- Ngọc
- 149.622,65
- Tu vi
- 1.369,13
Cảm ơn bàn tọa nhé, ta rất hứng thú với hai bài viết lão đưa ra![]()
Người ta 3 bài, làm sao còn có 2 bài vậy. Vậy thì bài nào ko hứng thú.

Cảm ơn bàn tọa nhé, ta rất hứng thú với hai bài viết lão đưa ra![]()
Ủa, a dậy a hử. Em đọc một mạch không để ý có 3 bài lậnNgười ta 3 bài, làm sao còn có 2 bài vậy. Vậy thì bài nào ko hứng thú.![]()
Theo truyền thuyết thì nước ta có từ xa xưa, được kể lại trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:
Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Theo truyền thuyết thời Hồng Bàng 2879 TCN đời vua Kinh Dương Vương , quốc hiệu Xích Quỷ (赤鬼 hay 軌?), lãnh thổ bao gồm đông giáp Nam Hải (南海), tức biển Đông, tây tới Ba Thục (巴蜀), bắc tới hồ Động Đình (洞庭).
Theo những gì đã kể trên thì nước ta bắt đầu có biên giới, tên gọi và triều chính từ năm 2879 TCN. Đây là mốc thời gian dao động vài mươi năm trước sau mà người Trung Hoa cũng lấy làm mốc thời gian cho việc khởi đầu của dân tộc họ, 2852 TCN tới 2205 TCN. Điều này cho thấy rằng đã có một sự liên quan nhất định về thời điểm khởi nguồn dân tộc giữa Bắc và Nam, đồng thời nó cũng nói lên rằng lí thuyết ấy bắt nguồn từ những con người đã từng sống chung và chia sẻ với nhau về lãnh thổ cũng như văn hóa. Sự khác biệt này đã được thể hiện ngay trong ngôn từ của truyền thuyết. Hãy phân tích xem cách mà người Việt xưa kể lại gốc tích của đất nước mình.
Kinh Dương Vương 涇陽王: Chữ Kinh 涇 viết bằng bộ thủy = Nước có nghĩa là tên sông Kinh (Trong)= Vị (Đục), mà cũng có nghĩa làm nguồn cội trong lành. Chữ Dương 陽 = như tôi đã chứng minh trước, chữ Dương này nguyên trước của người Việt tạo ra đọc là Ương – Nọc của Nhị nghi. Đây là một chữ hội í gồm hai chữ Phụ + Dịch hay Cóc + Diệc. Có nghĩa là chữ Dương này có liên quan mật thiết với Dịch lí. Chữ Vương 王 là Vua. Xích = Đỏ, Quỷ = Vùng, lãnh thổ. Theo Hà đồ màu đỏ là tượng trưng cho Phương Nam. Con gái = Âm = Nước, (Động Đình) hồ = Nước. Thần Long = Rồng = Nước. Sinh Long Nữ = Rồng = Nước, Lạc = Nác = Nước, Long = Rồng = Nước.
Ranh giới lãnh thổ cũng toàn nước. Đông giáp Nam Hải = Biển đông = Nước. Bắc Giáp Hồ Động Đình = Nước.
Như vậy ngay cái tên Kinh Dương Vương, thủy tổ của người Việt, đã cho cái nghĩa là: Người Việt là Vua của Dịch lí. Hay vua người Việt khai nguồn cho Dịch lí. Đồng thời qua đó ta thấy truyền thuyết về dân tộc Việt đã được kể lại với tinh thần Dịch lí, văn hóa cốt lõi của dân tộc họ. Xuyên suốt lãnh thổ là nước hay nói khác hơn là cư dân lúa nước. Ngay cả truyền thuyết về Lạc Long Quân cũng cho thấy điều đó, quê hương là Thủy phủ. Có lẽ trên thế giới này chỉ duy nhất Việt Nam dùng từ Nước để chỉ quốc gia như Nước Việt Nam, Nước Lào... chính vì vậy mà khi làm ra cái triết thuyết vĩ đại Dịch học, người Việt cũng dựa trên Nước = Hà (sông) đồ, Lạc (nước) thư.
Câu chuyện về nguồn gốc kể trên là chỉ dấu một vùng
đất trong những vùng đất mà người Việt từng sinh sống mà thôi. Việc phát hiện Hà đồ trên trống Đồng cho phép ta tin rằng người Việt không những sống ở bờ Nam sông Dương Tử mà còn sống ở lưu vực Hoàng Hà hàng ngàn năm, vì ngay ở thời kì đầu lịch sử nhà Thương cho thấy Dịch lí đã hết sức thịnh hành ở đó rồi, điều này chứng tỏ người Việt đã sinh sống ở đó rất lâu rồi cho nên khi từ bỏ vùng đất ấy ta mới có ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Núi Thái là ngọn núi cao nhất thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, một trong những vùng đất thuộc đời Thương. Trong nguồn về sau người ta đổi thành Trung Nguyên; đồng thời ta lại có truyền thuyết thánh Gióng đánh giặc Ân. Theo lịch sử thì nước ta chưa từng có chuyện giặc Ân nào xâm lăng. Rõ ràng đây là câu chuyện cũ từ ngày dân tộc ta còn ở Ân Khư - Sơn Đông.
Trong cuốn: "Người Việt - chủ nhân của Kinh dịch và Chữ Vuông" của thầy Thích Viên Như, tại phần 5, có đoạn giải thích về truyền thuyết lập quốc của người Việt như sau:
Mấy cái này mà nói rộng ra một hồi chắc chủ thớt "tẩu hỏa nhập ma".
Cá nhân anh ko đồng ý với những luận điểm của thầy Thích Viên Như. Cũng như cũng ko đồng ý với bài đầu tiên mà TTB post.
Vậy là theo lịch sử, lãnh thổ phía bắc của các triều đại người Việt rộng hơn rất nhiều so với hiện tại.
Chào mừng bạn đến với diễn đàn Bạch Ngọc Sách
Để xem đầy đủ nội dung và sử dụng các tính năng, mời bạn Đăng nhập hoặc Đăng ký tài khoản