- Ngọc
- 149.622,65
- Tu vi
- 1.369,13
Về huyền sử Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, trước tiên phải nói đây là truyền thuyết, liệu có bao nhiêu tính xác thực trong đó, rất khó nói, tuy nhiên các học giả cũng ko bao giờ phủ nhận nó hoàn toàn. Ko nói riêng truyện Lạc Long Quân mà nói chung cả những truyền thuyết khác như: Bàn Cổ, Nữ Oa, Uranus, Zues..., các học giả luôn xem các truyền thuyết này như những cứ liệu văn vật để tìm kiếm các dấu vết lịch sử của một dân tộc một nền văn hóa.
Mỗi dân tộc hầu như đều có một truyền thuyết khởi nguồn của chính mình. Nếu vài truyền thuyết này có nhiều đặc điểm tương đồng cùng nhau và nếu có thêm một số đặc điểm văn hóa và lịch sử khác cũng tương đồng thì chúng ta có thể an toàn mà nói rằng: hai dân tộc đó được tách ra từ một nhóm người cổ xưa hơn.
Người Mường cũng có một truyền thuyết tương tự như Lạc Long Quân Âu Cơ của người Kinh, đó là truyền thuyết Chim Ây Cái Ứa: đẻ ra ngàn trứng sinh ra muôn loài, trăm trứng trong đó sinh ra con người. Cùng với những tương đồng về ngôn ngữ, khá nhiều học giả tin rằng người Mường và người Kinh là có xuất phát điểm từ cùng một dân tộc về sau tách thành hai. Người Mường còn giữ lại khá nhiều nét riêng của nhóm người cổ, còn người Kinh (ở đồng bằng) thì bị Hán hóa rất nhiều.
Nói dông dài bên trên là để nói rằng truyền thuyết Lạc Long Quân đã có gốc rễ từ rất lâu đời chứ ko phải chỉ mới xuất hiện sau thời Hậu Lý. Bản ghi chép cũ nhất của truyền thuyết này mà còn đc lưu lại đến ngày nay là Đại Việt sử ký toàn thư - thế kỷ 15.
Nhưng cũng phải nói đó là bàn về gốc rễ của truyền thuyết Long Quân, chứ bản truyền thuyết đến đc tay chúng ta ngày nay chắc chắn ko còn là nguyên gốc nữa. Nhưng chính những cái ko nguyên gốc đó lại là cái đã khiến các học giả thích thú, bởi vì nó lưu lại vết tích giao lưu văn hóa của người Kinh, xác lập việc người Kinh tách lập khỏi cái gốc chung với người Mường.
Trước tiên cần phải xác nhận là bản huyền sử LLQ hiện tại vẫn là sản phẩm do người Việt (Kinh) tạo dựng chứ ko phải là một công cụ mà người phương Bắc thêm thắt vô để ám chỉ người Việt có gốc nguồn từ Trung Quốc. Lý do rất đơn giản, trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, chính quyền phương Bắc đã tìm mọi cách để đồng hóa người Việt, sẽ chẳng có lý do gì để người Tàu đi vòng vèo sửa đổi một truyền thuyết khởi nguồn một dân tộc cả. Thay vào đó người Tàu sẽ cấm tuyệt truyền thuyết LLQ, đồng thời sẽ truyền bá và tiêm nhiễm trực tiếp huyền sử của họ vào người Việt. Đó là các truyền thuyết Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa, Huỳnh Đế, Toại Nhân... Chính vì vậy việc truyện LLQ-AC còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy đây là sản phẩm nội 100% và cũng là minh chứng cho sức sống dẻo dai của văn hóa người Kinh.
Dù vậy việc nó tồn tại ko có nghĩa là nó giữ đc nguyên gốc, bởi vì, là sản phẩm của văn hóa nó sẽ bị sự chi phối bởi các thay đổi văn hóa.
1. Để ý tính trọng nam khinh nữ trong truyền thuyết. 100 trứng đẻ ra 100 người con trai. Không có con gái. Với chi tiết này có thể nói truyền thuyết này bị thay đổi một phần khi các lý thuyết Nho giáo thấm nhuần vào giới học thuật người Việt. Nên biết người Việt cho đến đầu thế kỷ 3 vẫn còn là xã hội giữ rất nhiều đặc tính mẫu hệ dù rằng đã chuyển qua chế độ phụ hệ (việc Bà Trưng Bà Triệu cầm binh cho thấy rất rõ điểm này). Huyền sử LLQ chắc chắn phải có trước thời Bà Trưng (có khi là có vào thời Hùng Vương - như là một công cụ để hợp thức hóa tính chính quy của Hùng Vương), nghĩa là vào thời mà vai trò của người phụ nữ còn đc đặt rất cao, cho nên ko lý nào nguyên gốc truyền thuyết lại coi thường con gái như vậy.
2. Các tên gọi của nhân vật. Thay vì dùng tên tục Sùng Lãm, Lộc Tục thì lại dùng các tước hiệu vương/quân cho thấy đã có một sự Hán hóa khá rõ nét trong thời điểm chi tiết này bị thay đổi. So sánh với Chim Ây Cái Ứa của người Mường thì mấy từ Lạc Long Quân Âu Cơ ko còn nhiều mang sắc màu tiếng Việt cổ nữa.
3. Nhân vật Thần Nông. Đây là điểm thú vị nhất trong truyền thuyết này, chỉ một chi tiết này cũng đã đủ để xác lập vị trí của họ Hồng Bàng trong nhóm Bách Việt, đồng thời cũng gây bao sóng gió tranh luận liên quan đến truyền thuyết này: Liệu tổ tiên người Việt có phải là người Trung Quốc? liệu nước Xích Quỷ chính là nhà nước đầu tiên của chúng ta vốn có cương vực phía bắc lên đến sông Trường Giang và rằng miền nam Trường Giang của Trung Quốc hiện tại có chính là mảnh đất của cha ông chúng ta?
Việc có Thần Nông (Viêm Đế) ở trong truyền thuyết này cho thấy: Nếu truyền thuyết gốc đã có Thần Nông thì người Kinh (và có thể cả người Mường) chính là có nguồn gốc từ một tộc Việt trong nhóm Bách Việt đã di cư xuống phía nam. Nếu Thần Nông đc thêm vào sau này thì lại chứng tỏ rằng một nhóm Bách Việt đã di cư đến đồng bằng sông Hồng đồng thời đem văn hóa của họ hòa nhập vào văn hóa của người Việt (Kinh) cổ ở sở tại và dẫn đến sự thay đổi trong truyền thuyết. Cả hai trường hợp đều xác nhận rằng: người Kinh hiện tại có gốc nguồn ở Bách Việt.
Về nhân vật Thần Nông, cần phải nói rằng đây cũng là nhân vật truyền thuyết, nhưng quan trọng hơn, ông ta KHÔNG phải là tổ tiên của người Hoa Hạ, dù rằng có thể xem ông ta là một trong các tổ của người Trung Quốc sau này.
Vào thời điểm nền văn hóa Hoa Hạ bắt đầu khởi dựng ở phía bắc Hoàng Hà, thì ở lưu vực sông Dương Tử cũng có một nên văn hóa khác đc xây dựng - đó là nền văn hóa Thần Nông. Huỳnh Đế đc xem là ông tổ của nền văn hóa Hoa Hạ do có công đánh đuổi Xi Vưu (tổ của người Hmong), thì ở phía nam Viêm Đế đc xem là tổ của văn hóa Thần Nông.
Văn hóa Thần Nông trải rộng từ lân cận phía bắc Dương Tử và bao gồm luôn cả phần phía nam Dương Tử (khu vực của các tộc Bách Việt). Nhiều học giả tin rằng văn hóa Thần Nông là do người phương nam di cư lên bắc để lập nghiệp, họ mang theo kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồng của mình. Văn hóa Hoa Hạ không biết trồng lúa gạo (do thời tiết quá lạnh) họ chỉ có lúa mì. Các tộc người của văn hóa Thần Nông sống rải rác khắp miền Nam và Bắc sông Dương Tử. Những tộc ở miền Nam sau này đc gọi là Bách Việt.
Ở lưu vực sông Hoàng hà, do địa hình bằng phẳng thuận lợi cho trao đổi thông thương, mà văn hóa Hoa Hạ phát triển mạnh mẽ, sớm hoàn thiện chữ viết của mình. Cùng với việc tìm ra những quặng sắt gần đó đã khiến nền văn hóa này sớm chuyển sang thời đại đồ sắt, sản phẩm tạo ra nhiều hơn, thúc đẩy các biến chuyển của xã hội. Chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc đã thúc đẩy việc hình thành các nhà nước có tổ chức hoàn thiện hơn: Hạ, Thương, Chu... Trong khi đó, văn hóa Thần Nông do giao thông trắc trở, khó trao đổi với nhau khiến kinh tế văn hóa bị cô lập lại ở từng khu vực, ít chiến tranh hơn nhưng cũng vì thế mà các hình thái xã hội tiến hóa chậm hơn. Và điều gì đến phải đến, khi cả văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ cùng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình, chiến tranh sẽ xảy ra, phần thắng trên chiến trường luôn nghiêng về văn hóa Hoa Hạ. Vào thời cuối nhà Chu, trong vùng lãnh thổ phía bắc Trường giang, bắt đầu sự sáp nhập một phần văn hóa Thần Nông vào văn hóa Hoa Hạ.
Kỳ thật đây là một sự trộn lẫn văn hóa vào nhau - vốn diễn ra một cách mặc nhiên mà ko cần phải có thêm một phương pháp chính trị nào thúc đẩy. Một bên giỏi chăn nuôi một bên giỏi trồng lúa, một bên có công cụ bằng sắt một bên biết ca trù hát xướng. Chính vì vậy mà người Trung Quốc sau này xem Thần Nông là một tổ của mình. Cái câu "Viêm Hoàng tử tôn" từ đó mà ra. Viêm là Thần Nông, Hoàng là Huỳnh Đế.
Nhưng Thần Nông còn là tổ của khá nhiều các tộc trong Bách Việt nữa. Sau khi nền văn hóa Hoa Hạ sáp nhập một phần văn hóa Thần Nông, thì họ lại đụng phải địa hình hiểm trở của miền nam Trung Quốc, khiến cho việc thôn tính sáp nhập văn hóa bị chậm lại. Họ dùng từ Bách Việt để gọi chung cho tất cả những dân tộc ở miền Nam, nơi mà còn chưa bị ảnh hưởng văn hóa của họ. Rất nhiều các tộc trong này vốn thuộc nền văn hóa Thần Nông trước đây.
Quay lại huyền sử LLQ-AC, nếu LLQ là con cháu của Thần Nông thì hoàn toàn là điều dễ hiểu. Bởi vì Thần Nông vốn chính thuộc một nền văn hóa riêng biệt với Hoa Hạ. Về sau bị người Hoa Hạ đưa vào văn hóa của họ. Nếu cần phải nói thì đó chính là người Hoa Hạ đã lấy tổ người khác để làm tổ của mình. Nhưng nói thế thì cũng quá khắc khe, bởi vì đúng là một phần con dân của Hoa Hạ cũng chính là con cháu của Thần Nông.
Khi nhìn vào truyện LLQ-AC, so sánh với truyền thuyết Chim Ây Cái Ứa, có giả thiết cho là: Người Kinh vốn cùng một gốc với người Mường, nhưng di cư xuống đồng bằng sinh sống. Ngay trong những thời điểm đầu lập nghiệp, một bộ phận của Bách Việt (chả biết tộc Việt nào) cũng di cư xuống vùng sông Hồng cùng chung tay dựng lập triều đại Hùng Vương, chính vì vậy họ cũng đem theo luôn truyền tích Thần Nông vào huyền sử khởi nguồn này, đồng thời cũng thúc đẩy việc tách rời người Kinh khỏi nguồn gốc chung với người Mường.
Nói thế này, cha mẹ lấy nhau, mẹ là dân Việt Mường cổ, cha là Việt tộc cổ. Đứa con sinh ra, mẹ kể cho con nghe câu chuyện Cái Ứa sinh ra trăm trứng nở nên con người. Người cha xỏ mỏ vô, cha đây là con cháu của Thần Nông ở Xích quỷ. Gộp chung vào lại, thêm chút mắm muối, thế là ra Lạc Long Quân Âu Cơ.
Nói dông dài, cho dù câu chuyện huyền sử này đúng sai, hoang đường thế nào thì nó cũng đã đóng góp rất lớn vào sự tự hào của dân tộc. Nó chính là nguyên nhân trực tiếp để chúng ta xưng "con Rồng cháu Tiên" xác lập cái riêng của dân tộc giữa vô vàn các dân tộc trên thế giới, gián tiếp giúp người Kinh đứng vững trước nhiều đợt thôn tính đồng hóa của Tàu và Tây sau này. Cũng vì chính lý do này mà huyền sử này nên luôn có đc một vị trí trân trọng trong văn hóa người Kinh.
Mỗi dân tộc hầu như đều có một truyền thuyết khởi nguồn của chính mình. Nếu vài truyền thuyết này có nhiều đặc điểm tương đồng cùng nhau và nếu có thêm một số đặc điểm văn hóa và lịch sử khác cũng tương đồng thì chúng ta có thể an toàn mà nói rằng: hai dân tộc đó được tách ra từ một nhóm người cổ xưa hơn.
Người Mường cũng có một truyền thuyết tương tự như Lạc Long Quân Âu Cơ của người Kinh, đó là truyền thuyết Chim Ây Cái Ứa: đẻ ra ngàn trứng sinh ra muôn loài, trăm trứng trong đó sinh ra con người. Cùng với những tương đồng về ngôn ngữ, khá nhiều học giả tin rằng người Mường và người Kinh là có xuất phát điểm từ cùng một dân tộc về sau tách thành hai. Người Mường còn giữ lại khá nhiều nét riêng của nhóm người cổ, còn người Kinh (ở đồng bằng) thì bị Hán hóa rất nhiều.
Nói dông dài bên trên là để nói rằng truyền thuyết Lạc Long Quân đã có gốc rễ từ rất lâu đời chứ ko phải chỉ mới xuất hiện sau thời Hậu Lý. Bản ghi chép cũ nhất của truyền thuyết này mà còn đc lưu lại đến ngày nay là Đại Việt sử ký toàn thư - thế kỷ 15.
Nhưng cũng phải nói đó là bàn về gốc rễ của truyền thuyết Long Quân, chứ bản truyền thuyết đến đc tay chúng ta ngày nay chắc chắn ko còn là nguyên gốc nữa. Nhưng chính những cái ko nguyên gốc đó lại là cái đã khiến các học giả thích thú, bởi vì nó lưu lại vết tích giao lưu văn hóa của người Kinh, xác lập việc người Kinh tách lập khỏi cái gốc chung với người Mường.
Trước tiên cần phải xác nhận là bản huyền sử LLQ hiện tại vẫn là sản phẩm do người Việt (Kinh) tạo dựng chứ ko phải là một công cụ mà người phương Bắc thêm thắt vô để ám chỉ người Việt có gốc nguồn từ Trung Quốc. Lý do rất đơn giản, trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, chính quyền phương Bắc đã tìm mọi cách để đồng hóa người Việt, sẽ chẳng có lý do gì để người Tàu đi vòng vèo sửa đổi một truyền thuyết khởi nguồn một dân tộc cả. Thay vào đó người Tàu sẽ cấm tuyệt truyền thuyết LLQ, đồng thời sẽ truyền bá và tiêm nhiễm trực tiếp huyền sử của họ vào người Việt. Đó là các truyền thuyết Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa, Huỳnh Đế, Toại Nhân... Chính vì vậy việc truyện LLQ-AC còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy đây là sản phẩm nội 100% và cũng là minh chứng cho sức sống dẻo dai của văn hóa người Kinh.
Dù vậy việc nó tồn tại ko có nghĩa là nó giữ đc nguyên gốc, bởi vì, là sản phẩm của văn hóa nó sẽ bị sự chi phối bởi các thay đổi văn hóa.
1. Để ý tính trọng nam khinh nữ trong truyền thuyết. 100 trứng đẻ ra 100 người con trai. Không có con gái. Với chi tiết này có thể nói truyền thuyết này bị thay đổi một phần khi các lý thuyết Nho giáo thấm nhuần vào giới học thuật người Việt. Nên biết người Việt cho đến đầu thế kỷ 3 vẫn còn là xã hội giữ rất nhiều đặc tính mẫu hệ dù rằng đã chuyển qua chế độ phụ hệ (việc Bà Trưng Bà Triệu cầm binh cho thấy rất rõ điểm này). Huyền sử LLQ chắc chắn phải có trước thời Bà Trưng (có khi là có vào thời Hùng Vương - như là một công cụ để hợp thức hóa tính chính quy của Hùng Vương), nghĩa là vào thời mà vai trò của người phụ nữ còn đc đặt rất cao, cho nên ko lý nào nguyên gốc truyền thuyết lại coi thường con gái như vậy.
2. Các tên gọi của nhân vật. Thay vì dùng tên tục Sùng Lãm, Lộc Tục thì lại dùng các tước hiệu vương/quân cho thấy đã có một sự Hán hóa khá rõ nét trong thời điểm chi tiết này bị thay đổi. So sánh với Chim Ây Cái Ứa của người Mường thì mấy từ Lạc Long Quân Âu Cơ ko còn nhiều mang sắc màu tiếng Việt cổ nữa.
3. Nhân vật Thần Nông. Đây là điểm thú vị nhất trong truyền thuyết này, chỉ một chi tiết này cũng đã đủ để xác lập vị trí của họ Hồng Bàng trong nhóm Bách Việt, đồng thời cũng gây bao sóng gió tranh luận liên quan đến truyền thuyết này: Liệu tổ tiên người Việt có phải là người Trung Quốc? liệu nước Xích Quỷ chính là nhà nước đầu tiên của chúng ta vốn có cương vực phía bắc lên đến sông Trường Giang và rằng miền nam Trường Giang của Trung Quốc hiện tại có chính là mảnh đất của cha ông chúng ta?
Việc có Thần Nông (Viêm Đế) ở trong truyền thuyết này cho thấy: Nếu truyền thuyết gốc đã có Thần Nông thì người Kinh (và có thể cả người Mường) chính là có nguồn gốc từ một tộc Việt trong nhóm Bách Việt đã di cư xuống phía nam. Nếu Thần Nông đc thêm vào sau này thì lại chứng tỏ rằng một nhóm Bách Việt đã di cư đến đồng bằng sông Hồng đồng thời đem văn hóa của họ hòa nhập vào văn hóa của người Việt (Kinh) cổ ở sở tại và dẫn đến sự thay đổi trong truyền thuyết. Cả hai trường hợp đều xác nhận rằng: người Kinh hiện tại có gốc nguồn ở Bách Việt.
Về nhân vật Thần Nông, cần phải nói rằng đây cũng là nhân vật truyền thuyết, nhưng quan trọng hơn, ông ta KHÔNG phải là tổ tiên của người Hoa Hạ, dù rằng có thể xem ông ta là một trong các tổ của người Trung Quốc sau này.
Vào thời điểm nền văn hóa Hoa Hạ bắt đầu khởi dựng ở phía bắc Hoàng Hà, thì ở lưu vực sông Dương Tử cũng có một nên văn hóa khác đc xây dựng - đó là nền văn hóa Thần Nông. Huỳnh Đế đc xem là ông tổ của nền văn hóa Hoa Hạ do có công đánh đuổi Xi Vưu (tổ của người Hmong), thì ở phía nam Viêm Đế đc xem là tổ của văn hóa Thần Nông.
Văn hóa Thần Nông trải rộng từ lân cận phía bắc Dương Tử và bao gồm luôn cả phần phía nam Dương Tử (khu vực của các tộc Bách Việt). Nhiều học giả tin rằng văn hóa Thần Nông là do người phương nam di cư lên bắc để lập nghiệp, họ mang theo kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồng của mình. Văn hóa Hoa Hạ không biết trồng lúa gạo (do thời tiết quá lạnh) họ chỉ có lúa mì. Các tộc người của văn hóa Thần Nông sống rải rác khắp miền Nam và Bắc sông Dương Tử. Những tộc ở miền Nam sau này đc gọi là Bách Việt.
Ở lưu vực sông Hoàng hà, do địa hình bằng phẳng thuận lợi cho trao đổi thông thương, mà văn hóa Hoa Hạ phát triển mạnh mẽ, sớm hoàn thiện chữ viết của mình. Cùng với việc tìm ra những quặng sắt gần đó đã khiến nền văn hóa này sớm chuyển sang thời đại đồ sắt, sản phẩm tạo ra nhiều hơn, thúc đẩy các biến chuyển của xã hội. Chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc đã thúc đẩy việc hình thành các nhà nước có tổ chức hoàn thiện hơn: Hạ, Thương, Chu... Trong khi đó, văn hóa Thần Nông do giao thông trắc trở, khó trao đổi với nhau khiến kinh tế văn hóa bị cô lập lại ở từng khu vực, ít chiến tranh hơn nhưng cũng vì thế mà các hình thái xã hội tiến hóa chậm hơn. Và điều gì đến phải đến, khi cả văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ cùng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình, chiến tranh sẽ xảy ra, phần thắng trên chiến trường luôn nghiêng về văn hóa Hoa Hạ. Vào thời cuối nhà Chu, trong vùng lãnh thổ phía bắc Trường giang, bắt đầu sự sáp nhập một phần văn hóa Thần Nông vào văn hóa Hoa Hạ.
Kỳ thật đây là một sự trộn lẫn văn hóa vào nhau - vốn diễn ra một cách mặc nhiên mà ko cần phải có thêm một phương pháp chính trị nào thúc đẩy. Một bên giỏi chăn nuôi một bên giỏi trồng lúa, một bên có công cụ bằng sắt một bên biết ca trù hát xướng. Chính vì vậy mà người Trung Quốc sau này xem Thần Nông là một tổ của mình. Cái câu "Viêm Hoàng tử tôn" từ đó mà ra. Viêm là Thần Nông, Hoàng là Huỳnh Đế.
Nhưng Thần Nông còn là tổ của khá nhiều các tộc trong Bách Việt nữa. Sau khi nền văn hóa Hoa Hạ sáp nhập một phần văn hóa Thần Nông, thì họ lại đụng phải địa hình hiểm trở của miền nam Trung Quốc, khiến cho việc thôn tính sáp nhập văn hóa bị chậm lại. Họ dùng từ Bách Việt để gọi chung cho tất cả những dân tộc ở miền Nam, nơi mà còn chưa bị ảnh hưởng văn hóa của họ. Rất nhiều các tộc trong này vốn thuộc nền văn hóa Thần Nông trước đây.
Quay lại huyền sử LLQ-AC, nếu LLQ là con cháu của Thần Nông thì hoàn toàn là điều dễ hiểu. Bởi vì Thần Nông vốn chính thuộc một nền văn hóa riêng biệt với Hoa Hạ. Về sau bị người Hoa Hạ đưa vào văn hóa của họ. Nếu cần phải nói thì đó chính là người Hoa Hạ đã lấy tổ người khác để làm tổ của mình. Nhưng nói thế thì cũng quá khắc khe, bởi vì đúng là một phần con dân của Hoa Hạ cũng chính là con cháu của Thần Nông.
Khi nhìn vào truyện LLQ-AC, so sánh với truyền thuyết Chim Ây Cái Ứa, có giả thiết cho là: Người Kinh vốn cùng một gốc với người Mường, nhưng di cư xuống đồng bằng sinh sống. Ngay trong những thời điểm đầu lập nghiệp, một bộ phận của Bách Việt (chả biết tộc Việt nào) cũng di cư xuống vùng sông Hồng cùng chung tay dựng lập triều đại Hùng Vương, chính vì vậy họ cũng đem theo luôn truyền tích Thần Nông vào huyền sử khởi nguồn này, đồng thời cũng thúc đẩy việc tách rời người Kinh khỏi nguồn gốc chung với người Mường.
Nói thế này, cha mẹ lấy nhau, mẹ là dân Việt Mường cổ, cha là Việt tộc cổ. Đứa con sinh ra, mẹ kể cho con nghe câu chuyện Cái Ứa sinh ra trăm trứng nở nên con người. Người cha xỏ mỏ vô, cha đây là con cháu của Thần Nông ở Xích quỷ. Gộp chung vào lại, thêm chút mắm muối, thế là ra Lạc Long Quân Âu Cơ.
Nói dông dài, cho dù câu chuyện huyền sử này đúng sai, hoang đường thế nào thì nó cũng đã đóng góp rất lớn vào sự tự hào của dân tộc. Nó chính là nguyên nhân trực tiếp để chúng ta xưng "con Rồng cháu Tiên" xác lập cái riêng của dân tộc giữa vô vàn các dân tộc trên thế giới, gián tiếp giúp người Kinh đứng vững trước nhiều đợt thôn tính đồng hóa của Tàu và Tây sau này. Cũng vì chính lý do này mà huyền sử này nên luôn có đc một vị trí trân trọng trong văn hóa người Kinh.