Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 39: Đánh chiếm Seringapatam
Chương 39: Đánh chiếm Seringapatam​

Lênh đênh trên biển mất sáu tháng, cuối cùng, Bàn cũng theo đoàn viễn chinh đến được mũi Đông Nam Ấn Độ vào ngày 28 tháng 4 năm 1799. Theo kế hoạch được định sẵn, Thiếu tướng Baird sẽ theo ngã Ai Cập mà tiến về Ấn Độ. Tại đây, ông tập hợp binh sĩ bản địa cùng lính thường trực của công ty Đông Ấn Anh mà tiến hành cuộc vây hãm Seringapatam.

Tiếng súng bắt đầu nổ ra từ ngày 5 tháng 4 năm 1799. Suốt một tuần lễ liền, cư dân trong thành không một ngày nào cảm thấy bình yên khi mà đạn pháo quân Anh Cát Lợi thi nhau oanh tạc. Binh sĩ Mysore ngày đêm phải tất bật chạy tới chạy lui, lớp lo phòng thủ, chống trả lại các cuộc oanh tạc mỗi ngày một dồn dập hơn; lớp lo chữa cháy khắp nơi.

Đến một ngày nọ, kinh thành Seringapatam xuất hiện một người thiếu niên mang quân hàm Thiếu tá, tên cậu ta là Nguyễn Phúc Cảnh. Sự xuất hiện của cậu lẽ ra cũng chẳng là gì nếu không có những kế sách vô cùng hiệu quả. Quân đội Anh Cát Lợi bắt đầu gặp phải những tổn thất lớn.

Trong đêm tối ngày 15 tháng 4, một nhóm gồm mười người áo đen lặng lẽ rời khỏi thành. Hành trang trên vai họ không có gì ngoại trừ một thanh đoản đao, một cây nỏ cùng một bó tên. Không một tiếng động, nhóm người áo đen tiếp cận ngày càng gần hơn với doanh trại của Thiếu tướng Baird. Mục tiêu của họ không phải là đại bản doanh mà là khu vực phía sau lưng, kho quân giới.

Có thể nói, với cách bố phòng của người Châu Âu theo những vòng tròn đồng tâm, việc xâm nhập dù có âm thầm đến mức độ nào cũng khó có thể thực hiện được. Thế nhưng, nói thế cũng không phải là không có khả năng. Di chuyển một khoảng thời gian khá lâu, nhóm người dừng lại ở một địa điểm cách cánh trái của doanh trại khoảng năm mươi mét. Họ dừng lại, ẩn nấp.

Sau khi ổn định tình hình, một người lính tháo chiếc nỏ mang theo, lắp lên đó một cây tên không có mũi, thay vào đó là một nhúm bùi nhùi tẩm cồn. Anh ta châm lửa bùi nhùi rồi nhắm ngược về thành mà bắn. Ánh sáng nhỏ nhoi lóe lên như báo hiệu cho binh sĩ trong thành. Đúng lúc này, cổng thành mở toang. Từng đoàn kỵ binh xuất hiện, thẳng hướng doanh trại quân Anh Cát Lợi, vừa la hét, vừa lao tới. Cuộc tập kích diễn ra ngay trong đêm nên những khẩu pháo nặng nề không thể thể hiện được uy lực của mình, chúng nằm im chịu trận. Hai vòng tròn phòng thủ của quân Anh Cát Lợi hình thành và nhanh chóng bao vây đoàn kỵ binh đối phương vào giữa. Súng lại nổ.

Đoàn kỵ binh sau những phút đầu tấn công bất ngờ đã bắt đầu lâm vào thế chống đỡ. Họ ra vẻ như đây là một đợt tập kích bất ngờ nhưng không tính đến sự cơ động của đối phương. Khi mà mọi sự chú ý đều đặt trên trận đánh nho nhỏ kia thì từ cánh trái, nhóm người mặc áo đen bắt đầu hành động. Họ lúc này đã thay đổi trang phục, trông không khác nào những binh lính bản địa của người Anh Cát Lợi. Mười người nhanh chóng tiếp cận doanh trai một cách âm thầm, họ vòng qua khu vực quân giới. Nơi này chỉ có năm người canh gác. Có lẽ chính tâm lý ỷ y vào bố trí không thể xâm nhập mà toán gác kho chỉ có năm người chăng?

Nhóm người dễ dàng hạ gục toán lính gác. Các chướng ngại vật đã được dẹp bỏ, họ lẻn vào trong kho. Những sợi dây cháy chậm được gắn vào các bao thuốc súng. Xong đâu đấy, họ rút ra ngoài một cách nhanh chóng. Một mồi lửa bùng lên, các sợi dây cháy chậm bắt đầu phát huy tác dụng của mình.

Đùng… ầm… ầm… Những tiếng nổ vang lên như muốn xé rách màn đêm. Cùng với nó là một quả cầu lửa khổng lồ.

“Cháy… cháy rồi… Kho quân giới cháy rồi…” tiếng la báo cháy thất thanh vang vọng khắp nơi. Ngay cả những người đang chiến đấu cũng bị oanh động. Một lỗ hổng của vòng vây xuất hiện. Đoàn kỵ binh tập kích ngay lập tức chớp lấy thời cơ mà rút chạy về thành thông qua chính kẽ hở này.

Cuộc tập kích và đốt cháy kho quân giới vào ban đêm đã thành công. Tuy nhiên, những người Mysore cũng không vì vậy mà phát động cuộc tấn công tiếp theo. Bởi họ hiểu, thành công này đến từ yếu tố bất ngờ. Người Anh Cát Lợi sẽ rất nhanh ổn định tình hình và chào đón họ với sự phẫn nộ tột cùng. Lợi hay hại lúc đó cũng khó có thể mà hình dung.

Về phần tướng Baird, ông cũng không dám dây dưa ở khu vực này lâu hơn nữa mà cho quân rút lui về phía sau hơn năm trăm mét. Cuộc tập kích đã làm ông mất đi hơn một nửa số đạn đại bác. May mắn thay, những quả Rocket vốn là vũ khí bí mật do chưa được vận chuyển đến nên vẫn an toàn.

Cứ thế, cuộc chiến vây hãm kéo dài mãi cho đến cuối tháng. Vào ban ngày, người Anh tiến sát chân thành. Thế nhưng, thành Seringapatam lại giáng những đòn nặng nề vào đối phương trong đêm tối.

Đến ngày 25 tháng 4, đoàn quân của Tướng quân Harris cũng đổ bộ lên đất Ấn Độ. Năm ngày sau, ông đã có mặt ở hữu ngạn sông Cauvery, bên ngoài thành Đông thành Seringapatam. Cũng phải nói thêm là đoàn quân do Đại tá Arthur lúc này cũng hiện diện.

Lúc này, Bàn theo lệnh của Arthur, dẫn theo Trung đội số mười ba lựa chọn những điểm cao để bố trí trận địa pháo. Anh còn nhận được một nhiệm vụ là tính toán điểm rơi và bố trí những dàn phóng Rocket sao cho đạn pháo phải rót vào giữa nội thành. Quân đoàn của Arthur tính ra cũng không cần phải làm gì nhiều, nhiệm vụ chủ yếu của họ là dọn dẹp chiến trường và dự phòng cho những tình huống bất trắc.

Đúng một giờ chiều, vào khoảng thời gian nóng nhất của ngày 3 tháng 5, tiếng đại bác giòn giã vang lên từ hữu ngạn sông Cauvery. Người Mysore chợt thấy giật mình khi thấy mình bị kẹp giữa hai gọng kềm. Các bức tường thành như đang rung rẩy dưới sự oanh tạc của đạn pháo. Vào lúc này, những dàn phóng Rocket cũng đã được huy động cho trận chiến phòng thủ. Những người Mysore hiểu rõ, đây không còn là lúc để giữ lại lực lượng nữa, phải phô diễn hết tất cả hỏa lực của mình. Họ hy vọng những quả Rocket này sẽ làm chùn bước quân thù và giúp họ lật ngược thế cờ.

Từng chùm Rocket bay lên và bổ nhào xuống hai bên thành, nơi có hai nhánh tấn công của quân đội Anh Cát Lợi. Những tưởng lửa sẽ cháy ở khắp nơi. Nhưng không, không có một quả Rocket nào có thể đốt cháy được người Anh Cát Lợi với những tấm phên rơm thấm đầy nước của chính con sông Cauvery. Hiệu quả duy nhất mà chúng mang lại chỉ đơn giản là những binh sĩ cầm phên bị té chổng vó trên mặt đất.

Đại bác lại tiếp tục oanh tạc. Từng mảng tường thành bắt đầu đổ sập xuống. Thế nhưng, cuộc tấn công đến đây là kết thúc. Không hề có tiếng hô hoán xung phong, cũng chẳng có một người lính Anh Cát Lợi nào lao vào thành lũy đối phương. Đây chẳng qua chỉ là một cuộc dạo đầu. Hơn nữa, theo tướng Harris, đây là một sự “hành hạ” tinh thần của địch.

Sau trận dội đạn pháo xuống đầu người Mysore vào buổi trưa, Tướng Harris mời các bị chỉ huy dùng trà chiều. Gọi là tiệc trà nhưng rõ đây là cuộc họp chiến thuật. Một vị Thiếu tá thắc mắc:

- Tướng quân, rõ ràng trưa nay chúng ta đã có thể hạ thành. Tại sao Ngài hạ lệnh dừng công kích vậy?

- Đây là điều mà tôi đã thảo luận từ trước với Đại tá Wellesley. Arthur, Ngài có thể giải thích cho mọi người giúp tôi không?

Arthur gật đầu rồi nói:

- Các Ngài cũng biết Thiếu tướng Baird vây hãm Seringapatam gần một tháng nay. Thế nhưng vì sao ông ta vẫn không hạ được thành hay không?

Không có ai trả lời. Vị Đại tá trẻ nói tiếp:

- Sĩ khí. Tinh thần của đối phương rất cao. Nếu thua trận, chúng ta chỉ cần rút lui và về nhà. Nhưng với họ, thua trận cũng có nghĩa là không có nhà để về. Bởi vậy, họ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nếu thành bị hạ, với tam thế không còn gì để mất, họ sẽ tìm mọi cách để chúng ta thiệt hại nặng nề nhất.

- Tôi hiểu rồi - vị Thiếu tá kia ra chiều đã hiểu. - Ý Ngài là khi chúng ta tấn công, họ sẽ liều mạng chống lại và chúng ta cũng phải bỏ ra cái giá rất đắt?

- Đúng vậy. Bởi thế nên chúng ta cần lam khác đi. Chúng ta sẽ bào mòn dần tường thành. Sau đó lai dùng Rocket bắn vào, đốt cháy tất cả. Lúc đó, địch không còn nơi ẩn nấp nữa. Với sự vượt trội về hỏa lực, chúng ta sẽ dễ dàng hạ gục binh lính Mysore. Hơn nữa, chúng ta tấn cong thành nhiều đợt như vậy cũng chính là hành hạ tinh thần đối thủ.

Sau khi nghe giải thích, mọi người đều đã hiểu và cảm thấy không còn gì khúc mắc nữa. Một mệnh lệnh mới cũng được phát ra. Đó là các binh sĩ sẽ thay nhau nghỉ ngơi. Đúng ba giờ sáng lại tiếp tục công thành.

Mọi việc diễn ra theo đúng những gì đã định trước. Đúng ba giờ sáng, hàng loạt tiếng nổ đinh tai đánh thức mọi người trong thành. Tường thành lai một lần nữa bong tróc. Cũng như lần trước, trận mưa đạn pháo kéo dài trong khoảng một tiếng đồng hồ rồi thôi. Cứ thế, cho đến trưa, có tất cả ba trận oanh tạc như vậy nữa diễn ra.

Đúng mười một giờ, vừa khéo nước sông Cauvery hạ thấp nhất theo thủy triều, Harris ra lệnh tổng tấn công. Lần này, không có bất cứ tiếng đại bác nào vang lên. Thay vào đó là hàng trăm quả Rocket rót xuống đầu binh sĩ Mysore. Lửa cháy khắp nơi. Binh sĩ Anh Cát Lợi lúc này leo qua tường, tràn vào cả trong thành.

Phía bên mặt trái của Seringapatam, Thiếu tướng Baird cũng thành công hạ được tường thành. Vốn căm hận Vương triều Mysore, ông cho binh sĩ tàn sát tất cả binh lính họ gặp trên đường tiến về cung điện mà không hề có sự khoan nhượng. Cuối cùng, Baird cũng tìm thấy Sultan Tipu trong cung điện, có điều, ông ta chỉ còn là một cái xác không hồn. Hoàng tử Cảnh, người đóng vai trò quân sư cho vị Sultan này cũng biến mất.

Vậy là trận chiến cuối cung cũng kết thúc với phần thắng nghiêng hoàn toàn về phía người Anh Cát Lợi. Và, người thắng lợi lớn nhất là ai khác nữa ngoài vị Vương gia của chúng ta. Sau trận này, Bàn có thể hoàn thành sứ mạng của mình ở trời Tây, và... anh cũng có thể danh chính ngôn thuận đón Sophia quay về Đại Việt.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 40: London ngày cuối thu

Chương 40: London ngày cuối thu

Trời đã vào Thu, sắc trời vàng vọt. London dịu dàng với những căn nhà nhỏ xinh trong khu vườn tràn ngập hoa hồng. Hai bên những con đường, từng hàng phong như đang dệt nên những phép màu trong cổ tích với những chiếc lá đổi màu vàng, đỏ. Những hồ nước trong suốt phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Thiên nhiên hoà quyện vào nhau như khoác lên toà thành một tấm áo mới nhiều màu sắc và quyến rũ.

Dòng sông Thames êm đềm trôi lững lờ trong lòng thành phố, nhộn nhịp với những chuyến tàu chở khách ngược xuôi. Nắng nhạt và sương mù hòa quyện trong sắc thu mơ màng của buổi sớm mai mang đến không khí trong lành, dễ chịu.

Mấy ngày nay, người ta râm ran bàn tán về chiến tích vừa qua ở Ấn Độ. Tính ra cũng đã năm tháng kể từ ngày thành Seringapatam bị hạ. Thế nhưng, vào thời buổi này, tin tức không thể bay nhanh được. Những quầy báo buổi sáng lúc nào cũng đông nghịt người. Ai cũng muốn mình là người có được thông tin sớm nhất để khoe khoang với ban bè.

Nhưng nào ai hiểu, có một người còn mong ngóng tin tức, sốt ruột nhiều hơn những người khác. Đó là một cô gái. Người nàng yêu đang hay nói đúng hơn là đã trải qua trận chiến này. Trước ngày ra đi, anh đã hứa sẽ cưới nàng khi trở về. Người ta thường nói, trong tình yêu, "đợi chờ là hạnh phúc". Nhưng phải là người trong cuộc mới hiểu được nỗi nhớ trong lúc chờ đợi gậm nhấm trong tâm can khổ sở thế nào.
Người con gái ấy có tên là Sophia, nàng công chúa con vua George III. Từ mấy tháng nay, ngày nào nàng cũng tựa cửa, dõi mắt hướng ánh nhìn xa xăm về bến cảng. Dẫu đã biết tin người trong lòng bản lĩnh nhưng cuộc đời nào ai biết trước ngày sau, huống chi đây còn là chiến tranh.

Nỗi niềm mong ngóng người thương
Ngày chờ đêm nhớ, vấn vương tơ lòng.


Phải nói, câu "không ai hiểu lòng con cái bằng cha mẹ" luôn là chân lý. Những ngày này, Hoàng hậu Caroline vẫn thường lui tới chuyện trò. Những lúc đó, câu nói đầu tiên của cô công chúa xinh đẹp luôn là "Mẹ ơi, mẹ có biết khi nào chàng quay trở về không?" hay đại loại như "Có tin tức gì chưa mẹ?"

Một ngày nọ, Hoàng hậu nói với con gái một tin vui:

- Sophia, con gái của mẹ. Sáng nay người ta thấy đoàn thuyền của Đại tá Arthur ở ngoài khơi Margat rồi. Chắc là nay mai sẽ về đến London thôi.

- Thật sao mẹ? Người ta có thấy chàng không?

- Cái này thì mẹ không biết. Nhưng Jack chắc là phải có mặt.

- Vậy... Mẹ xem, con có gầy đi nhiều không? Có xấu lắm không?

- Con lúc nào cũng xinh đẹp, con gái của mẹ ạ.

- Không đúng. Con nghĩ chắc giờ mình xấu xí lắm. Con sẽ đi làm lai tóc. Con muốn mình phải thật đẹp trong mắt chàng.

Nói xong, Sophia tất tả chạy đi, để lại Hoàng hậu Caroline lắc đầu cười mỉm sau lưng. "Cái con bé này, sắp làm vợ người ta rồi nên thế đấy, trong mắt không còn nhìn thấy mẹ nữa", bà nghĩ thầm trong lòng.

Thế rồi điều gì đến cũng sẽ phải đến. Ngày 5 tháng 10 năm 1799, Bàn đã bình an về đến London cùng Đại tá Arthur Wellesley, phần tướng quân Harris phải ở lại để sắp xếp mọi việc. Cả hai được chào đón trong một bầu không khí cuồng nhiệt. Dọc con đường đi đến điện Buckingham, mặc cho cái giá lạnh của thời khắc giao mùa từ Thu sang Đông, người dân thành London vẫn đổ ra đường, trên tay là quốc kỳ của Khối Liên Hiệp Anh và cờ của Hoàng gia.

Hai người hùng của chúng ta cùng đoàn sĩ quan chiến thắng nhanh chóng tiến vào điện Buckingham. Tiếp đón họ là dàn quân nhạc Hoàng gia. Tuy nói, chiến thắng vừa qua miễn cưỡng lắm mới được xem là chiến thắng lớn. Thế nhưng nếu nói về ý nghĩa thì nó hoàn toàn xứng đáng với những danh xưng mỹ miều nhất, hoành tráng nhất. Bởi lẽ, nó đã đặt dấu chấm hết cho một vương triều vốn được xem là “cái gai trong mắt” của người Anh Cát Lợi trên con đường “thuộc địa hóa” Ấn Độ, vương triều Hồi giáo Mysore.

Một bữa yến tiệc thịnh soạn được bày ra để chiêu đãi những người vừa quay về từ Ấn Độ. Dạo gần đây, có tin đồn vua George III đang phát bệnh điên, mọi sự vụ lớn nhỏ đều quy về cho Thái tử. Không biết điều đó là đúng hay sai, nhưng nếu xét vẻ mặt của ông hiện tại thì hẳn đó chỉ là những tin đồn nhảm. Ngày hôm nay, George III diện bộ cánh đẹp nhất, lộng lẫy nhất của mình. Những nếp nhăn trên trán, dấu hiệu của tuổi già dường như cũng biến mất. Ông vui cười suốt buổi, lại vô cùng cao hứng mổi khi có ai đó nói đến Thiếu tá Jack, người con rể tương lai của mình.

Kết thúc bữa tiệc, khi ai nấy bắt đầu trở về với gia đình mình thì Bàn lại tìm đến với Vườn Buckingham. Đây chính là nơi mà anh cùng Sophia ước định sẽ gặp nhau ngày trở về. Trên dọc đường đi, Bàn thầm hát những bài dân ca nơi quê nhà. Tâm trạng anh vô cùng vui vẻ, lại bồi hồi vì sắp gặp được người yêu. Như không muốn chậm trễ thêm một phút giây nào, Bàn rảo bước ngày một nhanh hơn.

Sophia đứng đó, thật rạng rỡ trong bộ váy màu tím thật đẹp. Bao nhiêu ưu phiền mấy tháng qua cũng dường như biến mất chẳng còn tăm tích. Vừa nhìn thấy Bàn, Sophia lao nhanh tới, ôm chầm lấy. Dưới ánh nắng vàng lung linh huyền ảo của những ngày cuối thu, hình bóng của hai người hòa vào khung cảnh xung quanh như một bức tranh thật hoàn mĩ.

Bàn ôm lấy Sophia, nhấc bổng cô lên rồi cả hai quay cuồng trong nhịp đập của con tim. Họ đã chờ đợi nhau quá lâu rồi. Bao khắc khoải nhớ mong giờ đây chỉ còn là kỷ niệm, những gì trước mắt mới là hiện hữu. Sau giây phút vui mừng và hứng khởi tột độ, họ lặng nhìn nhau. Bàn đặt lên môi Sophia một nụ hôn nồng cháy. Thời gian đang trôi đi bỗng như dừng lại. Đâu đó trên những cành cây phong già cỗi bỗng vang lên tiếng hót líu lo. Dường như chim trời cũng muốn chung vui cùng đôi bạn trẻ.

Hai người lại nhìn nhau rồi cùng ngả lưng trên thảm cỏ xanh. Họ trao cho nhau những lời nói yêu thương, chia sẻ buồn vui trong chuỗi ngày dài chờ đợi. Sophia kể lại rằng cô nhớ anh đến dường nào, ngay cả những những cơn ác mộng giữa đêm khuya cô thấy anh nằm xuống. Ngược lại, Bàn cũng kể cho cô những tháng ngày rong ruổi buồn chán trên biển khơi, những trận đánh sặc mùi thuốc súng. Rồi họ cùng bàn với nhau về những dự định trong tương lai.

……………

Mấy ngày sau, Bàn lại tìm đến điện Buckingham. Mục đích hôm nay của anh không phải là vì muốn gặp Sophia hay là vì một lý do chính trị nào khác. Đơn giản là vì anh muốn đưa Sophia về Đại Việt. Trước mặt George III, Bàn dù gì vẫn còn đó một chút tâm lý hồi hộp. Anh không biết nhà vua sẽ có thái độ nào khi anh đề cập đến việc này. Suy nghĩ một hồi lâu, rốt cuộc anh cũng tìm được câu nói thích hợp để bắt đầu:

- Bệ hạ, nghe nói dạo gần đây sức khỏe của Ngài không thật tốt lắm. Ngài đã khỏe hẳn chưa?

- À, không có việc gì. Bệnh người già ấy mà. Thiếu tá hôm nay đến đây chắc không chỉ đơn giản là muốn thăm hỏi ta đó chứ.

- Quả thật, tôi đến đây còn là vì mục đích khác. Ngài cũng biết tôi xa quê hương đã gần năm năm rồi. Đây cũng chính là lúc tôi phải về rồi.

- Vậy là Ngài đến để từ biệt à? Tốt, khi nào thì đi? – George III hỏi cùng với một nụ cười mỉm. Ông thừa biết hôm nay Bàn đến tìm mình là có việc gì.

- À… à… Tôi… tôi chỉ muốn báo cho Bệ hạ là mình sẽ về nước. Còn thời gian thì chưa quyết định được.

Bàn ấp úng thấy rõ. Cách nào anh cũng chẳng thể nói thẳng được mục đích của mình. Câu nói vừa nãy của nhà vua không hề đả động gì đến Sophia, lại còn có vẻ như là việc anh đi hay ở vốn chẳng có liên hệ gì. Thế này mới là căng đây. “Chà… chà… Biết vậy, mình nên đi hỏi ý kiến của Arthur hoặc là của Augustus. Giờ phải nói gì đây? Thôi kệ, cứ nói thẳng, tới đâu hay tới đó”, Bàn thầm nghĩ rồi nói.

- Bệ hạ, còn việc này nữa. Tôi muốn dẫn theo Sophia. Tôi muốn được chính thức cưới nàng làm vợ.

- Ha… ha… ha… Ta tưởng Thiếu tá cứ ậm ừ mãi mà không dám nói điều này nữa chứ.

Sau tràng cười dài, George III nhìn thẳng vào Bàn và nói với vẻ thoải mái hơn.

- Tốt… Đàn ông thì phải nên như thế. Không cần phải lôi thôi dài dòng. Ta thật sự không thích điều đó. Ta và Caroline đã biết trước mục đích của anh khi đến đây. – Lúc này George III cũng thôi không dùng từ “Thiếu tá” để gọi Bàn nữa mà chuyển hẳn thành “anh”. Ông lại nói tiếp – Chúng ta đã bàn tính. Trước khi hai người trở về nước của anh, chúng ta sẽ tổ chức cho Sophia một đám cưới hoành tráng. Đương nhiên, anh phải tổ chức lại một lễ cưới khác ở quê nhà.

- Dạ vâng. Đó là lẽ dĩ nhiên. Thế thì theo Bệ hạ, khoảng thời gian nào là thích hợp nhất cho lễ cưới ạ?

- Theo anh thì sao? Nên nhớ đây là đám cưới của anh.

- Theo tôi thấy thì nên chọn một ngày cuối thu, có lẽ là ngày Chủ Nhật cuối tháng 10 này là tốt nhất.

- Tại sao lại chọn ngày đó?

- Vì không ai làm lễ cưới vào mùa Đông hết ạ. Vả lại, những ngày cuối thu thường là những ngày đẹp trời, không khí cũng mát mẻ nhất.

- Được rồi. Nếu vậy thì chỉ còn nửa tháng để chuẩn bị thôi. Anh cũng lo liệu dần đi là vừa.

- Bệ hạ… Còn việc này nữa. Trông sắc mặt của Ngài có vẻ như mới vừa qua cơn bệnh nặng, Ngài có dự tính là sẽ đi đâu để nghỉ ngơi hay không? Nếu có thể, tôi xin mời Ngài đi cùng đến thăm đất nước tôi, không khí ở đó sẽ rất tốt cho Ngài.

- Việc này khoan hãy bàn tới. Ta hiện rất bận, anh cũng hiểu rồi đó. Nếu đi thì có lẽ chỉ mình Caroline đi thôi. Ta cũng sẽ hỏi ý bà ấy. Biết đâu bà ấy muốn đi cũng nên. Dù gì thì người mẹ nào mà chẳng muốn ở cạnh con gái trước ngày nó lấy chồng.

Nói đến đây, Bàn biết mình đã thành công. Anh chào ra về để còn suy tính mọi sự cho đám cưới. Trên đường trở lại nhà mình, Bàn cảm thấy rất vui vẻ. Vậy là anh sắp hoàn thành sứ mạng của mình ở Anh Cát Lợi rồi, sắp được trở về quê hương. Chưa hết, lần đi này quả đúng là anh đã “mang chuông đi đánh xứ người” và mang về cho nhà Tây Sơn một nàng dâu người Anh Cát Lợi.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 41: Từ biệt London
Chương 41: Từ biệt London

"Bằng quyền lực được giao, ta tuyên bố, từ giờ phút này, hai con là chồng và vợ. Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly. Jack, con có thể hôn cô dâu".

Bàn quay sang nhìn người phụ nữ của mình. Anh vén tấm khăn voan đội đầu của Sophia lên. Hai người nhìn nhau mỉm cười. Họ đặt lên môi nhau một nụ hôn vụng về. Đây không phải là lần đầu tiên họ làm việc này. Có điều, hôm nay là ngày vô cùng đặc biệt và có quá nhiều ánh mắt hướng về mình, họ không cảm thấy tự nhiên và trở nén vụng về cũng là điều dễ hiểu.

Hôm đó là ngày 27 tháng 10 năm 1799, ngày mà cả thành London bỗng trở nên náo nhiệt với đám cưới Hoàng gia. Từ sáng sớm, điện Buckingham đã rực rỡ muôn sắc màu với cờ hoa giăng mắc khắp nơi. Khu vườn Buckingham cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Đôi tân nhân không chọn nhà thờ hay nội sảnh của điện để làm lễ cưới. Mà họ chọn chính khu vườn này, nơi minh chứng cho tình yêu của hai người ngay từ những ngày đầu gặp gỡ.

Hôm nay trông Sophia thật rạng rỡ với bộ váy cưới màu trắng tinh khôi. Mẹ cô, Hoàng hậu Caroline đặt lên đầu cô chiếc mũ miện cô dâu làm từ vàng điểm xuyến bằng những đóa hoa hồng tự tay bà hái trong vườn. Cả con người cô toát lên một vẻ đẹp thuần khiết, trông cứ như hình tượng của nữ thần tình yêu nhẹ nhàng mà thanh tao.

Về phía Bàn, anh cũng nổi bật với bộ comple màu trắng. Theo phong tục của giới quý tộc Anh Cát Lợi, Bàn đội lên đầu một bộ tóc giả xoăn tít. Kể ra anh cũng phải đắn đo hồi lâu mới chọn được cho mình một bộ tóc màu đen. Nhìn Bàn lúc này, ai dám nói anh xuất thân từ một đất nước lạc hậu vùng Viễn Đông nữa chứ.

Sau lễ cưới là buổi tiệc buffet với nhiều món ăn truyền thống và thịnh soạn. Những lời chúc tụng, những cái bắt tay đến liên tục. Augustus cũng tỏ ra mình là một ông anh vợ chuẩn mực khi ông liên tục giới thiệu cho Bàn những vị khách quý. Với tính tình hào sảng, phóng khoáng của mình, Augustus trước mặt mọi người làm một bài thơ thật dài, thật hay.

Những tiết mục văn nghệ đặc sắc cũng được trình diễn. Đoàn du học sinh Đại Việt cũng được mời đến dự tiệc cưới. Họ trình diễn những ba tiết mục. Nơi đất khách quê người lại được nghe nhũng làn điệu dân ca mượt mà thì lòng người như ấm lên mặc cho cái giá lạnh của thời khắc giao mùa. Những người Anh Cát Lợi đu nghe không hiểu được những lời ca nhưng giai điệu réo rắt của chúng cũng cảm nhận được cái hay, cái tinh tuý của âm nhạc Việt.

Tiệc cưới tiếp tục với một buổi vũ hội ngoài trời. Trong số những du học sinh, trừ nhóm người đợt đầu còn sót lại, những người đến sau cảm thấy lạ lẫm và thích thú vô cùng. Nhìn những quan khách khác quay cuồng với điệu Valse lãng mạn, không ít người cảm thấy yêu đất nước phương Tây này. Họ cũng bắt đầu hoà mình vào với những bước nhảy vụng về. Nổi bật nhất ngoài chú rể có lẽ là cô con gái rượu của Đô đốc Tuyết, Ngọc Sương. Sống ở xứ người nhiều năm, cô nhanh chóng hoà nhập với nền văn hoá cởi mở hơn nhiều so với vùng Á Đông.

Tiếng nhạc chợt dừng lại, vị nhạc trưởng cất lời nói với tất cả mọi người:

- Quý vị, chúng ta hãy tạm dừng trong giây lát để nghe chú rể nói đôi lời.

Tiếng vỗ tay rào rào vang lên khi Bàn tiến lên phía trước. Anh nói:

- Quý vị, lần đầu tiên tôi được gặp Sophia là đêm Dạ vũ Giáng Sinh bốn năm trước. Khi đó chúng tôi lặng nhìn nhau thật lâu. Phải lấy hết dũng khí của mình, tôi mới có thể bước tới mà bắt chuyện cùng nàng. Chính khi đó là lúc tôi biết trái tim mình không còn tự do nữa, nó đã thuộc về người con gái bí ẩn mình sau chiếc mặt nạ hoá trang kia.

Bàn dừng lại. Bị nhạc trưởng lại cho tấu lên một giai điệu nhẹ nhàng và sâu lắng. Đoạn Bàn hướng về vợ mình mà nói tiếp:

- Sophia, em có nhận ra bản nhạc này không? Đây là bản Jesus, Joy of Man’s Desiring, bản nhạc đầu tiên chúng ta cùng nhảy với nhau. Chúng ta hay cùng sống lại đêm đó nhé.

- Vâng, chồng của em. Cám ơn chàng đã nhớ đến kỷ niệm của chúng ta.

Họ dắt tay nhau ra đứng giữa mọi người. Tiếng nhạc dần to lên. Hai người tay trong tay, họ dìu nhau theo từng bước khiêu vũ nhịp nhàng. Có vài quý bà, quý cô khẽ lấy khăn tay thấm những giọt nước mắt. Họ không nghĩ tới bên trong bị anh hùng trẻ tuổi là một tâm hồn lãng mạn, lại còn thủy chung nữa. Một cách vô tình, Bàn đã trở thành một mẫu người lý tưởng cho người yêu của các nàng thiếu nữ. Khi tiếng nhạc chấm dứt cũng chính là lúc từng tràng vỗ tay vang lên. Tiếng vỗ tay càng lớn hơn nữa khi hai nhân vật chính trao cho nhau một nụ hôn ngọt ngào.

Buổi tiệc chấm dứt khi chuông đồng hồ Big Ben đổ bốn tiếng. Tối hôm đó, Bàn không đưa Sophia về nhà mình, căn nhà được cấp nằm trong khu sĩ quan. Họ ở lai điện Buckingham, một phần là vì căn nhà này khá nhỏ, phần khác là vì Sophia muốn gần cha mẹ trong những ngày cuối cùng ở London.

Dìu nhau về phòng, cả hai vợ chồng trẻ cảm thấy mệt mỏi rã rời. Khác với tập quân cưới xin phương Đông, cô dâu phải ở lại trong phòng sau lễ gia tiên, ở đây, cô dâu phải cùng chú rể tiếp khách. Đành rằng rất mệt mỏi nhưng không hiểu sao cả hai người vẫn thấy mình có cảm giác uể oải. Họ nhìn nhau trìu mến. Bàn khẽ hôn vợ rồi nói:

- Có mệt không em?

- Không đâu, chỉ cần có chàng bên cạnh, em không còn cảm giác mỏi mệt nữa.

- Em biết không, anh đã chờ đợi giây phút này đã rất lâu rồi.

- Em cũng vậy. Những ngày không có chàng bên cạnh, em thấy dài như một thế kỷ. Nhưng em không cảm thấy cô đơn bởi em biết rằng trong tim chàng có hình bóng của em. Em yêu chàng.

- Anh cũng yêu em. Trời cũng đã tối rồi, chúng ta nghỉ ngơi thôi.

Bàn lại hôn vợ. Bàn tay anh bắt đầu lần mở những chiếc nút trên áo của Sophia. Gương mặt của cô chợt đỏ ửng lên, dù gì thì đây cũng là lần đầu tiên trong đời mà. Tuy vậy, Sophia để yên cho đôi tay của Bàn hoạt động. Từng mảnh áo rơi xuống phô diễn trước mắt Bàn một vẻ đẹp không hề có tỳ vết. Khi mảnh vải cuối cùng của Sophia rơi xuống cũng chính là lúc Bàn không thể kìm nén được nữa. Anh bế cô đặt lên giường làm điều mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng làm. Họ quyện vào nhau, cả thể xác lẫn tâm hồn, cùng đưa nhau đến bến bờ của hạnh phúc.

Sáng hôm sau, hai vợ chồng Bàn phải dậy khá sớm. Bởi lẽ, nghi lễ đám cưới của họ đâu đã xong. Ra mắt dân chúng là điều phải làm và cũng là công đoạn cuối của mỗi lễ cưới Hoàng gia. Hôm nay, Bàn mặc bộ comple màu đỏ với đuôi tôm trong khi Sophia khoác lên mình bộ váy màu tím.

Đôi vợ chồng trẻ đứng trên xe mui trần được kéo bởi ba đôi ngựa trắng. Họ vẫy tay chào người dân đứng đông nghịt hai bên đường. Hoàng gia cũng ban bố lệnh tổ chức ba ngày lễ hội. Địa điểm cuối trong chuyến hành trình chính là Quân trường Hoàng gia, nơi mà Bàn chinh để khởi nghiệp. Tại đây, Sophia cảm nhận được sự ton trọng mà binh sĩ dành cho chồng mình, quả là còn gì để hãnh diện hơn nữa đối với một người vợ.

Cuối cùng cũng đến thời khắc Bàn phải về nước, kết thúc sứ mạng cua mình ở Châu Âu. Thời điểm khởi hành được ấn định là ngày 3 tháng 11. Vào đêm trước, điện Buckingham tổ chức bữa tiệc gia đình thân mật.

- Jack này - George III nói với Bàn - ta trao Sophia cho con. Hãy đối xử tốt với nó.

- Điều này đương nhiên ạ. Người chồng không mang lại hạnh phúc cho vợ mình thì y không xứng đáng là một người đàn ông.

- Ha... Ha... Ha... - Augustus cười lớn - Thế mới xứng với em gái tôi. Nào, chúng ta nâng cốc mừng người đàn ông thực thụ.

Đến lúc gần tàn bữa tiệc, Bàn nói với cha vợ mình:

- Cha, thời gian tới, nếu cha có thời gian, vợ chồng con muốn mời cha đến thăm đất nước con. Ở nơi đó, cảnh đẹp và không khí trong lành sẽ thích hợp để đi du lịch.

Bàn cố ý tránh nói đến việc mời ông đến để dưỡng bệnh. Trong thâm tâm, anh ngày càng cảm thấy quý mến người đàn ông này. Mặc dù lúc ban đầu, họ chỉ giao tiếp với nhau vì các vấn đề chính trị. Lâu dần, Bàn nhận thấy ông là một con người dễ gần, lai là một người cha mẫu mực.

- Ta biết mục đích của con. Quả đúng là thời gian gần đây, ta thường hay bị các cơn đau đầu hành hạ. Nhưng, đi biển giờ không còn thích hợp với một người như ta. Ta sợ mình không còn đủ sức khỏe nữa.

- Đừng nói như vậy, Đức vua của em - Hoàng hậu Caroline nói. - Ngài vẫn còn mạnh khỏe lắm.

- Caroline, ta biết em chỉ an ủi ta thôi. Ta hiểu rõ sức khỏe của mình.

Quay sang Bàn, ông nói với giọng nhẹ nhàng:

- Jack, ta cảm ơn con đã có quan tâm đến lão già như ta. Quả thật, con rất khéo khi mời ta với lý do là để du lịch. Ta rất muốn một lần đến thăm đất nước con. Đất nước nhỏ bé nhưng lai sinh ra rất nhiều con người tài giỏi. Cứ nhìn vào con, không, con là một thiên tài mà cả nghìn người mới có một. Hãy xem những du học sinh con mang đến, họ thực sự có tài. Đôi lúc ta cảm thấy ganh tỵ với con và đất nước con.

- Cha à, Ngài không cần nói như vậy. Họ là những người đã được sàng lọc rất kỹ nên mới như vậy. Hơn nữa, con người đất nước con có thể không thông minh nhưng từ ngàn xưa, tổ tiên chúng con có lời dạy "cần cù bù thông minh". Đó là kim chỉ nam trong lòng mỗi người con đất Việt.

- Hay cho câu "cần cù bù thông minh". Chúng ta cùng nâng ly nào. À, nếu sau này có người muốn ở lại, con có cho phép hay không?

- Mỗi người có một chí hướng. Nếu điều đó xảy ra, con sẽ không ngăn cản. Hai nước chúng ta là minh hữu tốt thì ở đâu cũng là nhà thôi.

Đúng tám giờ sáng hôm sau, Bàn dẫn theo vợ và nhóm hơn bốn mươi du hoc sinh còn lại của đợt đầu, trong có có cả Ngọc Sương về nước trên chiếc "Người khai sáng". Đi theo Bàn còn có trung đội pháo binh số mười ba. Họ muốn đi theo người chỉ huy của mình với lý do bảo vệ công chúa Sophia như những người hầu cận. Vậy là sứ mạng của Bàn đã chính thức khép lại. Sự trở về của anh mang theo một vận hội mới cho nước Đại Việt trên con đường trở thanh một quốc gia hùng mạnh.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 42: Khắc tinh của cướp biển
Chương 42: Khắc tinh của cướp biển​

- Thiếu tá! Có hai chiến thuyền cách ta hai hải lý rưỡi hướng năm giờ.

- Có biết thuyền nước nào không? Chủng loại gì?

- ...

- Sao? Đã quan sát kỹ chưa?

- Hai chiếc Frigate loại của Hà Lan, nhưng treo cờ đen. Chắc là cướp biển.

Vị Thiếu tá trẻ mắc trang phục của người Việt trầm ngâm. Anh suy nghĩ về khả năng hai chiếc thuyền hải tặc này tấn công mình. Khỏi cần đoán cũng biết đây là Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn. "Lạ nhỉ. Hai chiếc Frigate dù nhiều và được điều khiển bởi cướp biển cũng không dám tấn công một chiếc First Class Frigate như "Người khai sáng" mới đúng chứ, dù gì đây cũng là loại chiến thuyền xếp hạng hai với một trăm lẻ sáu khẩu đại bác". Anh nói vọng lên:

- Quan sát tiếp xem có gì lạ hay không.

- Tuân lệnh.

- ...

- Thiếu tá! Chúng không phải đuổi theo chúng ta mà là đang tấn công một chiếc tàu buôn của Tây Ban Nha.

- Quả vậy. Allan, nếu quay lại, phải bao lâu chúng ta có thể tiếp cận chúng?

Viên sĩ quan thuyền trưởng sau một hồi tính toán liền nói:

- Thiếu tá! Chúng ta hiện ngược gió, nếu quay lại, chúng ta sẽ trên gió, tốc độ sẽ cao hơn. Chúng ta sẽ đạt tốc độ khoảng hai mươi hai hải lý một giờ. Sẽ mất khoảng tám phút nữa mới tiếp cận được chúng.

- Tốt lắm. Chúng ta quay lại cứu chiếc thuyền buôn kia.

Bàn tuy là Thiếu tá, chiến thuyền này là của Đại Việt, nhưng anh lai tin tưởng và mời người sĩ quan này làm thuyền trưởng cho mình. Đơn giản là do sự tiến cử của Phó Đô đốc Nelson, người tướng hải quân huyền thoại của Anh Cát Lợi. Bàn chỉ đảm nhận vị trí thuyền phó trên chính chiếc thuyền của mình.

- Bẻ hướng chín mươi độ về tay phải - Allan ra lệnh.

- Tại sao chúng ta không bẻ góc lớn hơn và tiến thẳng về phía chúng? - Bàn thắc mắc.

- Thiếu tá, Ngài nghĩ xem, đại bác chúng ta bố trí hai bên mạn thuyền, nếu lao thẳng vào thì sao chúng ta bắn được? Phải ở một góc xiên.

- Tôi hiểu rồi. Vậy với khoảng cách bao xa chúng ta mới khai hỏa được?

- Đại bác của chúng ta có tầm bắn hai phần ba dặm, hiệu quả trong khoảng một phần ba dặm. Như vậy, chí ít chúng ta cũng phải đến gần trong khoảng một phần hai dặm. Nhưng như thế cũng có nghĩa là chúng ta cũng lọt vào tầm bắn của chúng.

- Vậy ông tính thế nào,

- Những quả Rocket của Thiếu tá đạt tầm bắn một dặm, lại không có hạn chế về uy lực do chúng phát nổ và gây cháy. Cho nên phiền Ngài cho tấn công bằng Rocket ở khoảng cách hai phần ba dặm.

- Tôi hiểu rồi, tôi sẽ chuẩn bị ngay.

- Hãy khoan, Thiếu tá. Ngài hãy nhắm vào chiếc kia, chiếc xa hơn. Về phần những khẩu đại bác, ngài hãy dùng đạn xích mà bắn vào chiếc đầu tiên khi chúng ta vào khoảng cách một phần hai dặm. Đừng thắc mắc, ngài sẽ hiểu được chiến thuật của Hải đội mà Phó Đô đốc Nelson chỉ huy.

Bàn quả thật làm theo lời ông ta. Năm dàn phóng Rocket được chuẩn bị và ngắm cự ly chính xác vào chiếc thuyền thứ hai. Bốn phút sau, khi đạt được khoảng cách hai phần dặm, hai mươi lăm quả Rocket được phóng đi. Thực hiện chính là những người đàn ông của trung đội số mười ba. Bởi vậy, toàn bộ số Rocket đã trúng mục tiêu.

Chiếc thuyền hải tặc thứ hai bốc cháy dữ dội trong sự ngạc nhiên của đám cướp biển. Trong lúc chúng chưa kịp hoàn hồn sau sự việc vừa xảy ra, một loạt tiếng nổ phát ra từ những khẩu đại bác trên chiếc chiến thuyền xa lạ. Nạn nhân lần này lại là chiếc thuyền hải tặc thứ nhất. Quả đạn xích lao tới, xé rách vải buồm, xô ngã những cột buồm.

Tốc độ của chiếc thứ nhất lập tức bị giảm lại. Trong khi đó, chiếc thứ hai dù đang bốc cháy vẫn lao tới. Một màn bất ngờ xảy ra, cả hai chiếc thuyền lao vào nhau. Không, phải nói là chiếc thứ hai đâm vào chiếc thứ nhất mới đúng. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội. Không còn bất cứ lối thoát nào cho bọn cướp biển. Mà theo cách nói của dân gian người Việt thì chúng "đi cướp không chọn ngày".

- Đó là chiến thuật đó, Thiếu tá - Thuyền trưởng Allan nói.

- Tôi hiểu rồi. Các ông dùng nguyên lý không thể dừng thuyền ngay lập tức. Đây đúng là chiến thuật tấn công một nhóm thuyền tốt nhất.

- Chưa hẳn là tốt nhất đâu. Rồi từ từ Ngài sẽ hiểu thêm.

Sau trận hải chiến nho nhỏ này, không, phải nói cho đúng là vụ chém giết một chiều, các thủy thủ trên chiếc "Người khai sáng" cảm thấy tự tin hơn rất nhiều, ít ra họ biết mình được dẫn dắt bởi một thuyền trưởng tài ba. À, nhân đây cũng nói thêm, chiếc "Người khai sáng" vốn đã được đổi tên thành "Hy vọng", song, Bàn cho nó lấy lại tên cũ cho phù hợp với chức năng là đưa người đi du học.

Allan cho thuyền tiếp cận chiếc thuyền buôn. Đây là loại thuyền buôn ba cột buồm lớn với mười hai khẩu đại bác. Quả thật, số lượng súng trên đó chẳng qua là để các thương buôn yên tâm mà thôi, chúng không đủ sức uy hiếp bất cứ thuyền hải tặc nào. Nó đã bị hư hỏng khá nặng khi mà có hai cột buồm bị gãy. Cũng may, hàng hoá dưới khoang không bị tổn thất. Sau một hồi thương lượng, Bàn cũng đồng ý hộ tống họ đến thương cảng gần nhất với cái giá là mười phần trăm số hàng hoá mang theo.

Cuối cùng, "Người khai sáng" lại tiếp tục tiến về phương Đông sau ba ngày hộ tống thương thuyền nọ. Cũng nhân dịp lên bờ, họ tranh thủ bán bớt số hàng hoá thù lao và mua thêm thuốc súng.

Cũng không biết trời xui đất khiến thế mà trong chuyến đi này, "Người khai sáng" đụng phải không dưới tám chiếc thuyền hải tặc. Với ưu thế về hỏa lực, bất cứ kẻ cướp nào cũng trở thành nạn nhân chỉ sau tối đa ba loạt đạn.

Một ngày nọ, đoàn người hồi hương phải chạm trán với một mà là ba chiếc thuyền hải tặc. Địa điểm đụng độ lại là nơi mà đoàn người cảm thấy sợ nhất, nơi mà lần đầu tiên họ nếm mùi cơn giận dữ của đại dương, Mũi Hảo Vọng.

- Thiếu tá! Chúng ta lai gặp cướp biển, lần này là ba chiếc Frigate ở cách đây năm dặm, hướng mười giờ.

Giọng nói của người hoa tiêu vọng xuống từ đài quan sát ở cột buồm chính. Bàn quay sang hỏi Allan

- Thuyền trưởng, chúng ta còn đủ đạn dược để đối chiến hay không?

- Chúng ta còn đủ đạn đại bác để chiến đấu. Nhưng Rocket chỉ còn có sáu mươi quả, phải thật tiết kiệm.
- Vậy chúng ta chỉ còn hai loạt phóng và mười quả cuối cùng thôi sao? Ái chà, đáng lo quá, đường về còn xa, thế mà...

- Thiếu tá, các ngài có thể đảm bảo chỉ với năm quả Rocket có thể hoàn toàn trúng đích hay không?

- Có thể chỉ ba quả trúng thôi. Cố gắng lắm và may mắn mới được năm quả.

- Ba quả, vậy là tốt rồi. Lần này tôi sẽ cho Thiếu tá xem một chiến thuật nữa.

Nói đoạn, Allan bày lên chiếc bàn bốn mô hình thuyền chiến. Ông nói:

"Đây là chúng ta, còn đây là ba chiếc của đối phương. Chúng hiện đi thành một hàng. Hướng gió hiện nay là Đông Bắc - Tây Nam, tức là chúng ta ở ngược hướng gió, chúng thì thuận chiều.
Bây giờ là chiến thuật. Trước tiên, chúng ta tiến thẳng về phía chúng. Đến khoảng cách một dặm, Ngài hãy phóng năm quả Rocket. Chúng sẽ không nghĩ là ta tấn công từ đằng mũi chứ không phải là mạn thuyền. Mục tiêu là chiếc đầu tiên.

Khi chiếc này bị bắn, tốc độ đương nhiên sẽ giảm xuống. Hai chiếc phía sau thứ nhất không nghĩ chúng ta bắn từ mũi với khoảng cách xa như vậy; thứ hai, chúng đang thuận gió nên tốc độ rất cao. Thiếu tá đừng hy vọng sẽ có một vụ va chạm xảy ra. Hai chiếc sau sẽ tách ra hai bên như thế này.

Trong lúc đó, chúng ta cũng đã chuyển hướng một góc bốn mươi lăm độ. Thiếu tá xem, tình hình lúc này thế nào?"

Bàn quan sát, nghiền ngẫm rồi nói:

- Theo hướng đi chuyển thì chúng sẽ bị dồn thành một đống, và chúng ta sẽ đón mũi thuyền của một trong hai chiếc sau, chiếc còn lại là mạn trái nhưng tầm bắn sẽ bị cản trở. Trong khi đó, ta đang hướng mạn trái về phía chúng.

- Đúng vậy, lúc này chúng ta chỉ cần bắn đại bác loạn xạ cũng sẽ trúng đích. Chỉ cần hai, ba lượt bắn nữa là chúng tiêu tùng.

- Vậy là tôi hiểu rồi. Chúng ta cứ thế là có nhiều khả năng chiến thắng. Thi hành thôi.

Mọi việc không ngờ diễn ra đúng theo những gì họ bàn tính. Thậm chí, mọi việc còn thuận lợi hơn nhiều khi mà có bốn quả Rocket trúng đích. Dù sao thì cướp biển vẫn là cướp biển. Sự phối hợp của chúng rất lỏng lẻo bởi mối dây ràng buộc chỉ là tiền tài. Bởi thế, nói tấn công theo đội hình như hải quân là điều xa xỉ, đừng nói chi đến việc ứng cứu đồng bạn.

Minh chứng cho tất cả những điều trên là sự tháo chạy của chiếc thuyền hải tặc thứ ba. Khi loạt đạn đại bác đầu tiên được bắn ra, chiếc thuyền này nằm ở vị trí xa nhất, mạn trái lại hướng về "Người khai sáng". Thế mà dù chỉ trúng vài ba quả đạn, cháy thì cũng có đấy nhưng không đáng kể, lẽ ra nó cũng phải bắn ra ít nhất một loạt đạn để gây rối đối phương, đồng thời để cứu đồng bạn, nó lại chạy tháo thân một mình. Hai chiếc còn lại thì không cần phải nói nữa, giờ đây chúng Vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.

Cũng thật lạ, kể từ sau chiến thắng đó, Bàn và đoàn người hồi hương không còn gặp bất cứ tên cướp biển nào cả. Họ nào có hay, sự việc "tốt đẹp" này cũng từ những "kẻ nhát gan" trên kia mà ra. Sau khi chạy thoát thành công, những tên cướp biển sống sót kháo nhau và dặn dò đồng bạn chớ nên đụng đến "Người khai sáng".

Cuối cùng thì thời khắc về tới nhà cũng đã đến. Trưa ngày 10 tháng 7 năm 1800, "Người khai sáng" đã về đến ngoài khơi Bình Định. Đoàn người lên bờ với niềm vui khó tả. Năm năm, đã năm năm rồi mới trở lai quê hương, hỏi ai lại không thấy bồi hồi xúc động.

Đối với Bàn, sự trở về không có nghĩa là anh đã hoàn thành hết sứ mạng của mình. Anh mới chỉ đi được một nửa chặng đường. Trước mắt, còn rất nhiều việc chờ anh giải quyết. Thế nhưng, cứ vui đi, vì trong chuyến đi này, Bàn là người thắng lớn nhất khi anh đã đưa được người vợ yêu dấu về đến nhà. Nhất là, Sophia đã có tin vui.
Kết thúc quyển 2
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Quyển 3: Định Giang sơn
Chương 43: Đổi thay nơi quê nhà
Chương 43: Đổi thay nơi quê nhà

Từ sáng sớm, những người dân chài đã thấy từ xa bóng dáng của một chiến thuyền. Những người dân nơi đây sớm đã quen với việc phải giáp mặt với những hải đội của triều đình và cả của nhà Nguyễn nữa. Bởi thế, họ nhanh chóng báo cho nhau tránh xa. Tuy nhiên, có vài người cảm thấy tò mò, tiến đến gần. Không có chuyện gì xảy ra với họ. Rõ ràng chiếc chiến thuyền này không hề có chút địch ý nào. Những chiếc thuyền thúng dập dìu trên sóng nước phút chốc cảm thấy dạn dĩ hơn, họ không cần phải tránh bé nữa mà lai tiếp tục với công việc thường nhật.

Người dân nước Việt vốn được thiên nhiên ưu đãi với bờ biển trải dài từ bắc chí nam. Tôm cá lại kéo đến sinh sống rất nhiều. Điều này thật xứng với câu "rừng vàng biển bạc", chẳng bù với thế kỷ hai mươi mốt, muốn đánh cá, người ta phải đi ra ngoài khơi rất xa. Mấy mươi năm nay, chiến loạn xảy ra khắp nơi, người dân sinh sống thật cơ cực. Nhờ ơn trên chiếu cố, năm năm trở lại đây, giữa hai miền thi hành lệnh đình chiến nên dân tình có ấm êm đôi chút.

Chiến thuyền "Người khai sáng" từ từ tiến về Cảng Thị Nại, cố gắng không làm kinh động những đàn cá bên dưới để ngư dân đánh bắt. Đứng trên boong thuyền, Bàn cảm khái, thầm mơ ước mỗi ngày trôi qua cũng đều thật bình yên như hôm nay. Anh vẫy vẫy tay với mấy người ngư dân. Miệng anh mỉm cười, hỏi thăm thu hoạch của họ hôm nay thế nào.

Từ trong khoang bước ra, Sophia khoác lên vai chồng một chiếc áo choàng làm từ lông thú. Cô cũng tò mò dõi mắt nhìn xung quanh. "Quê nhà của chàng đây sao? Khung cảnh yên bình quá". Cô cũng cảm thấy vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào mấy chiếc thuyền thúng, phương tiện đi biển này thật lạ kỳ và những con người đang điều khiển chúng mới thật tài làm sao. Cô lay lay cánh tay chồng, hỏi nhỏ:

- Jack! Kia gọi là gì vậy? Em chưa thấy loại thuyền đó bao giờ.

- À! Nó gọi là thuyền thúng. Người ta dùng nó để đi bắt cá, câu mực, câu tôm.

- Nhưng nó tròn thế kia thì di chuyển kiểu gì?

- Cũng bằng chèo thôi. Nhưng người ta còn có cách khác. Em thấy người kia không? Ông ta nhún xuống rồi lai kéo lên, thế là chiếc thuyền bơi tới phía trước.

- Hay quá nhỉ. Ngày sau chàng nhớ cho em đi thử nhé.

- Ừ! Nhưng đó là ngày sau. Ngoài này gió lạnh lắm, em vào trong buồng đi, thế mới tốt cho cả mẹ và con.

Sophia gật đầu rồi hôn lên má Bàn một cái, đoạn, cô quay gót trở vào trong buồng. Nhìn theo bóng lưng vợ, Bàn cảm thấy mình thật hạnh phúc. Vợ anh là một người phụ nữ quý tộc nhưng chưa hề tỏ ra kênh kiệu, lại còn nghe lời nữa. Giờ đây, Bàn lại có một niềm vui nữa, anh sắp làm cha, có lẽ cũng chỉ khoảng bốn tháng nữa thôi.

Khi thuyền tiến đến gần cảng Thị Nại, có hai chiến thuyền lướt sóng mà tiến đến. Họ cặp hai bên mạn thuyền. Vì trời chưa sáng tỏ nên dòng chữ "Người khai sáng" khó mà đọc cho rõ. Có người trên chiến thuyền bên tay trái lên tiếng hỏi:

- Các vị đang tiến về quân cảng quan trọng của Đại Việt, vui lòng cho biết mình là ai và cho dừng lại.

- You are coming to important Military Dock of Dai Viet...

Bàn cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và thích thú khi nghe được câu nói tiếng Anh Cát Lợi. Rõ ràng chú em mình đã làm thay đổi hoàn toàn đất nước theo chiều hướng thật tốt đẹp. Anh nói vọng xuống.

- Hãy nói cho cấp trên của anh là "Người khai sáng" đã trở về. Ông ấy sẽ biết ta là ai.

- Trong lúc chờ xác minh, Ngài vui lòng hạ buồm cho thuyền dừng lại.

- Tốt thôi. Đây là điều phải làm.

Một chiếc xuồng nhỏ được hạ thủy và bơi nhanh về. Cũng phải nói thêm, Bàn chọn Quy Nhơn làm nơi đầu tiên anh trở về là có lý do. Thành trì này là gốc rễ của nhà Tây Sơn. Anh muốn đi vào từ đường cho vợ mình thắp nhang cúng bái tổ tiên. Mặc khác, là một quân nhân, anh muốn xem thử hải đội của quê nhà đã phát triển tới đâu.

Phải gần bốn mươi phút sau, chiếc xuồng nhỏ mới quay lại. Lần này, trên xuồng còn có sự hiện diện của một tướng quân. Người này có chiều cao khá vượt trội so với những người Việt khác, phải đến gần một mét bảy, dáng người phương phi, uy vũ, râu tóc được cắt tỉa gọn gàng, tầm ba mươi lăm tuổi. Vừa đến nơi, ông ta chắp tay nói vọng lên:

- Thủy sư Đề đốc Dương Lễ chào mừng Chinh Tây Vương trở về.

- Không cần phải đa lễ. Đề đốc quản lý quân cảng tốt lắm.

Những người trên hai chiếc chiến thuyền kia giật mình. Họ khom mình cúi chào Bàn. Có người tự trách: “Sao mình dốt thế nhỉ. Lẽ ra khi nghe đến tên của chiếc thuyền thì phải biết đây là ai mới đúng”. Dương Lễ nói tiếp:

- Mời Vương gia cho thuyền tiến vào quân cảng. Mạt tướng xin phép được thay mặt chúng binh sĩ dẫn đường.

- Đã nói rồi, Đề đốc không cần phải đa lễ, ta vốn là người không thích câu nệ kia mà. Xa nhà mới năm năm không lẽ mọi người không còn nhớ đến tính tình ta sao?

Nói rồi, Bàn bảo thuyền trưởng Allan cho thủy thủ điều khiển thuyền vào Cảng Thị Nại. Người sĩ quan Anh Cát Lợi bao năm chinh chiến dưới trướng của Phó Đô đốc Nelson cảm thấy rất bất ngờ về quân cảng nước sâu này. Từng mảng bố phòng nơi đây đều toát lên một sự uy hiếp rất lớn đối với kẻ nào có ý định tấn công. Pháo đài chạy dọc theo cảng với hàng nghìn họng đại bác cỡ lớn, có lẽ là loại súng thần công dùng loại đạn hai mươi bốn Pounds. Pháo đài lại được xây bằng loại đá granit vô cùng cứng chắc, tường thành lại cao gần mười mét. Bên trong là hải đội với hơn hai nghìn chiến thuyền mà theo ông được biết thì đây chỉ mới là con số tập trung ở quân cảng lớn nhất, ngoài ra, Đại Việt còn gần hai nghìn chiếc khác bố trí ở rải rác các nơi trọng yếu. Xét về chỉnh thể thì đây quả xứng danh là pháo đài không thể công phá.

Vào đến bên trong, Bàn dẫn theo cùng Allan, và một vài thân tín trong trung đội số mười ba đến gặp các tướng lĩnh đang đóng tại đây. Phần Sophia, anh nhờ Ngọc Sương chăm sóc dùm. Sau những phần chào hỏi xã giao thông thường, Bàn hỏi Dương Lễ:

- Đề đốc! Ông có thể cho ta biết số lượng và chủng loại thuyền chiến hiện đang trú đóng ở đây không?

- Bẩm, chúng ta tập trung ở đây hai nghìn một trăm năm mươi chiến thuyền các loại. Trong đó có mười chiếc Định Quốc đã cải tiến có thể mang được một trăm lẻ bốn khẩu đại bác, năm mươi chiếc Second Class Frigate có thể mang theo sáu mươi bốn khẩu đại bác, bảy mươi chiếc Third Class Frigate có thể mang theo bốn mươi tám khẩu đại bác. Còn lại là các loại khinh thuyền lớn nhỏ, số lượng đại bác mang theo nhiều nhất là ba mươi hai khẩu. Riêng hai dòng Frigate kia thì một phần t.ư là đóng mới, còn lại là loại thuyền trước đây của chúng ta được cải tạo lại.

- Tốt lắm. Không ngờ là sau năm năm xa nhà, Đại Việt đã có bước tiến lớn như vậy.

Bàn cũng rất vui lòng phiên dịch lại cho Allan những điều được báo cáo. Ông này cảm thấy vô cùng bất ngờ và khâm phục Mark Downing khi xưa thật rất sáng suốt khi khuyên người Anh Cát Lợi kết minh với Đại Việt. Ông ta nói:

- Thiếu tá, không ngờ đất nước của Ngài có hải đội hùng hậu như vậy. Tôi nghĩ, các Ngài nếu muốn làm bá chủ vùng biển miền Viễn Đông này cũng không phải là vấn đề lớn.

- Thuyền trưởng! Ngài chưa hiểu chúng tôi nhiều. Việc trang bị những vũ khí thế này không phải đến từ khát vọng xưng bá. Đại Việt chúng tôi xưa nay rất yêu hòa bình. Chúng tôi tự trang bị cho mình chủ yếu là để phòng thủ, nhất là khi chúng tôi có một gã láng giềng xấu tính.

Allan gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Nhưng trong lòng ông cũng xuất hiện hai dòng suy nghĩ trái chiều. Thứ nhất, nếu sở hữu những trang bị thế này mà chỉ dùng để phòng thủ thì quá đáng tiếc. Sau nữa, ông cũng hy vọng Đại Việt chỉ muốn phòng thủ là thật, bằng không, dù là minh hữu nhưng Anh Cát Lợi cũng khó lòng mà xưng bá ở nơi đây.

Ra khỏi quân cảng, Bàn dẫn theo Sophia đến từ đường của dòng họ hiện đang đặt ở nội cung thành Quy Nhơn. Đến nơi, anh để vợ bên ngoài, một mình bước vào thắp nhang bái lạy tổ tiên. Sophia thắc mắc:

- Jack! Sao chàng không cho em vào bên trong? Em là vợ chàng mà.

- Đây là lễ giáo của nước anh. Em tuy là vợ anh, nhưng chúng ta chưa ra mắt người lớn trong nhà. Khi đến Phú Xuân, em sẽ được gặp họ và sẽ có một buổi lễ đón nhận em vào làm thành viên trong tộc. Khi đó em mới được vào đây. Đừng buồn anh nhé.

- Em hiểu rồi, chàng yên tâm đi. Em muốn đi dạo khắp nơi, chàng đưa em đi nhé.

Bàn mỉm cười và nắm lấy bàn tay nhỏ xinh của Sophia mà dẫn cô đi thăm thú khắp nơi. Họ thuê một chiếc xe ngựa bình thường, không phải loại dành cho Hoàng tộc hay quan lại. Bàn nói không muốn người khác chú ý.

Phố phường đã thay đổi rất nhiều so với năm năm trước. Cả thành Quy Nhơn đã được quy hoạch lại. Đường phố thênh thang với lòng đường rộng mười mét, hai vỉa hè hai bên cùng những phiến đá Granit được lát ngay ngắn. Ngắm nhìn những căn nhà trên phố, hai vợ chồng càng ngạc nhiên hơn khi thấy toàn bộ đều được xây bằng gạch. Họ tìm mãi cũng không thể nào tìm thấy những mái nhà tranh vách đất. Ông lão đánh xe hỏi:

- Cậu chắc đến từ nơi khác và có lẽ ở một vùng quê nào đó, còn cô đây là người nước ngoài.

- Vâng, đúng thế. Nhưng tôi không phải là người ở quê. Tôi theo cha đi buôn ở trên biển, năm năm rồi mới về nhà. – Bàn cố tình giấu đi thân phận của mình.

- À, ra vậy. Thế thì không có gì lạ khi cậu tỏ ra ngạc nhiên. Cả thành Quy Nhơn bây giờ không còn được gọi là thành nữa mà thêm một chữ phố. Gọi là thành phố Quy Nhơn. Đức vua anh minh đã cho người làm cái gì gọi là quy hoạch ấy. Ngài cho xây dựng lại hết. Đường phố khang trang, rộng rãi. Nhà cửa thì được xây bằng gạch hẳn hòi. Nhà tranh vách đất khi xưa chỉ còn ở những vùng quê. Ngài nói, vì đất nước chưa đủ tiền, chứ một khi dẹp xong giặc Ánh, lại có nhiều tiền hơn thì sẽ bỏ hẳn nhà tranh cậu ạ.

- Thế à? Tôi đi lâu quá rồi nên thấy lạ lẫm. Cụ có thể vui lòng hướng dẫn vợ chồng tôi tham quan không?

- Cũng được thôi. Nói tiếp về nhà cửa nhé. Phải nói là từ khi có những căn nhà xây bằng gạch thế này, đời sống dân chúng đỡ khổ nhiều lắm, không còn phải quá sợ những cơn bão như trước. Rồi thì cũng không còn sợ mưa gió nữa.

Bàn gật gù ra chiều đã hiểu. Anh cũng không quên phiên dịch lại cho Sophia. Ông lão lại tiếp tục nói rất nhiều về thành phố. Rõ ràng, như bao người khác, ông rất tự hào khi sinh sống nơi đây. Ông cũng tỏ ra thán phục trước vị vua trẻ tuổi. Ông nói:

- Công nhận Đức vua tuy nhỏ nhưng lại anh minh và tài giỏi. Ngài không trực tiếp làm những điều này. Nhưng đâu đâu cũng thấy dấu ấn của Ngài.

- Tôi cũng thấy thế – Bàn ứng lời. – Quả là Ngài rất tài giỏi. Việc thành lập ra các ban, bộ mới và thúc đẩy bá quan tự quyết định, tự làm là hết sức đúng đắn.

- Đúng vậy đó cậu. Các quan cảm thấy mình được tôn trọng và công nhận nên làm việc hăng say lắm. Chưa hết nhá. Cậu chắc cũng biết Đức vua có hai người anh. Mọi người nói rằng họ rất giỏi, thậm chí còn giỏi hơn Đức vua nhiều. Có điều đáng khâm phục là họ chưa bao giờ cậy tài, lại hết lòng giúp đỡ em mình. Như Đức Bắc Định Vương đó, một tay khống chế Bắc Hà, quyền bính lớn nhưng luôn ở bên cạnh giúp đỡ Đức vua. Rồi Đức Chinh Tây Vương nữa, Ngài sẵn lòng rời xa quê hương để đem về cho đất nước những người tài giỏi, nghe đâu ở hải ngoại, Ngài ấy rất nổi danh.

Ông lão còn kể nhiều, nhiều chuyện khác nữa. Bàn cũng cảm thấy những hy sinh của mình khi đến Châu Âu không hề phí. Những người tài giỏi ở trời Tây càng ngày càng đổ về Đại Việt nhiều hơn, thương nhân cũng thường xuyên ghé đến hơn. Và một điều nữa, em của anh, vua Cảnh Thịnh thực sự biết lo cho dân, không còn là cậu nhóc ham chơi thuở mới đăng cơ nữa.

Bàn ở lại Quy Nhơn hai ngày mới lên đường đi Phú Xuân bằng đường bộ. Anh muốn cùng vợ ngắm cảnh đẹp trên đường cùng những đổi thay của quê nhà. Phần những binh sĩ của trung đội mười ba, anh bố trí họ ở lại, chỉ mang theo Allan cùng hai người thân tín đi theo mình.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 44: Vương tử - Vận hội mới
Chương 44: Vương tử - Vận hội mới​

- Sophia! Hôm nay là ngày gì, em biết không?

Bàn âu yếm đặt lên má vợ một nụ hôn và hỏi nhỏ. Sophia nhẹ nhàng tựa đầu vào vai anh và nói bằng thứ tiếng Việt trọ trẹ:

- Hôm nai là celebrate một nam ngài cúi của chúng ta.

- Em nói đúng rồi. Em xem anh tặng gì cho em nè.

- Cái gì vại anh?

- À, quên mất. Em nhắm mắt lại đi. Close your eyes.

Sophia cười tươi và nhắm mắt lại. Bàn đứng dậy, lấy từ trong tủ, nơi anh lưu trữ các loại văn kiện một vật. Đó chính là mô hình thu nhỏ của điện Buckingham. Anh cầm nó đến trước mặt vợ, lại lén lút hôn lên má cô rồi nói:

- Em mở mắt ra được rồi. Open your eyes.

- Buc... Buckingham Palace. Oh my God.

Sophia cảm thấy rất kích động, đến nỗi nói ra một câu tiếng Anh Cát Lợi. Đã lâu lắm rồi cô không nhìn thấy toà cung điện nơi mình sinh sống hơn hai mươi năm qua. Nước mắt chảy rưng rưng từ đôi mắt đẹp, cô ôm chầm lấy chồng.

- Đẹp không? Chính tay anh làm đó. Anh biết em nhớ nhà.

- Đẹp lắm! Em cám on anh. Em yêu anh nhiều lắm.

Đúng lúc này, bụng Sophia đau dữ dội. Cô sắp sinh chăng? Theo tính toán của hai vợ chồng, ngày họ đón thiên thần bé nhỏ chào đời phải đến một hoặc hai tuần nữa. Nhưng ai biết, có lẽ do Sophia quá cảm động mà đứa bé muốn ra đời chăng. Bàn quýnh quáng cả lên. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, anh hét lớn lên:

- Ngự y, người đâu, mau mời ngự y. À không, mau mời bà mụ.

Cô cung nữ đứng hầu bên ngoài tức tốc chạy đi. Mấy tuần lễ nay, Bàn nghe lời Thái hậu Ngọc Hân, dọn vào ở hẳn trong cung để dễ bề chăm sóc. Những lúc anh bận công việc cũng có Thái hậu và cô em gái út qua chơi và nói chuyện.

- Phải rồi, cô mau báo cho hai vị Thái hậu biết tin Vương phi sắp âm bồn, mau – Bàn chỉ vào một tên thái giám ở gần đó.

- Nô tài, tuân chỉ.

Y dạ thưa rồi tức tốc chạy đi. Chẳng bao lâu sau, người ngự y già dẫn theo một người phụ nữ chạy đến. Ông ta nhanh chóng bắt mạch cho Sophia, đoạn quay sang Bàn:

- Vương gia, mời Ngài ra ngoài cho. Vương phi sắp lâm bồn. Ở đây không có việc cho đàn ông chúng ta.

- Ta… ta không được ở lại trong này sao?

- Đây là đại kỵ. Vương gia, mời theo tôi, cứ để bà Lý lo cho Vương phi.

Bàn nghe lời bước ra bên ngoài. Lòng anh lúc này nóng như lửa đốt. Anh lo cho Sophia, lo cho đứa bé trong bụng cô. Bàn lóng ngóng, hết nhìn vào trong phòng, rồi lại nhìn ra ngoài sân; hết đứng lên rồi lại ngồi xuống. “Chúa ơi, cầu xin Ngài cho mẹ tròn con vuông”. Bàn lâm râm cầu nguyện, từ ngày đính hôn với Sophia, anh cũng chọn theo Cơ đốc giáo như vợ mình.

Lại thêm một lúc nữa, một cô bé mười hai tuổi, tóc thắt bím chạy ào tới, luôn miệng hỏi:

- Anh ba, anh ba. Chị ba sinh em bé chưa?

Cô bé này ngoài tiểu Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Bảo thì còn ai vào đây nữa. Sau lưng cô bé là hai vị Thái hậu dẫn theo tiểu Vương gia Nguyễn Quang Đức. Đến nơi, Bùi Thái hậu lại là người lên tiếng trước:

- Bàn, vợ con sinh chưa?

- Dạ, bà mụ đang ở bên trong, con không được vào nên không biết. Con lo quá. Hai dì ơi, hai dì là phụ nữ, hai dì vào xem vợ con giúp con với.

- Ừ, để hai dì vào xem – Lê Thái hậu cười và nói.

Đúng lúc này, Tổng quản Thái giám Vũ Lâm Thái chạy đến. Lúc này, tiểu thái giám Tiểu Thái năm xưa cũng đã là một người trưởng thành. Anh nói với Bàn:

- Vương gia, Hoàng thượng và Hoàng hậu đến rồi.

- Sao nhanh thế, Hoàng thượng đến rồi à? Lại có cả Hoàng hậu nữa ư?

- Dạ đúng, Hoàng hậu còn ẵm theo tiểu Hoàng tử nữa.

Nhân đây cũng nói thêm, năm đức vua của chúng ta lên mười sáu, cậu đã cưới người mình yêu là cô bé Đoàn Thị Ngọc Lan làm vợ. Thật ra, hai người đến được với nhau cũng khá trắc trở. Phải nói đến ban đầu chính Thái hậu Lê Ngọc Hân giới thiệu em gái út của mình là Lê Ngọc Bình cho Toản, định bụng sẽ cho hai người cưới nhau. Tuy nhiên, Toản đã cương quyết cự tuyệt. Cậu bảo, như thế mình phải gọi Lê Thái hậu là gì? Là dì hay là chị? Gọi là dì bởi bà là vợ của cha mình. Gọi là chị vì bà cũng là chị ruột của Ngọc Bình. Cuối cùng, cho đến khi Toản đưa Ngọc Lan đến yết kiến hai vị Thái hậu thì mọi việc mới bắt đầu êm đẹp. Từ trong ánh mắt của cô bé, Thái hậu Lê Ngọc Hân như nhìn thấy lại chính mình, một cô bé thông minh, sắc sảo nhưng lại có tâm hồn hiền hậu. Chính bà chứ không phải mẹ ruột của Toản là người đầu tiên lên tiếng ủng hộ mặc dầu nếu làm như thế, em gái mình sẽ mất đi cơ hội. Thế là một đám cưới linh đình được tổ chức và hai năm sau, Hoàng hậu trẻ tuổi đã hạ sinh một bé trai, đặt tên là Nguyễn Quang Nghĩa.

Quay về thời điểm hiện tại, Toản chạy vội đến chỗ anh mình rồi nói:

- Anh ba, chị sinh chưa? Là trai hay gái?

- Chú t.ư à. Anh cũng chưa biết nữa. Sốt ruột quá đi.

- Anh ba! – Ngọc Lan vui vẻ nói – Anh đừng sốt ruột quá, em nghĩ chắc sẽ là mẹ tròn con vuông thôi.

- Cũng cầu như vậy thím ạ. Nhưng mà…

Vừa hay ngay lúc này, một tràng tiếng khóc vang lên. “Sinh rồi”, Bàn vui sướng nghĩ thầm trong bụng, đoạn chạy nhanh đến cửa phòng. Sau một ít phút, bà mụ bước ra, trên tay là một đứa bé còn đỏ hỏn.

- Vương gia, mẹ tròn con vuông. Là một vương tử, tiểu vương gia.

- Con… con… con trai à?

Bàn lắp bắp nói vài tiếng rồi ẵm lấy đứa bé từ tay bà mụ. Lúc này, Lê Thái hậu bước ra, trên môi bà là một nụ cười vui vẻ.

- Coi kìa. Làm cha rồi mà cứ nhảy cẩng lên như con nít thế là sao? Không có chút ý tứ giữ hình tượng tí nào.

- Dạ… dạ… Tại con vui quá mà thôi. Dì ơi, dì xem, nó thật đẹp.

Phải nói đây là một đứa bé rất xinh đẹp với làn da trắng muốt. Chốc chốc, tiểu vương tử bé nhỏ hé mở đôi mắt nhìn những gì mình thấy đầu đời. Chính lúc này người ta mới thấy cậu có đôi mắt màu xanh thật đẹp, có lẽ được thừa hưởng từ mẹ mình. Đôi tay búp măng khẽ vung vẩy rồi sau đó lại khóc ré lên.

- Nó đói đấy mà – Lê Thái hậu ôn tồn nói. – Để dì ẵm bé vào cho mẹ để bú. À, con có nghĩ ra cho bé cái tên nào chưa?

- Con… con chưa ạ.

- Thế thì suy nghĩ nhanh lên nhé. Bé phải có ngay cái tên mới may mắn.

Nói rồi bà ẵm tiểu vương tử vào bên trong. Bàn quay sang hỏi Toản:

- Chú t.ư, chú nghe dì nói rồi đó. Chú thì có tài hơn anh. Chú nghĩ thử xem nên đặt cho cháu nó cái tên thế nào?

- Em tưởng anh đã có tên cho cháu rồi chứ. Ngay lúc này, em chỉ có thể nghĩ đến một cái tên thôi. Con em tên Nghĩa, vậy đặt cho cháu cái tên là Nhân đi. Xét về vai vế, cháu nó là anh, ghép với tên của con em thành ra là Nhân Nghĩa.

- Tuyệt quá. Vậy nếu bất cứ đứa con nào của mấy anh em mình sau này ra đờ cũng lấy tên là Lễ nhé, rồi đến Trí và Tín. Vậy nhé, con của anh sẽ là Nguyễn Quang Nhân.

- Nguyễn Quang Nhân, tên hay lắm đó anh ba. – Ngọc Lan lúc này cũng chia vui với Bàn.

Vậy là, đúng vào ngày cha mẹ mình kỷ niệm một năm ngày cưới, tiểu Vương tử Nguyễn Quang Nhân đã cất tiếng khóc chào đời. Điều này như một dấu hiệu báo trước điềm lành, may mắn cho gia đình nhỏ.

Để bá tính có thể chia vui với Hoàng tộc, Toản đã cho cả nước tổ chức lễ hội trong ba ngày. Điều này mang lại cho dân chúng cảm thấy một niềm vui và hy vọng nho nhỏ. Hai năm liên tiếp, hai đứa trẻ thuộc thế hệ thứ ba của Hoàng tộc ra đời, báo hiệu một thời đại mới bừng bừng sức sống đã mở ra. Khắp nơi, người ta đều thấy được những đổi thay theo chiều hướng có lợi hơn. Những đứa trẻ mới ra đời như muốn nói, nguồn sinh khí mới đã đến rồi. Ngày đất nước được thống nhất cũng sắp đến gần rồi.

Nói như vậy nhưng cũng có một người hơi kém vui. Đó chính là Nguyễn Quang Thùy. Tại sao à? Vì hai người em của anh đã có vợ, lại sinh con nữa. Còn bản thân anh, vợ thì chưa có, nói gì đến con. Tuy thế, cứ mỗi lần vào cung, không hiểu sao cứ mỗi lần tiểu hoàng tử khóc, vào tay anh là dứt khóc ngay, lại cười rất tươi nữa. Tiểu vương tử mới ra đời cũng không là ngoại lệ. Dường như là Thùy có duyên với con trẻ. Chính vì cả hai đứa bé thể hiện ra điều này mà anh lại tỏ ra yêu thương chúng vô cùng.

Và quả như mọi người tin tưởng, tiểu vương tử ra đời đã mang lại cho nhà Tây Sơn những tin vui tới tấp.

Đầu tiên là Thượng thư, Bộ trưởng bộ Công nghiệp Vũ Huy Cẩn báo cáo người của ông đã thành công khi tạo được những rãnh xoắn cho nòng đại bác. Ông gọi chúng là những khương tuyến. Điều này giúp cho quả đạn đại bác bay đi với tốc độ cao hơn, đường đạn cũng ổn định hơn. Lại nữa, kết hợp với công nghệ luyện kim mới được du nhập từ phương Tây, Vũ Huy Cẩn cho người thử đúc những khẩu đại bác mới nhỏ hơn, nhẹ hơn nhưng lại có uy lực và tầm bắn tương đương với những loại hiện tại. Kết quả là họ lại thành công. Việc này đã mở ra cho nhà Tây Sơn một lợi ích to lớn. Những khẩu đại bác cũ được nấu chảy ra và đúc mới. Thông thường, cứ ba khẩu đại bác loại cũ lại có thể được đúc lại thành năm khẩu mới, làm cho sức mạnh của quân đội nhà Tây Sơn tăng lên đáng kể.

Tiếp nữa là sự thành công của việc phổ cập chữ Quốc ngữ. Sau gần tám năm kiên trì, cuối cùng thì chữ Quốc ngữ hoàn toàn được đón nhận. Bất cứ người dân nào cũng đã biết đọc, biết viết, không còn phải lặn ngụp trong nạn mù chữ nữa. Nói đến thành công này phải kể đến công sức của những nhà truyền giáo phương Tây cùng những Giáo dân người Việt. Chính điều đó làm cho Tôn giáo mới này được dễ dàng chấp nhận hơn. Nhà Tây Sơn vẫn dùng Phật giáo làm quốc giáo, nhưng cũng không cấm đạo Thiên Chúa và Cơ đốc giáo vốn được những người Anh Cát Lợi du nhập vào.

Cùng với sự thành công của chữ Quốc ngữ là sự hoàn chỉnh của hệ thống giáo dục mới. Chiếu theo lệnh của Toản, bất cứ người dân nào đến tuổi cũng đều phải đi học. Bắt đầu từ sáu tuổi, trẻ em bất kể là nam hay nữ đều phải đến trường. Cùng với sự t.ư vấn của các vị giáo sư người Anh Cát Lợi, Toản chỉ đạo cho Nguyễn Thiếp biên soạn giáo trình dạy học phù hợp cho từng lứa tuổi với mười hai cấp lớp. Theo đó, học sinh được chia làm hai cấp gồm tiểu học với năm lớp từ lớp một đến lớp năm và bắt đầu từ sáu tuổi. Cấp thứ hai là Trung học với hai cấp nhỏ: Sơ Trung và Cao Trung. Trong đó, Sơ Trung gồm bốn lớp gọi là đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ; Cao Trung gồm ba lớp gọi là đệ tam, đệ nhị, đệ nhất. Giữa mỗi cấp đều có một cuộc thi chuyển cấp, học sinh vượt qua được cấp một giấy chứng nhận. Riêng cấp Cao trung, học sinh kết thúc lớp đệ nhị phải vượt qua một kỳ thi để đạt được giấy chứng nhận “Bán Tú tài” và học tiếp lớp đệ nhất. Tương tự, kết thúc lớp đệ nhất là kỳ thi “Tú tài”. Với trường hợp học sinh thi rớt “Bán tú tài” sẽ phải phục vụ trong quân ngũ năm năm, sau đó sẽ học tiếp lớp đệ nhất. Thêm nữa, học sinh tốt nghiệp Tú tài sẽ được chọn cho mình một trường Đại học để tiếp tục con đường học vấn hoặc ra làm việc cho các cơ quan nhà nước; bằng ngược lại, dĩ nhiên là phải phục vụ cho quân đội nhưng chỉ với hai năm. Đi cùng với các cấp lớp là các trường học được mở ra rộng khắp, mỗi tỉnh đều có ba trường tiểu học, hai trường sơ trung và một trường cao trung. Riêng học sinh tiểu học được miễn học phí hoàn toàn.

Thành công thứ t.ư là sự phát triển của cả công nghiệp và nông nghiệp. Nói như thế đương nhiên cũng phải kể đến ngành thương nghiệp, bởi lẽ chính thương nghiệp là cầu nối giữa công nghiệp, thương nghiệp và người dân. Các sản phẩm, nhất là lúa gạo, thủy hải sản ngày càng dồi dào hơn. Người dân khu vực do nhà Tây Sơn quản lý lúc này không còn lo về việc thiếu ăn nữa.

Và cuối cùng là sự thành công trong quân sự. Lúc này, khu vực Tây Nguyên đã hoàn toàn nằm trong quyền khống chế của nhà Tây Sơn. Bộ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Quang Huy đích thân chỉ huy những đợt tấn công trấn áp và bình định toàn vùng. Các thể chế và chính sách hiện tại cũng được áp dụng ở vùng đất mới, cư dân người Kinh cũng được mời đến để khai hoang và lập nghiệp. Song song với Tây Nguyên, Đô đốc Lộc, Đô đốc Long, Đô đốc Bảo cũng đã hoàn toàn dẹp yên Thượng Lào. Cũng phải nhắc lại, vào lúc này, nước Ai Lao lúc này chính là một nước chư hầu của Đại Việt. Nhân lúc Đại Việt xảy ra nội chiến giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn vùng Thượng Lào tỏ ra chống đối. Dựa vào sự giúp đỡ của Miến Điện, họ thường xuyên gây hấn với mong muốn thoát khỏi sự khống chế của Đại Việt.

Vậy là thiên thời, địa lợi, nhân hòa đã hội tụ đủ ở mảnh đất này. Chúng đã mở ra cho nhà Tây Sơn một cơ hội mới, cơ hội để thống nhất giang sơn. Tuy nhiên, để có được điều đó, Toản còn rất nhiều việc phải làm. Giờ đây, Bàn đã về nước. Ba anh em đã trùng phùng. Chính lúc này là thời điểm để họ xây dựng các bước tiếp theo, tiến hành dồn ép và tiêu diệt nhà Nguyễn ở phương Nam.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 45: Quốc hiệu Việt Nam và sai lầm của Nguyễn Ánh

Chương 45: Quốc hiệu Việt Nam và sai lầm của Nguyễn Ánh

Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại

Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam


<Trích Bạch Vân Am Thi tập - Nguyễn Bỉnh Khiêm>​

Dịch thơ:

Ngửa trông sao sáng trên cao

Trước sau rực sáng, chiếu vào Việt Nam


Từ rất lâu, danh xưng Việt Nam đã được dùng để làm Quốc hiệu của Đại Việt. Trải qua bao thăng trầm của dòng chảy lịch sử, nó đã được thay đổi mấy lần. Tên gọi này tưởng đâu đã chìm vào quên lãng. Hôm nay đây, một lần nữa, nó lại là một đề tài được bàn luận của người đời.

Gia Định ngày 25 tháng 10 năm 1800.

Giữa buổi chầu triều vào sáng sớm, Gia Long ngồi trên Ngai vàng theo dõi bá quan tranh luận. Hôm nay vốn dĩ cũng bình thường như bao ngày khác. Sau những bản tấu nhàm chán của bá quan, Hộ bộ Hữu Tham tri Trịnh Hoài Đức làm dấy lên một trận tranh cãi dữ dội ngay giữa chính điện. Ông nói:

- Khởi bẩm Bệ hạ , thần có việc cần tấu.

- Chuẩn tấu.

- Tâu Bệ hạ! Mấy năm nay, nhờ sự anh minh của cùng với sự chiếu cố của trời cao, nước ta được hưởng thái bình dù chỉ là tạm thời, người dân no ấm. Khắp các hành tỉnh, lúa thóc đầy kho, kinh tế ngày càng phát triển. Ta lại có giao thương buôn bán với người phương Tây, sự tình rất thuận lợi. Thế nhưng, hiện đất nước đang phân hai miền nam bắc. Cả ta và giặc Nguỵ đều dùng tên Đại Việt để giao thương với nước bạn. Điều này gây ra nhiều hiểu lầm không đáng có. Bởi vậy, thần nghĩ, chúng ta nên dùng một tên khác để làm Quốc hiệu. Trước là để tiện bề giao thương, sau nữa là để chứng tỏ chúng ta nay đã khác, sẽ trở thành một quốc gia hùng mạnh hơn xa các triều đại trước.

- Thay đổi Quốc hiệu là một việc lớn. Trẫm không thể cứ thế mà quyết được. Chư vị Khanh gia thấy thế nào?

- Tâu Bệ hạ - Lê Quang Định nói. - Nếu dựa vào những gì đại nhân Trịnh Hoài Đức nói thì chúng ta không cần phải đổi Quốc hiệu.

- Sao Khanh nói vậy?

- Một lý do thôi thưa Bệ hạ. Chúng ta là chính thống, tại sao lai phải đổi tên để cho giặc Nguỵ dùng tên Đại Việt. Há chẳng phải là ta e sợ giặc mà nhượng bộ hay công nhận chúng.

- Thần cũng không đồng ý. Bệ hạ chẳng phải nhiều lần đã nói sao? Chúng ta giao thương với người phương Tây nhưng phải hạn chế tối đa. Phải xem Ấn Độ là tấm gương để tự cảnh tỉnh chính mình. Bởi vậy, ta không cần phải giao thiệp với họ nên cũng chẳng cần phải đổi tên.

- Ông nói sai rồi - Trịnh Hoài Đức phản bác. - Đồng ý là chúng ta hạn chế giao thương với họ nhưng không phải là đang có quan hệ tốt với Phú Lang Sa sao? Chẳng phải vừa rồi Duệ Thái tử Cảnh mang về từ Pháp năm chiến thuyền sao? Đó không phải là do họ đồng ý bán trả chậm cho ta hay sao?

- Hừ, làm gì có chuyện tốt đến thế - Định cãi lại. - Duệ Thái tử chẳng phải là đã đánh đổi bằng mấy năm phục vụ cho quân đội Phú Lang Sa hay sao? Vả lại, họ bán trả chậm cho ta cũng là vì nhắm đến lợi ích sau này. Nói chung là không đáng tin.

- Bệ hạ, thần ngược lại, đồng ý với Đức đại nhân - người đứng ra là Ngô Tòng Châu, một trong nhị thập tinh tú đất Gia Định khác. - Hạn chế giao thương không có nghĩa là đoạn tuyệt quan hệ. Việc chúng ta đổi tên còn có một cái lợi khác. Nếu sau này người Phú Lang Sa dây dưa với ta về Hiệp ước Marseill khi xưa thì thế nào? Ta có thể nói đó là Đại Việt ký, chúng ta có Quốc hiệu khác.

- Hừ, nhưng chữ ký trên bản Hiệp ước đó là của Bệ hạ, họ vịn vào đó mà phản bác thì sao? - Định vẫn kiên trì.

- Nếu vậy thì ta nói với họ, ấy là Bệ hạ ký với vua Louis XVI, hãy nói ông vua đó ra nói chuyện - Đức đáp.

- Không được, vậy há là ta có thể chịu tiếng xấu là kẻ chuyên nuốt lời sao?

- Cũng chưa hẳn, Louis XVI là kẻ bị phế truất và treo cổ, tức là có tội với người Phú Lang Sa.

Cuộc tranh cãi còn diễn ra gay gắt hơn. Trong suốt thời gian này, Gia Long chỉ ngồi trên bệ rồng mà lắng nghe. Cuối cùng, ông ta lên tiếng:

- Được rồi, các Khanh ai cũng có lý do của mình hết. Và xem ra, chúng đều rất hợp lý. Thật ra, ngay từ đầu Trẫm đã muốn đổi cái tên khác. Trẫm muốn thoát khỏi hoàn toàn sự ảnh hưởng của người phương Bắc. Chư vị Khanh gia ngẫm lại xem, Đại Việt nghe có giống như Đại Hán, Đại Đường, Đại Minh, Đại Thanh hay không? Trẫm không muốn gọi là Đại Việt nữa, như thế chẳng khác nào chúng ta là một phần của Trung Hoa. Nay ý Trẫm thế này, đồng ý đổi Quốc hiệu nhưng phải có chữ Việt, đó là gốc gác của ta. Các Khanh bàn xem ta nên lấy tên là gì?

Mọi người đến lúc này mới chịu thôi tranh cãi. Ai cũng nhăn mặt lại, ra chiều suy nghĩ. Một lúc sau, Đức mới nói:

- Bệ hạ! Thần thấy nên dùng Nam Việt. Ý chỉ người Việt ở phương Nam.

- Không được - Định lại một lần nữa phản bác. - Ông quên đó là tên của quốc gia cổ Nam Việt ở Trung Hoa sao? Vả lại, vua của nó là Triệu Đà, kẻ đã đô hộ chúng ta nghìn năm trước hay sao?

- Thế thì ông giỏi thì nghĩ ra cái tên đi!

Giữa hai ông dường như không ai chịu ai. Lúc này, một người khác cũng trong nhóm thập nhị tinh tú tên Hoàng Minh Khánh xen vào.

- Bệ hạ, thế thì chúng ta hãy đảo ngược lại, gọi là Việt Nam. Thần chợt nhớ đến năm xưa Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu thế này:

Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại

Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam


- Đúng... Đúng... Tôi cũng vừa nghĩ ra như ông - Định cười lớn.

- Ai da! - Trịnh Hoài Đức lại châm chọc - Nếu đã nghĩ ra thì sao không nói từ sớm, phải đợi Khánh Đại nhân nói ra rồi mới vơ vào mình.

- Ông... Ông... Ông...

Định chỉ tay vào Đức, miệng lắp ba lắp bắp. Đức nói đúng quá rồi còn gì, ông ta có nghĩ ra được gì đâu.

- Được rồi, hai vị Khanh gia không cần phải tranh cãi nữa, Quốc hiệu mới sẽ là Việt Nam. Hai ngày sau sẽ tế trời, công bố cho toàn dân.

Vậy là hai ngày sau, ngày 27 tháng 10 năm 1800, Vua Gia Long cho làm lễ tế cáo trời đất, bố cáo thiên hạ đổi Quốc hiệu thành Việt Nam. Mỉa mai thay, đây cũng là ngày cậu con trai của Quang Bàn ra đời. Phải chăng đây là một điềm báo trước về cục diện nước Nam sau này?

Buổi lễ tế trời thành công tốt đẹp. Cũng nhân dịp này, Nguyễn Ánh cũng thay y phục đi thăm thú kinh thành. Phải nói, thành Gia Định mấy năm gần đây đã thay một diện mạo mới. Nếu so về độ phồn vinh thì Gia Định còn phồn vinh gấp hai lần so với Phú Xuân. Lý do rất đơn giản. Nhà Nguyễn định đô ở một vùng đất trù phú, lúa gạo dư thừa. Các thương buôn lúa gạo và nông sản vì thế mà làm ăn phát đạt. Cơ sở chính của họ đều đặt tại thành Gia Định. Chính bởi thế, nơi đây càng ngày càng xuất hiện nhiều gia đình trọc phú. Để phục vụ nhu cầu mới, nhiều loại hình kinh doanh giải trí cũng mọc lên.

Thành công trong kinh doanh nông sản không có nghĩa là cũng thắng lợi ở những mảng kinh doanh khác. Các mảng kinh doanh khác hầu như bị bỏ quên. Cả công nghiệp cũng vậy, tất cả hầu như chỉ tập trung trong tay triều đình, người dân không được quyền đụng đến. Bởi thế mà chỉ có ngành thủ công vốn tập trung trong các làng nghề nhưng cũng bị hạn chế ít nhiều. Vì sao ư? Đơn giản lắm, cũng bởi chính sách hạn chế thương buôn phương Tây mà ra. Chính họ mới có nhu cầu thu mua các mặt hàng này. Thế mà hầu như chỉ có những người Phú Lang Sa là còn được tự do buôn bán nhưng cũng chủ yếu là giao thương với triều đình.

Trở lại với chuyến thị sát của nhà vua. Đi ngang qua một con đường nhộn nhịp, nơi tập trung nhiều người Hoa, từ đằng xa, Nguyễn Ánh thấy có một cuộc cãi vả lớn tiếng. Lại gần hơn, đoàn thị sát nhìn thấy ba người Phú Lang Sa bị bao vây bởi khoảng hai mươi người Hoa. Hỏi ra mới biết, những người phương Tây mới mở một cửa hàng vải vóc trên con đường này. Cửa hàng mới khai trương được ba ngày, hôm nay, có một nhóm anh chị người Hoa đến thu "phí bảo kê". Tranh cãi nổ ra khi mà những người chủ cửa hàng không đồng ý khoản phí vô lý này. Điều gì đến đã phải đến. Nhóm "anh chị" kia gọi thêm nhiều người đến đập phá, mặc kệ sự kêu la của mấy người Phú Lang Sa.

Mọi việc chỉ dừng lại khi có một tiếng nổ chát chúa vang lên. Một người Phú Lang Sa rút súng bắn thẳng vào thủ lãnh của những người gây rối. Người này ngã xuống trong vũng máu. Sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng. Sau phút giây bàng hoàng, những người Hoa lao vào tấn công tới tấp. Lại hai tiếng súng nổ vang, lần này là từ hai người Phú Lang Sa còn lại.

Quan sát đã đủ, Nguyễn Ánh bảo đoàn người quay trở về. Họ không muốn nhúng tay vào giải quyết vụ việc, đây là phần việc của quan địa phương. Ánh và đoàn người suy nghĩ rất nhiều, sự việc này sẽ được mổ xẻ trên triều vào ngày hôm sau.

Không như mọi người nghĩ, ngay vào buổi chiều, Nguyễn Ánh triệu Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu và Hoàng Minh Khánh đến Ngự thư phòng. Nguyễn Ánh hỏi ngay:

- Các Khanh có biết hôm nay được triệu đến là vì việc gì không?

Lê Quang Định nói trước:

- Phải chăng Bệ hạ muốn nói đến vụ rắc rối sáng nay ở phố người Hoa?

- Đúng vậy. Các Khanh nghĩ thế nào?

Lê Quang Định nói tiếp:

- Theo thần thấy, rắc rối do những người Hoa kiều gây ra. Việc nổ súng là do những người Phú Lang Sa tự vệ.

- Thần thấy cũng chưa hẳn. Có thể những người Phú Lang Sa đã có chuẩn bị. Họ biết trước việc này sẽ xảy ra. Bằng chứng là tại sao họ lại mang theo súng. Không ai vô duyên vô cớ mà mang súng theo mình hết.

Người vừa lên tiếng là Trịnh Hoài Đức. Ông ta mặc dù là người cấp tiến, muốn mở rộng giao thương với phương Tây nhưng việc liên quan đến mạng người thì cần suy xét kỹ.

Hoàng Minh Khánh cũng tiếp lời:

- Theo thần thì người Phú Lang Sa đã tính toán từ trước. Họ cố tình gây rối, ép chúng ta thu nhỏ địa bàn hoạt động của người Hoa mà nhường cho họ. Họ dám làm thế vì hiện tại chúng ta còn cần họ hỗ trợ trong việc bình định Giang sơn.

- Thần cũng có suy nghĩ như vậy - Định lên tiếng. - Kết hợp với việc họ bán trả chậm năm chiến thuyền cho ta thì thấy rõ đây là một âm mưu.

- Khanh nói là âm mưu. Vậy Khanh phân tích thử xem.

- Muôn tâu. Nếu như Đức đại nhân đã nói, nếu xử không khéo, họ sẽ ép chúng ta trả toàn bộ số tiền kia. Bằng ngược lại, họ lấy cớ đó mà dùng chính những chiến thuyền này mà tấn công ta từ bên trong. Lúc đó, chúng ta sẽ trở tay không kịp.

- Vậy các Khanh có kế sách gì không?

Ngô Tòng Châu bây giờ mới lên tiếng:

- Bệ hạ. Giờ chúng ta đã ở trên lưng cọp, không thể xuống nữa. Người Phú Lang Sa muốn có một địa bàn, chúng ta cho họ là được chứ gì. Theo thần, chúng ta cứ cho họ một khu vực. Họ có buôn bán gì cũng được, miễn nộp thuế đầy đủ là được. Mặc khác, ta cũng bí mật khuyến khích bá tính không sử dụng hay buôn bán hàng hoá gì của họ cả. Lâu dần, họ không thấy có lợi ích gì ở đây thì mọi chuyện sẽ êm đẹp ngay thôi.

- Ý Khanh cũng có lý. Các Khanh gia, các Khanh thấy thế nào?

Cả bốn người cùng nhau bàn bạc. Tính tới tính lui chỉ thấy cách của Châu là khả thi nhất nên cũng đồng ý. Vậy là, mọi chuyện đã được định đoạt, Nguyễn Ánh cũng giao cho Ngô Tòng Châu thay mặt Việt Nam đàm phán.

Ở đời không có việc gì dễ dàng cả. Người Phú Lang Sa cũng không phải là những kẻ ngốc. Họ yêu cầu có một khu vực riêng cho mình ở Gia Định và gọi là "Tô giới". Khu vực được chọn là vùng Sài Gòn. Trong Tô giới, mọi việc triều đình đều không được can thiệp nếu chưa có sự thỏa thuận với người đứng đầu của họ. Chưa hết, người Phú Lang Sa còn cho xây dựng một cảng lớn trên sông Sài Gòn và gọi là cảng Sài Gòn với lý do để thuận tiện buôn bán và vận chuyển hàng hoá. Thực tế, họ cho xây dựng một cảng nước sâu, cho phép nhiều tàu lớn ra vào và neo đậu, đặc biệt là các chiến thuyền. Đây là sai lầm lớn nhất của triều thần vua Gia Long, thể hiện rõ sau này.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 46: Chuẩn bị cho chiến tranh
Chương 46: Chuẩn bị cho chiến tranh

Sau khi cho phép người Phú Lang Sa thành lập Tô giới ở Sài Gòn trong năm mươi năm, Nguyễn Ánh cùng triều thần ráo riết chuẩn bị những bước sau cùng để phân định thắng thua với nhà Tây Sơn ở phía Bắc. Vào thời điểm này, Việt Nam đang phải đối mặt với hai nguy cơ lớn. Đó chính là khả năng nam tiến của nhà Tây Sơn và nguy hiểm hơn là sự xâm phạm của người Phú Lang Sa ngay trong lòng Gia Định.

Xét trên nhiều khía cạnh, mối nguy cơ lớn nhất đối với Việt Nam chưa phải là những người cùng nguồn gốc con rồng cháu tiên mà là kẻ địch đến từ bên ngoài. Tuy nhiên, ông bà ngày xưa dạy đố sai: “Người ngoài thì sáng, kẻ trong cuộc u mê”. Điều này đến với quân thần Việt Nam như một lẽ tự nhiên. Từ sau thất bại nặng nề của trận đánh đầm Thị Nại năm xưa, Nguyễn Ánh không còn tin tưởng sự ưu việt của những chiến thuyền phương Tây cũng như năng lực quân sự của họ. Cũng bởi thế, việc giao thương với người Châu Âu vì thế mà cũng bị ảnh hưởng. Cả triều đình tin rằng những người da trắng kia chẳng qua cũng chỉ có thế, không chịu nổi một đòn của người Việt khi mà những chiếc tàu đồng mua về phải chịu thiệt thòi trước hỏa lực của quân địch. Việc giao thương vì thế mà ngày càng thu hẹp dần. Giờ đây, sự kiện Tô giới lại càng làm cho triều đình cảm thấy người phương Tây không còn đáng tin cậy nữa.

Kết quả của những việc đó là thành Gia Định hoàn toàn đóng cửa đối với các nước Châu Âu. Họa chăng chỉ còn cảng Sài Gòn là hoạt động và với quy mô ngày càng lớn. Đây quả là nghịch lý. Tô giới ngày càng phát triển rực rỡ, tàu thuyền tấp nập, thương nhân các nước đổ về buôn bán ngày càng nhiều. Đương nhiên, được lợi lớn nhất là người Phú Lang Sa. Họ chấp nhận thương buôn của các nước khác, xem như đây là một phần quốc gia của mình ở miền Viễn Đông. Các chính sách cấm buôn bán với Tô giới mà Triều đình âm thầm đặt ra không những không thu được kết quả gì. Ngược lại, người dân Việt ngày càng nhìn thấy khả năng làm giàu từ những phi vụ buôn bán, từ nông sản đến vải vóc và các hàng hóa thủ công mỹ nghệ. Vua Gia Long và các quần thần đều biết nhưng chẳng làm gì được, họ không còn quyền can thiệp vào vùng Sài Gòn được nữa.

Đối với bá quan và cả Nguyễn Ánh nữa, họ nghĩ bất cứ lúc nào cũng có thể dẹp Tô giới được. Chỉ cần cho quân lính bao vây trên bộ và đưa chiến thuyền chặn đường vào của cảng Sài Gòn là được. Trước mắt, chưa thể làm căng với những người phương Tây này. Vì giờ đây, trong Tô giới ngoài người Phú Lang Sa còn có người Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nếu mạnh tay vào lúc này, các nước trên sẽ bắt tay vây công và sẽ có rắc rối lớn. Mục tiêu hiện tại là dẹp tan nội loạn, thống nhất Giang sơn rồi mới tính tiếp.

Nói như thế không có nghĩa là mọi người đều không có sự đề phòng. Chí ít, có hai người cực kỳ lo lắng, đó là Duệ Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh và Trịnh Hoài Đức. Nhưng “tay đông mới vỗ nên kêu”, chỉ có hai người họ thì làm được gì. Trong bí mật, hai người này đã gặp gỡ nhau, cùng vạch ra những điều cần làm trong tương lai.

- Thái tử – Trịnh Hoài Đức nói. – Ngài xem, bá quan thì nhiều nhưng không có ai đánh giá đúng nguy cơ đến từ những người phương Tây cả. Chỉ hai chúng ta thì chẳng làm nên trò trống gì.

- Ông nói đúng. Hơn ai hết, ta quá hiểu sức mạnh của người Phú Lang Sa và những nước Châu Âu. Dù cho chúng ta có đem mười vạn binh mã tiến đánh cũng chẳng thể thắng dù quân lực của họ chỉ có một phần ba của ta đâu. Họ được trang bị những vũ khí mới nhất, trong khi ta vẫn còn dùng gươm giáo. Chỉ sợ chưa đến gần được một trăm thước, binh sĩ của ta đã chết sạch.

- Vậy Thái tử có kế sách gì không? Hay chỉ đành lòng phó thác cho số mệnh?

- Sắp tới, Phụ hoàng sẽ cho kiểm tra lại binh lực và phân bổ cho kế hoạch đánh Ngụy. Theo như sổ sách thì ta hiện có khoảng hai mươi vạn quân, một nghìn hai trăm đại bác, hai nghìn ba trăm chiến thuyền. Ta sẽ xin Phụ hoàng cho giữ lại năm vạn quân, một trăm đại bác và một trăm chiến thuyền để đề phòng.

- Vậy là Thái tử sẽ không theo đoàn quân Bắc phạt sao?

- Đúng vậy, ta sẽ lấy lý do là ở lại trấn thủ Gia Định.

- Vậy thì thần sẽ cùng Thái tử lo lắng phòng thủ mảnh đất này.

Đúng như Cảnh tính trước, hai ngày sau, vua Gia Long cho mở một cuộc họp quân cơ để bàn định kế sách Bắc phạt. Tham dự cuộc họp này, ngoài Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh đang trấn thủ nơi biên giới, toàn bộ các tướng đều có mặt.

- Chư vị khanh gia, ngày nay tình hình trong nước đã khá ổn thỏa. Tuy rằng có một số rắc rối nho nhỏ nhưng điều này không ảnh hưởng đến toàn cục. Chúng ta có được năm năm tích lũy. Đến nay lương thảo đã đầy đủ, đã đến lúc chúng ta phải thanh toán món nợ với giặc Ngụy. Các khanh hãy trình báo binh lực hiện có và cùng Trẫm bàn bạc kế sách Bắc phạt.

Nguyễn Văn Thành ứng lời, tiến lên tâu:

- Khởi bẩm, về nhân số, chúng ta có hai mươi vạn quân. Trong đó, có năm vạn quân do tướng quân Võ Tánh chưởng quản, đang canh phòng ở biên giới, năm vạn quân thuộc quyền của tướng quân Nguyễn Văn Thành trấn thủ ở Phú Yên cùng mười vạn quân đang phân bố rải rác ở các nơi. Ngoài ra, trong thành Gia Định, chúng ta cũng có năm nghìn quân dự bị và hai nghìn cấm vệ. Về thuyền chiến, chúng ta có hai nghìn ba trăm chiến thuyền với sáu chiếc Fourth Class Frigate mang theo năm mươi bốn khẩu đại bác, một trăm năm mươi chiếc chiến thuyền Gale cỡ lớn mang theo ba mươi sáu khẩu đại bác và các loại khinh thuyền khác mang theo hai mươi bốn đại bác. Số lượng đại bác trên bộ, chúng ta có một nghìn hai trăm khẩu.

- Tốt, vậy các khanh dự tính sẽ phân bổ chúng ra sao?

- Khởi bẩm – tướng Nguyễn Văn Thoại vừa trở về từ Xiêm La tiến lên. – Chúng ta cần giữ lại năm vạn binh mã để phòng ngừa những trường hợp xấu và phân tán ra để dẹp loạn ở hậu phương khi đem quân Bắc phạt. Như vậy, ta chỉ còn có mười lăm vạn đại quân thôi ạ.

Tướng Nguyễn Văn Thành cũng ứng lời:

- Thần cũng đồng ý với Thoại. Theo thần thấy, lần này chúng ta sẽ phái mười vạn quân vượt đèo Cù Mông, tiến đánh Quy Nhơn. Song, đây chỉ là đòn nghi binh. Bốn vạn quân sẽ theo ngã Tây Nguyên, tiến đánh Pleiku, Đaklak, đây mới chính là mục tiêu của chúng ta. Một vạn quân còn lại sẽ lên chiến thuyền, hướng về cảng thị Nại một lần nữa, nhưng lần này chúng ta sẽ không đánh ngay mà chờ tín hiệu. Khi cánh quân Tây Nguyên đã xong nhiệm vụ, họ sẽ đổ xuống tấn công thành Quy Nhơn. Cùng lúc đó, mười vạn quân ban đầu sẽ đánh trực diện từ phương nam và một vạn binh cùng một hai nghìn ba trăm chiến thuyền sẽ phối hợp. Như vậy, thành Quy Nhơn chắc chắn sẽ thất thủ. Giặc sẽ phải thu quân rút về Phú Xuân, quân ta cứ vậy mà một đường truy kích.

- Tốt, vậy theo ý khanh, những ai sẽ lĩnh quân ấn lần này?

- Theo thần thấy, nên cho Nguyễn Huỳnh Đức mang theo bốn vạn quân đánh Tây Nguyên, Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương làm tham tướng. Bệ hạ sẽ suất lĩnh năm vạn binh hội ngộ cùng tướng Võ Tánh đánh trực diện Quy Nhơn. Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier sẽ dẫn theo một vạn quân lên chiến thuyền tiến đánh cảng thị Nại.

- Còn số đại bác?

- Một nghìn hai trăm khẩu đại bác sẽ được trích ra hai trăm khẩu ở hậu phương, Nguyễn Huỳnh Đức mang theo ba trăm khẩu, số còn lại tập trung cho mười vạn quân chủ lực.

- Tốt lắm, các vị khanh gia còn có ý kiến nào không?

Không ai trong các tướng tiếp tục lên tiếng. Họ nghĩ, đây là kế sách tối ưu rồi. Quả vậy, dùng đại quân đánh nghi binh thành Quy Nhơn tuy có hơi phí phạm, nhưng vì đây là thành trì quan trọng, nhà Tây Sơn sẽ không nghĩ đó chỉ là đòn gió. Cánh quân chính ngược lại có quân số ít hơn sẽ tiến lên Tây Nguyên rồi đánh úp từ phía Tây sẽ làm cho đối phương hoang mang. Lúc này mới chính là thời điểm tốt nhất để công thành. Duy có một người tiếp lời, đó là Duệ Thái tử Cảnh:

- Phụ hoàng, trong lần Bắc phạt này, con xin phép được lĩnh năm vạn quân kia để trấn thủ kinh thành.

- Không được, năm vạn quân này cũng phải được điều đến Phú Yên cho tình hình xấu nhất. Trẫm đồng ý cho con ở lại Gia Định, đồng thời chỉ rút đi một vạn quân thôi. Với số người này, con phối hợp với năm nghìn quân dự bị và hai nghìn cấm vệ là đủ.

- Nhưng thưa Phụ hoàng…

- Không nhưng nhị gì cả. Ta biết con có ý đề phòng người Tây dương. Nhưng quả thật nhũng năm tháng con ở trong quân ngũ của người Phú Lang Sa đã làm con u mê rồi. Họ không mạnh như con đã tưởng đâu. Vả lại, chỉ từ một nhúm nhỏ Sài Gòn thì chúng đâu tập trung được bao nhiêu quân. Con sẽ dễ dàng trấn áp thôi.

Nguyễn Phúc Cảnh buồn bã vô cùng. Ý của Phụ hoàng đã quyết, anh làm được gì đây. Trong lòng Cảnh lúc này thật sự cầu mong rằng mình đã quá ảo tưởng về sức mạnh của người Châu Âu như Phụ hoàng đã nói. Nhưng nói cho cùng thì đó chỉ là mơ tưởng thôi. Anh thầm mong đội quân có thể tốc chiến tốc thắng để có thể kịp quay về ứng cứu khi người Phú Lang Sa thật sự nổ súng.

Lúc này, Nguyễn Ánh tổng kết lại:

- Vậy, binh lực và kế hoạch tác chiến của chúng ta sẽ thực hiện đúng như Thành khanh gia đã tấu. Vì đường xá xa xôi, Trẫm cho các khanh ba tháng để chuẩn bị và tiến về các điểm tập kết. Đúng một tháng sau tính từ hôm nay, chúng ta sẽ quyết phân thắng bại với giặc Ngụy.

- Chúng thần lĩnh chỉ.

Các tướng lục tục lui ra. Cảnh không còn gì để nói, anh nhìn cha mình bằng ánh mắt lo lắng rồi cũng trở về phủ. Anh sẽ mời Trịnh Hoài Đức đến để bàn thảo thêm. Trước mắt anh là cả một viễn cảnh đen tối. Anh quá lo xa chăng? Cầu mong đúng là như vậy.

……………

Phía bên kia chiến tuyến, Toản cũng triệu tập cuộc họp của Bộ quốc phòng cùng Ban tham mưu là Tây Sơn Thất hổ tướng và Tây Sơn Ngũ Phụng thư. Lần họp này còn có sự có mặt của Thùy và Bàn. Mấy năm nay, bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế và giáo dục, Toản còn chú ý rất nhiều đến quân sự. Anh cũng đã cho tái cấu trúc lại quân đội của mình, thay toàn bộ vũ khí lạnh bằng các loại súng. Trong đó, binh sĩ được phát một cây TSG, một thanh đoản kiếm mà nói chính xác hơn là một cây dao quân dụng có thể gắn lên súng như là một lưỡi lê. Cũng chính vì vậy mà quân số binh sĩ của nhà Tây Sơn được thu hẹp lại, chỉ có một nghìn năm trăm quân nhân chuyên nghiệp và năm nghìn quân dự bị. Nhân đây, cũng xin kể thêm về cơ cấu quân sự như sau:

Về bộ binh, áp dụng quy tắc tam – tam để phân bố binh sĩ. Theo đó, cơ cấu nhân sự sẽ như sau:

Tổ chiến đấu có ba người.

Tiểu đội gồm ba tổ chiến đấu, một tiểu đội trưởng, một tiểu đội phó, một quân y và một chính trị viên, tổng cộng mười ba người.

Trung đội gồm ba tiểu đội, một trung đội trưởng, một trung đội phó, một quân y, một chính trị viên, tổng cộng bốn mươi ba người.

Đại đội gồm ba trung đội, một đại đội trưởng, một đại đội phó, một quân y, một chính trị viên, tổng cộng một trăm ba mươi ba người.

Tiểu đoàn gồm ba đại đội, một tiểu đoàn trưởng, hai tiểu đoàn phó, hai quân y, một chính trị viên, tổng cộng bốn trăm năm lẻ năm người.

Trung đoàn gồm ba tiểu đoàn, một trung đoàn trưởng, hai trung đoàn phó, hai quân y, một chính trị viên, tổng cộng một nghìn hai trăm hai mươi mốt người.

Lữ đoàn gồm ba trung đoàn, một lữ đoàn trưởng, hai lữ đoàn phó, hai quân y, một chính trị viên, tổng cộng ba nghìn ba trăm sáu mươi chín người.

Sư đoàn gồm ba lữ đoàn, một sư đoàn trưởng, hai sư đoàn phó, hai quân y sư đoàn, một chính trị viên, tổng cộng mười một nghìn không trăm mười ba người.

Kỵ binh cơ cấu tương tự như bộ binh nhưng một tổ chiến đấu có năm người, tức là từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn sẽ có số lượng người tưng ứng là mười chín, sáu mươi mốt, một trăm tám mươi bảy và năm trăm sáu mươi bảy người. Kỵ binh chỉ cơ cấu đến cấp cao nhất là tiểu đoàn.

Pháo binh và tên lửa là hai quân chủng mới có cơ cấu nhân sự như kỵ binh và cũng chỉ biên chế đến cấp cao nhất là tiểu đoàn. Số lượng đại bác và dàn phóng tên lửa cũng lần lượt là ba, chín, hai mươi bảy, tám mươi mốt tương ứng với các cấp từ tiểu đội đến tiểu đoàn. Toàn bộ quân đội có tất cả mười tám tiểu đoàn với một nghìn năm trăm khẩu đại bác và một nghìn năm trăm dàn phóng tên lửa.

Hải quân thì đơn giản hơn, chỉ bao gồm ba cấp là hải đội, hải đoàn và hạm đội. Số lượng chiến thuyền tương ứng với các cấp là bảy mươi lăm, hai trăm hai mươi lăm và sáu trăm bảy mươi lăm chiếc. Nhân sự tương ứng với từng cấp là ba nghìn bảy trăm năm mươi, mười một nghìn hai trăm năm mươi và ba mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi người. Toản cũng phân hải quân của mình thành ba hạm đội với hơn hai nghìn chiến thuyền, với hơn một trăm nghìn người. Mười hai chiếc Định Quốc cải tiến cũng đã hoàn thành và biên chế đều cho ba hạm đội này. Nhắc lại một chút về số lượng chiến thuyền. Hẳn là sẽ có nhiều người thắc mắc không phải là nhà Tây Sơn có hơn ba nghìn chiến thuyền sao? Vậy mà ở đây chỉ có hơn hai nghìn chiếc. Thật ra điều này cũng rất dễ hiểu. Toản cho cải tiến và đóng mới hơn hai nghìn chiến thuyền với tính năng ưu việt hơn loại cũ. Anh lại cho cải tiến thành năm trăm thuyền đổ bộ chở binh sĩ cùng các loại khí tài quân sự. Số còn lại dùng để bán cho các nước nhỏ xung quanh hay chuyển thành thuyền buôn bán cho các thương nhân. Bởi vậy mà nói, tuy số lượng chiến thuyền có giảm đi nhưng chất lượng thì hơn hẳn so với loại cũ.

Bên cạnh đó, Toản còn cho biên chế quân đội của mình thành ba tập đoàn quân hỗn hợp gọi là ba quân đoàn. Mỗi quân đoàn lại bao gồm ba sư đoàn bộ binh, sáu tiểu đoàn kỵ binh, bốn tiểu đoàn pháo binh và bốn tiểu đoàn tên lửa. Quân số của mỗi quân đoàn lên đến bốn mươi nghìn chín trăm bảy mươi bảy người.

Tổng kết lại, toàn bộ các binh chủng của nhà Tây Sơn gồm ba quân đoàn, ba hạm đội với hai trăm hai mươi bốn nghìn một trăm tám mươi mốt quân. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng mười nghìn quân dự bị phân bố rải rác trong các quân trường.

Về cấp bậc, Toản lại cũng cho phân chia lại cho phù hợp với tình hình mới. Theo đó, từ cấp tướng trở lên, anh cho tách riêng tướng lục quân và hải quân thành hai nhóm riêng biệt. Nhóm lục quân phân thành chuẩn tướng, thiếu tướng, trung tướng và đại tướng mang quân hàm gắn hoa sen vàng với số lượng tương ứng từ một hoa đến bốn hoa. Nhóm hải quân lại phân thành chuẩn Đô đốc, Phó Đô đốc, Đô đốc và Đại Đô đốc với quân hàm gắn thêm mỏ neo vàng cũng có số lượng từ một đến bốn.

Trở lại với cuộc họp của Toản cùng Bộ Quốc phòng và Ban tham mưu. Lúc này, Giám đốc cơ quan CPQ, Đông Định Vương Nguyễn Phi Long thông báo một số tin tình báo quan trọng:

- Thưa Hoàng thượng cùng các vị đồng liêu. Gần đây, tình hình giặc Ánh có nhiều biến động. Trước hết, giặc Ánh cho đổi Quốc hiệu thành Việt Nam, điều này chưa có gì đáng nói. Vấn đề chính là hai việc xảy ra sau đó. Thứ nhất, người Phú Lang Sa sau một loạt hành động dồn ép đã được thành lập một khu vực gọi là Tô giới thuộc vùng Sài Gòn với một cảng nước sâu gọi là cảng Sài Gòn. Theo đánh giá của thần, đây rõ ràng là đã có một sự bất hòa giữa Ánh và người Phú Lang Sa. Nguyên nhân chính là vì chính sách hạn chế giao thương với người phương Tây, trong đó có cả người Phú Lang Sa vốn có hiệp ước với Ánh. Việc này cho thấy, sớm muộn người Phú Lang Sa cũng sẽ tiến hành xâm lược ngay tại hang ổ của giặc Ánh. Việc này khi nào xảy ra thì có lẽ vẫn còn vướng mắc bởi sự tồn tại của Hoàng tử Cảnh, à, nói đúng hơn là Duệ Thái tử Cảnh.

- Việc này thì suy nghĩ của Khanh cũng giống như Trẫm. Khanh cứ nói tiếp vấn đề thứ hai, lát nữa chúng ta sẽ bàn thảo sau.

- Thứ hai là giặc có sự điều động binh lính với quy mô lớn. Theo nguồn tin nội bộ, sẽ có khoảng mười vạn quân tiến về đèo Cù Mông, năm vạn binh vẫn đứng yên ở Phú Yên và các chiến thuyền đang tập trung về cảng Diên Khánh. Có lẽ cũng đã sắp đến lúc chúng quyết phân thắng bại với ta cả trên đất liền và trên biển.

- Được rồi, các khanh có ý kiến gì về tin tình báo này hay không?

Đô đốc Tuyết nghe vậy thì bắt đầu phân tích. À, phải nói cho đúng thì phải gọi ông là Thượng tướng quân mới đúng. Đây là quân hàm danh dự với năm bông sen vàng. Cả Đại Việt có tất cả bảy vị như vậy, chính là Tây Sơn Thất hổ tướng. Ông nói:

- Theo thần thì chúng dự định tấn công Quy Nhơn như mấy năm trước với hai đường hải, bộ. Có lẽ giặc sẽ dồn mười lăm vạn binh mã trên bộ tấn công thành hai đợt và hải quân với khoảng hai nghìn chiến thuyền đánh vào cảng Thị Nại.

- Mười lăm vạn quân là một trăm năm mươi nghìn quân - Thượng tướng Vũ Văn Dũng nói. - Đây có lẽ chưa phải là toàn bộ quân lực của giặc nhưng chắc cũng không sai lệch lắm. Với quân số như vậy, dù ta có trang bị tốt hơn cũng không tránh khỏi thất bại với chỉ có một quân đoàn. Nguyễn Quang Huy, đây là trận đánh lớn thật sự đầu tiên của anh trên cương vị bộ trưởng, theo anh thì ta phải làm sao?

- Theo tôi, chúng ta đưa quân đoàn hai cố thủ ở Quy Nhơn. Nên nhớ là chỉ đánh nghi binh. Lại điều quân đoàn ba lên Tây Nguyên. Làm như vậy là để khi hai quân giao chiến, quân đoàn ba sẽ đánh úp vào thành Diên Khánh vốn không có quân. Ta lại đánh thốc lên Phú Yên rồi tiến về Quy Nhơn. Khi đó, giặc Ánh sẽ rơi vào thế hai mặt bị giáp công. Phần quân đoàn một vẫn ở lại Bắc Hà để đề phòng Đại Thanh nhân cơ hội mà đánh xuống.

Huy cũng không biết nếu thực thi kế sách này, hai cánh quân được cho là cánh kỳ quân của cả hai bên tham chiến sẽ gặp nhau. Trận đánh này là không thể tránh khỏi. Chính nó sẽ quyết định cả trận chiến và xác định ai mới là chủ nhân của Giang sơn.

- Vậy còn cánh quân đường biển? - Dũng hỏi. Bản thân ông là vị tướng nổi tiếng với những trận hải chiến nên tốt ra vô cùng quan tâm.

- Chúng ta có ba hạm đội. Trừ hạm đội một phải ở lại trấn thủ vùng biển phía Bắc, ta chỉ còn hai hạm đội. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ rồi. Hạm đội hai sẽ phối hợp với pháo đài của cảng Thị Nại chống lại trực diện. Song song đó, hạm đội ba trước đó đã ra khơi và ẩn nấp, khi chiến sự nổ ra, họ sẽ tập kích từ phía sau. Với hỏa lực vượt trội, lần này sẽ không một chiến thuyền nào của giặc chạy thoát.

- Hay lắm - Toản vỗ tay khen tặng. - Lần này, giặc Ánh sẽ khó thoát. Các Khanh còn có ý kiến nào nữa không?

Lúc này, Quang Bàn mới lên tiếng:

- Các vị có ai còn nhớ đến vấn đề thứ nhất mà CPQ mới đề cập không? Tại sao người Phú Lang Sa chưa đánh chiếm Gia Định không?

- Theo tôi thì có lẽ do họ e ngại Duệ Thái tử Cảnh. Còn lý do e ngại thì tôi không rõ. - Đông Định Vương phân tích.

- Anh nói đúng, anh ạ. Em đã chạm trán y hai lần ở Châu Âu. Cảnh ngoài việc là Thái tử của giặc Ánh còn là một Thiếu tá của người Phú Lang Sa mà ngay cả quân đội Liên minh thứ nhất e ngại. Y rất giỏi và được vị Tổng tài Napoleon tin tưởng. Tôi nghĩ, họ e ngại Cảnh chính là vị Tổng tài này.

- Có chuyện này sao?

Mọi người trong phòng họp cảm thấy rất bất ngờ. Nguyễn Quang Huy suy nghĩ một lát rồi mới nói:

- Nhớ năm đó, chúng tôi cũng được CPQ báo lai sự mất tích của y. Ai cũng nghĩ nhiều nhất là y chỉ sang nước Phú Lang Sa cầu cạnh thôi. Không ngờ uy thế của y lớn như vậy.

- Chưa hết đâu - Bàn lại tiếp. - Chính người Áo nói cho tôi điều này. Có những trận chính Cảnh chỉ với quân số ít ỏi, chỉ bằng một phần ba người Áo lại có thể chiến thắng áp đảo. Những người Phú Lang Sa có lẽ cũng một phần e ngại vì lý do này.

- Chà... - Toản chắt lưỡi - Đối thủ của chúng ta quả là đáng nể. Các Khanh có suy nghĩ thế nào?

- Thần nghĩ - Nguyễn Phi Long lại nói - mở nút thắt cách tốt nhất là tìm người buộc nút. Người Phú Lang Sa e ngại y. Ta sẽ cho người ám sát y. Lúc đó, người ở Tô giới sẽ không còn e ngại nữa mà tấn công Gia Định. Giặc Ánh sẽ buộc phải rút về, ta một đường truy kích về tận Gia Định. Nhân đây, ta sẽ giải phóng cho cả thành Gia Định luôn. Như thế, không những dẹp được giặc Ánh, ta còn thu được lòng dân nữa.

- Hay... Hay... Hay... Vậy, việc này phải giao cho anh rồi.

Toản khen liền ba tiếng hay rồi quyết định cứ thế mà làm. Anh nói:

- Vậy chúng ta cứ theo như những gì đã bàn thảo. Một mặt bố trí quân như vậy. Mặt khác, giao cho Đông Định Vương Nguyễn Phi Long lo việc ám sát Nguyễn Phúc Cảnh. Chúng ta tan họp thôi.

- Khoan đã - lúc này, Quang Thuỳ lên tiếng. - Thế anh phải làm gì đây? Anh nhất định không thể đứng ngoài được.

- Anh hai à - Toản nói. - Em tính bàn riêng với anh nhưng anh đã nói vậy thì em nói luôn. Anh lại có một nhiệm vụ rất quan trọng đấy.

- Nhiệm vụ gì?

- Xách động Hồng Hoa Hội ở Quảng Đông, Phúc Kiến để chống lai nhà Thanh. Anh cứ tiếp tế cho họ tiền bạc, vũ khí nếu họ muốn. Có sự quấy rối của họ, nhà Thanh sẽ không còn tâm trí đánh lén ta.

- Ha... Ha... Ha... Thế thì được. Anh sẽ lam ngay đây.

Cuộc họp đến đây cũng kết thúc. Vậy là thời gian hoà bình tạm thời cũng sắp bước vào thời điểm kết thúc. Trận chiến sắp tới có lẽ sẽ là trận chiến cuối cùng, quyết định số phận của đất nước.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 47: Chạm trán ở Pleiku
Chương 47: Chạm trán ở Pleiku

Đầu năm 1801, thời điểm sau Tết Nguyên Đán cũng chính là lúc Quân đoàn ba khởi hành tiến quân về Diên Khánh theo ngả Tây Nguyên theo kế hoạch đã định. Trong chuyến hành quân này hai tiểu đoàn pháo binh số mười lăm và mười sáu được sát nhập tạm thời vào Quân đoàn hai, tiến về đèo Cù Mông. Tháp tùng đoàn quân là hai trăm thớt voi cõng tiểu đoàn pháo binh số mười ba và mười bốn cùng các dàn phóng tên lửa và đạn dược. Tổng chỉ huy Quân đoàn này là vị Trung tướng trẻ Đặng Văn Phi vốn là con của Thượng tướng quân Đặng Văn Long.

Quả không hổ danh là con của vị Đô đốc nổi tiếng trong Tây Sơn Thất hổ năm xưa, Văn Phi chỉ mất chưa đầy một tuần lễ đã đến được Pleiku. Nói thật, không phải ai cũng có thể làm được như anh. Đoạn đường hành quân từ Phú Xuân đến đây chí ít phải mất hơn mười ngày băng rừng vượt núi. Kế tục truyền thống năm xưa, đoàn quân Tây Sơn cứ hai người lại cõng một người trên võng. Việc cơ cấu bộ binh theo nguyên tắc tam - tam một phần cũng là vì phục vụ cho cách hành quân có một không hai này. Ba người trong tổ đội chiến đấu vì thế cũng hiểu ý nhau hơn, sẽ hỗ trợ nhau tốt hơn trên chiến trường.

Đứng từ đằng xa, Văn Phi thấy có khói bốc lên cao, xen lẫn là một mùi tanh tưởi. Anh cho quân giảm tốc độ di chuyển. Lại nữa, anh sai người đi trinh sát tình hình phía trước. Phần mình, Văn Phi phi ngựa lên một gò cao gần đó, lấy thiên lý kính mà nhìn về thành Pleiku.

Pleiku là một thành nhỏ, tường thành lại không được xây dựng bằng đá mà lai dùng các cây gỗ to bện lại. Lúc này, bốn bề tường thành bén lửa, cột khói bốc cao hàng trăm trượng. Từ trên cao, cả thành như một lò lửa khổng lồ. Bên ngoài thành, có hai đạo quân đang giao chiến. Không, phải nói cho đúng là sự tàn sát một chiều của đạo quân công thành, người chết nằm rợp mặt đất.

- Báo! - Anh lính trinh sát dẫn theo một người dân trong trang phục dân tộc Ê đê chạy đến.

- Mau nói, có chuyện gì. - Văn Phi hỏi gấp.

- Bẩm, ngày hôm qua, quân Việt Nam với bốn vạn quân do tướng Nguyễn Huỳnh Đức tấn công. Bắt đầu từ đêm qua, giặc liên tục đung đạn pháo cùng với tên lửa bắn vào gây cháy khắp nơi.

- Tên lửa, ý ngươi là Rocket?

- Thưa không. Chỉ là tên thường gắn vải tẩm nhựa thông rồi đốt và bắn đi.

- Ta hiểu rồi. Chuyện tiếp theo là gì?

- Từ sáng nay, khi mọi người còn mệt mỏi sau một đem chữa cháy và gia cố thành trì, giặc cho tấn công ồ ạt. Tướng quân Y Bra với năm nghìn dân quân chống trả nhưng xem ra cũng không thể trụ được đến trưa nay. Đây là Y Hy, chạy thoát ra ngoài để báo tin.

- Được rồi. Cậu trở về đơn vị, chuẩn bị chiến đấu đi, nhân tiện, cho anh chàng này ăn chút gì đó.

Nói đoạn, Văn Phi triệu tập ban chỉ huy để tiến hành giải cứu Pleiku. Theo trinh sát báo cáo, Nguyễn Huỳnh Đức chỉ sai năm nghìn quân công thành. Thực tế, chỉ cần khoảng một vạn quân, Việt Nam đã có thể hạ gục Pleiku và một đường thẳng tiến và chiếm gọn Tây Nguyên. Đằng này, đối phương đem đi cả thảy bốn vạn quân, lại do chiến tướng nổi tiếng Nguyễn Huỳnh Đức cầm quân. Rõ ràng họ có mục đích khác.

Cuộc họp chớp nhoáng được tổ chức ngay trên gò đất Văn Phi đang đứng. Đại tá trẻ Trần Trung nói:

- Giặc lần này mang theo bốn vạn quân. Như thế khác nào "giết gà bằng dao mổ trâu". Rõ ràng là chúng có ý đồ khác. Tôi nghĩ, mục tiêu của chúng có lẽ là toàn bộ Tây Nguyên, sau đó kéo xuống Quy Nhơn, hội quân với hai cánh kia giáp kích hạ thành.

- Tôi cũng có suy nghĩ như vậy - Chuẩn tướng Phạm Văn Phương phát biểu. - Cũng may quân đoàn chúng ta phát hiện sớm. Thật là kế sách thâm hiểm.

- Ha... ha... Nói thế thì chúng ta cũng khác gì chúng đâu - Văn Phi cười lớn. - Mục tiêu của ta không phải là đánh úp Diên Khánh còn gì.

Chúng sĩ quan cùng cười sảng khoái. Chuẩn tướng Phạm Văn Phương nói tiếp:

- Không may cho chúng là ta có mặt ở đây vào đúng lúc này.

- Được rồi, đây chưa phải là lúc cho phép ta vui vẻ. - Phi Long nói - Việc cần làm là giờ đây chúng ta phải làm sao để tiêu diệt giặc.

Nói đoạn, anh mở một tấm bản đồ, trải xuống đất để mọi người cùng nhìn.

- Chúng ta đang ở đây. Giặc hiện tập trung ở hướng đông nam. Có lẽ chúng vẫn chưa phát hiện ra chúng ta. Quân số của chúng ta dù sấp xỉ chúng nhung ít hơn thì vẫn có một chút thiệt thòi. Ưu thế của ta là vũ khí cùng với yếu tố bất ngờ. Song, ở vùng rừng núi thế này thì đây cũng không là ưu thế lớn. Hơn nữa, khi ta xuất kích thì yếu tố bất ngờ cũng sẽ không còn nữa. Các vị có suy nghĩ thế nào?

- Theo tôi thì - Văn Phương nói - dù chúng có hạ được Pleiku thì cũng không thể nhét từng ấy quân vào thanh được vì lý do an toàn. Chúng sẽ để lại phần lớn binh lực bên ngoài thành. Đây có lẽ là thời cơ duy nhất của ta.

- Tôi không đồng ý - Trần Trung phản đối. - Dù có thế đi chăng nữa, khi ta phát động tấn công, giặc trong thành sẽ quay sang đánh vào cánh phải của ta. Như thế, ta sẽ rơi vào thế gọng kìm. Hơn nữa, địa hình nơi đây sẽ không cho phép ta đang trận hàng ngang mà là một hàng dọc dài, sẽ rất yếu.

Mọi người đồng ý và ra chiều suy nghĩ. Một sĩ quan khác là Chuẩn tướng Nguyễn Nghĩa nói:

- Tôi lại nghĩ thế này. Thực tế giặc cũng không có nhiều thời gian. Khi chiếm được thành, chúng sẽ cho tối đa năm nghìn quân vào tiếp quản. Phần còn lại sẽ nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục hành quân chiếm Daklak. Chúng chỉ có con đường duy nhất này thôi.

- Ý anh có phải là chúng ta sẽ mai phục trên con đường này? - Văn Phi hỏi.

- Không chỉ có vậy. Chúng ta sẽ cho ba sư đoàn bộ binh mật phục ở đây, ở đây và ở đây. Sáu tiểu đoàn kỵ binh thì giữ lại tiểu đoàn mười bảy và mười tám để truy kích sau. Bốn tiểu đoàn còn lại chia làm hai nhóm, tiến nhanh và đánh vào hậu quân giặc.

Anh dừng lại để mọi người kịp quan sát bố trí mình bày ra. Sau đó, anh nói tiếp:

- Và sau đây là phương án tấn công. Khi đoàn quân giặc vượt qua bị trí mật phục cuối cùng này, cả bốn tiểu đoàn tên lửa sẽ đồng loạt khai hỏa, mục tiêu là hậu quân giặc. Đây cũng chính là lúc giặc giật mình và tạm thời khựng lại. Lúc này, các chốt mật phục đồng loạt nổ súng. Chưa hết, hai tiểu đoàn pháo binh trên lưng voi cũng sẽ xuất phát càn quét giặc từ đoạn đầu tiên dần về phía hậu phương. Đồng thời, bốn tiểu đoàn kỵ binh sẽ đung tốc độ cao nhất quét ngang hậu phương giặc vốn mới vừa hoàn hồn sau đòn tên lửa.

- Kế hay - Văn Phi tiếp lời. - Cái chính là làm sao để giặc không nghi ngờ sự có mặt của chúng ta. Vì thế, nhân có mặt của Y Hy, ta sẽ nhờ y nhắn lại với tướng Y Bra hãy trá hàng để bảo toàn lực lượng, tránh hao tổn vô ích. Đồng thời, điều này cũng có vẻ như rất tự nhiên, giặc sẽ không có sự nghi ngờ nào.

...............

Khoảng hơn mười giờ sáng, trong lều chỉ huy của tướng Nguyễn Huỳnh Đức.

- Báo! Bẩm tướng quân! Cổng thành Pleiku đã treo cờ trắng. Chúng đã đầu hàng.

- Tốt, ngươi lui ra đi.

Đoạn, ông quay sang nói với Nguyễn Văn Thoại:

- Ông Thoại, theo tính toán thì bọn giặc cỏ này chỉ còn khoảng hơn bốn nghìn người, ông hãy dẫn theo ba nghìn quân vào tiếp quản và tước vũ khí của chúng, tạm thời nhốt lại định đoạt sau.

- Tuân lệnh!

- Các tướng còn lại, các ông cho quân sĩ nghỉ ngơi tại chỗ để lại sức và ăn trưa. Hai canh giờ nữa chúng ta lại hành quân tiến đánh Daklak. Chú ý, tôn chỉ của chúng ta là nhanh và bí mật.

- Tuân lệnh!

Lệnh nghỉ ngơi tại chỗ được ban ra. Binh sĩ Việt Nam cảm thấy toan thân được thả lỏng đôi chút. Thời gian vừa rồi, họ cảm thấy thật sự rất mệt mỏi sau những chuyến băng rừng lội suối. Nếu không có chiến thắng nhẹ nhàng hôm nay, có lẽ họ sẽ nhanh chóng kiệt sức. Điều này không phải là không có khả năng. Thử hỏi, để hành quân thật nhanh, lại còn bí mật nữa thì hỏi ai không căng thẳng. Lại còn đi đường rừng núi nữa, đu một người có khỏe cách mấy cũng không thể duy trì trong thời gian dài.

Binh sĩ ngồi xuống thư giãn. Cơm nóng được mang đến. Có thể nói hôm nay là ngày họ có thể được ăn uống thoải mái nhất trong gần một tháng qua. Ai nấy đều buôn chuyện về chiến tích hạ thành Pleiku một cách nhanh gọn sáng nay. Họ không thể biết, chỉ còn hơn một canh giờ nữa thôi, mình sẽ phải chật vật thế nào, có người còn phải chết nữa.

Thời gian hai canh giờ nghỉ ngơi đã hết, Nguyễn Huỳnh Đức cho binh sĩ nhổ trại, tiếp tục theo đường mòn hành quân đến Daklak. Đường rừng núi chật hẹp, đoàn quân phải xếp thành bốn hàng dọc mà di chuyển. Từ điểm đầu tiên đến cuối đoàn quân cũng phải dài đến gần năm trăm mét. Sự im lặng bao trùm lên tất cả, chỉ còn nghe tiếng lá xào xạc dưới bước chân của đoàn người và tiếng cót két của những bánh xe gỗ chở đại bác.

...............

Thời khắc quyết định cuối cùng cũng đến. Khi những người đầu tiên của đoàn quân do Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy vượt qua trạm mật phục cuối cùng của nhà Tây Sơn cũng là lúc hàng loạt quả tên lửa được phóng lên. Những tiếng nổ đì đùng cùng tiếng la hét ở hậu quân làm cho các binh sĩ phút chốc rơi vào hoang mang.

Đúng lúc này, tiếng súng TSG cũng vang lên tước đoạt mạng sống của những người lính Việt Nam. Sự xuất hiện tiếp theo của bốn tiểu đoàn kỵ binh lại càng chia cắt đoàn người thành nhiều mảnh nhỏ. Binh sĩ của Nguyễn Huỳnh Đức lúc này đứng ngây người như phổng, địch quân tấn công quá nhanh và bất ngờ, không ai kịp trở tay.

Không ai bảo ai, binh sĩ Việt Nam tháo chạy tán loạn. Nhưng làm sao mà họ dễ đang thoát thân khi mà từ đằng xa, hàng trăm thớt voi chở trên lưng những khẩu đại bác liên tục khạc đạn. Những người lính Tây Sơn trên lưng voi nếu không phải nhồi đạn đại bác và bắn thì cũng lăm lăm những cây hỏa hổ trên tay, sẵn sàng phun lửa tiêu diệt những ai đến gần. Những chú voi lúc này trông chẳng khác nào những chiến xa hạng nặng với hỏa lực khủng khiếp.

Quân số phe Việt Nam nhanh chóng bị giảm bớt. Họ vội vội vàng vàng vứt bỏ cả khí giới mà chạy ngược vào thành Pleiku. Nhưng người chạy bộ sao có thể nhanh hơn ngựa khi mà những tiểu đoàn kỵ binh liên tục truy kích.

Đến bốn giờ chiều, đoàn quân Tây Sơn đã bao vây tàn binh Việt Nam trong thành Pleiku. Không còn cách nào khác, Nguyễn Huỳnh Đức sai đem tù binh vừa bắt được ban sáng làm con tin hòng buộc nhà Tây Sơn mở một con đường để đào thoát. Nhưng hỡi ơi, lúc này nhà ngục đã trống không, những người Ê Đê đã được cứu thoát tự bao giờ. Rõ ràng Đặng Văn Phi nhà Tây Sơn đã đoán biết trước và sai người âm thầm đột nhập, giải thoát tù binh ngay khi loạt tên lửa đầu tiên được phóng đi.

Cuối cùng, Nguyễn Huỳnh Đức cùng tàn quân gần một vạn người còn lại phải buông vũ khí đầu hàng. Vậy là trận chạm trán đầu tiên trong cuộc tranh phong sau năm năm hoà bình giữa hai thế lực đã kết thúc. Nhà Tây Sơn đã thắng lợi hoàn toàn dù có quân số ít hơn, lại thu được gần hai trăm khẩu đại bác còn nguyên vẹn.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 48: Âm mưu
Chương 48: Âm mưu

Khách sạn Toàn Thịnh, một trong những khách sạn bậc nhất thành Gia Định. Không ai biết nó xuất hiện khi nào. Chỉ biết, trước đây nó chỉ là một khách điếm thường thường bậc trung có một cái tên hết sức bình thường – Nhã Phương điếm – nằm ngay tại điểm tiếp giáp của Gia Định, Sài Gòn, Chợ Lớn. Có lẽ, lúc ban đầu, đây chỉ là một lữ điếm do một người nào đó có tên Nhã Phương mở ra. Có được một vị trí đắc địa, nhưng không hiểu sao, lữ điếm ngày càng vắng khách. Mãi đến cách nay bảy năm, nó bị mua lại. Không ai biết người chủ mới là ai, là nam hay nữ, là già hay trẻ. Tổng quản lý lại là một người phụ nữ tên Trần Thanh Trúc, một cái tên rất đẹp. Từ ngày được sang lại cho chủ mới, lữ khách bé nhỏ bỗng nhiên lột xác. Nó được xây lại theo kiến trúc nửa Tây, nửa Ta với mái ngói theo phong cách t.ư dinh của quan lại cùng những ban công ở mỗi tầng như kiểu của người Pháp và được đổi thành tên mới Toàn Thịnh. Khách sạn cao năm tầng với nhà hàng ở tầng một và ba mươi hai phòng ngủ, đặt trong khuôn viên rộng khoảng một mẫu ta, cùng với hai mặt tiền.

Chỉ với bảy năm ngắn ngủi, từ một lữ điếm bình thường, nó đã lột xác thành một khách sạn lớn. Khách khứa ra vào thường xuyên. Điều gì làm nên sự thay đổi chóng mặt ấy? Rất đơn giản, chủ nhân của nó hẳn là một thiên tài kinh doanh khi nhận thấy đây chính là vị trí đắc địa, nằm giữa ba cụm dân cư lớn của người Việt, người Hoa và người phương Tây, đặc biệt là người Pháp. Ông ta hay bà ta mời về những đầu bếp thượng thặng có thể nấu được các món ăn Việt, Hoa và Pháp. Lại nữa, những tờ truyền đơn với hình ảnh bóng bẩy giới thiệu về khách sạn được phát rộng rãi ở các khu chợ, bến cảng, thương xá.

Các bữa tiệc lớn của giới nhà giàu mới nổi, quan lại người Việt và các thương nhân phương Tây thường xuyên được tổ chứa nơi đây. Nổi tiếng nhất có lẽ là bữa tiệc có tên Toàn Thịnh Yến. Điều gì làm nên tên tuổi của bữa đại tiệc này? Đó chính là phong cách phục vụ và các món ăn vốn dĩ chỉ có trong Ngự Trù phòng của Hoàng cung. Khách đến dự có cảm giác như mình là một ông hoàng đúng nghĩa với các cung nữ hầu quạt hai bên. Có khác chăng với các buổi thịnh yến trong hoàng cung là nó chỉ có khoảng hai mươi món ăn được dọn lên.

Hôm nay, sương phòng phía đông được một nhóm người phương Tây bao hết. Toàn Thịnh yến cũng được dọn lên. Có điều, những vị khách này không cần người phục vụ. Họ có việc gì cần bàn bí mật và không muốn người ngoài nghe được chăng? Có lẽ là vậy. Với những nhà hàng khác, họ không cần phải làm thế, nhưng nơi đây là đâu, tất cả nhân viên phục vụ đều bắt buộc phải học và hiểu tiếng Anh Cát Lợi, Phú Lang Sa và tiếng Hoa để làm việc tốt hơn. Nhóm thực khách gồm có tám người, ba người Phú Lang Sa, hai người Hà Lan, hai người Tây Ban Nha và một người Bồ Đào nha. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Phú Lang Sa.

- Cái bọn Việt Nam này càng quá đáng - một người Hà Lan nói với giọng điệu bực mình. - Hàng hoá của chúng tôi bị kiểm soát chặt chẽ từ ngoài khơi. Không biết chúng có ý gì nữa.

- Hàng của tôi cũng vậy - người Hà Lan còn lại lên tiếng. - Ghê tởm hơn là chúng tôi phát hiện hàng hoá của mình mất đi khá nhiều sau khi kiểm soát, không phải bọn chúng lấy thì vong ai vào đây nữa.

- Tôi thì có khá hơn gì mấy ông đâu - người Bồ Đào Nha duy nhất cảm thán. - Đây là tình hình chung. Bọn chúng trước cấm người của mình buôn bán với chúng ta. Sau lại thấy có cấm cũng vô ích nên tìm cách khác là chặn từ ngoài khơi và cướp đi ít nhiều. Rõ ràng là còn kinh khủng hơn bọn cướp biển nữa.

Lúc này, một trong ba người Phú Lang Sa mới nói:

- Nói thật với mấy ông, người Pháp chúng tôi cũng chẳng khá hơn đâu. Để giải quyết, chúng tôi đã có cách nhưng...

- Nhưng thế nào? - Mấy người phương Tây đồng thanh.

- Biện pháp tốt nhất là mẫu quốc chúng ta sẽ gửi quân thường trực đến đây. Chúng ta sẽ tạo ra một hồi binh biến. Vấn đề là chúng ta không có cái cớ nào hợp lý. Vả lại, người nắm quyền hiện nay là Thái tử Cảnh, người mà chúng tôi gọi là Thiếu tá Cảnh.

- Có gì mà khó - một người Tây Ban Nha nói. - Muốn có cớ, dễ thôi, chúng ta chấp nhận bỏ một đội tàu buôn. Khi bọn chúng kiểm tra tàu, chúng ta kiếm cách nào đó để chúng tấn công. Sau đó nói Việt Nam vô cớ đánh đắm tàu buôn của ta là được. Còn tay Thái tử kia, hắn làm gì mà các ông phải sợ?

- Barbados! Các ông không biết rồi. Để tôi giới thiệu, bên cạnh tôi đây là Đại tá Lampier, người từng cùng vào sinh ra tử với Thiếu tá Cảnh. Ngài ấy sẽ nói cho các ông rõ.

Người đàn ông trung niên được gọi là Lampier lúc này mới được những thương nhân kia chú ý. Ông ta cao to, vạm vỡ, mang vẻ đẹp điển hình của người Phú Lang Sa với tóc vàng, mắt xanh. Lampier bắt tay mọi người rồi nói:

- Các ông có tin một sĩ quan chỉ với ba trăm kỵ binh đã có thể diệt gọn một tiểu đoàn bộ binh gần hai nghìn người để cứu thoát hai mươi lăm người khác không?

Các vị thực khách trên bàn đều lắc đầu nguầy nguậy tỏ vẻ không tin. Ông ta nói tiếp:

- Ấy thế mà có đấy, mà lại là một vị thiếu tá mới chỉ mười bảy tuổi. Không ai khác, đó chính là Thiếu tá Cảnh. Đó là vào những ngày chúng tôi ở Ai Cập. Khi đó, anh ta là sĩ quan dưới quyền tôi. Chúng tôi có gần một nghìn kỵ binh và chia hai đường tiến về Cairo. Nhóm quân của tôi bất ngờ rơi vào phục kích của quân Anh, bị giết gần hết, chỉ còn có hai mươi lăm người. Tình thế lúc đó vô cùng cấp bách. Chính Thiếu tá Cảnh cho quân vòng lại diệt gọn đoàn lính Anh kia cứu chúng tôi ra.

Các vị khách lại một lần nữa mắt tròn mắt dẹt nhìn nhau. Họ không thể không tin. Vì ai cũng biết, hai năm trước, Tổng tài Napoleon Bonaparte sau khi bị Phó đô đốc Nelson đánh bại trên biển Hồng Hải thì bị vây ở Ai Cập hơn một tháng dài. Đường duy nhất để sống sót chính là tiến về Cairo. Lần đó, quân đội Pháp dù chiến thắng cuối cùng nhưng vẫn thiệt hại nặng nề. Hơn nữa, người kể lại việc này chính là một sĩ quan cao cấp tham gia đoàn quân viễn chinh năm đó. Vẫn chưa hết, Lampier lại nói thêm:

- Tổng tài có lệnh cho chúng tôi mang theo năm mươi chiến thuyền cấp ba cùng hai mươi thuyền đổ bộ mang theo mười nghìn lính đến đây. Nếu như Việt Nam tốt đẹp với chúng ta thì mười nghìn lính này sẽ giúp họ bình ổn nội loạn. Bằng ngược lại sẽ đánh chiếm luôn. Điều tiên quyết là Thiếu tá Cảnh nếu còn sống thì không được động binh. Tổng tài vẫn nhớ đến công lao của anh ta, Ngài rất quý Thiếu tá Cảnh.

- Chà... Vậy thì việc này hơi khó. - Barbados tặc lưỡi.

Lát sau, một người Hà Lan tên Van de Heim nói:

- Có cách rồi. Đại tá, chẳng phải ông đã nói anh ta từng là thuộc cấp và có ơn giải cứu ông sao? Ông có thể mời anh ta đến dự buổi Toàn Thịnh yến ở đây với lý do ông không thích dự tiệc trong cung. Vả lại ở đây có các món ăn Châu Âu. Chúng ta chọn một loại thuốc kịch độc có dược tính phát tán chậm, lén bỏ vào thức ăn. Khi ra về, chúng ta uống thuốc giải đã chuẩn bị sẵn. Còn anh ta, ha... ha... anh ta sẽ về với ông trời của mình.

- Không được - Lampier phản đối. - Đành rằng giết anh ta là vì lợi ích quốc gia dù tôi có hơi áy náy. Nhưng người ta sẽ dễ đang truy ra chúng ta là hung thủ.

- Không đúng. Hung thủ là chủ nhân của khách sạn này. Chúng ta tuy có uống thuốc giải nhưng liều chưa tới yêu cầu. Sẽ có những triệu chứng tương tự đối với chúng ta. Chứng tỏ ai cũng trúng độc và hung thủ là...

Suy nghĩ một lát, Lampier vỗ bàn cái bốp, khen kế hoạch hay rồi quyết định sẽ thực thi vào ngay ngày hôm sau.

Cuộc mật đàm tưởng chừng như không ai biết này không ngờ lại lọt vào tai một người, nữ tổng quản lý xinh đẹp của khách sạn. Thực tế, mỗi sương phòng tại nhà hàng đều có gắn những ống đồng. Đầu kia của chúng lai đặt ở trong phòng của tổng quản lý. Bởi thế, mọi kế hoạch của nhóm người phương Tây này đều lọt vào tai Trần Thanh Trúc. Vậy thực tế khách sạn này do ai làm chủ và vì mục đích gì?

Sau khi mấy vị thực khách kia ra về, Trần Thanh Trúc kéo một sợi dây. Lát sau, có tiếng nói phát ra từ một ống đồng gần đó:

- Có chuyện gì? Nói đi.

- Báo cáo TL một, G một có việc muốn gặp trực tiếp.

- Mức độ quan trọng?

- Mức A.

- Được rồi, cô xuống đây.

Thì ra sợi dây được nối với căn phòng bên dưới. Như vậy, thật ra Thanh Trúc và TL1 là ai?

Thanh Trúc tiến tới bức tranh treo phía sau bàn làm việc. Đằng sau nó là một lối đi bí mật được ngăn cách với căn phòng bởi cánh cửa sắt ngụy trang sau bức tranh. Mở cửa ra, Thanh Trúc bước xuống những bậc cầu thang dẫn đến một căn phòng nhỏ. Cô gõ cửa ba tiếng rồi lại tiếp hai tiếng nữa. Đây chính là mật lệnh, có người đáp lời ngay sau đó:

- G một, vào đi, cửa không khoá.

Thanh Trúc mở cửa bước vào. Trước mặt cô là một người thanh niên với chiếc mặt nạ bằng đồng.

- Có chuyện gì?

- Báo cáo, có một nhóm người đến khách sạn Toàn Thịnh dùng bữa trưa và bàn với nhau một âm mưu ám sát Thái tử Cảnh. Họ cũng có ý định đổ vấy lên đầu chúng ta.

- Âm mưu thế nào?

Lúc này, Thanh Trúc kể lại toàn bộ câu chuyện cho người có mật danh TL một kia. Người thanh niên tỏ vẻ chăm chú lắng nghe. Có lẽ đây chính là chủ nhân thật sự của khách sạn. Và nơi đây cũng chính là căn cứ của một tổ chức tình báo. Chính việc các thành viên dùng mật danh để xưng hô đã nói lên điều đó. Sau khi nghe xong câu chuyện, TL một nói:

- Cô không cần phải lo nghĩ nhiều. Cứ để mọi việc diễn ra theo như ý của họ.

- Nhưng thưa, họ có ý định đổ tội cho ta.

- Họ không có cơ hội thực hiện điều đó đâu. Cô hãy cho người mật báo cho Cảnh lúc tan tiệc, dặn y đi tìm ngự y.

- Vậy còn mục tiêu lần này của chúng ta cũng là giết y mà. Thế tại sao lại còn báo cho y? Tôi không hiểu.

- Cô không hiểu cũng đúng thôi vì ta chưa nói hết. Thật ra, nhiệm vụ giết Cảnh cũng chỉ là để kích động cho người Phú Lang Sa nổ súng mà thôi. Dù y không chết thì lúc này mọi việc đã được an bài, hai bên có một trận chiến là điều chắc chắn. Chúng ta coi như không làm gì cũng hoàn thành nhiêm vụ rồi.

- Tôi hiểu rồi.

Qua ngày hôm sau, Thái tử Cảnh được báo là có một người từ Phú Lang Sa đến thăm, ngạc nhiên hơn, đó lại chính là người chỉ huy của mình năm xưa ở Ai Cập, Đại tá Lampier. Mấy ngày nay, Cảnh thấy trong người khá khó chịu, mình mẩy đau nhức, thỉnh thoảng lại sốt cao. Tuy nhiên, nể tình cùng chung sinh tử năm xưa, Cảnh vẫn đáp ứng gặp ông ta và tham dự Toàn Thịnh yến sau khi thay một bộ trang phục bình thường. Nói thật, anh cũng rất muốn một lần thử qua bữa tiệc này và với t.ư cách một người dân thường ít ai biết đến.

Mọi việc diễn biến đúng y như những gì mà người Hà Lan Van de Heim đã lên kế hoạch. Có khác chăng là khi Cảnh bước ra khỏi khách sạn, một nữ nhân viên phục vụ chạy tới, dúi vào tay viên vệ binh đi tháp tùng anh một mẫu giấy rồi chạy biến. Lẽ dĩ nhiên, nó cũng đến tay Cảnh. Anh mở ra, bên trong chỉ ghi vài dòng ngắn gọn:

“Những người phương Tây kia hạ độc trong thức ăn của Ngài. Chúng tôi biết được việc này nhưng không thể làm cách nào báo tin vì họ đã bao vây và uy hiếp. Không biết họ có ý gì nhưng ngài hãy mau đi tìm lang y, đây là loại độc phát tác chậm”.

Cảnh biến sắc khi đọc những dòng này. Anh lập tức bảo một người vệ binh mà thực tế chính là cấm vệ quân dùng tốc độ nhanh nhất mở đường đến thẳng nhà vị ngự y trong cung. Đến nơi, Cảnh được bắt mạch. Quả đúng như những gì ghi trong mẫu giấy nọ, anh đã bị hạ độc. Viên ngự y nói:

- Thái tử, ngài đã bị trúng một loại kịch độc phát tán chậm. Cũng may là đến đây kịp thời nên cũng không đáng lo ngại. Có điều…

- Có điều thế nào? Ông mau nói.

- Loại độc này sẽ không giết được Thái tử khi uống thuốc của tôi vừa mới cho người đi sắc. Thế nhưng, ngài có biết là mình đang có bệnh trong người hay không? E là bệnh sẽ nặng hơn đó.

- Quan trọng là có nguy hiểm hay không?

- Thần quả thật chưa tiên liệu được vì loại độc tố này đã làm mạch đập của ngài bị ảnh hưởng. Có thể cũng chẳng sao đâu. Ngài cứ uống thuốc, ngày mai thần sẽ vào cung chẩn bệnh một lần nữa.

Viên ngự y quả thật có tài khi mà Cảnh không bị chất độc kia giết chết. Có điều, đúng như lời ông ta nói, căn bệnh nhẹ mấy hôm nay trở nặng hơn. Cảnh cảm thấy toàn thân đau nhức, ê ẩm, lại thấy rét lạnh, anh lên cơn sốt. Tuy nhiên, cơn sốt nhanh chóng qua đi. Việc bây giờ là phải mời Trịnh Hoài Đức đến bàn về việc xảy ra vừa rồi và đưa ra đối sách.
 
Last edited:

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top