Đăng ký dịch Angelfall

aiemk46nhat2

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Mọi người cùng tham gia dịch truyện, cùng hỗ trợ nhau, cùng để lại dấu ấn của mình trong truyện dịch, nên không đặt nặng thời gian và độ hoàn chỉnh của bản dịch đâu bạn. :64:
Bạn cứ đăng kí rồi mỗi ngày đem ra dịch một chút, vậy là quý lắm rồi.
Với mình, mình chỉ đặt mục tiêu là đem đến cho mọi thành viên không khí giao lưu vui vẻ, thử sức dịch truyện, nâng cao thêm khả năng Anh Ngữ thôi.:chucmung:
Cảm ơn bạn, mình hiểu mà, có điều còn chương mà chưa dịch xong nó cứ như cục đá trong lòng mình ấy.
Lúc nào mình đủ trình thanh toán 1 lèo hết 1 chương thì mình sẽ quay lại vậy :xinloi:
 

cakiem0990

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Mọi người cùng tham gia dịch truyện, cùng hỗ trợ nhau, cùng để lại dấu ấn của mình trong truyện dịch, nên không đặt nặng thời gian và độ hoàn chỉnh của bản dịch đâu bạn. :64:
Bạn cứ đăng kí rồi mỗi ngày đem ra dịch một chút, vậy là quý lắm rồi.
Với mình, mình chỉ đặt mục tiêu là đem đến cho mọi thành viên không khí giao lưu vui vẻ, thử sức dịch truyện, nâng cao thêm khả năng Anh Ngữ thôi.:chucmung:
Angelfall (Penryn & the End of Days)Author: Susan Ee
Genre: Mystery Thriller

Chap 14:




Chúng tôi đột nhiên chạy hết tốc lực, kim tốc độ trượt hầu như tối đa ngay khi vượt qua chúng. Những con chó này có thể do con người nuôi dưỡng chăng ? Hoặc đây là một đàn đi săn hoang dã? Nếu chúng là đàn hoang dã thì trèo lên cây có thể khiến chúng ta an toàn cho đến khi chúng bỏ đi. Nhưng nếu chúng tiếp tục bám theo...Cái suy nghĩ luẩn quẩn trong đầu tôi. Chúng có thể cần đủ thức ăn để duy trì cho chính chúng nó và những con con. Ai có của cải phong phú như vậy chứ và họ làm thế nào?

Hình ảnh về gia đình ăn thịt người quay trở lại, não tôi như ngừng hoạt động trong khi bản năng thay thế.

Nó hiện lên rõ ràng khi bọn chó tiến sát tới gần chúng tôi bởi tiếng sủa của chúng. Con đường còn xa ở phía sau nên chúng tôi không thể chui vào trong xe hơi được. Cho nên cây cối sẽ có việc để làm.

Tôi nhìn quét khu rừng một cách điên cuồng để tìm cây leo lên. Không có cái cây nào thích hợp cả. Những cây gỗ đỏ cao thẳng mọc xung quanh chúng tôi với những cành cây đâm ra vuông góc với thân cây rất cao so với mặt đất. Tôi tối thiểu phải leo lên gấp 2 chiều cao của mình mới đạt tới chỗ bám thấp nhất của bất kì cây nào ở đây.

Raffe nhảy lên, cố gắng đạt đến một chỗ. Mặc dù vậy vẫn là chưa đủ dù cậu ta nhảy cao hơn rất nhiều so với người bình thường. Cậu ta đấm vào thân cây trong sự chán nản. Trước kia cậu ta có lẽ chưa bao giờ cần phải nhảy. Tại sao phải nhảy lên khi bạn có thể bay?

"Đứng lên vào tôi nào" cậu ta nói.

Tôi không rõ kế hoạch của cậu ta là gì, Nhưng tiếng bọn chó đang dần lớn lên. Tôi không thể nói ra chúng có bao nhiêu con nhưng đó không phải một hay hai mà là cả một đàn.

Cậu ta vồ lấy cổ tay tôi và nâng lên. Cậu ta khỏe. Đủ khỏe để nâng tôi lên bằng mọi cách cho tới khi tôi đứng trên vai cậu ta. Bằng cách này tôi có thể vừa vặn vươn tới cành cây thấp nhất, nhưng đủ để nắm vững nó trong khi cậu ta đẩy tôi lên. Hy vọng chỗ bám trụ mỏng manh này đủ sức giữ tôi.

Cậu ta đặt đôi tay bên dưới chân tôi, trợ giúp và đẩy tôi lên cho tới khi tôi chắc chắn ở trên cành cây. Cành cây lắc lư nhưng giữ tôi ở trên. Tôi tìm bẻ cành nhỏ xung quanh để có thể đưa nó xuống cho cậu ta leo lên.

Nhưng cậu ta đã chạy biến đi trước khi tôi có thể làm bất kì cái gì. Tôi hầu như hô tên cậu ta ra một cách vô thức trước khi nhận ra điều đó. Cái cần thiết nhất chúng tôi cần bây giờ là tránh chỉ ra vị trí của mình.

Tôi thấy cậu ta mất hút xuống dưới đồi. Bây giờ đến lượt tôi nện vào cây một cách chán nản. Cậu ta đang làm cái gì vậy? Nếu cậu ta ở ngay đây, bằng cách này hay cách khác tôi cũng có thể cố gắng đưa ấy ta lên cùng. Chí ít tôi có thể giúp cậu ta chống lại bầy chó bằng cách ném vài thứ xuống dưới. Tôi không có bất kỳ vũ khí phóng đạn nào nhưng từ độ cao như thế này thì bất cứ thứ gì ném xuống cũng có thể trở thành vũ khí.


Cậu ta đã chạy đi để phân tán sự chú ý của đàn chó để tôi có thể an toàn?

Cậu ta đã làm điều đó để bảo vệ tôi?

Tôi lại đấm vào thân cây.

Một đàn chó sáu con tiến đến gầm gừ tại cái cây. Có hai con nấn ná, khụt khịt xung quanh gốc cây. Đám còn lại thì đuổi theo sau Raffe. Cặp chó chỉ lảng vảng một chút rồi cũng chạy biến theo sau đàn chó còn lại.

Cái cành tôi đang bám nghiêng xuống đất một cách bấp bênh. Những chỗ bám vào quá thưa thớt nên bất cứ một ai muốn nhìn lên đều dễ dàng thấy tôi. Chỗ thân cành thấp nhất chỉ có lá ở cuối nên chỗ thân đó có tầm phủ rất nhỏ yếu. Tôi trèo lên một cành khác và bắt đầu lấy độ cao. Cành cây bắt đầu vững chắc hơn và dầy hơn giống như tôi mong muốn. Mất một lúc lâu tôi mới lên tới một cành mà có đủ lá cây để bao phủ toàn bộ cơ thể.


Tiếng chó sủa trong đau đớn, tôi biết là chúng đã đuổi kịp cậu ta. Tôi cuộn mình lại và dán sát vào cái cây, cố gắng suy đoán cái gì đang diễn ra.

Bên dưới tôi, có cái gì đó to lớn đâm sầm qua bụi cây. Nó hiện ra giống như vài người đàn ông to cao. 5 người. Họ được ngụy trang và mang theo súng trường như thể họ hiểu cách dùng chúng vậy.

One of them signals with his hand and the rest fan out. These men don’t give the impression of weekend hunters shooting rabbits with one hand while drinking beer with the other. They are organized. Trained. Deadly. They move with an ease and confidence that makes me suspect they’ve worked together before. That they’ve hunted together before.

Một người trong số họ có các dấu hiệu trên bàn tay và số còn lại thì trải rộng ra ở toàn thân. Những tên này không hề gây ấn tượng giống như những kẻ thợ săn một tay cầm súng bắn thỏ còn tay kia cầm chai bia cụng ly với nhau. Chúng là một nhóm có tổ chức. Chúng đã được huấn luyện. Chết người nữa là: Chúng di chuyển một cách tự tin và nhẹ nhàng làm tôi nghi ngờ chúng có thể đã làm việc với nhau trước đây rất lâu rồi. Chúng đã được tổ chức đi săn cùng nhau từ trước.

Ngực tôi lạnh ngắt khi nghĩ về một nhóm người trong quân đội có thể thực hiện nhiệm vụ bắt giữ thiên sứ. Tôi nghĩ hô to về phía họ, phân tán sự chú ý của họ để tạo cơ hội cho Raffe chạy trốn. Nhưng lũ chó vẫn còn sủa lên như sấm rền vậy. Cậu ta đang chiến đấu cho sự sống của chính mình và có khi tiêng kêu của tôi sẽ chỉ làm cậu ta phân tâm rồi dẫn đến cả hai đều bị bắt mà thôi.

Nếu tôi chết, Paige cũng không thể sống nổi. Tôi sẽ không chết vì một thiên sứ, Sẽ không xảy ra vấn đề gì khi cậu ta ngẫu nhiên hành động điên rồ như vậy để cứu tôi khỏi bị thương. Nếu như cậu ấy trèo lên đây cùng tôi, phải không?

Nhưng nghĩ sâu hơn, tôi biết điều đó tôt hơn. Nếu cậu ta chỉ chạy đi để cứu chính mình, cậu ta có thể bỏ tôi lại từ lúc đầu ngay khi có dấu hiệu nguy hiểm. Cái đấy quá dễ với cậu ấy.

Những tiếng gầm rú hoang dã của đàn chó khiến tôi co rúm người lại. Họ không có căn cứ khi nói Raffe không phải là con người trừ khi họ lột bỏ được cái áo của của cậu ấy hoặc trừ phi những vết thương trên lưng cậu ta rách ra và rỉ máu. Nhưng nếu như cậu ta bị cắn xé bởi đàn chó, cậu ta sẽ hoàn toàn bình phục lại trong vòng một ngày và chính điều đó sẽ là phát hiện chết người nếu như họ cứ trường kì bám theo.

Tôi không rõ phải làm cái gì. Tôi cần sự giúp đỡ của Raffe. Nhưng tôi cũng cần phải sống sót và chắc rằng mình không có làm điều gì ngu ngốc. Tôi chỉ muốn cuộn người vào và bịt tai mình lại.

Tiếng ra lệnh sắc bén làm lũ chó im lặng đi. Họ đã bắt được Raffe. Tôi không thể nghe bọn họ đang nói cái gì, chỉ biết là họ đang nói chyện với nhau. Không có gì bất ngờ khi âm thanh không có vẻ thân thiện. Họ nói không nhiều lắm, và tôi không thể nghe Raffe nói bất cứ điều gì.

Vài phút sau đó, lũ chó chạy ngang qua chỗ tôi. Cũng có 2 con sốt sắng khụt khịt ở bên dưới gốc cây trước khi chạy đuổi theo những con còn lại trong đàn. Sau đó đám người đó tiến đến.

Tay cậu ta bị buộc phía sau lưng với máu chảy xuôi trên mặt và chân cậu ấy. Cậu ta cẩn thận nhìn chằm chằm về phía trước, tránh không nhìn lên chỗ tôi. Hai người đi kèm hai bên sườn cậu ấy, Tay họ để trên vai cậu ấy như thể chỉ đợi cậu ấy ngã xuống là họ có thể kéo cậu ấy lên trên đồi. 2 người cuối cùng đi theo sau, cầm súng trường ngắm góc 45 độ và cảnh giới xung quanh.

Một trong 2 người họ mang theo túi của Raffe.

Chiếc mền màu xanh phủ kín đôi cánh nằm ở chỗ nào đó bên trong. Cái cuối cùng tôi thấy được, Raffe dùng nó để kẹp đôi cánh lại bỏ vào trong cái túi. Liệu cậu ấy có thể đủ thời gian để giấu đi đôi cánh trước khi lũ chó chạy tới? Nếu vậy, có thể cậu ta sẽ sống thêm được vài giờ nữa.

Cậu ta còn sống. Tôi lặp lại sự thật này trong đầu mình để tránh những suy nghĩ khác nhiễu loạn hơn và giành lấy quyền kiểm soát. Tôi chẳng thể làm được gì nếu cứ bị đóng băng tâm trí bởi những suy nghĩ về những chuyện đang xảy ra với Raffe hay Paige hoặc mẹ tôi.

Tôi khơi thông suy nghĩ trong đầu mình. Quên đi hết các kế hoạch. Tôi đã không có đủ thông tin để đề ra một kế hoạch nào cả. Bản năng của tôi sẽ làm nó.

Và bản năng mách bảo tôi rằng Raffe là của tôi. Tôi đã tìm thấy cậu ta đầu tiên. Nếu như những con khỉ đầu chó bị nhiễm chất kích thích sắc tố sinh dục nam này muốn một phần của cậu ta, chúng sẽ phải đợi cho đến khi cậu ta giải quyết xong với tôi bên trong cái tổ chim ở trên này cái đã.

Khi tôi không nghe được tiếng họ nữa, tôi trèo từ cành cây xuống. Mất thật lâu và tôi phải cẩn thận để đặt được chân vào đúng chỗ trước khi nhảy xuống. Điều cuối cùng tôi cần là tránh bị vỡ mắt cá chân. Những cái lá thông làm yếu bớt đi cú nhảy của tôi và tôi đáp xuống đất mà không có bị gì cả.

Tôi chạy theo hướng Raffe đã chạy xuống đồi. Trong khoảng 5 phút, Tôi thấy đôi cánh được bọc lại. Cậu ấy chắc đã phải ném cái bọc vào trong bụi cây ngay khi chạy bởi vì nó phần nào nằm ẩn dấu trong bụi cây tầm thấp. Tôi kẹp nó vào túi của mình và chạy theo sau đám người đó.
Chương này khó nhai quá nên dịch hơi mía lao chút zz. À mà bạn muốn mình đưa bản dịch anh việt xen kẽ không? vì mình nghĩ bạn còn phải edit lại nên mình thấy để xen kẽ có vẻ dễ soát lỗi hơn, như này chẳng hạn:
" I run downhill in the direction Raffe ran. In about five minutes, I have the wrapped wings.
Tôi chạy theo hướng Raffe đã chạy xuống đồi. Trong khoảng 5 phút, Tôi thấy đôi cánh được bọc lại"
 

Đặng Trung Hiếu

Phàm Nhân
Ngọc
15,37
Tu vi
0,00
Chương này khó nhai quá nên dịch hơi mía lao chút zz. À mà bạn muốn mình đưa bản dịch anh việt xen kẽ không? vì mình nghĩ bạn còn phải edit lại nên mình thấy để xen kẽ có vẻ dễ soát lỗi hơn, như này chẳng hạn:
" I run downhill in the direction Raffe ran. In about five minutes, I have the wrapped wings.
Tôi chạy theo hướng Raffe đã chạy xuống đồi. Trong khoảng 5 phút, Tôi thấy đôi cánh được bọc lại"
Bạn dịch như vậy là cũng rất nhanh và tốt lắm rồi. Mình sẽ cố gắng edit sớm. Hiện tại mình đang edit và dịch song song 2 truyện nên hơi chậm. Bạn thông cảm nhé.:xinloi:
Cảm ơn thành ý của bạn. Nếu có thời gian thì bạn làm vậy sẽ giúp mình đỡ phải ngó qua ngó lại 2 bản:suynghi:. Nếu không có thời gian thì bạn cứ đưa bản dịch không cũng dc. Mình cũng có vài cách để xem nhanh, tuy không bằng. ^^
Bạn đăng kí dịch thêm chương nữa nhé :36:
 

cakiem0990

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Bạn dịch như vậy là cũng rất nhanh và tốt lắm rồi. Mình sẽ cố gắng edit sớm. Hiện tại mình đang edit và dịch song song 2 truyện nên hơi chậm. Bạn thông cảm nhé.:xinloi:
Cảm ơn thành ý của bạn. Nếu có thời gian thì bạn làm vậy sẽ giúp mình đỡ phải ngó qua ngó lại 2 bản:suynghi:. Nếu không có thời gian thì bạn cứ đưa bản dịch không cũng dc. Mình cũng có vài cách để xem nhanh, tuy không bằng. ^^
Bạn đăng kí dịch thêm chương nữa nhé :36:
ok tks bạn, vậy mình để kiểu xen kẽ nhé :) vì thực ra nó tiện cho mình hơn là khác, tại mình hay để vậy dịch ra rồi lại xóa phần tiếng anh mới đăng lên đây nên thành ra lại tốn thêm thời gian. Mình để ý thấy đăng kí dịch theo thứ tự ở trang đầu và được cập nhật khi dịch xong nên chắc mình đăng kí dịch chương tiếp theo 15 nhé, hoặc chương khác cũng ok.
 

Đặng Trung Hiếu

Phàm Nhân
Ngọc
15,37
Tu vi
0,00
ok tks bạn, vậy mình để kiểu xen kẽ nhé :) vì thực ra nó tiện cho mình hơn là khác, tại mình hay để vậy dịch ra rồi lại xóa phần tiếng anh mới đăng lên đây nên thành ra lại tốn thêm thời gian. Mình để ý thấy đăng kí dịch theo thứ tự ở trang đầu và được cập nhật khi dịch xong nên chắc mình đăng kí dịch chương tiếp theo 15 nhé, hoặc chương khác cũng ok.
Vậy bạn nhận chương 15 nhé, cho liền mạch luôn :36:
 

cakiem0990

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Angelfall (Penryn & the End of Days)Author: Susan Ee
Genre: Mystery Thriller
Chap 15:


THE DOGS are a problem. I’ll need my brain for that one. I may be able to hide from the men as I lurk, but I won’t be able to hide from the dogs. I keep running anyway. I’ll have to worry about things one at a time. I’m gripped by a surprisingly strong fear that I won’t be able to find them at all, so I pick up my pace from jogging to sprinting.

(Đàn chó chính là vấn đề. Tôi sẽ cần phải động não nhiều với chúng đây. Có thể tôi có khả năng
ẩn mình khỏi đám người kia ngay khi ẩn núp. Nhưng có thể tôi sẽ không có khả năng ẩn mình trước lũ chó được. Tôi cố chạy bằng mọi cách. Tôi sẽ phải lo lắng về những điều này từng cái một. Đáng ngạc nhiên là tôi bị cuốn vào cảm giác sợ hãi mạnh mẽ rằng tôi không có khả năng tìm thấy bọn họ, cho nên tôi chuyển từ chạy bộ qua chạy nước rút.)


I’m practically doubled over breathless by the time I see them. I’m breathing so hard, I’m surprised they can’t hear me.

(Tôi gần như không thể thở được ngay lúc tôi thấy họ. Tôi đang thở quá nặng nề, tôi bị ngạc nhiên khi họ không thể nghe thấy tôi.)

They approach what at first looks like a dilapidated group of buildings. But a closer look shows that the buildings are actually fine. They only look dilapidated because there are branches leaning against the buildings and woven in a net above the compound. The branches are carefully placed so that they look like they fell naturally. I 😜😜😜😜😜 from above it looks just like the rest of the forest. I 😜😜😜😜😜 from above you can’t see the buildings at all.


(Họ tiếp cận cái đầu tiên nhìn như một dãy tòa nhà đổ nát. Nhưng khi tiến gần hơn nó hiện ra như những tòa nhà còn nguyên vẹn thực sự. Chúng chỉ nhìn giống như đổ nát bởi vì có nhiều cành cây mọc dựa sát vào dãy nhà và đan vào với nhau trong một cái lưới phía trên khu đất. Những cành cây được đặt cẩn thận nên nhìn chúng rũ xuống một cách tự nhiên. Tôi cá khi từ trên cao nhìn xuống chúng thật giống như phần còn lại của khu rừng. Tôi cá bạn không thể nhìn thấy chút gì của dãy tòa nhà khi nhìn từ trên xuống.)

Hidden beneath redwood lean-tos around the buildings are machine guns. They are all pointed up at the sky.


(Ẩn giấu bên dưới những ngôi nhà nhỏ một mái bằng gỗ đỏ vây xung quanh những tòa nhà là những cỗ súng máy. Tất cả chúng đều được chỉ thẳng lên bầu trời.)

This does not have the feel of an angel-friendly camp.
(Khu trại này không hề có cảm giác thân thiện với thiên sứ.)

Raffe and the five hunters are met by more men in camouflage. There are women here too, but they’re not all in uniform. Some don’t look like they belong here. Some lurk around in the shadows, looking greasy and scared.

(Raffe và 5 kẻ đi săn được gặp thêm những tên được ngụy trang. Ở đậy họ cũng có phụ nữ. Nhưng họ không phải tất cả mặc quân phục. Một vài kẻ nhìn tựa như tù binh ở chỗ này. Một và kẻ lẩn trốn xung quanh trong những bóng râm, từ đầu đến chân dính đầy dầu mỡ và sợ hãi.)


I get lucky because one of the guys ushers the dogs into a kennel. Several of the dogs are barking so if some of them bark at me, it shouldn’t be noticeable.

(Tôi thật may mắn bởi vì một trong những tên kia người dẫn đàn chó vào trong cũi. Một vài con đang sủa nên nếu có vài con trong đàn nhận ra tôi thì cũng không hẳn có thể thông báo cho đám người kia được.)

I look around to make sure I haven’t been spotted. I take my pack off and hide it in a tree hollow. I consider keeping the sword with me but decide against it. Only angels carry swords. The last thing we need is for me to nudge their thinking in that direction. I put the blanket-wrapped wings beside the pack and mentally mark the location of the tree.


(Tôi kiểm tra xung quanh để chắc chắn rằng mình không có để lại dấu vết nào. Tôi cầm cái túi lên và dấu nó vào trong một cái hốc lõm sâu bên trong cái cây. Tôi định giữ lại cái kiếm nhưng rồi quyết định dựng nó lên. Chỉ có các thiên sứ mới mang kiếm theo. Điều chúng tôi cần nhất là nhằm tránh cho tôi không đánh động suy nghĩ của họ về hướng đó. Tôi để đôi cánh đã bọc trong chiếc mền xanh bên cạnh cái túi và thầm đánh dấu vị trí của cái cây trong đầu.)

I find a good spot where I can see most of the camp and flatten myself on a piece of ground covered in enough leaves to buffer me from the mud. The cold and wetness seep through my sweatshirt anyway. I throw some leaves and needles over myself for good measure. I wish I had one of their camouflage outfits. Luckily, my dark brown hair blends in with my surroundings.

(Tôi tìm thấy một điểm thuận lợi nơi tôi có thể thấy hầu hết khu trại và nép mình trên những chiếc lá cây như một phần của mặt đất và làm phần đệm cho tôi khỏi lớp bùn bên dưới. Cái lạnh và sự ẩm ướt thấm xuyên qua chiếc áo nỉ của tôi như thường. Để cho chắc chắc hơn nữa tôi ném vài cái lá cây thường và lá kim bao phủ qua bản thân mình. Tôi ước tôi đã có một loại quần áo ngụy trang giống chúng. May mắn thay, mái tóc màu nâu tối của tôi pha lẫn vào cảnh vật xung quanh.)

They shove Raffe onto his knees in the middle of their camp.
(Họ đẩy thô bạo Raffe tiến về giữa khu trại.)

I’m too far away to hear what they’re saying, but I can tell the men are debating what to do with him. One of them bends over and talks to Raffe.

(Tôi ở quá xa để có thể nghe được cái họ đang nói. Nhưng tôi có thể nói đám người đó đang bàn luận xem phải làm gì với cậu ấy. Một trong số họ cuối người xuống và nói chuyện với Raffe.)

Please, please don’t make him take his shirt off.
(Làm ơn, làm ơn đừng bắt cậu ta cởi chiếc áo.)

I frantically try to think of a way to rescue him and still keep myself alive, but there’s nothing I can do in broad daylight with a dozen trigger-happy guys in uniform swarming the area. Unless there’s an angel attack that distracts them, the best I can hope for is that he’ll still be alive and somehow accessible once it gets dark.

(Tôi cố gắng suy nghĩ một cách điên cuồng để giải cứu cậu ta mà vẫn giữ được mạng sống, Song tôi chẳng thể làm nên cái gì trong khoảng ánh sáng rộng lớn với cả tá tên hung hăng trong bộ quân phục tụ lại một chỗ. Trừ phi, có thiên sứ tấn công chúng và phân tá sự chú ý của chúng. Cái tốt nhất tôi có thể làm là hy vọng cho cậu ta vẫn có thể sống sót và bằng cách nào tiếp cận được một lần khi trời tối.)

Whatever it is Raffe tells them must at least satisfy them for now because they pull him up to his feet and take him inside the smallest building in the center. These buildings don’t look like houses, they look like a compound. The two buildings on either side of the one into which they take Raffe look big enough to house at least thirty people each. The one in the center looks like it could house maybe half that. My guess is that one of them is for sleeping, another for communal use, and maybe the small one for storage.

(Cậu ta buộc phải nói bất cứ điều gì cái mà tối thiểu cũng phải làm cho chúng thỏa mãn bởi vì giờđây cậu ta bị kéo lê chân vào trong giữa tòa nhà nhỏ nhất ở trung tâm. Những tòa nhà nhà này nhìn không giống như những ngôi nhà ở, chúng nhìn giống như doanh trại vậy. 2 tòa nhà nằm hai bên của cái mà họ mang Raffe vào trong, nơi đó đủ cho tối thiểu 30 người. Cái ở trung tâm đó có thể giống một nửa nhà ở. Tôi đoán cái nhà đó là để một trong số họ nhỉ ngơi còn những cái khác thì dùng chung, và có thể một góc nhỏ để chứa đồ.)


I lie there, trying to ignore the wet cold seeping in from the ground, wishing the sun would go down faster. Maybe these people are as afraid of the dark as the street gangs in my neighborhood. Maybe they’ll go to bed as soon as the sun sets.



(Tôi nằm tại đó, cố gắng lờ đi cái lạnh ẩm ướt đang thẩm thấu, ước rằng mặt trời có thể lặn xuống nhanh hơn. Có thể đám người kia cũng sợ hãi bóng đêm như thể hàng xóm của tôi sợ hãi các băng đảng đường phố vậy. Có khi họ sẽ đi nghỉ sớm ngay khi mặt trời lăn.)


After what seems like a long time, but is probably only about twenty minutes, a young guy in uniform walks by only a few feet away from me. He holds a rifle at a forty-five degree angle across his chest as he scans the forest. He looks like he’s ready for action. I stay perfectly still as I watch the soldier walk by. I’m surprised and immensely relieved that he doesn’t have a dog with him. I wonder why they don’t use them to guard the compound.

(Có vẻ sau một thời gian dài, chính xác chỉ khoảng 20 phút, một quân nhân trẻ đi đến sát chỗ tôi chỉ cách vài bộ. Cậu ta giơ khẩu súng trường ở góc 45 độ ngang qua ngực ngay khi quét qua khu rừng. Cậu ta nhìn có vẻ như hoàn toàn sẵn sàng. Tôi lặng im một cách hoàn hảo ngay khi cậu ta tới gần. Tôi đã bị ngạc nhiên và hoàn toàn bớt căng thẳng khi cậu ta không mang theo chó đi cùng. Tôi tự hỏi tại sao họ không dùng chúng để canh phòng cho doanh trại.)

After that, a soldier walks by every few minutes, too close for comfort. Their patrols are regular enough that after a while, I get the rhythm of it and know when they’re coming.


(Sau đó, cậu ta mỗi vài phút lại đi một dò xét một lần, khoảng cách thật quá gần để có thể thoải mái.
Công việc tuần tra thường lệ của họ đủ để cơ thể tôi rung lên sau một khoảng thời gian ngắn và dần quen khi họ tiến tới.)


About an hour after they take Raffe into the center building, I smell meat and onions, garlic and greens. The delicious smell has my stomach clenching so hard that it feels like I have cramps.


(Khoảng một giờ sau khi họ mang Raffe vào trong tòa nhà trung tâm, tôi ngửi thấy mùi hành, tỏi, rau và thịt. Mùi thơm làm cho cái dạ dày của tôi quặn thắt lại như thể bị vài thanh kẹp vào vậy.)

I pray that it is not Raffe I’m smelling.
(Tôi cầu mong cái mùi tôi đang ngửi đó không phải là Raffe.)

People file into the building on the right. I don’t hear an announcement so they must have a set dinnertime. There are far more people here than I realized. Soldiers, mostly men in uniform, trudge out of the forest in groups of two, three, or five. They come from every direction and a pair of them almost step on me on their way to dinner.


(Họ xếp hàng đi vào trong tòa nhà bên phải. Chắc hẳn họ phải thiết lập thời gian ăn uống bởi vì tôi có nghe thông báo nào cả. Có rất nhiều người ở đây hơn tôi nhận thấy. Binh lính, hầu hết trong màu áo quân phục, lê lết 2, 3 hoặc 5 nhóm người đi ra từ khu rừng. Họ tiến tới khu ăn uống từ mọi hướng và một cặp trong số họ bước trên con đường ngay chô tôi ẩn núp.)


By the time night rolls around, and the people disappear into the building on the left, I am almost numb with the cold seeping in from the ground. Combined with the fact that I’ve had nothing but a handful of dried cat food all day, I don’t feel as ready as I’d like to be for a rescue.

(Cùng màn đêm dần bao phủ, dòng người biến mất vào trong tòa nhà bên trái, Tôi hầu như tê liệt đi bởi cái lạnh thấu vào từ mặt đất. Kết hợp với cái thực tế rằng tôi chưa có gì vào bụng trừ một nắm đầy thịt mèo khô cho nguyên ngày. Tôi không ở trong tình trạng sẵn sàng cho cuộc giải cứu này.)

There are no lights in any of the buildings. This group is careful, obviously hiding themselves well at night. The compound is silent except for the sound of crickets, which is a pretty amazing feat considering how many people live there. At least there are no screams coming from Raffe’s building.

(Không có cái đèn nào tại dãy tòa nhà. Nhòm người này thật cẩn thận, dễ dàng thấy rằng họ hoàn toàn ẩn mình đi khi trời tối. Doan trại tĩnh lặng trừ tiếng của những con dế, cái đó phải thực sự điêu luyện lắm mới suy đoán ra có bao nhiêu nhiều sinh hoạt ở đó. Tối thiểu không hề có tiếng kêu gào nào vọng ra từ chỗ Raffe cả.)

I make myself wait for what I think is about an hour in the dark before making my move.

(Tôi khiến bản thân kiên nhẫn để đợi khoảng một giờ trong đêm tối trước khi hành động.)


I wait until the patrol walks by. At that point, I know that the other soldier is on the other side of the compound.

(Tôi chờ đợ cho đến khi lính tuần tra đi tới gần. Tại thời điểm đó, tôi biết những tên lính khác ở mặt khác của doanh trại.)

I count to one hundred before I get up and run as quietly as I can toward the buildings.

(Tôi đếm tới 100 trước khi đứng dậy và chạy một cách im lặng ngay khi tôi có thể hướng về dãy tòa nhà.)


My legs are as cold and stiff as gunmetal, but they limber up real fast at the thought of being caught. I have to take the long way around, skittering from moon shadow to shadow, working my way in a zigzag pattern toward the center building. The crisscross of the canopy works to my advantage, speckling the whole area with shifting camouflage.

(Đôi chân tôi lạnh và cứng ngắc như thể chiếc bánh xe kim loại, Nhưng chúng khởi động thực sự nhanh ở cái suy nghĩ bị phát hiện. Tôi phải chạy lòng vòng một lúc lâu, chớp nhoáng từ các bóng tối, con đường tôi tạo thành hình zíc zắc hướng tới tòa nhà trung tâm. Mái che đan chéo nhau tạo thuận lợi cho tôi di chuyển, vết lốm đốm chuyển biến thành sự ngụy trang trên cả khu trại.)

I flatten myself against the side of the mess hall. One guard takes measured steps to my right, and in the distance, the other walks slowly on the far side of the compound. Their footsteps sound dull and slow, as if they’re bored. A good sign. If they heard anything unusual, their steps would be quicker, more urgent. At least I hope so.

(Tôi nép bản thân vào bề mặt tường của khu nhà ăn. Một tên lính gác cách bên phải tôi chỉ vài bước. Trong khoảng này, tên lính khác đi ra một chỗ xa khác của doanh trại một cách chậm dãi. Những bước đi của họ chậm rãi và thờ thẫn như thể họ bị làm buồn chán. Một tín hiệu tốt. Nếu họ nghe một cái gì đó bất thường, bước chân của họ có thể nhanh hơn, gấp gáp hơn. Tối thiểu tôi mong là vậy.)


I try to see the back of the center building, looking for a back door. But with the moon shadow on that side, I can’t tell if there’s a door or even a window.

(Tôi cố nhìn phía sau của tòa nhà trung tâm, có vẻ như là cửa sau. Nhưng với bóng trăng ở phía đó thì tôi không thể khẳng định có cửa vào hay thậm chí là cửa sổ không nữa.)


I dart from my cover to Raffe’s building.
(Tôi phóng đi từ chỗ đang nấp tới tòa nhà giam giữ Raffe.)

I pause there, expecting to hear a shout. But all is quiet. I stand plastered to the wall, holding my breath. I hear nothing and see no movement. There’s nothing but my fear telling me to abort. So I go on.

(Tôi tạm dừng ở đó, mong đợi nghe thấy tiếng la hét. Nhưng tất cả chỉ là sự tĩnh lặng. Tôi đứng dựa vào tường, nín thở. Chẳng thấy tiếng độn hay chuyển động nào cả. Không có thứ gì xảy ra cả và nỗi sợ hãi bảo tôi dừng lại. Nhưng tôi tiếp tục.)

On the backside of the building, there are four windows and a back door. I peek through a window but see nothing but darkness. I resist the temptation to tap on it to see if I get a response from Raffe. I don’t know who else might be in there with him.

(Ở phía sau của tòa nhà, có 4 cửa sổ và một cửa sau. Tôi nhìn trộm qua cửa sổ nhưng không thấy giừ ngoài bóng tối. Tôi ngăn cản ham muốn gõ nhẹ lên đó nếu có thể nhận được hồi âm từ Raffe. Tôi không chắc có ai đó ngoài cậu ta có thể cũng ở đó.)


I have no plan, not even a harebrained one, and no real idea of how to overcome anyone who might be in there. Self-defense training usually doesn’t include sneaking up on someone from behind and choking them quietly to death—a skill that could be pretty handy right now.

(Tôi không có kế hoạch nào cả, thậm chí kể cả một suy nghĩ liều lĩnh, không có ý tưởng nào thực tế để qua mặt một ai đó mà họ có thể ở ngay cạnh tại đó.)

Still, I’ve consistently managed to beat sparring partners much bigger than me, and I hold on to that fact to warm me against the chill of panic.

(Vẫn vậy, tôi cố gắng chiến thắng kẻ đối đầu to lớn hơn mình rất nhiều một cách kiên định, và giữ nó để sửi ấm bản thân chống lại sự hoang mang lạnh lẽo.)


I take a deep breath and whisper as softly as I can. “Raffe?”

(Tôi hít lấy một hơi sâu và nói thầm nhẹ nhàng nhất có thể. "Raffe?")

If I can just get an indication of which room he’s in, it would make this a whole lot easier. But I hear nothing. No tapping on the window, no muffled calls, no chair scrapings to lead me to him. The awful thought that he might be dead comes back to me again. Without him, I have no way of finding Paige. Without him, I am alone. I give myself a mental kick to distract me from following that dangerous line of thought.

(Nếu tôi có thể nhận một chỉ dẫn về chỗ phòng của cậu ấy, điều này có thể khiến phần còn lại dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng không có hồi âm. Không có tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ, không có những tiếng kêu bị nghẹt lại, không có tiếng cào ghế để dẫn tôi tới chỗ cậu ta. Cái suy nghĩ tồi tệ rằng cậu ta có thể đã chết quay lại trong tôi. Không có cậu ta tôi không có đường nào để tìm ra Paige. Không có cậu ta, tôi một mình trơ trọi. Tôi tự đánh vào tâm thần mình để phân tán khỏi hướng suy nghĩ đáng sợ đó.)

I inch over to the door and put my ear to it. I hear nothing. I try the doorknob just in case it’s unlocked.

(Tôi nhích từng inh tới cái cửa và đặt tai mình vào nó. Chẳng có gì cả. Tôi thử trên cái nút bấm
nhỡ đâu nó chưa bị khóa lại.)


I have my handy lock picking set in my back pocket as usual. I found the kit in a teenager’s room during my first week of foraging for food. It didn’t take me long to realize that picking a lock is a whole lot quieter than breaking a window. Stealth is everything when you’re trying to avoid street gangs. So I’ve been getting a lot of practice picking locks the past couple of weeks.

(Như thường lệ tôi có một bộ mở khóa thủ công thuận tiện ở trong túi sau. Tôi thấy bộ đó ở phòng cho trẻ em trong tuần đầu lục lọi tìm thức ăn. Nó đã không làm tôi mất nhiều thời gian để nhận ra rằng mở khóa cửa hoàn toàn yên tặng hơn phá cửa sổ nhiều. Trộm cắp ở mọi nơi khi bạn cố gắng lẩn tránh các băng đảng đường phố. Nên tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm mở khóa trong vài tuần.)


The doorknob turns smoothly.

(Cái núm cửa xoay một cách mượt mà.)

These guys are cocky. I crack it open the tiniest bit and pause. There are no sounds, and I slip into the darkness. I pause, letting my eyes adjust. The only light is the mottled moonlight streaming in through the windows at the back of the house.

(Những tên này quả là tự mãn. Tôi mở của ra một phần nhỏ nhất và dừng lại. Không có tiếng động nào phát ra, và tôi thoát vào trong bóng tối. Tôi dừng lại, để đôi mắt mình thích ứng. Dòng anh sáng lẫn tạp duy nhất qua cửa sổ là ánh trăng ở phía sau ngôi nhà.)


I’m getting used to seeing by dim moonlight now. It seems to have turned into a way of life for me. I’m in a hallway with four doors. One door stands open into a bathroom. The other three are closed. I grip my knife as if that could stop a bullet from a semi-automatic. I put my ear to the first door on the left and hear nothing. As I reach for the doorknob, I hear a very quiet voice whispering through the last door.

(Tôi ngay bây giờ sẽ lại nhìn thấy được bởi ánh ánh sáng lờ mờ từ ánh trăng. Nó có vẻ như đã chiếu rọi con đường sống cho tôi. Tôi đang ở hành lang cùng 4 cánh cửa. Một cửa dành để mở vào trong phòng tắm. 3 cái còn lại đã bị đóng chặt. Tôi nắm chặt con dao ngay khi nếu nó có thể dừng chốt khỏi bán tự động. Tôi đặt một tai vào cánh cửa đầu tiên bên trái nhưng không có gì. Ngay khi tôi vươn tới cái núm cửa, tôi nghe thấy giọng nói thì thầm rất nhỏ xuyên qua cánh của cuối cùng.)

I freeze. Then I walk over to the last door and put my ear against it. Was that my imagination, or did that sound like, “Run, Penryn?”

(Tôi đứng yên lại. Rồi đi về cánh cửa cuối cùng vầ đặt tai vào nó. Đó đã là cái tôi hình dung hoặc giả tiếng động tựa như, "Chạy đi, Penryn?')

I crack open the door.

(Tôi bẻ khóa mở cửa vào.)

“Why don’t you ever listen to me?” Raffe asks quietly.

("Tại sao cậu chưa bao giờ nghe lời mình vậy?" Raffe hỏi tôi một cách yên tĩnh.)

I slip in and close the door. “You’re welcome for rescuing you.”

(Tôi thoát vào và đóng cửa lại. "Cậu xứng đáng cho cuộc giải cứu này")

“You’re not rescuing me, you’re getting yourself caught.” Raffe sits in the middle of the room, tied to a chair. There’s a lot of dried blood on his face, streaking from a wound on his forehead.

("Cậu đang không phải cứu tôi, cậu đang để chính mình bị bắt." Raffe ngồi ở giữa căn phòng, bị trói trên một chiếc ghế tựa. Có rất nhiều vết máu khô ở trên khuân mặt cậu ta, kéo thành vạch do vết thương ở trên trán.)

“They’re asleep.” I run over to his chair and put my knife to the rope around his wrists.

("Họ đang ngủ." Tôi chạy qua cái ghế và dung con dao cắt sợi dây trói trên cổ tay cậu ta.)

“No, they’re not.” The conviction in his voice trips alarms in my head. But before I can think of the word trap, a flashlight beam blinds me.


("Không, họ không hề ngủ." Sự quả quyết trong giọng nói của cậu ta phát động cảnh báo trong đầu tôi. Nhưng trước khi kịp nghĩ về một cái bẫy, Một chiếc đèn chiếu rọi vào làm tôi lóa mắt.)

Trả chương 15 nhé có gì chỉnh lại dùm mình, tuần này tuy có thời gian mà nhiều việc lắt nhắt quá :D, À mình xin đăng kí luôn 3 chương 18, 19, 20 luôn nha nhưng phải cuối tháng sau mới bắt đầu trả được do đầu tháng mình bận việc rồi. tks
 

Đặng Trung Hiếu

Phàm Nhân
Ngọc
15,37
Tu vi
0,00
Trả chương 15 nhé có gì chỉnh lại dùm mình, tuần này tuy có thời gian mà nhiều việc lắt nhắt quá :D, À mình xin đăng kí luôn 3 chương 18, 19, 20 luôn nha nhưng phải cuối tháng sau mới bắt đầu trả được do đầu tháng mình bận việc rồi. tks
Mình vẫn đang Edit đều đều đây. Mình sẽ xem giùm bạn. Bạn nhận chương nhiều vậy thật tốt quá :64:. Mình rất hoan nghênh tinh thần của bạn.:hayhay: Nếu bạn bận quá hoặc tiến trình dịch nhanh hơn dự kiến thì mình sẽ điều chỉnh giúp bạn:36:
 

ducnghiavn

Don Rio
Ngọc
-248,16
Tu vi
59,00
Angelfall (Penryn & the End of Days)Author: Susan Ee
Genre: Mystery Thriller
Chap 15:


THE DOGS are a problem. I’ll need my brain for that one. I may be able to hide from the men as I lurk, but I won’t be able to hide from the dogs. I keep running anyway. I’ll have to worry about things one at a time. I’m gripped by a surprisingly strong fear that I won’t be able to find them at all, so I pick up my pace from jogging to sprinting.

(Đàn chó chính là vấn đề. Tôi sẽ cần phải động não nhiều với chúng đây. Có thể tôi có khả năng
ẩn mình khỏi đám người kia ngay khi ẩn núp. Nhưng có thể tôi sẽ không có khả năng ẩn mình trước lũ chó được. Tôi cố chạy bằng mọi cách. Tôi sẽ phải lo lắng về những điều này từng cái một. Đáng ngạc nhiên là tôi bị cuốn vào cảm giác sợ hãi mạnh mẽ rằng tôi không có khả năng tìm thấy bọn họ, cho nên tôi chuyển từ chạy bộ qua chạy nước rút.)


I’m practically doubled over breathless by the time I see them. I’m breathing so hard, I’m surprised they can’t hear me.

(Tôi gần như không thể thở được ngay lúc tôi thấy họ. Tôi đang thở quá nặng nề, tôi bị ngạc nhiên khi họ không thể nghe thấy tôi.)

They approach what at first looks like a dilapidated group of buildings. But a closer look shows that the buildings are actually fine. They only look dilapidated because there are branches leaning against the buildings and woven in a net above the compound. The branches are carefully placed so that they look like they fell naturally. I 😜😜😜😜😜 from above it looks just like the rest of the forest. I 😜😜😜😜😜 from above you can’t see the buildings at all.


(Họ tiếp cận cái đầu tiên nhìn như một dãy tòa nhà đổ nát. Nhưng khi tiến gần hơn nó hiện ra như những tòa nhà còn nguyên vẹn thực sự. Chúng chỉ nhìn giống như đổ nát bởi vì có nhiều cành cây mọc dựa sát vào dãy nhà và đan vào với nhau trong một cái lưới phía trên khu đất. Những cành cây được đặt cẩn thận nên nhìn chúng rũ xuống một cách tự nhiên. Tôi cá khi từ trên cao nhìn xuống chúng thật giống như phần còn lại của khu rừng. Tôi cá bạn không thể nhìn thấy chút gì của dãy tòa nhà khi nhìn từ trên xuống.)

Hidden beneath redwood lean-tos around the buildings are machine guns. They are all pointed up at the sky.


(Ẩn giấu bên dưới những ngôi nhà nhỏ một mái bằng gỗ đỏ vây xung quanh những tòa nhà là những cỗ súng máy. Tất cả chúng đều được chỉ thẳng lên bầu trời.)

This does not have the feel of an angel-friendly camp.
(Khu trại này không hề có cảm giác thân thiện với thiên sứ.)

Raffe and the five hunters are met by more men in camouflage. There are women here too, but they’re not all in uniform. Some don’t look like they belong here. Some lurk around in the shadows, looking greasy and scared.

(Raffe và 5 kẻ đi săn được gặp thêm những tên được ngụy trang. Ở đậy họ cũng có phụ nữ. Nhưng họ không phải tất cả mặc quân phục. Một vài kẻ nhìn tựa như tù binh ở chỗ này. Một và kẻ lẩn trốn xung quanh trong những bóng râm, từ đầu đến chân dính đầy dầu mỡ và sợ hãi.)


I get lucky because one of the guys ushers the dogs into a kennel. Several of the dogs are barking so if some of them bark at me, it shouldn’t be noticeable.

(Tôi thật may mắn bởi vì một trong những tên kia người dẫn đàn chó vào trong cũi. Một vài con đang sủa nên nếu có vài con trong đàn nhận ra tôi thì cũng không hẳn có thể thông báo cho đám người kia được.)

I look around to make sure I haven’t been spotted. I take my pack off and hide it in a tree hollow. I consider keeping the sword with me but decide against it. Only angels carry swords. The last thing we need is for me to nudge their thinking in that direction. I put the blanket-wrapped wings beside the pack and mentally mark the location of the tree.


(Tôi kiểm tra xung quanh để chắc chắn rằng mình không có để lại dấu vết nào. Tôi cầm cái túi lên và dấu nó vào trong một cái hốc lõm sâu bên trong cái cây. Tôi định giữ lại cái kiếm nhưng rồi quyết định dựng nó lên. Chỉ có các thiên sứ mới mang kiếm theo. Điều chúng tôi cần nhất là nhằm tránh cho tôi không đánh động suy nghĩ của họ về hướng đó. Tôi để đôi cánh đã bọc trong chiếc mền xanh bên cạnh cái túi và thầm đánh dấu vị trí của cái cây trong đầu.)

I find a good spot where I can see most of the camp and flatten myself on a piece of ground covered in enough leaves to buffer me from the mud. The cold and wetness seep through my sweatshirt anyway. I throw some leaves and needles over myself for good measure. I wish I had one of their camouflage outfits. Luckily, my dark brown hair blends in with my surroundings.

(Tôi tìm thấy một điểm thuận lợi nơi tôi có thể thấy hầu hết khu trại và nép mình trên những chiếc lá cây như một phần của mặt đất và làm phần đệm cho tôi khỏi lớp bùn bên dưới. Cái lạnh và sự ẩm ướt thấm xuyên qua chiếc áo nỉ của tôi như thường. Để cho chắc chắc hơn nữa tôi ném vài cái lá cây thường và lá kim bao phủ qua bản thân mình. Tôi ước tôi đã có một loại quần áo ngụy trang giống chúng. May mắn thay, mái tóc màu nâu tối của tôi pha lẫn vào cảnh vật xung quanh.)

They shove Raffe onto his knees in the middle of their camp.
(Họ đẩy thô bạo Raffe tiến về giữa khu trại.)

I’m too far away to hear what they’re saying, but I can tell the men are debating what to do with him. One of them bends over and talks to Raffe.

(Tôi ở quá xa để có thể nghe được cái họ đang nói. Nhưng tôi có thể nói đám người đó đang bàn luận xem phải làm gì với cậu ấy. Một trong số họ cuối người xuống và nói chuyện với Raffe.)

Please, please don’t make him take his shirt off.
(Làm ơn, làm ơn đừng bắt cậu ta cởi chiếc áo.)

I frantically try to think of a way to rescue him and still keep myself alive, but there’s nothing I can do in broad daylight with a dozen trigger-happy guys in uniform swarming the area. Unless there’s an angel attack that distracts them, the best I can hope for is that he’ll still be alive and somehow accessible once it gets dark.

(Tôi cố gắng suy nghĩ một cách điên cuồng để giải cứu cậu ta mà vẫn giữ được mạng sống, Song tôi chẳng thể làm nên cái gì trong khoảng ánh sáng rộng lớn với cả tá tên hung hăng trong bộ quân phục tụ lại một chỗ. Trừ phi, có thiên sứ tấn công chúng và phân tá sự chú ý của chúng. Cái tốt nhất tôi có thể làm là hy vọng cho cậu ta vẫn có thể sống sót và bằng cách nào tiếp cận được một lần khi trời tối.)

Whatever it is Raffe tells them must at least satisfy them for now because they pull him up to his feet and take him inside the smallest building in the center. These buildings don’t look like houses, they look like a compound. The two buildings on either side of the one into which they take Raffe look big enough to house at least thirty people each. The one in the center looks like it could house maybe half that. My guess is that one of them is for sleeping, another for communal use, and maybe the small one for storage.

(Cậu ta buộc phải nói bất cứ điều gì cái mà tối thiểu cũng phải làm cho chúng thỏa mãn bởi vì giờđây cậu ta bị kéo lê chân vào trong giữa tòa nhà nhỏ nhất ở trung tâm. Những tòa nhà nhà này nhìn không giống như những ngôi nhà ở, chúng nhìn giống như doanh trại vậy. 2 tòa nhà nằm hai bên của cái mà họ mang Raffe vào trong, nơi đó đủ cho tối thiểu 30 người. Cái ở trung tâm đó có thể giống một nửa nhà ở. Tôi đoán cái nhà đó là để một trong số họ nhỉ ngơi còn những cái khác thì dùng chung, và có thể một góc nhỏ để chứa đồ.)


I lie there, trying to ignore the wet cold seeping in from the ground, wishing the sun would go down faster. Maybe these people are as afraid of the dark as the street gangs in my neighborhood. Maybe they’ll go to bed as soon as the sun sets.



(Tôi nằm tại đó, cố gắng lờ đi cái lạnh ẩm ướt đang thẩm thấu, ước rằng mặt trời có thể lặn xuống nhanh hơn. Có thể đám người kia cũng sợ hãi bóng đêm như thể hàng xóm của tôi sợ hãi các băng đảng đường phố vậy. Có khi họ sẽ đi nghỉ sớm ngay khi mặt trời lăn.)


After what seems like a long time, but is probably only about twenty minutes, a young guy in uniform walks by only a few feet away from me. He holds a rifle at a forty-five degree angle across his chest as he scans the forest. He looks like he’s ready for action. I stay perfectly still as I watch the soldier walk by. I’m surprised and immensely relieved that he doesn’t have a dog with him. I wonder why they don’t use them to guard the compound.

(Có vẻ sau một thời gian dài, chính xác chỉ khoảng 20 phút, một quân nhân trẻ đi đến sát chỗ tôi chỉ cách vài bộ. Cậu ta giơ khẩu súng trường ở góc 45 độ ngang qua ngực ngay khi quét qua khu rừng. Cậu ta nhìn có vẻ như hoàn toàn sẵn sàng. Tôi lặng im một cách hoàn hảo ngay khi cậu ta tới gần. Tôi đã bị ngạc nhiên và hoàn toàn bớt căng thẳng khi cậu ta không mang theo chó đi cùng. Tôi tự hỏi tại sao họ không dùng chúng để canh phòng cho doanh trại.)

After that, a soldier walks by every few minutes, too close for comfort. Their patrols are regular enough that after a while, I get the rhythm of it and know when they’re coming.


(Sau đó, cậu ta mỗi vài phút lại đi một dò xét một lần, khoảng cách thật quá gần để có thể thoải mái.
Công việc tuần tra thường lệ của họ đủ để cơ thể tôi rung lên sau một khoảng thời gian ngắn và dần quen khi họ tiến tới.)


About an hour after they take Raffe into the center building, I smell meat and onions, garlic and greens. The delicious smell has my stomach clenching so hard that it feels like I have cramps.


(Khoảng một giờ sau khi họ mang Raffe vào trong tòa nhà trung tâm, tôi ngửi thấy mùi hành, tỏi, rau và thịt. Mùi thơm làm cho cái dạ dày của tôi quặn thắt lại như thể bị vài thanh kẹp vào vậy.)

I pray that it is not Raffe I’m smelling.
(Tôi cầu mong cái mùi tôi đang ngửi đó không phải là Raffe.)

People file into the building on the right. I don’t hear an announcement so they must have a set dinnertime. There are far more people here than I realized. Soldiers, mostly men in uniform, trudge out of the forest in groups of two, three, or five. They come from every direction and a pair of them almost step on me on their way to dinner.


(Họ xếp hàng đi vào trong tòa nhà bên phải. Chắc hẳn họ phải thiết lập thời gian ăn uống bởi vì tôi có nghe thông báo nào cả. Có rất nhiều người ở đây hơn tôi nhận thấy. Binh lính, hầu hết trong màu áo quân phục, lê lết 2, 3 hoặc 5 nhóm người đi ra từ khu rừng. Họ tiến tới khu ăn uống từ mọi hướng và một cặp trong số họ bước trên con đường ngay chô tôi ẩn núp.)


By the time night rolls around, and the people disappear into the building on the left, I am almost numb with the cold seeping in from the ground. Combined with the fact that I’ve had nothing but a handful of dried cat food all day, I don’t feel as ready as I’d like to be for a rescue.

(Cùng màn đêm dần bao phủ, dòng người biến mất vào trong tòa nhà bên trái, Tôi hầu như tê liệt đi bởi cái lạnh thấu vào từ mặt đất. Kết hợp với cái thực tế rằng tôi chưa có gì vào bụng trừ một nắm đầy thịt mèo khô cho nguyên ngày. Tôi không ở trong tình trạng sẵn sàng cho cuộc giải cứu này.)

There are no lights in any of the buildings. This group is careful, obviously hiding themselves well at night. The compound is silent except for the sound of crickets, which is a pretty amazing feat considering how many people live there. At least there are no screams coming from Raffe’s building.

(Không có cái đèn nào tại dãy tòa nhà. Nhòm người này thật cẩn thận, dễ dàng thấy rằng họ hoàn toàn ẩn mình đi khi trời tối. Doan trại tĩnh lặng trừ tiếng của những con dế, cái đó phải thực sự điêu luyện lắm mới suy đoán ra có bao nhiêu nhiều sinh hoạt ở đó. Tối thiểu không hề có tiếng kêu gào nào vọng ra từ chỗ Raffe cả.)

I make myself wait for what I think is about an hour in the dark before making my move.

(Tôi khiến bản thân kiên nhẫn để đợi khoảng một giờ trong đêm tối trước khi hành động.)


I wait until the patrol walks by. At that point, I know that the other soldier is on the other side of the compound.

(Tôi chờ đợ cho đến khi lính tuần tra đi tới gần. Tại thời điểm đó, tôi biết những tên lính khác ở mặt khác của doanh trại.)

I count to one hundred before I get up and run as quietly as I can toward the buildings.

(Tôi đếm tới 100 trước khi đứng dậy và chạy một cách im lặng ngay khi tôi có thể hướng về dãy tòa nhà.)


My legs are as cold and stiff as gunmetal, but they limber up real fast at the thought of being caught. I have to take the long way around, skittering from moon shadow to shadow, working my way in a zigzag pattern toward the center building. The crisscross of the canopy works to my advantage, speckling the whole area with shifting camouflage.

(Đôi chân tôi lạnh và cứng ngắc như thể chiếc bánh xe kim loại, Nhưng chúng khởi động thực sự nhanh ở cái suy nghĩ bị phát hiện. Tôi phải chạy lòng vòng một lúc lâu, chớp nhoáng từ các bóng tối, con đường tôi tạo thành hình zíc zắc hướng tới tòa nhà trung tâm. Mái che đan chéo nhau tạo thuận lợi cho tôi di chuyển, vết lốm đốm chuyển biến thành sự ngụy trang trên cả khu trại.)

I flatten myself against the side of the mess hall. One guard takes measured steps to my right, and in the distance, the other walks slowly on the far side of the compound. Their footsteps sound dull and slow, as if they’re bored. A good sign. If they heard anything unusual, their steps would be quicker, more urgent. At least I hope so.

(Tôi nép bản thân vào bề mặt tường của khu nhà ăn. Một tên lính gác cách bên phải tôi chỉ vài bước. Trong khoảng này, tên lính khác đi ra một chỗ xa khác của doanh trại một cách chậm dãi. Những bước đi của họ chậm rãi và thờ thẫn như thể họ bị làm buồn chán. Một tín hiệu tốt. Nếu họ nghe một cái gì đó bất thường, bước chân của họ có thể nhanh hơn, gấp gáp hơn. Tối thiểu tôi mong là vậy.)


I try to see the back of the center building, looking for a back door. But with the moon shadow on that side, I can’t tell if there’s a door or even a window.

(Tôi cố nhìn phía sau của tòa nhà trung tâm, có vẻ như là cửa sau. Nhưng với bóng trăng ở phía đó thì tôi không thể khẳng định có cửa vào hay thậm chí là cửa sổ không nữa.)


I dart from my cover to Raffe’s building.
(Tôi phóng đi từ chỗ đang nấp tới tòa nhà giam giữ Raffe.)

I pause there, expecting to hear a shout. But all is quiet. I stand plastered to the wall, holding my breath. I hear nothing and see no movement. There’s nothing but my fear telling me to abort. So I go on.

(Tôi tạm dừng ở đó, mong đợi nghe thấy tiếng la hét. Nhưng tất cả chỉ là sự tĩnh lặng. Tôi đứng dựa vào tường, nín thở. Chẳng thấy tiếng độn hay chuyển động nào cả. Không có thứ gì xảy ra cả và nỗi sợ hãi bảo tôi dừng lại. Nhưng tôi tiếp tục.)

On the backside of the building, there are four windows and a back door. I peek through a window but see nothing but darkness. I resist the temptation to tap on it to see if I get a response from Raffe. I don’t know who else might be in there with him.

(Ở phía sau của tòa nhà, có 4 cửa sổ và một cửa sau. Tôi nhìn trộm qua cửa sổ nhưng không thấy giừ ngoài bóng tối. Tôi ngăn cản ham muốn gõ nhẹ lên đó nếu có thể nhận được hồi âm từ Raffe. Tôi không chắc có ai đó ngoài cậu ta có thể cũng ở đó.)


I have no plan, not even a harebrained one, and no real idea of how to overcome anyone who might be in there. Self-defense training usually doesn’t include sneaking up on someone from behind and choking them quietly to death—a skill that could be pretty handy right now.

(Tôi không có kế hoạch nào cả, thậm chí kể cả một suy nghĩ liều lĩnh, không có ý tưởng nào thực tế để qua mặt một ai đó mà họ có thể ở ngay cạnh tại đó.)

Still, I’ve consistently managed to beat sparring partners much bigger than me, and I hold on to that fact to warm me against the chill of panic.

(Vẫn vậy, tôi cố gắng chiến thắng kẻ đối đầu to lớn hơn mình rất nhiều một cách kiên định, và giữ nó để sửi ấm bản thân chống lại sự hoang mang lạnh lẽo.)


I take a deep breath and whisper as softly as I can. “Raffe?”

(Tôi hít lấy một hơi sâu và nói thầm nhẹ nhàng nhất có thể. "Raffe?")

If I can just get an indication of which room he’s in, it would make this a whole lot easier. But I hear nothing. No tapping on the window, no muffled calls, no chair scrapings to lead me to him. The awful thought that he might be dead comes back to me again. Without him, I have no way of finding Paige. Without him, I am alone. I give myself a mental kick to distract me from following that dangerous line of thought.

(Nếu tôi có thể nhận một chỉ dẫn về chỗ phòng của cậu ấy, điều này có thể khiến phần còn lại dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng không có hồi âm. Không có tiếng gõ nhẹ trên cửa sổ, không có những tiếng kêu bị nghẹt lại, không có tiếng cào ghế để dẫn tôi tới chỗ cậu ta. Cái suy nghĩ tồi tệ rằng cậu ta có thể đã chết quay lại trong tôi. Không có cậu ta tôi không có đường nào để tìm ra Paige. Không có cậu ta, tôi một mình trơ trọi. Tôi tự đánh vào tâm thần mình để phân tán khỏi hướng suy nghĩ đáng sợ đó.)

I inch over to the door and put my ear to it. I hear nothing. I try the doorknob just in case it’s unlocked.

(Tôi nhích từng inh tới cái cửa và đặt tai mình vào nó. Chẳng có gì cả. Tôi thử trên cái nút bấm
nhỡ đâu nó chưa bị khóa lại.)


I have my handy lock picking set in my back pocket as usual. I found the kit in a teenager’s room during my first week of foraging for food. It didn’t take me long to realize that picking a lock is a whole lot quieter than breaking a window. Stealth is everything when you’re trying to avoid street gangs. So I’ve been getting a lot of practice picking locks the past couple of weeks.

(Như thường lệ tôi có một bộ mở khóa thủ công thuận tiện ở trong túi sau. Tôi thấy bộ đó ở phòng cho trẻ em trong tuần đầu lục lọi tìm thức ăn. Nó đã không làm tôi mất nhiều thời gian để nhận ra rằng mở khóa cửa hoàn toàn yên tặng hơn phá cửa sổ nhiều. Trộm cắp ở mọi nơi khi bạn cố gắng lẩn tránh các băng đảng đường phố. Nên tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm mở khóa trong vài tuần.)


The doorknob turns smoothly.

(Cái núm cửa xoay một cách mượt mà.)

These guys are cocky. I crack it open the tiniest bit and pause. There are no sounds, and I slip into the darkness. I pause, letting my eyes adjust. The only light is the mottled moonlight streaming in through the windows at the back of the house.

(Những tên này quả là tự mãn. Tôi mở của ra một phần nhỏ nhất và dừng lại. Không có tiếng động nào phát ra, và tôi thoát vào trong bóng tối. Tôi dừng lại, để đôi mắt mình thích ứng. Dòng anh sáng lẫn tạp duy nhất qua cửa sổ là ánh trăng ở phía sau ngôi nhà.)


I’m getting used to seeing by dim moonlight now. It seems to have turned into a way of life for me. I’m in a hallway with four doors. One door stands open into a bathroom. The other three are closed. I grip my knife as if that could stop a bullet from a semi-automatic. I put my ear to the first door on the left and hear nothing. As I reach for the doorknob, I hear a very quiet voice whispering through the last door.

(Tôi ngay bây giờ sẽ lại nhìn thấy được bởi ánh ánh sáng lờ mờ từ ánh trăng. Nó có vẻ như đã chiếu rọi con đường sống cho tôi. Tôi đang ở hành lang cùng 4 cánh cửa. Một cửa dành để mở vào trong phòng tắm. 3 cái còn lại đã bị đóng chặt. Tôi nắm chặt con dao ngay khi nếu nó có thể dừng chốt khỏi bán tự động. Tôi đặt một tai vào cánh cửa đầu tiên bên trái nhưng không có gì. Ngay khi tôi vươn tới cái núm cửa, tôi nghe thấy giọng nói thì thầm rất nhỏ xuyên qua cánh của cuối cùng.)

I freeze. Then I walk over to the last door and put my ear against it. Was that my imagination, or did that sound like, “Run, Penryn?”

(Tôi đứng yên lại. Rồi đi về cánh cửa cuối cùng vầ đặt tai vào nó. Đó đã là cái tôi hình dung hoặc giả tiếng động tựa như, "Chạy đi, Penryn?')

I crack open the door.

(Tôi bẻ khóa mở cửa vào.)

“Why don’t you ever listen to me?” Raffe asks quietly.

("Tại sao cậu chưa bao giờ nghe lời mình vậy?" Raffe hỏi tôi một cách yên tĩnh.)

I slip in and close the door. “You’re welcome for rescuing you.”

(Tôi thoát vào và đóng cửa lại. "Cậu xứng đáng cho cuộc giải cứu này")

“You’re not rescuing me, you’re getting yourself caught.” Raffe sits in the middle of the room, tied to a chair. There’s a lot of dried blood on his face, streaking from a wound on his forehead.

("Cậu đang không phải cứu tôi, cậu đang để chính mình bị bắt." Raffe ngồi ở giữa căn phòng, bị trói trên một chiếc ghế tựa. Có rất nhiều vết máu khô ở trên khuân mặt cậu ta, kéo thành vạch do vết thương ở trên trán.)

“They’re asleep.” I run over to his chair and put my knife to the rope around his wrists.

("Họ đang ngủ." Tôi chạy qua cái ghế và dung con dao cắt sợi dây trói trên cổ tay cậu ta.)

“No, they’re not.” The conviction in his voice trips alarms in my head. But before I can think of the word trap, a flashlight beam blinds me.


("Không, họ không hề ngủ." Sự quả quyết trong giọng nói của cậu ta phát động cảnh báo trong đầu tôi. Nhưng trước khi kịp nghĩ về một cái bẫy, Một chiếc đèn chiếu rọi vào làm tôi lóa mắt.)

Trả chương 15 nhé có gì chỉnh lại dùm mình, tuần này tuy có thời gian mà nhiều việc lắt nhắt quá :D, À mình xin đăng kí luôn 3 chương 18, 19, 20 luôn nha nhưng phải cuối tháng sau mới bắt đầu trả được do đầu tháng mình bận việc rồi. tks
Tuyệt vời !
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top