếu hắn đã xin được đủ lương ăn.


Hắn sống như thú rừng, giữa mọi người, chẳng quen ai, chẳng yêu ai, bà con nông dân đối với hắn chỉ có một thái độ khinh bỉ thờ ơ và thù ghét nhẫn nhục. Người ta đặt cho hắn biệt hiệu thằng “Chuông”, vì hắn đánh đu giữa đôi nạng gỗ như một cái chuông giữa đôi quai vậy.


Đã hai hôm nay, hắn chưa được miếng nào vào bụng. Chẳng ai cho hắn cái gì. Người ta đã đến cái nước không thể chịu được hắn nữa rồi. Các bà nông dân đứng trên ngưỡng cửa, nhác thấy hắn từ xa đã tru tréo lên:


Mày có xéo đi không, đồ khốn! Mới ba hôm nay tao đã chẳng cho mày một miếng bánh mì đó là gì?


Thế là hắn quay nạng, đi sang nhà bên cạnh, ở đấy người ta cũng tiếp đón hắn y như thế.


Các bà nói từ cửa nhà nọ sang cửa nhà kia:


Dẫu sao đi nữa cũng không thể nào nuôi báo cô cái thằng đại lãn ấy quanh năm được.


Tuy nhiên ngày nào thì thằng đại lãn ấy cũng cứ cần phải ăn.


Hắn đã đi khắp Saint-Hilaire, Varville và Billettes mà chẳng được một đồng xu hay một mẩu bánh hẩm nào. Hắn chỉ còn hi vọng ở Tournolles thôi: nhưng phải đi những hai dặm trên đường cái, mà hắn thì mệt lả không lê đi nổi được nữa, bụng rỗng tuếch mà cái túi thì cũng trống không.


Nhưng hắn cũng cứ đi.


Bấy giờ là vào tháng chạp, gió lạnh thổi ào ào trên cánh đồng, rít trong những cành cây trụi lá: mây lồng lộn bay qua bầu trời thấp và u ám, vội vã không biết về đâu. Chú què đi thong thả, nặng nhọc chuyển dịch từng chiếc nạng một, nhún mình trên cái chân vặn vẹo còn lại, bàn chân khoèo quấn một mảnh giẻ rách.

Thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống bờ rãnh bên đường nghỉ vài phút. Cái đói gieo một nỗi khổ não vào tâm hồn lộn xộn, nặng nề của hắn. Hắn chỉ có một ý nghĩ: “ăn”, nhưng chẳng biết làm cách nào.

Suốt ba tiếng đồng hồ, hắn lê lết trên con đường dài; tới khi trông thấy cây cối của làng Tournolles thì hắn cố đi nhanh lên.

Người nông dân đầu tiên hắn gặp và xin bố thí trả lời hắn:

Lại thấy mặt mày rồi, đồ của nợ! Vậy ra không bao giờ chúng ta thoát được mày ư?

Và Chuông vội lảng xa. Qua cửa nhà này sang cửa nhà khác, người ta mắng mỏ hắn, người ta đuổi hắn, không cho gì hết. Nhưng hắn vẫn cứ kiên trì và nhẫn nại đi khắp các nhà. Hắn chẳng được lấy một xu.

Hắn bèn tới các trại ấp, thất thểu đi qua những mảnh đất sũng nước mưa, kiệt sức đến nỗi không nhấc nổi đôi nạng lên nữa. Đến đâu người ta cũng xua đuổi hắn. Hôm ấy là một trong những ngày lạnh lẽo và buồn bã mà lòng người se lại, tinh thần bực bội, tâm hồn u uất, chẳng ai chịu mở bàn tay ra để bố thí hoặc giúp người.

Khi đã đi hết mọi nhà hắn biết, hắn ngã phịch vào một cái hố, dọc theo sân nhà ông Chiquet. Hắn tuột móc xích, như người ta nói để mô tả hắn hất nạng tuột khỏi tay buông mình rơi xuống như thế nào giữa đôi nạng cao. Và hắn nằm đấy hồi lâu không nhúc nhích, bị cái đói giày vò, nhưng u mê ngu độn quá nên không thấu hiểu được nỗi khốn đốn vô cùng của hắn.

Hắn chờ đợi, chẳng biết chờ đợi cái gì, một sự chờ đợi mơ hồ xưa nay vẫn ở trong lòng mọi người chúng ta. Hắn chờ đợi ở góc sân này dưới gió rét căm căm, chờ sự cứu giúp huyền bí con người ta vẫn thường hy vọng ở trời hay ở người, chẳng hề tự hỏi bằng cách nào, tại sao, và qua tay ai mà tới được hắn. Một đàn gà mái đen đi qua, tìm cái ăn trong đất, đất nuôi sống hết thảy mọi sinh vật. Chốc chốc chúng lại mổ được một hạt thóc hay một con sâu mà hắn không nhìn thấy, rồi lại tiếp tục tìm kiếm, thong thả và chắc chắn.

Chuông nhìn đàn gà mà không nghĩ ngợi gì cả; rồi không hẳn là trong đầu mà là ở trong bụng hắn, bỗng nảy ra cảm giác – chứ không hẳn là một ý nghĩ – rằng đem nướng một con gà kia trên một đống lửa củi cành rồi ăn thì chắc là ngon lắm.

Hắn chẳng hề vấn vương chút nào rằng hắn sắp sửa phạm tội ăn cắp. Hắn nhặt một hòn đá vừa tầm tay với và, vì hắn khéo tay nên hắn ném chết thẳng cẳng ngay con gà đi gần hắn nhất. Con vật ngã lăn ra, cánh đập phành phạch. Những con khác chạy trốn té tát, mình lắc lư trên những cẳng mảnh dẻ, và Chuông lại leo vội lên đôi nạng, đi ra nhặt con vật vừa săn được, điệu bộ cũng y hệt điệu bộ đàn gà.

Hắn vừa tới gần cái thân hình đen nhỏ vấy máu đỏ ở đầu thì bỗng bị đẩy thật mạnh vào lưng làm hắn tuột mất đôi nạng và ngã lăn lông lốc ra xa đến mười bước. Và bác Chiquet, giận sôi máu, nhảy xô vào thằng ăn trộm, đấm đá túi bụi, đánh không tiếc tay như một nông dân bị mất cắp, quả thụi và đầu gối cứ nện bừa khắp mình kẻ tàn tật chắng có cách nào tự vệ.

Những người làm trong trại cũng chạy ra và cùng với ông chủ đánh thằng ăn mày. Rồi khi đánh đã chán tay, họ mới nhặt nó lên, đem nó đi, và nhốt nó vào buồng để củi trong khi đợi tìm cảnh sát đến.

Chuông nhừ tử, máu me đầm đìa và đói lả, nằm bẹp trên mặt đất. Qua chiều dần tối, rồi tảng sang. Hắn vẫn chưa được ăn gì.

Gần trưa, lính cảnh sát tới và thận trọng mở cửa, đề phòng bị chống trả, vì ông Chiquet nói là bị thằng ăn mày đánh và đã phải vất vả lắm mới chống đỡ được.

Viên đội quát:

Nào, đứng dậy!

Nhưng Chuông không động cựa được nữa, hắn cố gắng rướn mình lên đôi nạng mà không nổi. Người ta cho là tên gian phi giả vờ, mưu mẹo, không muốn đứng lên, và hai người lính đeo khí giới đánh hắn, túm lấy hắn, ấn hắn đứng vào giữa đôi nạng.

Hắn hoảng sợ, cái sợ bẩm sinh trước những quai da đeo gươm màu vàng, cái sợ của con thú trước người đi săn, của con chuột trước mặt mèo. Và bằng những cố gắng phi thường, hắn đã đứng được.

Đi! – Viên đội nói. Hắn cất bước. Tất cả gia nhân trong trại nhìn hắn ra đi. Đàn bà giơ nắm tay đe hắn; đàn ông cười gằn, chửi rủa: thế là cuối cùng đã tóm được hắn! Thoát nợ!

Hắn đi xa dần giữa hai người lính gác. Hắn gắng gượng một cách tuyệt vọng để lê đi cho đến chiều, người u mê chẳng biết có chuyện gì đã xảy ra cho mình, hoảng sợ quá chẳng còn hiểu gì hết.

Những người gặp trên đường đứng lại nhìn hắn đi qua, và dân quê lẩm bẩm:

Lại một thằng ăn cắp nào đó!

Đến tối thì tới trấn hàng tổng. Hắn chưa bao giờ tới đó. Hắn thực sự không nghĩ ra được có chuyện gì, và rồi điều gì sẽ có thể xảy ra. Tất cả những sự việc ghê gớm, bất ngờ này, những bộ mặt và những ngôi nhà mới mẻ này làm cho hắn khiếp đảm.

Hắn không nói một lời mà cũng chẳng có gì nói, vì hắn chẳng hiểu gì nữa. Vả chăng đã từ bao năm không nói với ai, hắn hầu như không còn biết sử dụng cái lưỡi nữa; và ý nghĩ của hắn cũng lộn xộn quá không thể diễn ra thành lời được.

Người ta giam hắn vào nhà lao của trấn. Bọn lính không nghĩ rằng hắn lại có thể cần phải ăn, nên để mặc hắn cho đến hôm sau.

Nhưng, sáng sớm tinh mơ, khi người ta đến để hỏi cung hắn thì thấy hắn nằm chết cứng trên mặt đất. Thế có lạ không!

 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

Love is a cannibal ridin' a carnival carouse..
Trong tình yêu luôn có một kẻ dối trá :nhamnho:

Một chuyện đùa - Truyện ngắn của A. Chekhov

Một buổi trưa mùa đông trong sáng... Trời giá lạnh, rét cóng. Nađia khoác tay tôi. Những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xóa bám lên mấy món tóc xoăn vòng rủ hai bên thái dương nàng, lên hàng lông tơ mịn phía trên môi. Nàng và tôi đứng trên một ngọn đồi cao. Từ chỗ chúng tôi đứng, sườn đồi đổ dài thoai thoải xuống lấp loáng dưới ánh nắng, như một tấm gương. Bên cạnh chúng tôi là một chiếc xe trượt tuyết nhỏ bọc một lớp dạ màu đỏ tươi.

- Chúng ta cùng trượt xuống dưới đi, Nađia! - tôi van nài nàng - Một lần thôi! Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ chẳng hề gì đâu.

Nhưng Nađia sợ. Cả khoảng gian từ đôi giày cao su nhỏ nhắn của nàng đến chân quả đồi phủ băng này đối với nàng thật ghê sợ, tưởng như là một vực sâu vô tận. Đứng đây, nàng chỉ mới đưa mắt nhìn xuống dưới, hay tôi chỉ mới gợi ý bảo nàng ngồi vào xe trượt tuyết là nàng đã sợ hết hồn, không thở được nữa, huống hồ nếu nàng liều mạng lao xuống cái vực sâu kia thì không biết rồi ra sao! Nàng sẽ chết mất, sẽ phát điên mất.

- Ta trượt đi cô! - Tôi cố nài - Việc gì mà sợ! Cô phải biết sợ thế là nhát gan, xoàng lắm cô ạ!

Cuối cùng, Nađia cũng ưng thuận, nhưng qua nét mặt nàng, tôi biết rằng nàng liều mạng mà nghe lời tôi. Tôi đỡ nàng vào xe trượt; nàng run rẩy, gương mặt nàng tái nhợt. Tôi vòng tay qua giữ lấy Nađia và cùng nhau lao xuống.

Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí bị xé ra quật vào mặt, gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như muốn giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở. Tưởng chừng như có một con quỷ nào đang giơ tay nắm lấy chúng tôi và vừa rú lên vừa kéo xuống địa ngục. Mọi vật chung quanh nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía sau... Chỉ một giây lát nữa thôi có lẽ chúng tôi sẽ chêt!

- Nađia, anh yêu em! - tôi thì thào nói.

Chiếc xe trượt dần dần chạy chậm lại, tiếng gió gào và tiếng càng trượt xe rít lúc này đã không còn đáng ghê sợ, ngực đã thấy dễ thở, và thế là chúng tôi đã xuống đến chân đồi. Nađia sợ tưởng chết đi được, gương mặt tái nhợt, nàng thở không ra hơi... Tôi đỡ nàng đứng dậy.

- Các vàng tôi cũng không trượt lần nữa đâu! - nàng nói và đưa cặp mắt mở to đầy sợ hãi, nhìn tôi - Các vàng tôi cũng không chịu! Chỉ thiếu chút nữa là tôi chết!

Một lát sau, nàng dần dần hết sợ và đã bắt đầu nhìn vào mắt tôi với vẻ dò xét: có phải tôi đã nói bốn tiếng ấy, hay chỉ là trong tiếng gió gào rít nàng nghe thấy như vậy? Còn tôi, tôi đứng bên cạnh nàng, lấy thuốc lá ra hút và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình. (đoán đi em:nhamnho:)

Nàng khoác tay tôi và chúng tôi cùng nhau dạo chơi hồi lâu bên đồi tuyết. Hình như điều bí ẩn làm nàng thấy trong lòng băn khoăn. Có phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không? Có hay không? Đó là một câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh phúc - một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên đời này. Nađia chăm chăm nhìn tôi bằng cặp mắt buồn rầu nôn nóng bồn chồn. Nàng chậm rãi do dự trả lời những câu hỏi của tôi như chờ mong tôi sẽ tự nói ra cái điều bí ẩn ấy. Ôi, khuôn mặt nàng lúc ấy đáng yêu biết bao, ý nhị biết bao! Tôi thấy rõ nàng đang tự day dứt với mình, nàng cần nói một điều gì, cần hỏi một điều gì, nhưng nàng không tìm được lời, nàng cảm thấy rụt rè kinh sợ, một niềm vui nào đang ngăn trở nàng nói...

- Này anh... - Nàng nói, mắt không nhìn tôi.

- Cái gì vậy? - tôi hỏi.
- Chúng ta cùng nhau... lao dốc lần nữa đi. :haha:

Chúng tôi lần theo những bậc thang trèo lên đồi. Tôi lại đỡ Nađia lên xe, mặt nàng tái nhợt, và toàn thân run run. Chúng tôi lại lao xe về phía vực thẳm khủng khiếp và, gió lại gào, tiếng xe lại rít lên. Và cũng đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất, tôi lại nói:

- Nađia, anh yêu em!

Khi chiếc xe dừng lại, Nađia vội đưa mắt nhìn quanh quả đồi mà chúng tôi vừa trượt xuống, rồi nhìn đăm đăm vào mặt tôi, lắng nghe giọng nói thờ ơ lãnh đạm của tôi (a secret makes a man man - Vermouth - conan :nhamnho: ) và toàn thân nàng, cả từ cái mũ, cái bao tay và dáng người nàng nữa, đều toát lên một cái gì hồ nghi khó hiểu. Trên gương mặt nàng như hiện lên các câu hỏi:

"Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ do ta nghe được?"

Điều bí ẩn ấy làm nàng không yên lòng chút nào, nàng không chịu được nữa. Cô bé đáng thương ấy không trả lời nổi những câu hỏi, nét mặt rầu rĩ như muốn khóc.

- Chúng ta về nhà thôi nhé? - tôi hỏi.

- Không, không... tôi thích... trượt xe thế này, - nàng nói, mặt ửng đỏ lên - Hay là chúng ta cùng nhau trượt lần nữa đi?

Nađia nói rằng nàng "thích" cái trò trượt này, thế mà khi ngồi lên xe, nàng vẫn run, gương mặt nàng vẫn tái nhợt, hơi thở vẫn ngắt quãng vì sợ hãi như những lần trước.

Lần thứ ba chúng tôi trượt xuống. Tôi thấy nàng đăm đăm nhìn lên mặt tôi. theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy chiếc khăn tay che miệng đi rồi khẽ đằng hắng lên mấy tiếng, và khi xe lao xuống lưng chừng đồi, tôi còn kịp nói:

- Nađia, anh yêu em!

Điều bí ẩn vẫn là điều bí ẩn! Nađia im lặng, nàng đang nghĩ ngợi điều gì... Tôi tiễn nàng từ sân trượt về nhà. Nàng cố đi chậm lại, chờ xem tôi có nói với nàng những lời ấy không. Tôi cảm thấy tâm hồn nàng đang đau khổ, nàng đang cố dằn lòng để khỏi phải thốt lên:

- Không, gió không thể nói được những lời ấy! Mà tôi cũng không muốn tin rằng gió đã nói những lời ấy!

Sáng hôm sau, tôi nhận được một mảnh giấy của nàng: "Nếu hôm nay anh có đi trượt tuyết, đến rủ tôi cùng đi nhé! Nađia". Từ hôm đó, ngày nào tôi và Nađia cũng lên đồi và mỗi lần lao xe từ trên đồi xuống, tôi lại thì thào nhắc lại những lời đó:

- Nađia, anh yêu em!



Chẳng bao lâu sau, Nađia quen nghe những lời ấy như quen uống rượu, hay dùng moócphin. Nàng không thể sống thiếu những lời đó nữa. Thực ra, lao xe từ trên đồi xuống vẫn đáng sợ như xưa, nhưng giờ đây chính cái nguy hiểm, cái kinh sợ đó lại đem đến một cái gì đặc biệt đắm say cho những lời yêu đương ấy, những lời vẫn là điều bí ẩn và dằn vặt lòng người như trước... Kẻ bị nghi ngờ vẫn là gió và tôi... Ai, gió hay là tôi, đã thổ lộ với nàng những lời yêu đương ấy, nàng không biết được; nhưng hình như nàng không để ý đến điều đó nữa bởi vì tục ngữ nói uống rượu từ bình nào, có gì đáng bận tâm đâu, chỉ cốt sao say được thôi. :087:

Có lần vào một buổi trưa, tôi đến sân trượt một mình; đi lẫn trong đám đông. tôi bỗng nhìn thấy Nađia đang đi về phía đồi và đưa mắt tìm tôi... Rồi nàng chậm chạp bước theo bậc thang trèo lên đỉnh đồi... Trượt xe một mình thật đáng ghê sợ biết bao, ôi, thật đáng ghê sợ! Mặt nàng tái nhợt, trắng như tuyết, toàn thân run rẩy, nàng bước đi hệt như đến nơi chịu án tử hình, nhưng nàng vẫn xăm xăm đi, đầu không ngoái lại. Chắc là cuối cùng nàng quyết định thử xem: nàng có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không, khi không có tôi bên cạnh? Tôi nhìn thấy nàng tái nhợt, miệng há ra vì sợ hãi; ngồi lên xe, nhắm mắt lại và, sau khi vĩnh biệt trái đất, bắt đầu lao xuống chân đồi... Tiếng càng trượt xe rít lên... Nađia có nghe thấy những lời đó nữa không, tôi không biết... Tôi chỉ thấy nàng bước ra khỏi xe một cách mệt nhọc, gần như kiệt sức. Qua nét mặt nàng có thể thấy rằng chính nàng cũng không biết nàng có nghe được những lời đó hay không. Nỗi sợ hãi khi xe lao xuống đồi đã làm nàng không còn khả năng nghe được, phân biệt được các âm thanh, không còn khả năng hiểu nữa...

Thế rồi những ngày xuân tháng Ba đã tới... Mặt trời như trở nên dịu dàng hơn. Quả đồi tuyết của chúng tôi bắt đầu sẫm lại, dần mất đi cái vẻ óng ánh của nó, và cuối cùng thì tan đi. Chúng tôi thôi không trượt xe nữa. Nađia đáng thương cũng không còn nơi nào để nghe những lời ấy nữa, bởi vì gió thì không còn thổi nữa, mà tôi thì sửa soạn đi Pêtérburg - đi rất lâu, có lẽ là suốt đời.

Có lần khoảng hai ngày trước khi đi Pêtérburg vào một buổi chiều tà, tôi ngồi trong khu vườn nhỏ. Một hàng rào cao có đinh nhọn ngăn cách khu vườn ấy với sân nhà Nađia... Trời hãy còn lạnh, tuyết hãy còn đọng lại dưới đám phân cây cối vẫn trơ trụi, nhưng hương vị mùa xuân đã đến, từng đàn quạ bay về tổ, trú đêm kêu lên quàng quạc. Tôi đến bên hàng rào và ghé nhìn qua khe hở. Tôi thấy Nađia bước ra thềm và đưa mắt nhìn lên trời buồn bã... Làn gió xuân nhẹ thổi qua khuôn mặt nhợt nhạt rầu rĩ của nàng... Làn gió xuân gợi lại cho nàng cái tiếng gió rít trên đồi tuyết, khi nàng nghe thấy bốn tiếng ấy, và gương mặt nàng trở nên buồn bã lạ thường, nước mắt lặng lẽ chảy trên má... Nàng đáng thương đưa hai tay mình về phía trước như muốn cầu xin làn gió đem đến cho nàng những lời yêu đương đó một lần nữa. Và tôi, chờ khi có làn gió đến, thì thào nói:

- Nađia, anh yêu em!

Trời, điều gì đã xảy ra với nàng lúc ấy! Nađia khẽ kêu kên và khuôn mặt nàng bỗng chan hoà một nụ cười rạng rỡ. Nađia đưa hai tay lên đón lấy gió, trông nàng lúc ấy thật là mừng rỡ, đẹp xinh và hạnh phúc.

Còn tôi, tôi trở vào nhà và đi thu xếp đồ đạc...

Chuyện ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Nađia đã có chồng, gia đình nàng gả chồng cho nàng hay nàng tự nguyện lấy? - điều ấy cũng chẳng có gì đáng bận tâm. Chồng nàng là thư ký hội đồng giám hộ trẻ con quý tộc. Nađia đã có ba con. Nhưng chút kỷ niệm cùng nhau trượt băng và gió lúc ấy đem đến cho nàng bốn tiếng: "Nađia, anh yêu em!" thì nàng không quên được; đối với nàng, điều ấy đã trở thành kỷ niệm hạnh phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất trong đời nàng...

Còn tôi, bây giờ tôi đã đứng tuổi, tôi không hiểu nổi vì lẽ gì tôi đã nói những lời đó, làm sao tôi đã đùa như thế...

Love is a cannibal ridin' a carnival carouse..
Trong tình yêu luôn có một kẻ dối trá :nhamnho:
(có lẽ là với anh, với em thì có đến 2 kẻ dối trá cơ!! ) :v
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00
Thú vui kinh điển của một con gà cờ tướng là tìm được 1 đứa gà hơn cả mình để hành nó.. :nhamnho:
Thật dễ dàng khi có chút lợi thế, cứ đổi quân tới cùng và ez win.. :haha:

Về phía Kutuzov thì nó hiển nhiên như toán học vậy: trong ván cờ, nếu tôi kém đối thủ một quân mà tôi cứ muốn chơi lối thí một ăn một thì rốt cục thế nào tôi cũng sẽ thua, vì vậy tôi cần phải tránh thí quân.

Nếu đối thủ có mười sáu quân cờ mà tôi chỉ có mười bốn quân thì lực lượng của tôi chỉ yếu hơn nó một phần tám thôi. Nhưng nếu tôi và nó đều mất mười ba quân cờ thì lực lượng của nó sẽ mạnh hơn tôi gấp ba lần.

Đêm nay đánh cờ:
"Nửa đêm cái hẹn sai rồi,
Quân cờ gõ nhảm, làm rơi hoa đèn .."

Ngày mai, ngày kia, ngày kìa .. đi đâu đó:
"Mong đem lệ tưới thành mưa lớn,
Ngăn bước đường anh buổi sớm mai."

GGWP!
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

La Ponte lộ vẻ đau khổ. Thằng cha vốn ưa nhạo báng nhưng lại có phần đa cảm, Corso nghĩ.

“Tôi cứ nghĩ anh giúp tôi vì là bạn bè,” La Ponte phản kháng.

“Bạn bè,” Corso đáp rồi nhìn quanh như muốn tìm ai đấy giải thích từ này cho gã hiểu. (t cũng méo hiểu từ này có nghĩa là gì nữa - A.H). “Ở quầy bar và nghĩa địa có cả đống bạn tốt.” :nhamnho:

“Vậy lúc cần anh dựa vào ai, mẹ kiếp?”
“Vào chính anh ta,” Makarova thở dài. “Corso chẳng bao giờ cần ai giúp.” :hutthuoc:

...........................

- Giordano Bruno quên mất quy tắc vàng để tồn tại: Scire, tacere. Biết và im lặng. Bề ngoài thì ông ta biết điều, nhưng ông ta nói quá nhiều. Ở đây còn có sự trùng lặp ngẫu nhiên: Bruno bị bắt sống trên quảng trường Hoa ở Rome vào tháng Hai năm 1600. Cũng hành trình ấy, địa điểm ấy và ngày tháng ấy, sáu mươi bảy năm sau, Aristide Torchia bị hành quyết: bị bắt ở Venice, bị tra tấn ở Rome và thiêu sống trên quảng trường Hoa vào tháng Hai năm 1667. Vào thời kỳ ấy hình phạt trên giàn thiêu rất hiếm thấy, nhưng nó lại được áp dụng để hành hình ông ta.”

- “Cảm động quá,” Corso hờ hững.

Borja bực bội. “Lắm lúc tôi tự hỏi anh có còn tin vào cái gì nữa hay không.”

Corso tỏ vẻ nghĩ ngợi một thoáng rồi nhún vai. “Lâu lắm rồi, tôi có tin tưởng một số thứ. Hồi ấy tôi trẻ và tàn nhẫn. Bây giờ tôi đã bốn mươi lăm. Tôi già và tàn nhẫn.” @@

- “Tôi cũng vậy. Nhưng vẫn còn tin vào một số thứ. Những thứ khiến cho tim tôi đập nhanh hơn.”
- “Tiền?” :nhamnho:

- “Đừng đùa. Tiền là chìa khóa mở ra những điều huyền diệu. Để trả công cho anh. Và ban cho tôi thứ duy nhất tôi quý trọng trên đời: những cuốn sách này.” Lão tiến lên vài bước dọc theo dãy tủ chật cứng sách. “Chúng bộc lộ quan niệm của người viết, phản ảnh những mối quan tâm, những nghi vấn, những khát vọng, cuộc đời và cái chết của họ… Chúng là những vật sống: phải biết nuôi dưỡng và bảo vệ chúng…”
- “Và lợi dụng chúng?” :haha:

“- Thỉnh thoảng.”

......................................

khi trở về nhà, gã gặp người gác cổng vừa quét dọn xong hành lang và sắp sửa ra về. Gã đi ngang qua khi người này mang mấy thùng rác từ tầng hầm lên.

“Chiều nay người ta có tới sửa ti vi cho ông, ông Corso.”
Corso đã đọc đủ số sách và xem đủ phim để hiểu điều đó có nghĩa gì. :nhamnho: Vì vậy gã không khỏi phì cười, khiến người gác cổng ngạc nhiên.
“Đã từ lâu rồi tôi không có ti vi.” :haha:

........................................

Corso chọc hắn. “Cậu phải cầm các thứ cho chắc, Flavio. Cứng rắn lên.” Gã vỗ nhẹ lên vai hắn. “Hãy nhớ đến Câu lạc bộ những Người phóng lao Nantucket.”

La Ponte nhăn mặt xua tay. “Hồi xưa tôi cứng rắn, cho đến lúc tám tuổi. Sau đấy tôi hiểu sống sót vẫn tốt hơn, tôi liền mềm đi.” :nhamnho:

Corso dẫn Shakespeare giữa những ngụm rượu gin. Một thằng hèn chết một ngàn lần và gì gì đấy. Nhưng La Ponte không định bảo đảm mạng sống của mình với một đoạn trích. Ít nhất cũng không theo kiểu đó.

“Tôi không sợ, thật đấy,” hắn trầm ngâm nói, mắt cụp xuống. “Tôi chỉ lo mất gì đấy… ví dụ như tiền. Hoặc sức mạnh nam tính kỳ diệu của tôi. Hoặc là mạng sống.” :015:

.............................................

Gã bước lên những bậc thềm đá đưa tới cánh cửa và ngước nhìn. Dưới nền trời u ám, chiếc đồng hồ mặt trời với những chữ số La Mã trên tường chẳng chỉ giờ nào. Bên trên nó khắc một dòng chữ: OMNES VULNERANT, POSTUMA NECAT.

Mọi giờ thương nhân, giờ cuối sát nhân. Một câu ngạn ngữ thường ghi trên đồng hồ, đại ý nhắc nhở người ta nhớ tới sự vô thường của đời người. @@

...................................................

Lucas Corso biết rõ hơn ai hết rằng một trong những vấn đề chính trong nghề của gã là những cuốn thư mục được biên soạn bởi các học giả chẳng bao giờ nhìn thấy những cuốn sách họ kê tên; thay vào đó họ chỉ dựa vào những báo cáo gián tiếp và thông tin do người khác thu thập. Một sai sót hay một mô tả không trọn vẹn có thể lưu hành qua nhiều thế hệ mà không ai nhận ra.

Rồi tình cờ nó lộ ra. Đó chính là trường hợp của Chín cánh cửa. Trừ khi buộc phải đề cập đến nó trong những thư mục chính thức, còn thì ngay cả trong những sách tham khảo chính xác nhất cũng chỉ có mô tả vắn tắt về chín bức tranh khắc minh họa, không có những chi tiết thứ yếu. Trong trường hợp bức họa thứ hai của cuốn sách, toàn bộ các bài viết đều nói đến một lão già trông như một nhà hiền triết hay một ẩn sĩ đứng trước một cánh cửa, tay cầm hai chiếc chìa khóa. Nhưng chưa bao giờ có ai bận tâm đến việc ông ta cầm chìa khóa trên tay nào. Giờ thì Corso đã có câu trả lời: trong cuốn số một: tay trái, còn trong cuốn số hai: tay phải.

Gã còn phải tìm hiểu xem cuốn sổ ba ra sao. Nhưng hiện giờ thì chưa thể. (moá, nếu là chân thì t đoán đc; còn tay nào à, xin chịu) :nhamnho:

..............................................

Hắn cau mày, gõ gõ đốt ngón tay lên bàn như một tay chơi bài thừa nhận mình thua. Nhưng cô ta cũng chẳng buồn phản ứng.

La Ponte lẩm bẩm trách móc, “Tôi vẫn không hiểu tại sao anh tin cô ta.”

“Ông ấy nói với anh rồi,” rốt cuộc cô trả lời. Cô đặt cái ống hút vào giữa các trang sách như để đánh dấu. “Tôi chăm sóc ông ấy.”

Corso gật đầu vui vẻ, mặc dù trong tình trạng của gã chẳng có gì mà vui. “Cô ấy là thiên thần hộ mệnh của tôi,” gã nói.

“Thật ư? Vậy thì cô ấy phải bảo hộ anh tốt hơn. Cô ấy ở đâu lúc Rochefort lấy trộm cái túi của anh.”

“Có cậu ở đó.”

“Đấy là chuyện khác. Tôi chỉ là một gã buôn sách nhát gan. Tôi ưa hòa bình. Một loại đối lập thực sự với típ người hành động. Nếu tham gia một cuộc thi nhát gan, chắc tôi sẽ bị loại vì quá nhút nhát.” :nhamnho:
 

Ooops!

Phàm Nhân
Ngọc
5,22
Tu vi
0,00

For: Ascanio (Những kẻ si tình or Tình mộng, tuỳ bản dịch) - A.Dumas!! By Dumas 's fan in VN! :056:

Cuốn sách đầu tiên (và cả thứ hai nữa, 2 cuốn 1 lúc) mà t bỏ tiền ra mua là 2 cuốn của A.Dumas (cha) :008: . Và có lẽ cũng chỉ có tên ông nhà văn này mới đủ sức thuyết phục một kẻ keo kiệt như t móc ví ra được :haha:

Trước đó, t toàn đọc truyện chùa. Hoặc là đọc miễn phí trong tủ sách cũ của một ông cụ cho thuê sách từ những năm 1980, là ông nội của t :nhamnho:. Hoặc là coi chùa trên mạng....

Ta đã mua 2 cuốn này khi đi cùng người em - anh mua văn phòng phẩm tại nhà sách đường Nguyễn Văn Cừ. Gọi là người em vì hắn thua tuổi t, là anh vì hắn là con của ông bác, thật lằng nhằng. Và lằng nhằng ở đây dĩ nhiên là để chỉ ta. Ta lúc thì gọi anh, lúc thì quên béng đi mất, liền vỗ vai kêu hắn là em. Hắn thì nhanh gọn hơn, có lẽ vì e dè với số tuổi chênh lệch nên toàn gọi anh ngọt xớt. Và nhanh gọn khi mua đồ, 2 phút là hắn mua xong thứ cần mua. Còn t thì chỉ là kẻ đi ké, nhưng đường đi lại ngoằn ngoèo, t mất 2 giờ dù t không phải là người chủ động đi mua bất cứ thứ gì. T lạc vào thư viện sách và t cứ lang thang trong đường đi lối lại, chìm đắm trong các cuôn sách, đắn đo trong các quyết định và nâng lên hạ xuống cuốn này đến cuốn khác.

Cuối cùng, ông em - anh ấy sau khi phải đứng ngắm đồng hồ ở cửa chạy từ 1h đến 3h15 bèn đi tìm t. Mặc dù hơi hoa mắt vì đọc, t vẫn còn đủ tinh tường để nhận ra vẻ sốt ruột ẩn giấu sau sự khát khao được ra về của cu cậu. T đành bỏ lại mấy cuốn của Gabo (G.Marquez), của Hugo, của Mark Twain vì ôm 3 cuốn truyện của A.Dumas là đủ nặng để về rồi.

Một nhược điểm chí mạng của mấy con mọt sách là chỉ quan tâm đến tên truyện, tên tác giả, đọc lướt nội dung mà quên béng đi đọc cái mẩu giấy nho nhỏ hay gắn cuối sách, nơi mà có thể cho ta biết những con số. Me tooo. Khi ta ra đến quầy thu ngân, nơi sặc mùi tiền, mà lẽ ra không nên tồn tại ở các hiệu sách, :nhamnho:nơi mà chỉ nên có mùi mực in, mùi của những trang giấy @@. Ấy, cái mùi lạ hoắc của tiền ấy đã đánh thức ta. Và khi t liếc 1 con mắt thôi, chỉ 1 mà thôi, ta cũng nhận ra là con số được cộng lại thật khủng khiếp. Và nếu t vác cả 3 em nó về, thì ta đúng là phải vác gần cả ngàn kilomet mất. Vì số tiền vé xe của t đã bị cuốn sách nào nào đó ăn mất rồi. A, mẹ kiếp, 1 tờ vé xe, 1 tờ giấy nhỏ bé lại ~ 2,3 cuốn sách.

Đi bộ ngần ấy thì t chịu rồi. Hơn nữa t cũng chẳng thế ôm cả 3 cuốn về được. Ông nội t mà nhìn thấy t khệ nệ vác 3 cuốn sách thì sẽ cười vỗ vai t, còn bố thì sẽ vỗ .. vào mặt t mất :015:. Ông nội và t hợp gu, rất mê sách. Bố của ta thì không hợp gu 2 người kể trên. Ông sẽ đem bật lửa ra, không phải để châm thuốc cho ông con, mà là để đốt mấy cuôn sách, có lẽ sẽ không đủ để thiêu cháy t nhưng chắc cũng đủ để luộc trứng như công tử Bạc Liêu @@. Và như những cực của nam châm vậy, 2 cực giống nhau thì luôn ở xa. Ông nội ở quá xa để có thể bảo kê cho đứa cháu này.. zz

Vậy là t phải tính toán như D'Agtagnan khi tính toán với số tiền còm cõi mà lại ủ mưu lớn là sang nước láng giềng bắt cóc kẻ đứng đầu nước ấy. 3 thì không được rồi, 1 thì ít quá, chỉ còn số 2. Phải chăng số 2 luôn luôn là số đẹp. 2 cuốn sách, tuyệt đẹp. 2 trong tình yêu, tuyệt đẹp, còn gì hơn khi trong chuyện tình ái mà ta lại có được 2 cô người yêu??? :nhamnho: (mà kỳ lạ là ta lại có một thời chẳng đẹp đẽ lắm khi ta sở hữu con số 2 ny ấy)

Vậy là ta giải quyết xong con số. Việc còn lại đơn giản là chọn 2 trong 3. À nhầm, chẳng giản đơn chút nào cả. Giống như lựa chọn 1 cô người yêu giàu mà xấu và 1 cô nghèo nhưng xinh đẹp vậy (lại nhớ 1 câu, chắc vẫn của A.Dumas thôi, mà cũng có khi là của Tolstoy hay ai đó, chịu không nhớ nổi: một cô gái xinh đẹp chỉ có thể cho anh nhan sắc, nghĩa là thứ mà cô ta có; còn cô gái giàu thì có thể cho anh thêm những đồng lu - i lấp lánh zz~).

Việc lựa chọn này giống như tay nào nhỉ, để google lại đã. À, Fargas. Ông lão khốn khổ trong truyện "Câu lạc bộ Dumas". Ông cụ sưu tầm sách một cách điên cuồng đến khi khánh kiệt buộc phải bán sách để sinh tồn. Nghĩa là cứ mấy tháng lại phải bán 1 cuốn sách để giữ lại những cuốn sách còn lại. Mỗi lần phải chọn cuốn sách để bán, mà ông lão gọi là thực hiện nghi lễ, thật tàn khốc. Hy sinh cái này để giữ cái kia.

Phải chăng ta cũng đang thực hiện một nghi lễ? Không, ta chỉ chọn 2 trong 3 mà thôi.

Ta giữ lại truyện "bá tước Monte Cristo", dù đã đọc hơn chục lần và trong kho sách của ông nội đã có. Đơn giản vì cái kho ấy ở xa, mà mỗi lần lên mạng đọc lại là ta cứ tức anh ách vì truyện bị rút gọn khủng khiếp. Những đoạn truyện bị lược bỏ một cách tàn nhẫn và vô lý. Moá, 1/2 tờ tiền thì không xài đc, 1/2 cuốn sách thì không phải là tác phẩm nữa rồi. Khi t lướt đến đoạn có tiểu sử của Luji Vampa ta cảm thấy rất hài lòng, vì đố ai tìm nổi đoạn đó trong mấy trang mạng (mặc dù khi về nhà đọc kỹ lại, ta thấy nó cũng bị rút gọn một chút, nhưng ít ra cũng là 9/10 so với bản của ông nội).

Ta giữ lại cuốn "Ascanio" này, đơn giản vì t chưa đọc trong kho của ông, trên mạng cũng không có . Vì ta thấy nó được in đã gần chục năm rồi mà vẫn còn nằm trên kệ. Một cô gái ế, nhưng chưa chắc những cuốn sách trẻ trung, trinh trắng bên cạnh có thể sánh được đâu.

Và khi đọc cuốn này, ta cảm thấy xứng đáng, xứng đáng với số tiền đã bỏ ra, xứng đáng với cuốn sách bị bỏ lại. Ai đó hãy rước cuốn bị bỏ lại thay ta vậy..

Thế đấy, chỉ một việc cỏn con là mua sách mà ta có thể ngồi gõ linh tinh dài dòng như vậy?! Nhưng, như đã nói, chỉ có A.Dumas mới có thể khiến ta bỏ tiền ra mua sách cũng như ngơ ngẩn đi làm chuyện ngẩn ngơ như thế này..


Why i love this book??

Is it really just another crush?

No, I know this crush ain't goin away, goin away....
...................................

Một chàng trai vóc dáng cao, đẹp trai với nước da nâu, mái tóc dài và đôi mắt to đen, ăn mặc
giản dị nhưng rất thanh lịch, chỉ mang bên mình một con dao găm nhỏ với chuôi được chạm trổ
tuyệt đẹp, và chắc hẳn do lòng sùng đạo khiêm nhường, chàng đứng đó không nhúc nhích trong suốt
buổi lễ. Đầu cúi xuống với thái độ sùng kính trầm t.ư, chàng lẩm bẩm vài câu không rõ, chắc chắn
là những lời cầu nguyện, vì chàng nói rất khẽ nên chỉ có chàng và Chúa Trời mới hiểu chàng nói gì.

Tuy nhiên khi sắp kết thúc buổi lễ, chàng ngẩng đầu và những người đứng gần chàng có thể nghe
được những lời nhỏ nhẹ này:

- Mấy tu sĩ người Pháp này ê a đọc kinh mới đáng ghét biết bao! Họ không thể hát hay hơn

trước Nàng - là người hẳn quen nghe những thiên thần hát chứ?
:nhamnho: A! Cũng không hề khốn khố! Buối lễ thế là đã kết thúc. Trời ơi! Trời ơi! Hôm nay xin người hãy làm sao cho con may mắn hơn chủ nhật
trước, ít ra làm sao để nàng ngước mắt nhìn con!

...........................................

Chàng trai đứng sững sờ một lúc, nhưng vì đây là chàng trai rất cương quyết nên khi thiếu nữ xinh đẹp không ở đây nữa để tước vẻ cương quyết của chàng, chàng lập tức quyết định. Chàng trai lạ mặt của chúng ta sau khi đứng tách xa một quãng để không bị để ý, nhưng không khá xa để mất tầm nhìn chiếc cổng, chàng bắt đầu việc canh gác của kẻ si tình một cách oanh liệt!

Nếu độc giả đã từng đứng gác như vậy trong đời mình hẳn nhận thấy cách tốt nhất để rút ngắn việc này là độc thoại. Chắc hẳn chàng trai của chúng ta đã quen với việc canh gác, vì bắt đầu canh gác chàng đã độc thoại như sau:

- Chắc chắn là nàng không hề ở đây. Sáng nay sau buổi lễ nguyện và cả hai chủ nhật trước mà ta chỉ dám đưa mắt dõi theo nàng - ta mới ngốc nghếch xiết bao! Ôi! Trời ơi! Tại sao ta không là họa sĩ! Nếu ta là họa sĩ, trước hết ta không cần có nàng ở trước mắt để vẽ chân dung nàng. Ta không ngừng thấy đôi mắt to xanh biếc, mái tóc hoe vàng óng ả, làn da thật trắng, vóc dáng thật thanh tú của nàng. Nếu ta là họa sĩ, ta sẽ thể hiện nàng trong tất cả những bức tranh của ta như Sangio vẽ Fomarine và André del Sarto đốì với Lucrèce. Có sự khác nhau nào giữa nàng và Fomarine! Không thể so sánh vì cả người này lẫn người kia đều không xứng đáng cỏi dây giày cho nàng! Trước hết là Fomarine...

Chàng trai chưa kịp so sánh hết, mà dù có so sánh thì ta cũng hiểu rõ chàng dành hết lợi thế cho người mình yêu dấu, :002: thì chuông báo giờ lại vang lên.


................................

Có lẽ chàng trai đứng như vậy tới ngày hôm sau, bởi vì chàng bắt đầu dệt mộng lần thứ t.ư; nhưng ngẫu nhiên, một người qua đường hơi quá chén đụng đầu với chàng.

- Này! Ông bạn! - Ngưòi qua đường nói - Xin hỏi không quá tò mò, ông là ngưòi hay cột mốc
đây? :nhamnho: Nếu ông là cột mốc, ông có quyền đứng đây, tôi tôn trọng ông; nếu ông là người, hãy coi chừng! Để tôi qua. :haha:



...............

Con nghe thấy chứ, Pagolo? - Người thầy ngoảnh mặt về 1 người thợ nói.

- Thưa thầy, thầy nói gì ạ? - Anh này lần thứ hai ngẩng đầu nói.

- Này, hãy ngừng vẽ một chút và lại đây, con nghe thấy chứ?

- Xin thầy thứ lỗi, thưa thầy, nhưng ngồi đây con cũng rất rõ anh bạn Ascanio của con nói. Con muốn vẽ xong phác thảo; Con thấy khi người ta làm tròn những bổn phận của tín đồ Cơ đốc một cách thành kính trong ngày chủ nhật thì việc dành thì giờ nhàn rỗi làm một việc có ích nào đó không phải là tội lỗi mà làm việc là cầu nguyện.

- Pagolo, anh bạn ạ - Người thầy lắc đầu nói giọng buồn rầu hơn là tức giận. Hãy tin ta, con làm việc rất chăm chỉ và nhiệt tình trong tuần rồi giải trí trong ngày chủ nhật như một người bạn tốt thì tốt hơn là lười biếng trong những ngày thường rỗi làm nổi bật hơn những người khác một
cách giả đạo đức bằng cách vờ hăng say trong những ngày lễ
; :015: nhưng con là thợ cả, con hãy hành động theo ý con

Theo sự thôi thúc của người thầy, mọi người lui ra, trừ Pagolo còn nán lại một lúc để làm việc trong cái góc của anh nhưng lập tức anh ta xét thấy mọi người đều đi nằm, anh ta đứng lên, nhìn quanh mình, lại gần bàn, tự rót cho mình cốc rượu vang lớn, uống cạn một hơi và đến lượt anh ta đi ngủ. :haha:
 

Ooops!!

Phàm Nhân
Ngọc
36,75
Tu vi
0,00

Chẳng bao lâu có tiếng động đều đều nhịp nhàng dội vào tai hai người bạn. Tiếng ngựa hý khiến cho những con ngựa họ để sẵn cách chừng hai mươi bước chăn vểnh hết tai lên và trong lối đi Violettes, một người đàn bà hiện ra như một hình bóng trắng, quay về phía họ, phác một dấu hiệu kỳ lạ và biến mất.

- Hoàng hậu! - Cả hai đồng thanh kêu lên.
- Thế có nghĩa là gì nhỉ? - Coconnas hỏi.

- Nàng đã làm như thế này, thế có nghĩa là "Lát nữa…" - De Mole bảo.
- Nàng đã làm như thế này, thế có nghĩa là "Đi đi…" - Coconnas cũng nói.
- Dấu hiệu ấy tức là: Chờ tôi với!
- Cử chỉ ấy có nghĩa là: Trốn đi!

:015:
- Thế thì mỗi người chúng ta hãy làm theo điều mình tin.
- Cậu đi đi, mình ở lại. - La Mole bảo.
Coconnas nhún vai và nằm xuống.

Chưa dứt lời thì một kỵ mã phóng tới nhanh như tên bắn giữa đám cỏ mây, vượt qua rãnh, qua bụi bờ và vật cản tới gần hai chàng quý tộc. Hai tay anh ta cầm hai khẩu súng và chỉ điều khiển ngựa bằng đầu gối trong cuộc chạy loạn điên cuồng đó.

- Ông de Mouy! - Coconnas lo lắng thốt lên và giờ đây trở nên nhanh nhẹn hơn cả De Mole - Ông de Mouy chạy trốn à? Mọi người đều chuồn cả sao? :haha:

- Ê này, nhanh lên! Nhanh lên! - Chàng trai Tân giáo nói - Chạy đi, hỏng hết rồi! Tôi vòng trở lại đây để báo cho các ông. Đi thôi!

Coconnas nhanh chóng quyết định. Trong khi De Mole bất động nhìn theo de Mouy biến dạng giữa đám lá cành rẽ ra cho chàng đi và khép lại sau lưng chàng thì Coconnas chạy tới chỗ để ngựa, dắt chúng lại gần, nhảy lên ngựa của mình, ném dây cương con kia cho De Mole và chuẩn bị phóng.

- Đi thôi! Đi thôi! Mình xin nhắc lại những lời ông de Mouy: lên đường nào! de Mouy là tay ăn nói khá đấy! Lên đường thôi, de Mole! :nhamnho:

- Chờ tí đã - De Mole đáp - Chúng ta đã tới đây vì một lẽ gì đó..
- Trừ phi là chúng ta tới đây để cho người ta treo cổ lên chứ mình khuyên cậu không nên để mất thì giờ. :haha: Mình đoán là cậu sắp sửa lại giở môn tu từ học ra, dài dòng văn tự giải thích động từ "trốn", diễn thuyết về đoạn Horace ném khiên đi và về Epaminondas người ta đem khiên tới. Mình chỉ xin nói một câu thôi: nếu người như ông de Mouy Saint-Phale còn trốn đi thì mọi người cũng đều được phép bỏ trốn. :haha:

- Ông ta không phải chịu trách nhiệm về việc này.

- Mẹ kiếp! Nếu tình yêu đó khiến ông ta làm những điều rồ dại như những điều mình thấy cậu đang rắp tâm làm kia, thì ông ta chuồn là phải đấy. Quỷ tha ma bắt cái thứ tình yêu khiến cho hai nhà quý tộc dũng cảm phải chết! Mẹ khỉ! Như vua Charles vẫn nói đấy, ông bạn thân mến, chúng ta đang tiến hành âm mưu. Khi âm mưu không thành thì phải chuồn thôi. Lên ngựa đi De Mole! :haha:

- Chạy đi, anh bạn, mình có ngăn cậu đâu, mình còn xin cậu nữa. Đời cậu đáng giá hơn đời mình. Hãy tự cứu lấy cậu đi!
- Cậu phải nói với mình: "Coconnas, chúng ta cùng để cho người ta treo cổ nào!" :hayqua: chứ không phải là "Coconnas, hãy tự cứu lấy mình cậu!" - Nhưng rốt cuộc thì chúng ta làm gì nào? - Coconnas sốt ruột thốt lên.

- Chúng ta sẽ đi tìm hoàng hậu.
- Ở đâu?
- Mình không biết… Ta tìm nhà vua.
- Ở đâu cơ chứ?
- Mình cũng chẳng biết… :vai:
Nhưng chúng ta sẽ tìm thấy ông ta và hai đứa mình sẽ làm được cái điều mà năm mươi người đã không thể hoặc không dám làm.


......................................................

Trong tất cả việc này, Marguerite chẳng để mất cả tự do thân thể lẫn tự do t.ư duy của mình, nàng ra dấu với chồng một lần cuối, rồi đi qua gần La Mole đến nỗi chàng có thể nghe được hai câu tiếng Hy Lạp mà nàng buông ra:

- "Mê đêiđê." Có nghĩa là: "Đừng ngại".

- Nàng bảo mình đừng có e ngại - De Mole đáp.

- Ăn thua gì - Coconnas lẩm bẩm - Điều đó có nghĩa ở đây không tốt lành gì cho chúng mình cả. Cứ lần nào người ta nói với mình như thế để động viên thì y như rằng lần ấy hoặc mình bị một viên đạn vào đâu đấy, hoặc ăn một nhát kiếm vào người, hay lại vớ ngay được một chậu hoa lên đầu. :haha:

"Đừng e ngại" thì dù là tiếng Do Thái cổ hay tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh hay tiếng Pháp bao giờ cũng có nghĩa là "Coi chừng đấy". :nhamnho:

- Đi thôi các ông - Viên trung uý khinh kỵ nói.

- Này, hỏi thế này thí khí tò mò chứ người ta định dẫn chúng tôi đi đâu đây? - Coconnas hỏi.

- Tôi nghĩ là tới nhà tù Vincennnes - Viên trung uý đáp.
- Tôi thích đi chỗ khác hơn :haha: - Coconnas tiếp - Nhưng tóm lại thì có phải bao giờ người ta cũng được đến nơi mình muốn đâu.


.................................................

- Ê này! Mẹ kiếp! Mở cửa ra, dù chỉ để cho không khí chui vào thôi cũng được. Lò nhà các anh nóng đến chết ngạt được.
Nghe câu rủa quen thuộc chắc bạn đọc đã nhận ra Coconnas, chàng chỉ nhảy một bước là đã tới bên cửa.

- Chờ tí đã, thưa ông quý tộc - Viên giữ cửa nói - Tôi đến không phải để thả ông ra mà là để vào mà là có ngài quản ngụci theo tôi.
- Quan ngục ngục! - Coconnas thốt lên - Thế ông ta đến làm gì?
- Đến để thăm ông.
- Thật vinh dự quá, xin hoan nghênh ông chủ pháo đài.

Ông Beaulieu bước vào thật và dẹp ngay nụ cười thân mật của Coconnas bằng một trò lịch sự lạnh lùng của riêng các viên chủ thành, các viên coi ngục và đao phủ.

- Thưa ông, ông có tiền không? - Ông ta hỏi tù nhân.

- Tôi ấy à? - Coconnas đáp - Không có một xu..

- Ông có đồ trang sức không?

- Tôi có một cái nhẫn.

- Xin ông vui lòng cho tôi được khám người.

- Mẹ kiếp! - Coconnas đỏ mặt lên vì tức - Ông thật may là đang ở trong tù và tôi cũng đang trong tù.

- Cần phải biết chịu đựng để phục vụ đức vua.

- Hoá ra là những người lương thiện chuyên đi cướp của cũng là phục vụ đức vua như ông đấy? Mẹ kiếp? Tôi bất công thật, thưa ông, vì cho tới nay tôi vẫn cứ tưởng họ là đồ kẻ cướp. :nhamnho:

- Thưa ông, xin chào ông - Beaulieu nói - Lính! Nhốt ông đây lại.

Viên chủ thành bỏ đi mang theo chiếc nhẫn của Coconnas.

Đó là một chiếc nhẫn khảm ngọc bích tuyệt đẹp của phu nhân de Nervers tặng chàng để nhắc chàng nhớ tới màu mắt nàng.

- Tới người kia! - Chủ pháo đài phán.

Cánh cửa cuối cùng mở ra và một tiếng thở dài là tiếng động đầu tiên vọng tới những người khách.

Căn phòng nom còn ảm đạm hơn cả phòng ông Beaulieu vừa ra khỏi. De Mole ngồi trong góc, mặc dù có khách nhưng chàng vẫn ngồi yên tựa như không nghe thấy gì.

Viên chủ thành đứng dừng trên ngưỡng cửa và nhìn người tù một lúc. Chàng vẫn ngồi gục đầu vào tay, bất động.

- Chào ông, ông De Mole - Beaulieu cất tiếng.

Chàng trai từ từ ngẩng đầu lên.

- Chào ông - Chàng đáp.

- Thưa ông, tôi đến để khám xét ông - Viên chủ pháo đài thông báo.

- Ích gì - De Mole đáp - Tôi sẽ giao tất cả những gì tôi có cho ông.

- Ông có những gì?

- Khoảng ba trăm écus, đồ trang sức và nhẫn.

- Xin ông đưa đây.

- Đây! - De Mole lục túi, tháo hết nhẫn ở ngón tay và gỡ chiếc ghim cài trên mũ.

- Ông không còn gì nữa à?

- Tôi nghĩ là không.

- Thế cái sợi dây lụa ở cổ ông kia đeo cái gì vậy?

- Thưa ông, đây không phải là đồ vàng bạc mà là một thành tích.

- Đưa đây.

- Sao? Ông đòi như vậy à?

- Tôi được lệnh chỉ để lại quần áo cho ông thôi. Thành tích không phải là quần áo.

De Mole phác một cử chỉ tức giận. Với một sự bình tĩnh tuy đau đớn mà đàng hoàng khiến chàng nổi bật lên, nỗi tức giận đó dường như còn đáng sợ hơn đối với những người vẫn quen với những tình cảm mạnh. Nhưng chàng lại bình tĩnh ngay và nói:

- Thôi được, thưa ông, ông sẽ được nhìn thấy cái mà ông yêu cầu. Chàng quay mặt đi như để tiến lại gần phía ánh sáng và rút cái thành tích giả mạo đó ra. Thành tích đó chẳng phải là cái gì khác ngoài một chiếc mề đay trong có một bức chân dung mà chàng rút ra và đưa lên môi. Sau khi đã hôn bức chân dung nhiều lần, chàng giả vờ đánh rơi xuống đất và dằn mạnh gót giày lên trên khiến nó vỡ tan thành ngàn mảnh.

- Kìa ông!… - Viên chủ pháo đài thốt lên.

Và y cúi xuống xem có thể vớt vát lại được cái vật bí ẩn mà De Mole đã muốn giấu y ấy. Nhưng bức hình nhỏ đã bị nghiền ra như cám.

- Nhà vua muốn có vật trang sức này - De Mole nói - Nhưng Người không có quyền gì đối với bức chân dung mà tấm mề đay chứa đựng. Giờ thì mể đay đây, ông có thể cầm lấy.

- Thưa ông - Beaulieu đáp - Tôi sẽ khiếu nại tới đức vua.

Và không chào từ biệt người tù lấy một lời, y bước ra cáu kỉnh đến nỗi để mặc cho viên giữ cửa đóng các cửa lại mà không cần có ý chứng kiến.

Người coi ngục bước mấy bước như định đi rồi khi thấy ông de Beaulieu đã bước xuống những bậc thang đầu tiên, anh ta quay lại nói:

- Thưa ông thật may là tôi đã đề nghị ông trao ngay cho tôi trăm écus nhờ đó tôi cho phép ông được nói chuyện với bạn ông. Nếu ông không trao cho tôi thì quan chủ thành đã lấy đi mất cùng ba trăm écus kia rồi và lương tâm tôi sẽ không cho phép tôi giúp các ông việc gì nữa cả. Nhưng vì tôi đã được trả tiền trước, tôi đã hứa là cho ông gặp bạn ông… :nhamnho:đi nào… người tử tế chỉ có lời hứa là quý… Tuy nhiên nếu có thể được thì xin các ông đừng nói chuyện chính trị, thế là tốt cho cả hai đằng.

De Mole ra khỏi phòng và thấy trước mình là Coconnas đang xoạc cẳng bước trên những tấm lát sàn của căn phòng giữa.
Hai người bạn ôm chầm lấy nhau.

Viên giữ cửa làm bộ chùi khóe mắt và đi ra để canh cho hai người tù hay đúng hơn cũng là để canh cho chính y. :nhamnho:

- A! Cậu đây rồi! - Coconnas kêu - Thế nào, cái thằng cha chủ pháo đài ghê tởm ấy đã tới thăm cậu rồi đấy à?
- Mình đoán hắn cũng thăm cậu rồi. :haha:

- Thế hắn lấy hết của cậu à?
- Cậu thì chắc cũng thế chứ gì. :haha:

- Ôi, mình thì chẳng có gì, mỗi một cái nhẫn của Henriette.

- Thế còn tiền mặt thì sao?

- Có gì thì mình đã cho hết cái lão giữ cửa tốt bụng kia để hắn cho chúng mình gặp nhau.
- Á à! Hình như hắn xơi cả hai đằng thì phải. :nhamnho:

- Cậu cũng trả cho lão à?
- Mình cho hắn một trăm écus. :015:

- Người giữ cho chúng mình là đồ khốn kiếp thì càng tốt chứ sao.

- Đúng thế, với tiền ta muốn làm gì cũng được, và cũng phải hy vọng là tiền thì chúng mình không thiếu.

- Bây giờ cậu đã hiểu ra chuyện gì xảy đến với chúng mình chưa?

- Rõ quá… Chúng ta đã bị phản.

- Chính bởi cái thằng quận công đáng ghét ấy. Mình muốn vặn cổ hắn là có lý lắm.

- Cậu nghĩ chuyện chúng mình có nghiêm trọng lắm không?

- Mình sợ rằng có đấy..
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top