Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 29: Truyền bá võ dân tộc
Chương 29: Truyền bá võ dân tộc

Cuối cùng thì Hiệp ước London về bang giao giữa Anh Cát Lợi và Đại Việt cũng được ký kết vào ngày 1 tháng 1 năm 1796 cùng với sự làm chứng của Đức Giáo Phụ. Vị này chính là vị đứng đầu Hội đồng Giám Mục Anh giáo vốn tách ra từ đạo Thiên Chúa Giáo La Mã. Ngày ký kết cũng chính là ngày đầu năm mới, đánh dấu sự chuyển mình chính thức, thay đổi dòng chảy của lịch sử.

Năm ngày sau, Phan Huy Ích giao lại việc quản lý du học sinh lại cho Phạm Thái. Đoạn ông bảo mọi người chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ và mời Bàn lúc này đang ở trong khu nhà của sĩ quan đến dự. Số là hai hôm nữa ông phải theo đoàn thương thuyền của công ty Đông Ấn mà về nước.

- Vương gia. Hai ngày nữa thần về nước rồi, Ngài có gửi gắm gì cho Hoàng thượng không?

- Ài! Phải hai ngày nữa ông mới khởi hành, việc này nói sau. Bây giờ, chúng ta cứ vui.

- Vương gia, ngài cũng thật là. Có cuộc vui là quên mất chính sự. - Phan Huy Ích vừa nói vừa cười.

Trong thâm tâm Phan Huy Ích, việc chia tay Bàn cũng làm ông khá lưu luyến. Phải nói, trong tất cả các đời vua chúa mà ông biết, chỉ có ba anh em Thuỳ, Bàn, Toản là khác biệt. Họ chinh phục quần thần không phải bằng uy quyền hay lợi dụ mà là chân tình. Nói đâu xa, gần một năm trời lênh đênh trên biển, Bàn dùng lễ hậu bối mà đối xử với Ích. Lại nữa, ông vốn là quan văn, thể chất yếu ớt, Bàn mấy phen cứu ông khỏi nhiều cơn giận dữ của đại dương bao la.

- Ta nói này Phan Huy Chú - Bàn nói. - Anh là con của Đại học sĩ. Bởi vậy, anh phải tận dụng thời gian ở đây mà học tập cho tốt, đừng làm mất mặt ông ấy.

- Vương gia nói quá, thần có lơi lỏng phút giây nào đâu.

- Đừng có chối. Ha... Ha... - Phạm Thái cười phá lên. - Không phải anh đang mết cô em nhà Downing sao?

Nghe vậy, mọi người phá lên cười vui vẻ. Chú gần đây có vẻ luyện được da mặt đay như Vương gia của mình, Quang Bàn. Anh không những không đỏ mặt, lại còn xuề xoà:

- Ấy... Không phải bây giờ chúng ta đang "đem chuông đi đánh xứ người" sao. Vậy mới tốt chứ.

Không để mọi người có thời gian há hốc ngạc nhiên về mình, Chú quay sang công kích Thái:

- Chẳng phải cậu cũng đang để ý cô chị sao? Mary nói cậu "cưa" Lisa lại tưởng nhầm Mary là chị ấy.
Ha... Ha... Ha... Lúc này mọi người còn cười lớn hơn, có người lại còn đập bàn cười nghiêng ngả. Lúc này, người đỏ mặt chuyển sang cho Phạm Thái. Bữa tiệc cứ thế mà diễn ra trong vui vẻ.

Bữa tiệc nào rồi cũng đến luc tàn, hợp mãi tất phân, hai ngày sau Phan Huy Ích cũng lên đường. Ấy... Đừng nghĩ là có nước mắt rơi nhé dù trong đoàn người vẫn có nữ cải nam trang. Là ai à, hì hì, về sau khắc biết. Ngược lại, đa số còn cảm thấy vui vì giờ đây không còn "lão già" hay nhắc nhở mọi người nghiêm túc. Dẫu gì thì họ vẫn là những người thanh niên, luôn mơ ước cuộc sống tự do, không ràng buộc.

Ai quay về với phận sự của người nấy. Bàn cũng đã đến lúc quay về với cuộc sống quân nhân. Có một quy luật bất biến, đời quân nhân có mấy khi thảnh thơi. Nếu không có chiến sự thì phải vùi đầu vào huấn luyện. Các bài tập thể lực, đội ngũ, chiến thuật, các động tác cơ bản cứ thế mà chiếm gần hết thời gian trong ngày của Bàn.

Trong những ngày đầu tiên, hầu như anh không lúc nào ngơi nghỉ. Cũng may, bản thân Bàn là một người văn võ toàn tài. Thật ra, trước đây, anh vẫn thường cùng Đô đốc Tuyết Nam chinh Bắc phạt. Giống như Quang Thùy, ngay từ nhỏ vua cha đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với mấy anh em, từ năm mười bốn tuổi đã phải lên lưng ngựa rong ruổi sa trường.

Trong ba anh em, phải nói Bàn chính là người thông minh nhất, võ nghệ cũng miễn cưỡng được tính là giỏi nhất. Có điều, từ nhỏ, anh đã thích cuộc sống không ràng buộc, yêu thích cái đẹp và say mê với những điều mới mẻ. Với mấy anh em, người kém cỏi nhất và thiếu kinh nghiệm nhất có lẽ không cần bàn cãi, đó chính là Toản. Có nhiều người thắc mắc, lẽ nào lúc định người kế vị, tiên Đế bị những cơn đau đầu hành hạ đến nỗi lú lẫn rồi hay sao mà lại không chọn một trong hai người con lớn. Thế nhưng, nào ai biết được vị anh hùng áo vải vĩ đại của cả dân tộc đã tính trước rất xa. Ngài muốn đào tạo hai người con lớn để sau này giúp vua em thống trị giang sơn, Quang Thùy trấn giữ phương Bắc, Quang Bàn lãnh nhiệm phương Nam.

Bởi thế, với Bàn, những bài tập này chẳng đáng là gì. Chưa hết, binh sĩ rèn luyện khổ cực một, anh lại phấn đấu gấp hai, ba lần. Lâu dần, chính anh cũng cảm thấy sự vô vị trong huấn luyện. Chẳng thế mà Bàn ngày đêm lại phải vắt óc ra để tìm phương pháp huấn luyện mới. Cuối cùng, anh quyết định truyền dạy cho binh lính võ thuật Tây Sơn. Và hai bài phù hợp nhất là Roi Thuận Truyền và Ngọc Trản quyền.

Tại sao lại có chuyện dạy võ ở đây? Số là ai cũng biết Bàn là một người nước ngoài. Thử hỏi, anh có phục không khi mà một người đến từ một nền văn hóa khác mình, đặc biệt là ở một xứ “nhược tiểu” như Đại Việt lãnh đạo. Thế nên, đa số binh lính dưới quyền dù ngoài mặt tuân thủ triệt để mệnh lệnh của Bàn, song, trong tâm họ lại không phục. Vả lại, Bàn lại là một “người lùn”, thế thì so về thể lực, liệu có hơn được ai.

Bàn quá hiểu về điều này. Một ngày nọ, anh nói với mọi người:

- Tôi biết trong số các anh, có khá nhiều người không phục tôi đúng không?

Không có ai lên tiếng, anh lại tiếp:

- Hôm nay tôi sẽ cho các anh một cơ hội. Tôi sẽ ở đây, cùng với người đại diện của các anh thi đấu ba lượt. Nếu tôi thắng, các anh không còn gì để nói, nếu tôi thua, tôi sẽ rời khỏi đây.

Lại vẫn không có ai lên tiếng.

- Các anh yên tâm, hôm nay, quân hàm không có giá trị. Chúng ta sẽ thi ở ba đề mục. Thú nhất là bắn bia. Thứ hai, đương nhiên, chúng ta là pháo binh nên chọn bắn mục tiêu bằng pháo. Thứ ba là đấu võ, các anh có quyền chọn vũ khí hoặc tay không tùy thích.

Bàn dừng lại một chút, lại nói:

- Đương nhiên, để cho công bằng, tôi sẽ giới thiệu cho các anh một người. Người này sẽ là trọng tài và làm chứng cho những gì tôi đã nói. Ý các anh thế nào?

- Nếu người làm chứng đó đủ uy tín, chúng tôi sẽ nghe theo. – Một người lính lên tiếng.

Tiếng rì rầm bàn tán lúc này lan tỏa khắp trung đội. Anh lính vừa rồi nói đúng quá đi chứ. Vẫn biết dù sao chỉ huy trưởng cũng là một yếu nhân, nếu anh ta có thua thì “trên” vẫn mắt nhắm mắt mở mà không thay đổi vị trí, khéo lại còn có những hình phạt ngầm nữa kia chứ.

Đúng lúc này, một giọng nói vang lên, mang theo một vẻ uy nghiêm không cần chối cãi.

- Ta làm chứng được chứ? – Người bước tới chính là Trung tá Arthur Wellesley.

- Vâng, nếu Ngài làm chứng thì chúng tôi chấp nhận. – Một anh Trung sĩ “cả gan” ứng tiếng.

Thế là lúc này, một bản giao ước được ký kết với sự làm chứng của Arthur. Theo đó, Bàn sẽ thi đấu ba trận với ba người khác nhau. Họ chính là những người có năng lực cao nhất ứng với ba nội dung thi đấu nói trên.

Việc trung đội số mười ba có một cuộc thi kỳ lạ giữa chỉ huy và binh sĩ nhanh chóng lan truyền trong tiểu đoàn pháo binh. Ngay cả người của hai binh chủng khác cũng biết. Họ kéo nhau đến xem rất đông.

Tất cả đã sẵn sàng, môn thi thứ nhất bắt đầu. Trước mặt Bàn và người hạ sĩ có tên Barker là sáu bia bắn, chia đều cho cả hai bên. Khoảng cách giữa vạch đứng và các bia lần lượt là một trăm, hai trăm rưỡi và bốn trăm mét.

Tiếng Arthur vang lên: “Bia thứ nhất sẵn sàng… Bắn!”

Đoàng, đoàng. Hai tiếng súng vang lên gần như cùng lúc. Kết quả, cả hai đều trúng hồng tâm.

“Bia thứ hai sẵn sàng… Bắn!”

Đoàng, đoàng… lại hòa nhau. Kết quả phân định sẽ là bia thứ ba. Nên nhớ, với các loại súng hiện thời, tầm bắn hiệu quả nằm trong phạm vi năm trăm mét và tầm bắn chính xác chỉ độ ngoài ba trăm mét. Bia bắn thứ ba có khoảng cách bốn trăm mét thật sự là một thách thức.

Tay binh sĩ kia dù có là thiện xạ cũng có chút hồi hộp. Xác xuất của y chỉ là năm mươi năm mươi. Ngược lại, Bàn lại rất tự tin. Từ nhỏ anh đã được tôi luyện trong võ thuật, sức mạnh và ý chí đều rất cao. Hơn nữa, anh có đôi mắt nhìn rất xa, với khoảng cách như vậy, Bàn vẫn nhìn thấy được cái chấm nho nhỏ màu đỏ trên bia bắn.

“Bia thứ ba sẵn sàng… Bắn!”

Đoàng, đoàng, hai tiếng súng nổ chát chúa lại vang lên. Arthur tiến tới bia bắn. Anh trầm t.ư xem xét một lúc rồi nói:

- Hạ sĩ Barker lệch hồng tâm mười inch, Trung úy Jack lệch hồng tâm ba inch. Trận này Trung úy Jack thắng.

Cả trung đội số mười ba và những người đến xem đều há hốc ngạc nhiên về tài bắn của Bàn.

- Trận thứ hai không cần đấu, tôi nhận thua. – Bàn bất chợt lên tiếng.

Cả thao trường chợt im bặt. “Làm gì có chuyện như thế? Dù sao anh ta cũng là sĩ quan chỉ huy kia mà. Dù có biết là mình chắc chắn sẽ thua cũng không thể nào tự chịu thua như thế chứ. Hèn”. Sau khoảng lặng là những lời bàn tán tương tự như vậy râm ran khắp nơi. Ngay cả Arthur và Đại úy Smith của tiểu đoàn pháo binh này cũng cảm thấy khó hiểu. Hơn ai hết, họ biết Bàn tính toán đạn đạo tài thế nào. Ngay từ những ngày đầu, Bàn hiểu mình cần học rất nhiều nên không ngần ngại đi xin chỉ giáo từ hai vị chỉ huy này. Anh vốn là người rất thông minh nên chẳng mấy chốc mà thông thạo, không, là đặc biệt thông thạo trong việc tính toán đường đạn.

Đang lúc mọi người đang bàn tán, Bàn chợt lên tiếng:

- Mọi người đừng ngạc nhiên. Tôi biết sức mình tới đâu. Dù gần đây tôi có tiến bộ nhiều nhưng dù sao cũng có thể xem là mới nhập môn. Khả năng thắng của tôi chỉ là năm mươi phần trăm. Trong khi đó, ở cuộc thi thứ ba, tôi tự tin là sẽ chiến thắng một trăm phần trăm. Thế thì cần gì phải tốn thời gian như vậy.

- Ngạo mạn – Smith nói. – Tôi biết khả năng anh thắng trận này là tám mươi đến chín mươi phần trăm. Là chỉ huy của anh, tôi biết năng lực của anh ra sao.

- Đại úy, xin đừng nóng mà nghe tôi nói. Thật ra, trên chiến trường, người chỉ huy có thể không cần là người giỏi nhất trong việc chiến đấu. Cái chính là t.ư duy của anh ta. Cũng như Ngài, tôi là chỉ huy nên tôi hiểu năng lực của thuộc cấp mình. Tôi tin tưởng mỗi người lính pháo binh của tôi đều là những người tính toán đạn đạo chính xác nhất. Cái tôi cần chính là trao phó mạng sống mình cho những tính toán của họ. Ngược lại, tôi cũng mong họ tin tưởng vào phán đoán cùng mệnh lệnh của tôi nơi chiến trường.

Lời nói của Bàn tuy là cao ngạo thật. Nhưng từng câu, từng chữ lúc này như rót mật vào tai binh sĩ dưới quyền anh. Anh dám nói anh trao mạng sống mình vào tay họ, tức là anh tin tưởng tuyệt đối vào năng lực của họ. Hơn nữa, dám tự nói lên chấp nhận thua cuộc trước mặt thuộc cấp đủ chứng tỏ dũng khí lớn thế nào. Họ đã bắt đầu phục Bàn.

- Vậy thì, nếu không còn ý kiến khác, chúng ta bắt đầu trận thứ ba. Hai đối thủ tiến vào vòng tròn này, ai bước ra ngoài dù chỉ một chân hoặc hô xin thua sẽ được xem là thất bại. hiểu rõ rồi chứ.

- Hiểu rõ – Bàn nói.

- Hiểu rõ – viên Thiếu úy, chỉ huy phó Johnny Laurence lên tiếng.

Cả hai bước vào vòng tròn. Bàn liếc nhìn đối phương thủ thế, anh nhận thấy người đối diện chỉ đơn giản là một võ sĩ quyền anh. Bàn cúi chào anh ta theo tinh thần thượng võ rồi thủ thế “Khai thủ thức” trong bộ quyền pháp Ngọc Trản.

Laurence lao tới, vung ra một cú đấm trực diện vào mặt Bàn. Ngay lập tức, anh rút chân trái về phía sau, thân hình anh gần như vuông góc với đối thủ, tay trái bắt trúng cổ tay đối phương, tay phải nắm lấy khủy tay. Anh khẽ kéo nhẹ rồi lại đẩy mạnh tới, đối phương lập tức ngã ra phía sau. Lúc này, Bàn nương theo đà ngã của Laurence, anh cũng vào thế ngã nằm phía trên, cùi chỏ giật mạnh, mục tiêu là cổ họng đối phương. Nói thì chậm, trên thực tế, mọi việc xảy ra rất nhanh. Đây chính là đòn “Nội phá sơn” trong quyền Ngọc Trản, chi phái võ Tây Sơn. Mục tiêu của đòn này là dùng cùi chỏ nương theo đà lao xuống cộng với lực tập trung tại một điểm do chính mình tạo ra, đánh vào cổ họng hoặc ngực đối phương.

Trúng đòn này, kiểu gì Laurence cũng chết. Trong phút giây thấy cùi chỏ Bàn lao xuống, anh ta không kịp la lên một tiếng, chỉ đành nhắm mắt chịu chết.

Thế nhưng, “bộp” một tiếng, cùi chỏ Bàn sượt qua cổ họng Laurence trong một khoảng cách không thể nào gần hơn. Bãi cát chỗ tiếp xúc với cùi chỏ Bàn lún thành một lỗ sâu hoắm. Anh đứng dậy, nhìn thấy gương mặt Laurence trắng bệch như không còn một chút máu nào.

Cũng phải nói vai phải của Bàn có hơi đau. Số là với hệ võ Tây Sơn – Bình Định, tất cả các đòn đánh đều là đòn sát thủ, nó là một hệ võ thực chiến. Lúc ra tay, vì không muốn giết đối phương, Bàn phải cố tình đánh chỏ nhanh hơn một chút và lệch sang trái, cùi chỏ đánh vào bãi cát tạo thành một phản lực tác động ngược lại cơ thể Bàn.

- Trung… Trung úy… Tôi… Tôi phục rồi, tôi xin thua.

Gì chứ? Mới một đòn đã thua? Làm gì có chuyện đó. Tên Thiếu úy này cũng quá kém cỏi. Đây chính là suy nghĩ của hầu hết mọi người xung quanh. Laurence lên tiếng phân bua:

- Nếu… nếu vừa rồi Trung úy không nương tay, có lẽ cổ họng tôi đã bị chấn nát rồi, có đâu mà còn đứng đây. Tôi thua hoàn toàn và rất phục.

Ra là vậy. Mọi người lúc này như hiểu ra. Họ liếc nhìn lại cái hố sâu hoắm để lại trên nền cát. Mỗi người đều mang một suy nghĩ, nếu mình trúng đòn đó, có lẽ cũng không còn khả năng sống được, cổ họng sẽ bể nát.

Cuộc thi cứ như vậy mà phân định thắng thua. Sau lần này, binh sĩ dù vẫn còn ít nhiều thấy khó chịu nhưng họ thật sự phục và nghe lời Bàn. Nhân đây, Bàn quyết định dạy cho binh sĩ mình môn võ dân tộc. Anh cũng suy nghĩ rất kỹ và quyết định sẽ dạy cho họ hai món. Thứ nhất là Ngọc Trản quyền dùng tay không, thứ hai là roi Thuận Truyền. Ấy thế mà giờ đây, bên hông mỗi binh sĩ trung đội pháo binh số mười ba có kèm thêm một cuộn roi da, rất tiện dụng khi đánh xáp lá cà trên sa trường.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 30: Bức thư tình đầu tiên

Chương 30: Bức thư tình đầu tiên​

Kể từ cuộc thi dạo ấy mà hiện nay, uy tín của Bàn trong Quân trường khá tốt. Đặc biệt là đối với Smith. Là một sĩ quan pháo binh, hơn ai hết, anh ta hiểu rõ điều gì sẽ xảy ra nếu kỵ binh đối phương vượt qua được phòng tuyến. Các pháo thủ lúc đó chỉ có thể xem như những chú cừu non, tha hồ để đối phương gặt đi mạng sống.

Việc Bàn truyền cho binh sĩ hai môn võ vừa khéo bổ sung cho sự thiếu hụt của lính pháo binh. Vũ khí trang bị thêm cho họ cũng rất tiện lợi, một cây roi da dài khoảng một mét rưỡi. Nhờ nó, binh sĩ có thể tấn công từ khoảng cách khá xa trong những trận giáp lá cà hay khi đối phương vượt qua phòng tuyến.

Cuộc sống tẻ nhạt chốn quân trường không thể ngăn cản niềm tin vào tình yêu và tương lai tươi sáng. Niềm vui duy nhất của anh là những buổi cuối tuần ở vườn Buckingham. Nơi đó có người anh ngày nhớ đêm mong. Tình yêu sét đánh thuở ban đầu dần nảy nở và lớn lên theo năm tháng. Anh biết, đối phương cũng ngày càng có cảm tình với mình.

Lẽ ra, với một người lính bình thường như Bàn, có mấy khi được bước vào khu vườn danh giá này. Chẳng qua là nhờ cô công chúa út bé nhỏ Amellia. Cô bé vốn mắc căn bệnh suy nhược từ nhỏ, chỉ có không khí trong lành của đất trời mới giúp cô thuyên giảm. Và còn nữa, chính sự cô độc trong đời sống Hoàng gia càng bào mòn thân xác bé bỏng. George III rất yêu thương cô con gái này. Với ông, niềm vui thú lớn nhất lúc này không phải là vương quốc mỗi ngày càng lớn hơn với các thuộc địa trải dài từ tây sang đông. Người duy nhất mang lại cho ông nụ cười chính là Amellia bé nhỏ.

Việc xuất hiện của Bàn cùng những câu chuyện về đất nước xa xôi ở phương Đông huyền bí cùng những câu chuyện cười của anh đã mang lại sức sống mới cho ba nàng công chúa. Mary đã thôi không còn khô khan và chúi mũi vào những cuốn sách nữa. Sự cô độc trong tâm hồn Sophia ngày càng nguôi ngoai. Đặc biệt là sức khỏe của Amellia lại tốt hơn từng ngày. Đó chính là lý do George cho phép Bàn đến vườn Buckingham mỗi cuối tuần.

Một ngày nọ, đang khi Bàn say sưa kể về đại thắng của nhà Tây Sơn trước sự xâm lăng của ba mươi vạn quân Thanh, Amellia quay sang hỏi:

- Ngài nói chỉ trong vòng mười ngày, đại quân nhà Tây Sơn các anh vượt núi băng rừng, qua một chặng đường dài như thế mà đánh đuổi kẻ thù à? Em không tin. Làm sao được? Phải chăng các Ngài biết bay?

- Đúng thế, Ngài Jack ạ – Mary tiếp lời. Chắc chắn là phải có mánh khóe nào ở đây.

Bàn hơi phật ý khi nghe nói đến từ “mánh khóe”. Anh trả lời:

- Thật ra thì khi tiên Đế chuyển quân, tôi đã ở phía Bắc rồi. Tôi chỉ biết đoàn quân di chuyển liên tục mà không cần phải dừng lại ăn uống, ngủ nghỉ.

- Không ăn uống, ngủ nghỉ. Nói vậy thì di chuyển nhanh nhu vậy có vẻ khá hợp lý. Nhưng con người ta không thể chỉ đi như vậy mà không ăn. Phản khoa học lắm và không hợp logic – Mary lại phản bác.

- Này nhé, rất đơn giản. Trong quân, cứ ba người làm thành một tổ. Họ kết một cái võng, cứ hai người lại cõng một người. Đi được hai canh giờ… ý tôi là bốn tiếng đồng hồ, người nằm trên võng lại đổi chỗ cho một người khác. Thời gian ở trên võng, họ tranh thủ ăn và ngủ.

- Vậy việc nấu nướng thì sao? – Mary vẫn không chịu dừng lại.

- Ở quê tôi, ngày Tết người ta làm một món bánh từ gạo, nếp và thịt gọi là bánh tét. Nó to hơn cổ tay và dài khoảng hai mươi inch. Bánh này ăn rất ngon và làm người ta no bụng. Binh sĩ chỉ cần một cái bánh là đã no cả một ngày. Ngoài ra, người ta còn thổi cơm ngay trên lưng voi chiến và còn một món nữa gọi là bánh tráng.

- Ra là vậy. Nếu vậy thì em tin rồi. Thế Ngài có biết cách làm cái bánh tét đó không? Có thể làm cho ba chị em chúng em ăn không?

Nghe Mary nói, Amellia cũng tròn mắt trông chờ được thưởng thức món ăn này.

- Dĩ nhiên là biết. Nhưng tôi không thể làm được vào lúc này.

- Vì sao thế? – Amellia hơi thất vọng.

- Vì thiếu nguyên liệu. Thịt heo thì Anh quốc có sẵn, nhưng gạo và nếp thì lại không có. Nhưng tôi hứa, nếu có chiếc thương thuyền nào xuất phát từ Đại Việt sang đây, tôi sẽ hỏi họ có mang theo gạo và nếp hay không. Người Việt chúng tôi dẫu sao cũng không quen chỉ ăn thịt, cá, rau xanh như người phương Tây. Với chúng tôi, bữa ăn chỉ hoàn chỉnh nếu có cơm, một loại thức ăn làm từ gạo.

- Thế thì Ngài phải tranh thủ xem thử nhé. Nếu có thương thuyền nào cập bến, bằng mọi cách Ngài phải mua được gạo và nếp về làm bánh cho chúng em.

Bàn mỉm cười đồng ý khi Amellia đề nghị. Thực ra đâu chỉ riêng ba cô công chúa, Bàn cũng thấy nhớ và thèm món ăn này. Sắp đến Tết Âm lịch rồi còn gì.

Đến cuối buổi, đúng lúc Bàn chuẩn bị ra về thì Sophia lén dúi vào túi áo anh một bức thư. Chính Bàn cũng không biết việc này. Anh trở về nhà với tâm trạng thoải mái và chờ mong cho ngày giờ mau trôi đi. Anh mong sao cuối tuần sau mau đến.

Về đến phòng, Bàn thấy rơi ra một tờ giấy màu vàng nhạt từ túi áo khoác. “Quái, ai lại nhét vào túi áo mình tờ giấy này vậy nhỉ? Và khi nào thì nó nằm trong túi?” – Bàn tự hỏi. Mở ra, Bàn thấy đây là một bức thư ngắn làm từ giấy lụa pallure, một loại giấy cao cấp mà chỉ những quý tộc mới có thể sử dụng. Mùi hương nhè nhẹ lan tỏa khuyến khích Bàn đọc cho mau.

Liếc nhìn những dòng chữ ngay ngắn và xinh đẹp, Bàn chợt cảm thấy tim mình đập mạnh hơn. “Đây là bức thư Sophia gửi cho mình. Đúng là thư của nàng”. Điều gì làm anh vui sướng đến thế? Chẳng phải anh vẫn hay được nhìn nàng, vẫn nghe được giọng nói của nàng vào những ngày cuối tuần “thần thánh” hay sao? Cũng đơn giản thôi. Tuy nói là vẫn hay gặp mặt và nói chuyện nhưng giữa hai người chưa từng có thời gian gặp riêng nhau nói chi đến tâm sự. Bức thư này đến với Bàn như một phép màu thật sự.

Jack quý mến,

Ngay từ đầu thư, Sophia đã làm tim Bàn thắt lại, nàng không gọi anh theo cách thông thường mà lại có vẻ tình cảm hơn.

Chắc Ngài lấy làm ngạc nhiên lắm khi đọc bức thư này của em. Ngài cũng biết, em vốn là người con gái sống rất khép kín. Chưa từng có người đàn ông nào khác ngoài cha và các anh của em lại tiếp xúc gần gũi với em như Ngài.

Viết mấy lời này, em phải lấy hết sự can đảm vốn rất ít ỏi của mình ra. Em muốn nói với Ngài nhiều lắm. Ngài chính là người đàn ông duy nhất đến lúc này làm em cảm thấy tin tưởng và muốn trải lòng.

Từ lần đầu tiên gặp gỡ trong đên dạ vũ nọ, Ngài đã để lại trong em một ấn tượng khó phai nhạt. Em đứng đó, không ai dám lại gần vì sự cô độc của mình. Em lánh xa họ bởi những lời nói nhàm chán, vì sự khoe mẽ thái quá của họ. Với em, người đàn ông em cần phải có trái tim chân thành và không biết xu nịnh, lại phải dịu dàng nũa. Em cũng không cần một người đàn ông mạnh mẽ để bảo vệ. Là một cô gái Hoàng gia, em tin không có ai có thể gây tổn thương cho em được.

Và cuối cùng thì Ngài cũng đến. Ngài nhìn em bằng một ánh mắt rất dịu dàng. Tim em lại càng đập mạnh hơn khi thấy Ngài từ từ bước tới. Những lời Ngài nói ra lúc đó không hề hoa mỹ, cũng không hề có vẻ kiêu căng, ngạo mạn. Chưa hết, lại càng không có vẻ khép nép giả tạo nữa. Chính lúc này, em đã nhìn thấy hoàng tử trong lòng mình. Em không thể cưỡng lại được lời đồng ý khi Ngài mời em một điệu vũ.

Trong khoảnh khắc quay cuồng với điệu valce say lòng, em như cảm thấy mình đang bồng bềnh trên mây. Mỗi bước Ngài dìu em đi là một bước thăng hoa trong tâm hồn mình. Em cảm thấy mình trở nên quá bé nhỏ, quá yếu đuối và muốn được người đàn ông trước mắt che chở trong vòng tay. Em biết mình đã yêu.

Ngài biết không? Niềm vui duy nhất trong em lúc này là nhìn thấy Ngài vào mỗi cuối tuần. Giọng nói của Ngài rất hay, nó cứ như mật ngọt rót vào tai em dù không có từ ngữ nào có vẻ hoa mỹ. Em hận không thể nói một câu tâm tình với Ngài khi còn có Mary và Amellia ở đó.

Em biết, phụ nữ phương Đông vốn rất e dè, không bao giờ mở lời trước. Nhưng đây là Anh quốc, người phụ nữ đất nước em không có sự e ấp đó. Em yêu Ngài thì em sẵn sàng nói lời yêu.

Nếu Ngài cảm thấy em như thế là quá sỗ sàng, quá chủ động thì hãy bỏ quá cho em. Em chỉ muốn nói cho Ngài biết điều thầm kín trong lòng mình. Bằng ngược lại, nếu trong trái tim Ngài có một chỗ nào dành cho em, xin Ngài hãy viết vài dòng. Chúng ta chưa thể cùng nhau gặp mặt và nói lời tâm sự vào lúc này, chỉ có thể thông qua những cánh thư. Nếu Ngài muốn, hãy gửi thư cho bà hầu gái da đen Lucia, người thường hay ra ngoài vào lúc mười giờ để mua sắm thức ăn mỗi ngày.

Chúc Ngài một ngày tốt lành,

Sophia.


Đặt bức thư xuống, Bàn cảm thấy tâm hồn mình như bay vút lên chín tầng mây.

“Nàng yêu ta, yêu ta. Ha… ha… ha… Yêu ta”.

Bàn cười như điên như dại. “Mình phải làm gì đây? Làm gì đây?” – Bàn tự hỏi. “À, phải rồi, thơ, mình phải viết một bức thơ”. Nghĩ đến đây, anh lao nhanh đến bàn làm việc, lấy giấy bút viết một bức thơ.

Sophia, công chúa của lòng ta,

Nàng có biết lòng ta vui sướng đến dường nào khi nhận được thư của nàng không? Ngây dại. Đó là từ duy nhất diễn tả đúng tâm tình ta lúc này. Ta thấy mình như đang trong cơn mộng mị.

Ta không giỏi nói những lời hoa mỹ, nàng cũng biết đó. Nhưng từ lần đầu tiên nhìn thấy nàng, ta đã trúng phải tiếng sét ái tình. Cuộc sống trong quân ngũ rất buồn tẻ. Cũng như nàng, ta mong đợi mau đến cuối tuần. Ở nơi đó, ta nhìn thấy được người ta yêu, được nghe tiếng nói của nàng.

Sophia. Ta biết đây chưa phải là lúc tốt nhất để chúng ta đến với nhau đường đường chính chính. Nghe lời nàng, ta sẽ viết thư. Ta muốn những cánh thư này xóa dần đi nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng hai chúng ta. Ta sẽ phấn đấu, phấn đấu hết mình để chứng tỏ được giá trị chân chính của ta. Đó chính là thời điểm ta công khai nói với mọi người tiếng lòng của mình.

Hãy chờ ta, nàng nhé,

Jack


Bàn viết ngắn gọn mấy dòng vậy thôi, bởi vì trong đầu anh chẳng biết dùng từ ngữ nào để diễn tả niềm hạnh phúc lớn lao này. Buông viết xuống, cẩn thận gấp tờ giấy lại. Anh đặt nó xuống bàn rồi cầm lấy bức thư của Sophia mà đưa lên mũi ngửi. Anh không thể nào phân biệt mùi hương trên đó là của tờ giấy hay từ chính con người nàng. Anh quyết định từ nay sẽ siêng năng viết cho nàng, cố gắng phấn đấu hết mình để chứng tỏ giá trị của bản thân. Ngày anh được công nhận cũng chính là ngày anh nói lời cầu hôn trước bàn dân thiên hạ.

Nhưng tất cả những điều đó là của tương lai. Ngày mai, anh sẽ tìm gặp bà hầu gái Lucia để nhờ chuyển bức thư, anh biết người phụ nữ này. Giờ đây, việc cần làm duy nhất đối với Bàn, đó là đặt bức thư của Sophia trong ngực áo rồi nằm lên giường, chìm sâu vào mộng mị.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 31: Ra trận

Chương 31: Ra trận

Mới đó mà một năm nữa đã trôi qua. Cuộc sống quân ngũ đã làm Bàn thay đổi khá nhiều. Từ một anh chàng thoạt nhìn có vẻ thư sinh, anh dường như lột xác thành một con người mới rắn rỏi và tràn đầy vẻ đẹp nam tính.

Sự biến đổi của anh cũng không hẳn đến từ quân ngũ. Không phải trước kia Bàn cũng từng vào sinh ra tử trên chiến trường sao. Tại vì sao anh không biến đổi từ dạo ấy mà phải chờ đến nay?

Tình yêu. Chính bởi vì tình yêu với Sophia làm nên tất cả. Yêu nàng, Bàn tự nhủ mình phải phấn đấu thật nhiều. Chỉ sau một năm, vị Vương gia trẻ tuổi, tài năng nhưng tính tình lười nhác trước kia dường như biến mất hoàn toàn khỏi thế gian. Thay vào đó là một chàng trai mạnh mẽ, yêu đời và thật sự nghiêm túc trong công việc.

Song, nói như vậy không có nghĩa là sự dí dỏm, hài hước trong anh cũng biến mất. Mà ngược lại, cũng nhờ những buổi cuối tuần ở vườn Buckingham, qua những cánh thư, sự dí dỏm ấy lại còn nhiều hơn.

Bởi thế, giờ đây anh còn được binh sĩ đặt cho một biệt danh khá là đáng yêu, Smilling Killer, có nghĩa là Sát thủ hay cười. Cười thì ai cũng biết rồi, còn sát thủ là vì sao nhỉ? Ắt hẳn mọi người còn nhớ, chỉ bằng một đòn mà Bàn hạ gục Thiếu uý Laurence, sát thủ là từ đó đó.

Một ngày nọ, Bàn được triệu tập đến phòng chỉ huy của Arthur.

- Ngài nghĩ sao nếu được điều đến Trung đoàn South Esset, Ngài Jack? Arthur hỏi.

- Nghĩa vụ của quân nhân là chấp hành mệnh lệnh và điều động của cấp chỉ huy, thưa Trung Tá. Bàn trả lời.

- Anh có sẵn sàng cho nhiệm vụ ở Áo? Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn. Anh biết tình hình ở đó chứ?

- Nghe nói quân liên minh do Thái tử Áo chỉ huy đang bị kẹt ở Neuwied.

- Không đơn giản là bị kẹt. Hiện Pháp đã chiếm được hai ngôi làng có vị trí chiến lược là Bendorff và Sayn. Và nhiều khả năng Zolenberg cũng mất.

- Tôi thấy khó xoay chuyển tình thế. Áo chỉ có hai mươi mốt nghìn quân phải đương cự với gần bốn mươi nghìn quân Pháp. Nay đã mất hai vị trí chiến lược, tôi e là...

- Yên tâm đi. Nhiệm vụ của Ngài không phải là xoay chuyển tình thế. Mà là yểm trợ cho Tướng Franz von Werneck rút lui an toàn cùng với bảo toàn lại một phần lực lượng cho liên minh.

- Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Có điều South Esset là kỵ binh.

- Ngài cũng hiểu, Anh quốc không thể trực tiếp tham chiến vì hiệp nghị với Pháp. Bởi thế, lần này phải cử Trung đoàn South Esset vốn xuất thân là lính đánh thuê.

- Dừng lại một chút ngắm nhìn Bàn, Arthur nói tiếp với nụ cười có vẻ bí hiểm.

- Tôi đã tìm hiểu kỹ và lúc đầu rất ngạc nhiên vì điều này. Ngoài địa vị Vương gia, Ngài còn là vị tướng bách chiến bách thắng của Đại Việt. Là một tướng kỵ binh. Thế mà sao Ngài lại chọn pháo binh? Tôi nói có đúng không?

- Quả không thể giấu được Ngài. Tôi chọn pháo binh là vì nước nhà. Tôi muốn về nước sẽ xây dựng binh chủng pháo binh.

- Ra là thế. Với cương vị của Ngài, lẽ ra không thể là một Trung uý quèn được. Lẽ ra ít nhất cũng phải là Trung tá hoặc Đại tá.

Nghe tới đây, Bàn chỉ cười.

- Danh vọng, địa vị là sợi dây thừng thắt sẵn trên cổ, Trung tá à. Tôi thật nhiều lúc chỉ muốn làm một người bình thường thôi.

- Ngài nói cũng phải, nhưng ta không được chọn xuất thân. Tôi đã lập hồ sơ của Ngài và trình Quốc vương cùng bộ tham mưu. Ngài đã được công nhận là Thiếu tá. South Esset là trung đoàn do tôi thành lập. Và sự tích của Ngài mọi binh sĩ đều biết, họ rất nể phục Ngài, một người ngoại quốc như họ mà có thể thắng chính người Anh. Bởi vậy, lần thăng chức này không có ai ngăn cản.

- Vậy tôi sẽ làm nhiệm vụ này. Tôi sẽ yểm trợ cho tướng Werneck an toàn.

- Sai, nhiệm vụ tối thượng của Ngài là... bình yên trở về. Werneck của Áo nếu chết sẽ có người thay thế. Nhưng không thể tìm Jack thứ hai cho công chúa Sophia. Ngài không cần giấu tôi về những lá thư.

Bàn gãi đầu, cúi gằm mặt xuống. Arthur nói tiếp:

- Con rể Nhà vua không thể là người tầm thường. Nhưng cũng không thể là một cái xác. Ngài hiểu chứ?

- Đã hiểu.

Ngày 14 tháng 4 năm 1797, Neuwied, Tây Nam nước Phổ.

Đứng trên ngọn đồi thấp cách Zolenberg khoảng một dặm Anh, Bàn phóng tầm mắt về cánh trái thành phố. Màu xanh quân phục của người Pháp tràn ngập khắp nơi. Với quân số áp đảo của mình, cùng với sự yểm trợ của pháo binh, quân Pháp đang dần ép người Áo lùi về khu vực trung tâm.

Phía sau đội hình với quân số ít ỏi vốn không còn đến một nghìn, Đại tá Pál Kray hiểu ông không còn khả năng thủ vững nữa. Chỉ một đợt pháo kích nữa của đối phương là toàn quân bên mình bị diệt. Điều ông cần làm bây giờ chỉ có thể là cầm cự được lúc nào hay lúc đó. Hy vọng duy nhất lúc này của ông là tướng Werneck đã xin được viện binh.

Đúng lúc này, trên bầu trời hướng tây nam xuất hiện những vật thể khổng lồ. Khinh khí cầu. Đúng, chính là chúng, những con quái vật hành hạ ông mấy tháng nay ở Neuwied. Ở độ cao trên năm trăm mét, ông không nghĩ có loại vũ khí nào hạ được chúng, dù là loại súng mới của người Anh.

Sự xuất hiện của những chiếc khinh khí cầu đã làm tan rã tinh thần của quân Áo. Đúng lúc này, có tiếng đại bác nổ từ sau lưng Kray. Khi đến đây, Bàn mang theo mười hai khẩu đại bác cùng một nửa trung đội số mười ba, dĩ nhiên tất cả binh sĩ đều mặc quân phục màu đen của Trung đoàn South Esset, không thể nhận ra họ là lính Anh chính gốc.

Ngọn đồi mà Bàn đang đứng vừa khéo có độ cao khoảng gần bốn trăm mét. Những chiếc khinh khí cầu của Pháp vì thế cũng ở vị trí vừa ngang tầm mắt. Những họng đại bác được giấu kỹ dưới tán cây sẵn sàng khai hỏa khi nhận được lệnh.

“Căn góc bốn mươi tám độ, hướng mười hai giờ, con quái đầu tiên, sẵn sàng chờ lệnh”, Bàn ra chỉ thị cho tiểu đội pháo.

Khi những chiếc khinh khí cầu tiến lại gần trong khoảng cách tầm nửa dặm Anh, Bàn hạ lệnh: “Bắn”. Tức thì, mười hai quả đạn đại bác bay ra khỏi nòng sau tiếng gầm đinh tai. Có sáu quả trúng đích, chiếc khinh khí cầu bùng cháy, rơi xuống. Năm quả còn lại, vừa khéo rơi ngay vào chính giữa đội hình quân Pháp, nơi có trung đội pháo của François Joseph Lefebvre, ba khẩu đội pháo bị loại khỏi cuộc chiến.

Quân Pháp lúc này trong phút chốc phát hoảng, họ không biết đạn pháo từ đâu rơi xuống. Ngay cả những chiếc khinh khí cầu đằng sau, vì bị che mất tầm nhìn mà không người lính nào trên đó nhìn thấy điểm xuất phát của loạt đạn. Chính trong phút giây này, chiếc khinh khí cầu bị trúng đạn bốc cháy, rơi xuống ngay trên đầu quân Pháp.

Tiếp theo là một loạt đạn đại bác nữa, mục tiêu của chúng không phải là nhũng con quái vật trên bầu trời nữa mà là mặt đất bên dưới. Bàn quá hiểu, nếu lúc này lại tiếp tục bắn hạ khinh khí cầu thì khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”. Cứ để đối phương nghĩ là đạn pháo chỉ vô tình bắn trúng mà thôi.

Trong lúc hàng ngũ quân Pháp tạm thời rối loạn, một tràng kèn lệnh vang lên “te te te tò te tí”. Một đoàn kỵ binh khoảng ba trăm người lao xuống từ cánh trái, chia cắt đội hình của những người lính áo xanh. Trung đoàn kỵ binh South Esset, nỗi kinh hoàng của những người Pháp đã xuất hiện. Đây là trung đoàn được tập hợp từ những người lính đánh thuê, một vài người Nam Phi và Ấn Độ. Họ đã từng cùng nhau vào sinh ra tử ở chiến trường Đông Bắc Ấn hàng mấy năm trời nên có sự phối hợp với nhau cực kỳ ăn ý. Bàn cũng có mặt trong đội hình xung phong này.

Cùng lúc này, những binh sĩ Áo thấy được cứu binh lập tức trở nên phấn chấn, họ nhanh chóng đứng lên, giương súng về phía kẻ thù. Đội tiên phong của Pháp ngã xuống như rạ. Tinh thần binh sĩ Áo lên rất cao. Chính lúc Kray định hô khẩu hiệu phản công cũng là lúc Bàn hét to, “Dừng lại”.

Kray hướng ánh mắt về nơi phát ra tiếng hét. Ông thấy đó là một thanh niên trong trang phục màu đen, mang quân hàm Thiếu tá phi ngựa nước đại tiến tới. Người này có vóc dáng nhỏ thó nhưng ánh mắt lại có một sự tinh anh hiếm thấy. Khỏi cần nói thêm cũng biết đó chính là Bàn.

- Đại tá, ông không được tiến lên, – Bàn nói trong hơi thở hổn hển. – Chúng ta phải nhanh chóng triệt thoái về trung tâm thành phố, hội quân cùng tướng Werneck.

- Nhưng quân Pháp đang hỗn loạn, tại sao chúng ta không tiến lên? – Niềm hy vọng mới nãy sau những trận thua liên tiếp đã lấn át mất lý trí của ông.

- Đây chỉ là hỗn loạn tạm thời thôi, phải tranh thủ thời gian triệt thoái cho mau. Tôi sẽ yểm trợ các ông.

Lúc này, Kray như tỉnh mộng. Ông hiểu những lời người thanh niên trước mặt là chính xác. Lệnh triệt thoái lập tức được ban ra. Tàn quân Áo lui về trung tâm trong tiếc nuối không thể giết thêm một ít kẻ thù.

Sự có mặt của South Esset cũng làm quân Pháp hơi chùng bước. Họ nghĩ nếu đã có một trung đoàn, phía sau lẽ nào không thể có thêm một trung đoàn thứ hai. Để bảo đảm an toàn, tướng Michel Ney hạ lệnh tạm thời dừng lại, chờ chỉ thị của tướng Hoche.

Về đến khu vực trung tâm thành phố, Bàn được hướng dẫn đến phòng chỉ huy tác chiến của quân Áo. Bước vào phòng, Bàn nhìn thấy ngoài Kray còn có một người đàn ông khác. “Đây chắc là tướng Werneck”, anh nghĩ.

- Chào tướng quân – Bàn chào hỏi theo đúng nghi thức quân đội. – Tôi là Thiếu tá Jack Nguyễn, chỉ huy trưởng Trung đoàn South Esset.

- Ngài có cái họ lạ nhỉ? Màu da lại là màu vàng. Chắc Ngài là người Châu Á. Không biết Ngài đến từ nước nào? Ấn Độ chăng?

- Tôi đến từ một nơi còn xa xôi hơn nhiều. Đó là nước Đại Việt nằm ở miền Viễn Đông xa xôi.

- À… Thế Ngài đến đây với bao nhiêu quân?

- Bốn trăm người.

- Chỉ có bốn trăm người sao? Thế thì có làm được gì. – Người lên tiếng hỏi là Kray.

- Tôi đến không phải là để xoay chuyển tình thế, mà là bảo toàn lại một ít lực lượng cho Áo và Liên minh. Tình thế hiện nay không thể nào xoay chuyển nữa rồi. Ngài có biết Thái tử Charles nước Ngài đã vừa phải ký hiệp ước sơ bộ Leoben với Pháp rồi hay không?

- Ký rồi à? Thế thì lẽ ra hai bên phải đình chiến chứ. – Kray thắc mắc.

- Không có chuyện đó đâu – Werneck quả không hổ là tướng quân, ông ta trả lời. – Người Pháp sẽ không dễ dàng buông tha chúng ta. Họ sẽ lấy lý do là đường xa nên thông tin không đến kịp, tiếp tục tấn công ta trong khi ta lại dừng lại, không chiến đấu tiếp. Như vậy, ta sẽ bị diệt sạch.

- Đó chính là lý do tôi ở đây – Bàn xen vào. – Việc chính của chúng ta bây giờ là rút khỏi Neuwied trong an toàn với số quân còn lại cao nhất có thể.

- Vậy theo Ngài, chúng ta phải làm sao đây? – Werneck hỏi Bàn.

- Các Ngài còn bao nhiêu khẩu pháo?

- Sáu mươi khẩu – Kray trả lời thay tướng quân – bị phá hủy mất mười lăm khẩu, chỉ còn bốn mươi lăm khẩu. Ngài cũng thấy đó, sĩ quan cao cấp cũng chỉ còn có hai chúng tôi, sĩ quan chỉ huy pháo binh không còn ai cả.

- Vậy thì nếu các Ngài tin tưởng, hãy để lại cho tôi hai mươi bốn khẩu đại bác, còn lại thì cho rút về hậu phương đi. Tôi tin chắc là sáng mai Pháp lại tấn công.

Nói đoạn, Bàn tiến tới chiếc bàn đồ treo trên tường và cầm theo bút vẽ.

- Chúng ta trước bố trí hai mươi bốn khẩu đại bác tại những điểm cao nhất trong thành phố, bố trí rải rác chứ không tập trung. Trung đoàn South Esset chúng tôi có mười hai khẩu, đặt ở ngọn đồi này, nhiệm vụ chính là hạ những chiếc khinh khí cầu.

Dừng nói, Bàn dùng viết vẽ lên hai mươi bốn điểm cao, nơi sẽ đặt đại bác. Xong, anh lại tiếp.

- Khi quân Pháp tiến vào từ cánh trái, pháo binh của chúng tôi sẽ nhả đạn từ bên ngoài, đó cũng chính là hiệu lệnh. Lúc này, hai mươi bốn khẩu đại bác kia cũng đồng loạt khai hỏa nhắm về đối phương. Nhưng nên nhớ, chỉ bắn ba loạt, đến loạt thứ t.ư, hãy nhồi thuốc nhiều hơn và cho hai quả đạn vào, chúng ta sẽ phá hủy luôn khẩu súng, không cho Pháp chiếm.

- Dừng lại đã – Kray nói xen vào. – Tại sao chúng ta không rút đi ngay bây giờ, tại sao lại phải bố trí như thế?

- Vì không thể rút kịp – Tướng Werneck trả lời. – Nếu chúng ta rút bây giờ, thứ nhất là chúng ta không thể chuyển hết quân đi nhanh chóng. Thứ nhì, quân Pháp sẽ đuổi theo và bắn từ đằng sau lưng ta. Cách nào chúng ta cũng bị diệt toàn bộ.

- Đúng thế – Bàn tiếp lời. – Chúng ta phải cho một ít quân thủ lại ở đây để cầm chân quân Pháp cho số lính còn lại rút lui an toàn. Đồng thời cũng phải cho chúng nếm mùi xem như là thu hồi lại một chút vốn.

- Hiểu rồi, vậy tiếp nữa là thế nào?

Bàn gật đầu rồi lại tiếp:

- Khi loạt đại bác cuối cùng kết thúc cũng chính là lúc những người ở lại cố thủ lập công. Đây chính là những người cảm tử. Họ ẩn nấp trong những căn nhà, cố thủ lâu nhất có thể. Trong khi đó, Trung đoàn kỵ binh South Esset cũng chia làm hai cánh mà đánh vào giữa đoàn quân Pháp đang phải chống đỡ đạn pháo ngay tại đây.

Bàn lại khoanh tròn một điểm trên bản đồ, đó là một cây cầu chính hướng về trung tâm.

- Khi lao vào, chúng tôi có mang theo bộc phá, cho nổ cây cầu. Binh sĩ các Ngài chú ý lúc nghe tiếng nổ thì dừng bắn, kẻo lạc đạn vào chúng tôi. Đoàn kỵ binh sau đó sẽ đến đón nhóm lính cố thủ, mỗi người chúng tôi sẽ mang một người của các Ngài rời đi.

- Vậy số lính cố thủ bao nhiêu là đủ? – Kray lại hỏi.

- Ba trăm. Chỉ từng ấy người là đủ. Vả lại, South Esset cũng chỉ có chừng đó người để có thể mang các anh đi.

- Tốt – lúc này Werneck mới nói. – Vậy cứ theo ý Ngài. Ngay bây giờ chúng ta sẽ bố trí. Chắc là sáng mai quân Pháp sẽ tấn công.

Kế hoạch đã lập xong, Bàn ra khỏi phòng chỉ huy mà qua về với người của mình, bỏ lại việc chuẩn bị cho hai người kia. Đúng bảy giờ sáng hôm sau, quả thật quân Pháp tấn công. Mọi việc không hiểu sao lại may mắn xảy ra theo y như sắp đặt của Bàn. Quân Áo rút lui thành công, những người cố thủ cũng chỉ mất đi hơn năm mươi người.

Kết thúc trận chiến, quân Áo chỉ còn lại hơn năm nghìn người, mất ba mươi chín khẩu đại bác, sáu mươi chiếc xe Wagon. Trong khi đó, Pháp chỉ mất ba nghìn người cùng ba chiếc khinh khí cầu. Sau trận này, danh tiếng của Bàn cũng đã bắt đầu được biết đến ở phương Tây này.

 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu


Chương 32: Bên kia chiến tuyến
Chương 32: Bên kia chiến tuyến

Hai nước tranh đấu, anh tiến lên không lẽ tôi thụt lùi? Đại Việt cũng không nằm ngoại lệ triết lý này. Lẽ nào nhà Nguyễn lại cứ thế mà để cho Tây Sơn một đường tiến lên? Nên nhớ, Nguyễn Ánh cũng là một vị vua hùng tài đại lược. Bên cạnh ông vẫn còn đó Hoàng tử Cảnh, một người thông minh, tài trí, từng cùng cha bôn ba khắp mọi nẻo đường từ trong nước cho đến hải ngoại. Còn đó mười hai vị nhân tài đất Gia Định như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu xưa nay vẫn được xem là thập nhị tinh tú. Còn có bộ máy thám báo hùng hậu nữa.

Ngày 20 tháng 4 năm 1796, tại sở chỉ huy của quân đội Pháp ở phía Bắc thành Milan, Ý. Một người thiếu niên đến xin gặp mặt Tổng tài, bảo có việc hệ trọng. Dẫn đường cho cậu là một vị Giám mục, có tên Pigneau de Behaine. Đây chẳng phải là Giám mục Bá Đa Lộc hay sao? Vậy cậu thiếu niên kia là ai?

- Thưa Đức Cha, Tổng Tài hiện nay rất bận, Ngài ấy còn đang chuẩn bị cho đại cuộc của nước Pháp sắp tới. – Một Hạ sĩ tiếp đón ông trả lời.

- Thế thì con hãy chuyển lời giùm là Cha có một việc hệ trọng, cũng liên quan đến đại cuộc. – Bá Đa Lộc kiên nhẫn.

- Đức Cha có thể nói sơ sơ về cái gọi là việc hệ trọng đó không? Con không muốn bị khiển trách khi không thông báo rõ ràng.

- Ngài có thể nói là Cha có một bí mật liên quan đến vũ khí mới của quân đội Anh.

Người sĩ quan gật đầu, bảo hai người chờ tại chỗ rồi quay vào phòng làm việc của Tổng Tài. Lát sau, anh ta quay ra và nói:

- Thưa Đức Cha, Tổng Tài cho mời, nhưng Ngài chỉ gặp mặt Đức Cha thôi.

- Chà… Việc này… Thôi được rồi, Hoàng tử hãy ngồi đợi ở đây một lát nhé. – Bá Đa Lộc cố tình nói với cậu thiếu niên bằng tiếng Pháp như để anh sĩ quan kia nghe thấy.

- Đây là một vị Hoàng tử à, thưa Đức Cha?

- Vâng, cậu ấy là một vị Hoàng tử. Sự việc này, Cha không nắm rõ lắm. Người hiểu chi tiết chính là cậu ấy.

- Thế thì… Thôi được, mời cả hai vị theo con.

Bá Đa Lộc cùng cậu thiếu niên theo chân người sĩ quan đến một văn phòng, bên ngoài cửa ghi rõ, “Văn phòng sở chỉ huy tiền phương lâm thời”. Tiếng mời vào được phát ra từ một người đàn ông vọng ra sau khi người sĩ quan gõ cửa. Hai người bước vào căn phòng sau khi cửa được mở ra.

Đây là một căn phòng khá rộng rãi. Nếu bên ngoài không có biển cho biết đây là sở chỉ huy tiền phương, có lẽ hai vị khách của chúng ta sẽ nghĩ đây là phòng làm việc của giám đốc một công ty nào đó. Các bức vách được phủ kín với những tấm bản đồ. Giữa phòng là một chiếc bàn làm việc lớn, lưng xoay về phía cửa sổ, trước mặt là một bộ bàn ghế sô pha với một ấm trà pha sẵn.

Vị Tổng Tài người Pháp có tên Napoleon Bonaparte đang cúi mặt trên bàn, tay cầm viết lông ngỗng, đang ghi ghi chép chép gì đó. Ông ta cao khoảng một mét sáu mươi lăm. So với chiều cao trung bình của người phương Tây thì ông có thể được xem như là một người lùn. Tuy vậy, ông lại nổi bật với vầng trán cao thể hiện một sự thông thái hiếm có.

Bonaparte ngẩng đầu nhìn hai người mới bước vào và nói:

- Ồ! Ngọn gió nào đưa Đức cha đến đây vậy?

- Cơn mưa Hồng Ân của Thiên Chúa dành cho nước Pháp vĩ đại đưa tôi đến đây, thưa Tổng Tài. – Bá Đa Lộc trả lời.

- Còn cậu bé người Châu Á này… Con thấy có vẻ quen quen. Cậu ta là ai thế, thưa Đức cha?

- Thật ra, Ngài đã từng gặp cậu ấy trước đây, khoảng tám năm trước. Khi ấy, cậu mới chỉ là một đứa bé tám tuổi, và Ngài mới chỉ là một Thiếu úy ở trường quân bị. Thời gian qua thật nhanh, Ngài đã là một Tổng Tài, còn cậu bé lớn lên và trở thành một vị Hoàng tử tài giỏi của nước An Nam ở bán đảo Đông Dương.

- À! Con nhớ ra rồi. Cậu ta là chú bé theo cha xin được vua Louis giúp đỡ để phục quốc đây mà. Thế hôm nay Đức cha đến đây có việc gì? Con nghe nói việc có liên quan đến vũ khí của người Anh.

- À! Đúng vậy. Nhưng việc thế nào thì phải hỏi cậu ấy. – Bá Đa Lộc chỉ vào cậu thiếu niên mà giờ đây không cần phải giới thiệu cũng biết chính là Hoàng tử Cảnh.

- Sao? Bí mật gì thế? Hoàng tử bé.

Bonaparte cố tình nhấn mạnh “Hoàng tử bé” ở cuối câu. Ông không nghĩ một cậu nhỏ lại có thể làm được gì dù có cương vị là Hoàng tử. Trái lại, Nguyễn Phúc Cảnh không xem đó là một sỉ nhục. Cậu hiểu, dưới con mắt của người phương Tây, các quốc gia ở miền Viễn Đông vĩnh viễn là các nước nghèo nàn, lạc hậu. Ngay cả nhà Thanh, người ta còn không xem là gì huống chi Đại Việt. Cảnh mỉm cười, lấy ra một lọ thủy tinh có chứa một ít chất bột màu vàng sáng.

- Ngài có biết đây là gì không, thưa Tổng Tài?

- Chất bột gì thế? Xem ra rất quan trọng. - Bonaparte bắt đầu tỏ vẻ quan tâm.

- Trước khi giải thích, Ngài lảm ơn cho tôi mượn một tờ giấy bỏ đi và một vật cứng. Tôi sẽ biểu diễn cho Ngài thấy.

Cầm lấy tờ giấy Bonaparte đưa, Cảnh rắc vào đó một ít bột, đoạn gói lại. Xong xuôi, trước ánh mắt tò mò của vị Tổng Tài, cậu dùng cái chặn giấy gõ mạnh vào gói giấy. Ngay lập tức, một tiếng “bép” nhỏ vang lên, theo sau là sự bốc cháy của tờ giấy.

- Chắc Ngài cũng biết nước tôi đang bị chia cắt làm thành hai miền – Cảnh nói. – Thứ bột này là do người của Ngụy quốc chế tạo ra. Họ dùng chúng để tạo thành một thứ gọi là “hạt nổ”, gắn vào viên đạn. Những thám tử của chúng tôi đã lẻn vào và ăn cắp được. Còn nữa, đây là một viên đạn của họ.

Đặt mọi thứ lên bàn, Cảnh nói tiếp.

- Những khẩu súng chúng ta thường dùng có tốc độ bắn là khoảng ba viên cho đến bốn viên một phút. Nhưng với viên đạn này cùng cây súng đã cải tiến của họ, tốc độ bắn rất nhanh, lên đến tám đến mười viên một phút, có nghĩa là cứ khoảng tám giây là họ bắn được một viên. Chưa hết, sức mạnh và cự ly của viên đạn lại gấp ba lần loại súng của chúng ta. Điều quan trọng là họ đã bán phát minh này cho người Anh.

- Thế sao?

Lần đầu tiên, Bonaparte tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên cùng lo lắng. Ông ta đứng phắt dậy, hành dộng này còn làm đổ cả bình mực vốn đang đặt trên bàn.

- Ngài – giờ đây ông cũng thay đổi cả cách xưng hô với Cảnh – có biết cách chế tạo loại chất này không?

- Thám tử của chúng tôi chỉ lấy cắp được một ít chất này. Về công thức, chúng tôi chỉ biết là đại khái người của Ngụy quốc hòa trộn một chất nào đó từ phân dơi vào thủy ngân. Chúng tôi tin, với sự thông thái của các nhà bác học của quý quốc, công thức của chất này sẽ được phơi bày. Còn về loại đạn này và sự cải tiến của những cây súng, thiết nghĩ đây chỉ là một việc đơn giản.

Trầm ngâm hồi lâu, Bonaparte ngước mắt nhìn cậu bé Hoàng tộc người Đông Dương rồi nói.

- Những điều Ngài nói thật giúp tôi giải quyết được khá nhiều vấn đề khá nhức đầu. Ngài nói, đổi lại sự cung cấp thông tin này, các Ngài muốn gì ở người Pháp.

- Ngài cũng biết, người Anh đã ký kết liên minh với Ngụy Quốc. Bọn họ cũng trao đổi với nhau rất nhiều thứ, như kỹ nghệ đóng tau, kỹ nghệ đúc súng,… Trước đây, Phụ vương của tôi đã tìm đến, nương nhờ sự giúp đỡ của vua Louis XVI. Nhưng, kết quả nhận được chỉ là sự ghẻ lạnh, chỉ có sự giúp đỡ của Đức Cha đây cùng một số thương gia, chúng tôi mới có đủ lực chống lại kẻ thù, nhưng, sự giúp đỡ ấy quá ít.

- Louis XVI chỉ là một tên hề kệch cỡm. Ý Ngài là muốn thông qua tôi để có được sự giúp đỡ của nước Pháp?

- Vâng, Ngài cũng hiểu là chúng tôi đang trong tình trạng khó khăn như thế nào. Ngụy Quốc nhận được sự giúp đỡ của người Anh nên ngày càng lớn mạnh. Chúng tôi muốn có sự giúp đỡ thiết thực hơn. Nếu thành công, chúng tôi sẵn sàng cho quân đội Pháp mượn đường đánh chiếm nhà Thanh.

- Các Ngài tính toán thật là khéo. Lẽ nào tôi không hiểu các Ngài muốn mượn tay nước Pháp diệt trừ nội loạn và trấn áp kẻ thù phương Bắc.

- Chính trị là như thế. Nhưng, sự kết minh của chúng ta xét theo khía cạnh nào đó cũng chính là một giao dịch. Ngoài việc cho các Ngài mượn đường, chúng tôi còn ưu đãi cho các thương nhân người Pháp đến làm ăn. Ngoài ra, tuyến đường ở biển Đông cũng chính là một tuyến đường hàng hải huyết mạch. Người nào đứng chân ở đây có thể kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á và vùng biển phía nam nhà Thanh.

- Nếu giúp các Ngài, vị thế đó là do các Ngài nắm giữ kia mà.

- Ngài nghĩ sao nếu chúng tôi đồng ý cho các Ngài khai thác và đặt căn cứ ở đây?

- Thế thì còn tạm được – Bonaparte ra chiều suy nghĩ, lại nói tiếp. – Việc này dù sao cũng là một việc hệ trọng. Hãy để tôi thương thảo với Hội đồng. Tin chắc sẽ có câu trả lời hợp ý các Ngài. Phần tôi, tôi có thể giúp được gì cho Ngài? Đương nhiên là với t.ư cách cá nhân.

- Cái này… từ lâu tôi rất ngưỡng mộ Ngài. Được biết Ngài xuất thân là một sĩ quan pháo binh. Tôi muốn được phục vụ trong một đơn vị pháo binh của Pháp để học hỏi kinh nghiệm.

- Vấn đề này không khó. Tôi có thể sắp xếp. Nhưng không thể để Ngài phục vụ ở đơn vị pháo binh được. Ngài sẽ được đưa đến Trung đoàn của Đại tá Jean Lannes. Đây là một trung đoàn hỗn hợp bao gồm bộ binh, kỵ binh và pháo binh.

- Vậy thì đã là quá tốt rồi. Không biết hiện giờ Đại tá đang ở đâu?

- Lombardy, gần đây thôi. Cái chính là tuổi Ngài còn nhỏ quá, không thể cấp một quân hàm quá cao được. Tuy nhiên, Ngài là Hoàng tộc, lại từng chinh chiến sa trường nên có thể du di. Thôi thì cứ xem như Ngài là một Trung Úy vậy.

Cuộc gặp gỡ kết thúc ở đây. Cảnh ra về với một lời hứa của người quyền lực nhất quân đội Pháp lúc này. Hai ngày sau, cậu khoác lên bộ quân phục màu xanh với quân hàm Trung Úy và tiến về Lombardy, nơi mà ít ngày nữa sẽ xảy ra một trận chiến mang tính lịch sử của cả hai nước Pháp và Ý, à không, lúc này phải gọi là Vương quốc Napoli mới đúng.

Vậy là giờ đây, trên đất Châu Âu có sự xuất hiện của hai thiên tài đất Việt. Họ đại diện cho sự tranh đấu của hai miển đất nước. Tại đây, lại một lần nữa, họ lại đối đầu với nhau khi đứng ở hai bên chiến tuyến. Sự thành bại của họ lúc này cũng sẽ dẫn đến kết quả chung cuộc của trận long hổ tranh hùng nơi quê nhà.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 33: Trận chiến cầu Lodi
Chương 33: Trận chiến cầu Lodi​

Trên con đường dẫn đến Lombardi, có hai kỵ sĩ, một già, một trẻ di chuyển khá nhanh. Họ vừa đi vừa nói chuyện.

- Đức cha, chúng ta còn phải đi bao lâu nữa mới đến nơi?

- Theo tốc độ hiện nay thì khoảng hai giờ nữa sẽ đến.

- Thế thì cũng không cần đi quá gấp. Trời cũng trưa rồi, chúng ta hãy đến kia nghỉ ngơi, ăn chút gì đó để lấy sức. Tôi không thể đến gặp cấp trên với vẻ mặt mệt mỏi được.

Kỵ sĩ trẻ chỉ vào một gốc cây tùng to với tán lá rộng bên đường. Ra đây là Hoàng tử Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc đến Lombardi nhậm chức. Cậu không theo đạo Thiên Chúa nên cũng không xưng hô "cha, con" như những người khác.

- Trước khi đi, Tổng tài có đưa cho tôi một bức thư, bảo chuyển đến tay Đại tá Lannes. Theo Đức cha thì trong thư viết gì?

- Tôi cũng không biết, chỉ có vài suy đoán.

- Mời Đức cha nói.

- Tôi nghĩ, trong thư, Tổng tài yêu cầu Jean Lannes phải quan sát Ngài thật kỹ và báo cáo về. Đồng thời cũng không để Ngài phải mạo hiểm.

- Tôi thấy có lẽ mình cũng chỉ là lính kiểng thôi. Bonaparte không tin tôi. Nếu thế thì cũng tốt, tôi đứng ngoài sẽ có cái nhìn tốt hơn và sẽ học được nhiều thứ.

Ăn uống qua loa với vài mẫu bánh cùng một ít nước, cả hai lại lên đường. Lúc này, đường không còn quá xa, Cảnh không cần phải quá gấp gáp. Cậu tranh thủ vừa đi vừa suy nghĩ cho các bước tiếp theo phải làm.

Đến hơn ba giờ chiều, rốt cuộc cả hai cũng đến nơi. Quân đoàn đóng ở đây quả thật như Napoleon đã nói, là một đơn vị hỗn hợp của bộ binh, kỵ binh và pháo binh đặt dưới sự chỉ huy của Tướng Beaumont. Đại tá Jean Lannes lãnh đạo đơn vị kỵ binh với khoảng một nghìn sáu trăm người.

Bước vào doanh trại, Cảnh thật sự bất ngờ với sự bố trí ở đây. Binh sĩ được sắp xếp phòng thủ thành ba vòng từ ngoài vào trong. Bắt đầu từ bộ binh, kỵ binh rồi mới đến pháo binh. Cậu đếm thử thì thấy có tất cả ba mươi khẩu đại bác, có lẽ pháo binh có số lượng ít nhất mà được xếp trong cùng chăng.

Cách bố trí này khác hẳn với Đại Việt và nhà Thanh, bố trí theo cụm. Với doanh trại của người phương Đông, nếu kẻ địch đánh úp, chỉ một binh chủng có thể gặp nguy hiểm, các đơn vị khác sẽ kéo về hỗ trợ. Như vậy, chí ít, nếu thua cũng có thể bảo tồn được một chi binh sĩ hoàn chỉnh.

Trong khi đó, bố trí của quan Pháp lại cho thấy sự phòng thủ tổng lực. Nếu một điểm bị tấn công, vòng tròn phòng thủ sẽ biến đổi. Lúc này, tâm vòng tròn không còn là lều chỉ huy nữa, thay vào đó chính là quân thù. Bằng cách này, đội quân đánh úp sẽ bị bao vây hoàn toàn. Cách duy nhất là phải từ xa tấn công vào, mở thẳng một đường tiến về lều chỉ huy. Tuy nhiên, để làm được điều này, họ phai vượt qua được những quả đạn pháo từ trong bắn ra.

Mỗi cách phòng thủ đều có ưu điểm riêng. Song, Cảnh nhận thấy cách bố trí của người Pháp ưu việt hơn. "Hèn gì Napoleon được xưng là vị tướng bất bại", Cảnh thầm khen. Có điều, cậu được điều về đại đội kỵ binh của Lannes. Vậy chẳng phải là không học được gì từ pháo binh hay sao?

"Thôi mặc kệ. Cái chính là mình sẽ học được nghệ thuật quân sự của họ", Cảnh nghĩ. Huống chi, với cách bố phòng này, từ lều chỉ huy, cậu có thể quan sát mà. Vả lại, kỵ binh được xếp ở vòng tròn thứ hai, tức là ở giữa. Nghĩ vậy, cậu không do dự nữa mà bước đến lều của Đại tá Lannes.

- Trung uý Cảnh Nguyễn xin trình diện Đại tá. - Cảnh chào theo nghi thức nhà binh rồi đưa bức thư của Napoleon cho Lannes.

- Nghỉ! Trung uý ngồi đi. Đợi tôi đọc xong bức thư rồi ta sẽ nói chuyện sau.

Cảnh y lời ngồi xuống. Lannes mở thư ra và bắt đầu đọc. Hoá ra nội dung thư không khác mấy so với suy đoán của Cảnh. Có điều cậu không biết mối quan hệ hết sức mật thiết giữa hai vị chỉ huy này, họ là đôi bạn thân.

Trong thư có đoạn nói: "Không cần bố trí vị Hoàng tử bé này vào vị trí chiến đấu. Thay vào đó là một chỗ trong ban tham mưu. Đừng nên xem thường những người Á Đông này. Như tôi đã từng phản bác những kẻ chê mình lùn, trí thông minh phải được tính bằng chiều cao từ vầng trán đến bầu trời. Người Á Đông nổi tiếng với mưu sâu kế dày. Hãy tận dụng điều đó".

- Tôi đã đọc xong bức thư. Tổng tài yêu cầu xếp Trung uý vào Ban tham mưu.

- Quả thật Tổng tài đối xử với tôi quá tốt. Thế khi nào thì tôi có thể chính thức nhận nhiệm vụ? Ngay bây giờ chăng? - Cảnh có vẻ nôn nóng.

- Cứ thong thả. Trung uý cứ nghỉ ngơi một hom để lại sức sau một ngày đai đi đường vất vả. Tôi còn có việc muốn hỏi Đức cha cái đã.

Cảnh lui ra ngoài. Theo sự dẫn đường của một binh sĩ, cậu về căn lều mình được bố trí để nghỉ ngơi.

Sau mấy ngày quan sát binh sĩ tập luyện, Cảnh nhìn thấy có một vài điểm yếu. Thứ nhất là thể lực họ không tốt bằng người Việt dù có tạng người cao lớn hơn. Cậu tin, nếu đơn đả độc đấu, một người lính Việt có thể kết liễu ba người lính Pháp. Có điều, lúc này người ta chiến đấu bằng súng ống chứ không phải là gươm giáo.

Thứ hai, cách nạp đạn bắn quá chậm và rườm rà. Trước tiên là người ta phải đổ thuốc súng vào, dùng que thông nòng để nén chặt. Sau đó là thả viên đạn vào, đổ thuốc mồi vào buồng đốt, kéo mỏ gà rồi mới ngắm bắn. Bằng cách này, mỗi phút binh sĩ chỉ bắn được ba phát. Nếu so với cách bắn và uy lực của cây súng nhà Tây Sơn giờ này đã chia sẻ cho người Anh thì lại kém quá xa. Cậu suy nghĩ và đã tìm ra cách để cải thiện.

- Đại tá, tôi thấy cách bắn của chúng ta hiện nay quá chậm.

- Thế thì theo Trung uý, chúng ta phải làm cách nào?

- Này nhé. Chúng ta trước vẫn đổ thuốc súng vào, dộng mạnh báng súng xuống đất, thả viên đạn vào rồi mới dùng đến cây thông nòng. Như vậy có thể tiết kiệm đước một khối thời gian.

- Ừm... Nghe có vẻ có lý. Nào, chúng ta cùng thử nghiệm chứng xem sao.

Họ bắt đầu đem cách bắn mới ra thử nghiệm. Quả thật, cách này giúp binh sĩ bắn được bốn phát cũng chỉ trong một phút. Tuy là vẫn kém xa so với người Anh nhưng nên nhớ là họ chưa tham chiến và loại súng mới cũng chưa thể sản xuất với số lượng lớn. Đây sẽ là một ưu thế rõ ràng so với quân Áo.

Đầu tháng 5 năm 1796, Napoleon Bonaparte quyết định tấn công thành Milan từ hướng Bắc. Muốn làm được điều đó, đầu tiên, ông xua quân vượt sông Po, men theo cánh trái mà công hạ Piacenza.

Với ưu thế về binh lực ba mươi nghìn người cộng thêm cách bắn mới mà Cảnh ra sức phổ biến, quân Pháp áp đảo hoàn toàn. Tuy nhiên, Piacenza với sáu pháo đài cũng không phải là quả hồng mềm. Phải mất gần một tuần lễ, đến ngày 9 tháng 5 mới hạ được thành.

Quân Áo vỡ trận, vội vả vượt sông Adda, bỏ cả thành Milan mà cố thủ ở thị trấn Lodi, phía tả ngạn con sông. Chiếm được Milan, Napoleon thừa thắng truy kích quân Áo đến tận hữu ngạn sông Adda.

Đứng trước thị trấn Lodi, Napoleon cảm thấy mọi việc trở nên rất khó khăn. Trấn nhỏ này khác với thành Piacenza. Con sông chắn trước mặt trở thành một bờ hào tự nhiên rất khó vượt qua. Ông quyết định pháo kích pháo đài phòng thủ trước, sau đó mới xua quân vượt cầu.

Đúng bảy giờ sáng ngày 10 tháng 5, ba mươi khẩu đại bác dàn hàng ngang, bắt đầu khạc đạn oanh tạc pháo đài. Ông cố tình tránh xa cây cầu, sợ chẳng may đạn lạc sẽ đánh sập cầu, không thể vượt sông.

Ở trong pháo đài, tướng Karl Sebottendorf đốc thúc mười hai nghìn binh sĩ phòng thủ. Với mười lăm khẩu đại bác cùng ưu thế trên pháo đài cao, quân Áo không cho phép Pháp lập trận địa pháo được.

Thế cũng chẳng nói làm gì, điều làm quân Pháp không ngờ tới là tầm bắn của đối phương quá xa so với mình. Vả lại, mỗi quả đạn rơi xuống lại nổ tung, mảnh đạn bay khắp nơi. Từ bao giờ đại bác của Áo lại có uy lực mạnh đến vậy?

Kể ra phải nói đến chuyện một tuần trước. Hôm đó, người Anh gửi đến cho Sebottendorf mười thùng đạn đại bác mới, mỗi thùng có năm mươi quả. Loại đạn mới này có kích thước không khác gì loại cũ. Có điều chúng không phải là đặc ruột. Mỗi quả đạn là một khối cầu thép rỗng ruột, bên trong là một bọc thuốc nổ nén chặt, bên ngoài phủ một lớp hạt nổ làm thành lõi, đặt vừa khít. Quả đạn rớt xuống đất làm hạt nổ va chạm mạnh sinh ra tia lửa đốt cháy thuốc nổ và... bùm, mọi việc sau đó thì ai cũng hiểu. Cũng bởi thế nên quả đạn nhẹ hơn và bay xa hơn.

Quay lại với trận chiến, Napoleon đau đầu, không biết phải làm sao, trận địa pháo không lập được. Ông hy vọng cánh quân của tướng Beaumont vượt sông an toàn ở thượng nguồn và kịp quay về đây phối hợp.
Nói đến đây, chắc mọi người thắc mắc vị Hoàng tử trẻ của chúng ta đang làm gì. Thì ra cậu đang cùng Đại tá Lannes dẫn kỵ binh theo tướng Beaumont lên thượng nguồn sông Adda. Đến một đoạn sông rộng khoảng ba mươi mét thì dừng lại. Vị tướng quân triệu tập các sĩ quan họp bàn phương án qua sông, trong đó có Cảnh. Ông nói:

- Các Ngài cũng biết tình thế lúc này. Sông thì sâu mà không có cầu, làm sao để vượt qua đây?

Sự im lặng bao trùm cuộc họp. Các sĩ quan vẫn không nghĩ ra cách.

- Quân sĩ có thể bơi qua nhưng thuốc súng sẽ ướt hết, không dùng được - Lannes nói.

- Tôi có ý này.

Cảnh lên tiếng làm mọi người chú ý. Cậu tiếp:

- Ở nước tôi có một loại cầu gọi là "cầu phao". Nó rất dễ làm. Chúng ta có thể thực hiện. Khi hoàn thành thì đừng nói ngựa, cả đại bác cũng qua được.

- Làm thế nào? - Một vị Thiếu tá hỏi.

- Trước tiên, cho tôi hỏi chúng ta có khoảng ba mươi thùng thuốc súng không?

- Chúng ta có khoảng bốn mươi thùng. Ngài hỏi để làm gì?

Không để mọi người chờ lâu, Cảnh nói cho họ cách làm. Nghe xong, mọi người hồ hởi thấy rõ. Đoạn Beaumont ra lệnh vận động toàn bộ binh sĩ làm cầu. Với một nghìn sáu trăm người thì mọi việc quá đơn giản.
Họ nhanh chóng chặt cây, kết thành hai chiếc bè lớn, rộng hai mét, dài mười hai mét được nối với nhau. Ở hai cạnh dài của các chiếc bè, họ buộc chặt các cặp thùng thuốc súng rỗng bị bịt kín, cứ cách một mét lại có một cặp. Chiếc cầu phao cứ thế mà thành hình. Nó nhanh chóng được bắt qua sông. Đoàn kỵ binh nhanh chóng vượt qua.

Đến giữa trưa, đoàn kỵ binh cuối cùng cũng đến được chân pháo đài. Napoleon lấy làm mừng vội giục toan quân vượt cầu Lodi. Lúc này, việc công hạ pháo đài trở nên quá đơn giản. Bởi lẽ các khẩu đại bác thủ thành đã trở nên vô dụng khi bị áp sát.

Quân Pháp tràn vào thị trấn. Với quân số áp đảo, Pháp nhanh chóng tiêu diệt những người lính Áo. Tướng Sebottendorf buộc dẫn binh rút lui về phía nam với hơn chín nghìn người còn lại. Trước khi đi, ông không quên hạ lệnh bỏ lại số đại bác, chỉ mang theo những thùng đạn pháo mới bỏ chạy.

Kết thúc trận đánh, Napoleon thắng lớn cùng với việc chiếm được thành Milan, giết chết hơn hai nghìn quân Áo. Tuy nhiên, thu hoạch lớn nhất theo ông, đó là cách làm cầu phao mà Cảnh đã phổ biến. Từ nay, các con hào nước sâu không còn là trở ngại với quân Pháp nữa.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 34: Đối đầu

Chương 34: Đối đầu

Sau trận chiến cầu Lodi, toàn bộ vùng Lombardi rơi vào tay quân Pháp. Thừa thắng xông lên, Napoleon xua quân tiến về miền nam nước Ý. Dưới trí tuệ và tài cầm quân của ông, các thành trì lớn nhỏ bắt đầu đổi chủ. Bắt đầu từ Boghetto đến Mantua, Lonato, Castiglione, Roveveto, Bassano, Calliano. Một chuỗi dài chiến thắng nữa kết thúc vào ngày 23 tháng 3 năm 1797 ở Tarvisio đã chứng tỏ tài năng quân sự của vị Tổng tài trẻ tuổi Napoleon Bonaparte. Chỉ một lần duy nhất quân Pháp phải nếm mùi thất bại, đó là trận chiến tại Caldiero ngày 12 tháng 11 năm 1796.

Trong suốt thời gian này, Cảnh luôn sát cánh cùng Đại tá Jean Lannes. Trong báo cáo của mình gửi Napoleon, Lannes đã viết:

“Quả thật không thể tin được trí tuệ và bản lĩnh của những người xứ Đông Dương như cậu sĩ quan trẻ này. Đã rất nhiều lần cậu ta đưa ra những chiến lược tấn công không giống ai nhưng lại cực kỳ hiệu quả. Ngài còn nhớ lần bị vây hãm ở Thị trấn Arcole? Lần đó nếu không có kế hoạch đưa một nhóm lặng lẽ qua cầu trong đêm, bố trí mai phục, đánh tập hậu quân Áo thì tôi cũng không thể liều mạng cứu Ngài thoát khỏi vòng vây.

Một người còn quá trẻ tuổi mà đã quá tài giỏi như vậy huống gì những vị tướng quân của họ ở Đông Dương. Người như Trung úy Cảnh cần được trọng dụng. Tôi đề nghị phong hàm vượt cấp từ Trung Úy lên Thiếu Tá như tôi đã từng từ hàm Đại úy lên Đại tá ba năm trước đây. Việc giúp đỡ đất nước của cậu ta, tôi nghĩ cũng nên làm. Như thế, chúng ta sẽ có một đồng minh chống lại sự bành trướng của Anh ở Châu Á mà theo tôi được biết, họ đã vào miền Bắc Đông Dương, vùng An Nam. Tuy nhiên, chúng ta có thể ràng buộc bằng cách yêu cầu Trung úy Cảnh phải phục vụ cho quân đội Pháp ít nhất ba năm”.
Vậy là, những cố gắng không mệt mỏi của Cảnh đã được đền đáp. Ngày 2 tháng 9 năm 1796, trước khi trận đại chiến thành Calliano nổ ra, Cảnh được phong hàm Thiếu tá cùng với lời hứa sẽ giúp đỡ nhà Nguyễn từ chính vị Tổng tài hai mươi sáu tuổi này của Pháp. Điều kiện là cậu phải phục vụ quân đội Pháp cho đến năm 1800 cũng như nhà Nguyễn phải dành cho Pháp một số ưu tiên nhất định.

Ngày 18 tháng 4 năm 1797, trong lều chỉ huy của quân đội Pháp ở thượng nguồn sông Rhine.

Hôm nay, tại đây có một cuộc họp của ủy ban tác chiến. Tham dự cuộc họp, có các tướng lãnh kỳ cựu như tướng Jean Victor Marie Moreau - Tổng chỉ huy, Tướng Duhesme - chỉ huy bán lữ đoàn 76, tướng Vandamme - chỉ huy bán lữ đoàn 100, tướng Davoust - chỉ huy bán lữ đoàn 31 cùng các sĩ quan khác. Ngoài ra, còn có mặt một thiếu tá rất trẻ tuổi, Thiếu tá Cảnh.

Tại sao Cảnh có mặt ở đây? Thì ra gần một tháng trước, cậu được Napoleon phái đến đây. Nhiệm vụ của cậu rất đơn giản, báo cho tướng Moreau tin thắng lợi ở nước Ý. Đồng thời dặn ông nếu có thể kiểm soát được sông Rhine trước ngày 15 tháng 4 thì cứ thực hiện, nếu không thì cứ áng binh bất động, chờ hiệp định sơ bộ Leoben ký kết mới hành động tiếp.

- Trận đánh Neuwide chúng ta thắng lợi lớn quá - Vandamme tỏ ra khá hào hứng khi vừa bắt đầu họp.

- Ha... Ha... Sẽ thắng lớn hơn nếu chúng ta bắt được Werneck - Duhesme tạt ông một gáo nước lạnh. - Nếu không có sự xuất hiện của Trung đoàn South Esset thì y đã xong rồi.

- Nghe nói chỉ huy Trung đoàn này là một người An Nam, tên là Thiếu tá Jack.

Nhìn về phía Cảnh, ông ta hỏi tiếp với vẻ mặt khinh khỉnh:

- Đó là đất nước của Ngài, Thiếu tá có biết người này không?

Cảnh từ tốn trả lời:

- Người này là ai, tôi cũng chỉ khẳng định khoảng bảy phần mười thôi. Dạo trước, Nguỵ quốc phái một đoàn ba trăm người sang Anh quốc du học, dẫn đầu là Chinh tây Vương Bàn Nguyễn. Có thể một trong số chúng lấy tên tiếng Anh là Jack.

- Vậy thì - tướng Moreau lúc này mới lên tiếng - chắc đó chính là vị Thân vương kia rồi. Thiếu tá biết gì về con người này?

- Nếu là người khác thì không cần phải lo lắng, còn nếu là y thì rắc rối lớn đây.

- Có gì mà rắc rối? - Vandamme vẫn nói với giọng điệu khinh thường - Người Đông Dương, ngoài Thiếu tá là người đã được kiểm chứng với những chiến thuật và chiến công không thể chối cãi, tôi không tin có ai gây khó dễ được cho chúng ta.

- Tướng quân lầm rồi. Y là con thứ hai của Nguỵ đế. Lúc tôi mới chín tuổi, y đã xông pha chiến trường rồi và cũng nổi danh là vị tướng bách thắng. Mười lăm tuổi y đã được cầm quân, tham gia đánh tan nát quân Xiêm.

Dừng lại quan sát những người xung quanh, Cảnh nói tiếp.

- Tôi giỏi một, y còn gấp hai, ba lần tôi. Các Ngài thử nghĩ, nếu là mình, các Ngài có nghĩ ra cách bắn hạ khinh khí cầu không? Nếu là một chiếc thì còn có thể cho là may mắn, đằng này lại tới ba chiếc. Chưa hết, trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các Ngài có đủ tỉnh táo cho quân rút đi, để lại một nhóm nhỏ chặn đường, hủy đại bác, hủy cầu hay không?

Mọi người trong phòng rơi vào trầm mặc. Câu chất vấn của Cảnh quá đúng, nếu đổi Bàn là họ, chắc gì họ làm được như chàng Thiếu tá trẻ kia.

- Thế thì theo Thiếu tá, chúng ta phải làm gì đây? - Tướng Duhesme hỏi.

- Hiện thời, Tổng tài đang tiến hành đàn phán với Áo ở Leoben, giờ này chắc cũng xong rồi. Theo đó, chúng ta sẽ lấy sông Rhine làm ranh giới tạm thời. Vậy nếu chúng ta tiếp tục đánh cũng chẳng để làm gì. Cứ thủ chắc ở đây thôi.

- Hừ! - Moreau đập bàn nói - Bonaparte chỉ là một thằng lõi con. Y chỉ muốn tranh công thôi. Y sợ chúng ta nổi trội so với y.

- Đúng vậy - Vandamme ủng hộ. - Chưa đầu ba mươi đã được phong làm tướng. Trẻ con háo thắng, muốn tranh công thôi. Chúng ta cứ tiếp tục đánh. Dù là hiệp ước được ký kết, chúng ta cũng làm quân Áo không thể gượng dậy nổi trong thời gian ngắn.

- Thiếu tá nếu e ngại thì cứ đứng ngoài - tướng Duhesme tiếp lời. - Vả lại, Ngài là người của Bonaparte nên không cần tham gia cùng chúng ta.

- Đúng vậy, Thiếu tá cứ đứng ngoài. Tôi nghĩ Ngài có thể về nghỉ ngơi được rồi. - Moreau lại thẳng thừng hơn.

Không chờ đến lúc phải bị mời đi lần thứ hai, Cảnh bước nhanh ra ngoài. Cậu vừa đi, vừa lắc đầu ngao ngán. "Hoá ra nội bộ tướng lĩnh Pháp chia rẽ sâu sắc như vậy. Hừ các người không nghe ta thì chết cũng đừng có hối".

Ngày 20, Moreau chia binh hai đường tiến đánh quân Áo ở làng Diershem nơi tướng Latour của Áo trấn thủ. Cánh quân thứ nhất do tướng Davoust chỉ huy đổ bộ lên đảo Stein-Werth. Cánh thứ hai do Vandamme và Duhesme xuôi theo nhánh sông Ill đổ về sông Rhine, dự tính tấn công trực diện.

Lại nói về Bàn, sau khi yểm trợ quân Áo ở Neuwide, anh nhanh chóng hội quân với tướng Latour ở thượng nguồn sông Rhine. Nơi đây, anh được đối xử như một anh hùng.

Vốn là một chiến tướng am hiểu binh pháp, anh quá hiểu câu "biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng". Bởi vậy, Bàn chưa từng lơi lỏng động tĩnh của đối phương. Sáng ngày mười chín, thám tử báo về, có một đoàn thuyền chiến của Pháp đang tập trung ở nhánh sông Ill và có những động thái muốn xuôi đong đánh xuống.

Nói một chút về song Ill. Đây là một nhánh sông khá rộng nhưng lại nông, chỉ những thuyền nhẹ mới qua được dễ dàng. Phía thượng nguồn sông, ít nhất có hai đập nước thủy lợi khá lớn.

Nhận được tin báo, Bàn tức tốc đến gặp tướng Latour.

- Theo thám báo, - Bàn nói. - Quân Pháp có ít nhất bốn mươi tám nghìn, ta chỉ có hai mươi bốn nghìn, khó bảo toàn.

- Theo tôi thấy chúng có khả năng chia hai hướng tấn công.

Latour ra chiều suy t.ư rồi chỉ lên sa bàn, bắt đầu phân tích.

- Địch ngoài đường thủy, chắc sẽ có thêm một toán quân khác tấn công theo ngã đảo Stein-Werth. Nếu địch chỉ đi một đường thì ta còn có thể chống lại, đằng này...

- Tướng quân - Bàn trấn an, tôi có cách này khiến chúng chỉ có đi không về.

- Cách nào? - Latour lộ rõ vẻ vui mừng.

Bàn nói:

- Chúng ta sẽ dùng cách mà tổ tiên chúng tôi diệt sạch thủy quân phương Bắc trên sông Bạch Đằng để chống lại nhánh thủy quân, tôi sẽ giúp Ngài bố trí. Còn nữa, ta sẽ chọn những điểm cao gần đảo, sau đó lập hai trận địa pháo, dùng loại đạn mới của chúng tôi mà cho chúng tan tành.

- Hay lắm. Thật Ngài cũng có thể xem là thiên tài quân sự.

- Ngài hãy nhớ, đây là chiến công của mình. Trung đoàn South Esset sẽ đứng ngoài. Lý do thì sau này Ngài sẽ hiểu. Còn nữa, tôi không muốn bị chú ý.

- Tôi hiểu, nhưng Trung đoàn của Ngài phải giúp tôi bố trí.

Cả hai bắt đầu chia nhau hành động, Latour lo bố trí trận địa pháo gần hòn đảo. Phần Bàn, anh chỉ huy binh sĩ chặt cây, vót nhọn đầu và trồng dưới đáy sông, nơi Ill đổ vào sông Rhine. Chưa hết, Bàn còn cho người nấp sẵn ở hai con đập nơi thượng du sông Ill. Đập được mở ra hết cỡ, đến lúc quân Pháp chính thức chuyển quân mới đóng tất cả cửa đập làm mực nước dần hạ thấp.

Đúng như dự đoán, sáng sớm ngày hai mươi, bốn mươi chiếc chiến thuyền mang cờ Pháp xuất phát. Theo như dặn đo của Bàn, cửa đập bắt đầu đóng lại một cách chậm rãi, mãi đến bảy giờ sáng mới đóng hoàn toàn.

Đoàn thuyền khi đến cửa sông lập tức phải đối mặt với rừng chông đay đặc. Đúng lúc này, các họng pháo trên bờ khai hỏa. Lửa đỏ bắt đầu bao trùm cả đoàn thuyền. Chưa hết, đúng lúc này, quân Áo lại mở hết cỡ các cửa đập. Đong sông Ill lúc này nổi lên từng con sóng dữ, xô đẩy, dồn các chiến thuyền va vào nhau.

Lúc này, quân Pháp khổ không thể tả. Phía sau là sóng dữ, bên dưới là rừng chông, trên đầu là lửa đỏ ngợp trời.

Phía bên kia, tướng Davoust cũng không khá hơn là bao. Vừa đặt chân lên đảo, tiếp đón đoàn quân của ông là hàng loạt những quả đại bác bắn tới tấp.

Tại đại bản doanh của Pháp, Moreau đứng ngồi không yên. Ông đi đi lại lại, chốc chốc lại than "Ôi! Lạy Chúa! Phải làm sao đây?"

Đúng lúc này, Cảnh bước vào. Moreau cười chua xót:

- Ngài đến để mỉa mai tôi đúng không, Thiếu tá?

- Ngài nghĩ đi đâu vậy? Tôi cũng đang nóng lòng cùng Ngài đây.

- Ôi! Phải chi lúc đầu tôi nghe lời Ngài thì đâu đến nỗi.

- Tôi đã xác định đúng người kia là Vương gia Nguỵ quốc rồi. Đây là mưu kế của tổ tiên tôi năm xưa. Cái chính bây giờ là làm sao cứu vãn. Tôi sẽ dẫn theo một tiểu đoàn kỵ binh vượt sông Rhine theo hướng chính diện đánh vào Diersheim. Địch phải lui về cứu viện. Đây là kế "vây ngụy cứu triệu".

- Ôi! Thế thì còn gì bằng. Tất cả nhờ Ngài.

Cảnh lập tức thi hành kế sách của mình. Cậu dẫn theo bảy trăm kỵ binh, tức tốc chạy về cầu Diersheim. Chẳng mấy chốc mà đã đến nơi.

Quang cảnh trước mắt làm Cảnh hơi nghi ngờ: Làng Diersheim không có người phòng thủ. "Lẽ nào đây là kế không thành?" Cậu nghĩ. "Thôi, nếu là kế không thành thì vào làng mới đáng sợ. Mình chỉ qua cầu xong đánh thốc lên cũng được".

Khi những người đầu tiên đi đến giữa cầu. Chợt hai bên vang lên tiếng gầm của đại bác. Thì ra Bàn đã đoán biết trước, với mười hai khẩu súng lớn mà South Esset mang theo, anh chia làm hai bên đầu cầu phía hữu ngạn sông Rhine.

Cùng lúc này, hơn ba trăm kỵ binh của Trung đoàn South Esset vốn đã vượt cầu từ sớm, ẩn mình đi, lúc này chợt lộ diện tập hậu. Với ưu thế hỏa lực của loại súng mới, đoàn kỵ binh của Anh đu quân số ít hơn vẫn dễ dàng áp đảo.

Cầu đã gãy, quân Pháp cùng Hoàng tử Cảnh cuống cuồng mở đường máu lui binh. Cuối cùng, Cảnh cũng thoát ra được với quân số còn chưa đến hai trăm.

Trở lại chiến trường chính. Cuối cùng, trận đánh cũng kết thúc luc giữa trưa với phần thắng hoàn toàn nghiêng về Áo. Pháp mất bốn mươi chiến thuyền cùng với mười tám nghìn binh sĩ.

Đây cũng là lần đối chiến đầu tiên giữa Bàn và Cảnh trên đất Châu Âu. Tuy chưa là chính thức vì sự gặp mặt vô tình nhưng nó cũng đánh dấu cho sự bắt đầu của cuộc tranh đấu giữa hai người nhân tài đất Việt ở trời Tây.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu
Chương 35: Nhóm du học sinh thứ hai
Chương 35: Nhóm du học sinh thứ hai​

Trở về từ vùng sông Rhine, Bàn trong mắt người Anh Cát Lợi không còn là anh chàng quê mùa ở một xứ nhược tiểu nữa. Anh giờ đây là một người hùng mới nổi. Chia tay Trung đoàn South Esset, Bàn quay về Quân trường Hoàng gia cùng ba mươi sáu pháo thủ của Trung đội pháo binh số mười ba.

Ngày tiếp đón những người lính ưu tú mới từ chiến trường cả Quân trường như trong ngày hội. Khắp nơi đầy ắp những tiếng cười, lời ca tiếng hát cũng vang lên khắp nơi. Song, vui nhất có lẽ phải kể đến là Trung đội số mười ba. Chỉ huy của họ đã phá đi cái dớp “chết yểu”; chưa hết nha, Bàn còn lập nên một kỷ lục, Trung đoàn South Esset không hề mất một binh một tốt nào, vậy thì không cần phải nói đến những chàng trai pháo binh đi theo rồi.

Vui thì đồng ý là Trung đội kia vui rồi, nhưng nếu nói là hãnh diện thì… ai mà qua mặt được Đại úy John Smith. Giờ đây quân hàm của ông ta thấp hơn Bàn một bậc. Ấy thế mà đi đâu, gặp ai, ông cũng ưỡn ngực mà nói: “Cậu ta là học trò của tôi đấy nhé. Trò mà hơn thầy chứng tỏ thầy phải rất giỏi, ha… ha… ha…”. Mà đúng thật nha, ông chính là người đầu tiên dẫn dắt Bàn vào “nghề” pháo binh. Cho đến hiện tại, nếu so về căn góc bắn, Bàn cũng vẫn chỉ xứng đáng là học trò của ông.

Cuộc sống với Bàn giờ đây thật đẹp nhưng… cũng thật vất vả. Mỗi ngày, ngoài giờ tập luyện cùng trung đội buổi sáng, anh còn phải lên “giáo án” về phương pháp “hợp đồng tác chiến giữa các binh chủng” nữa, đây là mệnh lệnh của Đại tá Arthur Wellesley. Tại sao Arthur lại có cái “mệnh lệnh” kỳ khôi thế? Anh cũng sắp được phong hàm tướng rồi, nếu nói về nghệ thuật chiến tranh, lẽ ra anh phải còn giỏi hơn Bàn.

Số là thế này. Trong một ngày cuối tuần, Arthur đến thăm trại tập trung của Trung đoàn South Esset, Bàn không đi theo nhé, lý do thì ai cũng hiểu rồi. Đây là Trung đoàn t.ư nhân đầu tiên một tay ông gầy dựng, nơi tập hợp những con người cùng khổ nhưng cuộc sống lại chan hòa tình thân ái. Arthur muốn nghe binh sĩ đánh giá thế nào về chỉ huy mới của mình. Câu trả lời, thật ngạc nhiên, chỉ có một chữ, “thiên tài”. Họ ca ngợi Bàn đủ điều, từ t.ư duy chiến thuật, cách hành quân, đến cả việc đối xử với binh sĩ như anh em. Họ cũng kể về sự bố trí đội hình của vị Thiếu tá trẻ tuổi ở hai trận chiến, nhất là ở Diersheim.

Về phần Bàn, tuy rằng khối lượng công việc mỗi ngày một lớn lên và cũng có quá nhiều áp lực. Tuy nhiên, anh cũng không hề nề hà hay ca cẩm lấy một câu. Bởi lẽ, đi cùng với áp lực mỗi ngày một lớn chính là uy tín của anh càng ngày càng cao. Chính lúc anh mệt nhọc nhất, cảm thấy rã rời nhất, những lá thư với lời lẽ ngọt ngào đến từ nàng Sophia xinh đẹp lại làm Bàn như có thêm sức sống mới.

Ông bà ta ngày xưa có một câu nói đố mà sai được: “Cây kim trong bọc thể nào cũng có ngày lòi ra”. Chuyện tình yêu giữa chàng Vương gia nước Đại Việt và cô Công chúa xứ sương mù cuối cùng cũng đến tai nhà vua. George III tỏ ra khá giận dữ. Ông lập tức cho người “lôi” Bàn đến để “hỏi tội” vì dám yêu con gái ông. Những biểu hiện của ông còn làm cả Thái tử Augustus lo sợ, e rằng mối bang giao giữa hai nước sẽ tan thành mây khói theo tình yêu này mất thôi.

Ngược lại với lo lắng của mọi người, Bàn đến điện Buckingham với niềm hy vọng và tự tin. Qua tiếp xúc với những người con của Hoàng gia, Bàn biết được George III là người “ngoài lạnh, trong ấm”. Vậy thì biết đâu, việc cũng sẽ không đến nỗi tệ như mọi người nghĩ.

Nói bên lề một chút. Theo các sử gia ghi chép lại, George III là một vị “vua điên”. Ông có thể đánh mất lý trí bất cứ lúc nào, sẵn sàng xử tử hình một người bất cứ lúc nào dù họ có tội hay không. Nhưng cũng phải nói thêm, thật ra, việc ông phát điên chỉ xảy ra sau năm 1802 mà thôi. Đối với sự kiện ngày hôm nay, nói cho đúng thì không phải là đến lúc này ông mới phát hiện ra. Ông là một người rất tinh ý, nếu như ông không thấy được điều bất thường ở đêm dạ vũ nọ thì liệu rằng tước vị Hiệp sĩ sẽ đến tay Bàn được chắc. Trong tâm ông cũng có phần nào ủng hộ việc này, có điều không thể ra mặt và cũng chưa phải lúc. Ông muốn nước Anh có lợi ích lớn nhất, Chính trị mà.

Quay lại cuộc triệu kiến ở điện Buckingham. George III thấy được vẻ tự tin và ung dung của Bàn thì cảm thấy ưng ý lắm. “Quả là người có bản lĩnh, Sophia gả cho cậu trai trẻ này cũng không có gì là không tốt”, ông nghĩ.

- Thiếu tá Jack, – Geoger III hét lên. – Ngài thật cả gan khi dám yêu con gái của ta. Ngài có biết tội của mình không?

- Quốc vương Bệ hạ, – Bàn từ tốn trả lời. – Ngài là một vị vua anh minh. Chắc Ngài cũng hiểu, tình yêu không có tội, có điều, quan trọng là tình yêu đó đến lúc nào, trong hoàn cảnh nào, với mục địch tốt đẹp hay xấu xa.

Bàn trước hết nâng George III lên đến tận mây xanh, đoạn nói tiếp:

- Nhưng với tình yêu của tôi dành cho Sophia thì đó là một tình yêu vô vị lợi và chân thành nhất thế gian. Nếu như nói tôi yêu nàng vì nàng là công chúa thì tôi quả là thằng hèn nhất thế gian. Đằng này, tôi yêu nàng trước khi biết nàng là ai.

- Nói vậy, – giọng của nhà vua có vẻ dịu xuống – Ngài đã gặp và yêu con bé khi nào?

- Đêm dạ vũ Giáng sinh hai năm trước. Ngài không biết đâu, lúc đó, tôi vì mặc cảm về chiều cao của mình mà không dám mời ai nhảy cùng. Nhưng khi nhìn thấy nàng, tuy rằng không biết mặt, nhưng đôi mắt của nàng đã chấn nhiếp tâm hồn tôi. Cũng không hiểu tôi lấy đâu ra can đảm mà đến bắt chuyện với nàng. Tôi yêu nàng từ ngày ấy dù chưa hề biết nàng là ai.

- Thế nhưng, chồng của con gái ta không thể là hạng người vô danh. Dù Ngài gần đây khá có danh tiếng, nhưng bấy nhiêu chưa đủ.

- Tôi hiểu. Thế thì, nếu nói rằng tôi có cách giúp Bệ hạ kiểm soát được Vương triều Mysore ở miền Đông Nam Ấn thì đó có phải là lễ vật khiến Ngài vừa ý hay không?

Nói ra điều này, Bàn cảm thấy hơi run. Anh quả là quá to gan rồi. Cho dù nhà vua có đồng ý thì các tướng lĩnh cũng làm gì mà cho phép Bàn tung hoành. Vả lại, Vương triều thần bí này, anh cũng chỉ biết đôi nét.

- Ngài nói Ngài có cách hạ Mysore à?

- Cách thì có, nhưng chi tiết thế nào thì phải nhìn thấy thực địa mới quyết định được. Tôi cũng biết, Bệ hạ có dự tính cử Đại tá Arthur Wellesley đi Ấn Độ. Tôi cũng muốn đi cùng. Có thể cách của tôi không là hay nhất, nhưng ít nhiều cũng giúp Đại tá có thêm sự lựa chọn.

- Được rồi, – George III biết Bàn đã mắc câu rồi. Bằng mọi giá, anh cũng sẽ liều mạng vì nước Anh – ta dù muốn con rể mình là người có thực tài nhưng cũng không muốn y là một cái xác. Chỉ cần Ngài giữ được tính mạng trở về; đồng thời, chưa cần nói đến thắng bại, chỉ cần các tướng tham gia cuộc chiến đánh giá cao, ta sẽ đồng ý.

“Quá tốt rồi, không ngờ lại đơn giản như vậy. Ây da, khoan đã nào, nói vậy không lẽ tình yêu của ta sẽ bị định đoạt bởi các tướng kia sao? Vậy thì phải dùng kế ‘đi cửa sau’ rồi”. Bàn nghĩ thầm trong dạ.

Sự việc đã được định đoạt. Với Bàn thì không cần nói thêm nữa. Nhưng về vua George III thì khác. Ông đã ràng buộc lợi ích của Bàn vào nước Anh rồi. Nếu như anh thuận lợi vượt qua thì quá tốt, nếu không, ông cũng sẽ “mở” một đường gọi là cho cơ hội sau cùng. Đó là độc quyền về công nghệ chế tạo súng mà Đại Việt đang nắm giữ. Lẽ dĩ nhiên, ông sẽ không cấm Đại Việt phát minh cho chính mình dùng, chỉ là nếu muốn bàn cho nước nào, Đại Việt phải hỏi ý kiến của nước Anh.

Ngày 2 tháng 9 năm 1798, London.

Hôm nay, thủ đô nước Anh đón chào những vị khách mới. Họ đến từ một chiến thuyền mang tên Quang Trung. Đây là chiến thuyền đến từ Đại Việt, nhà Tây Sơn. Nó không mang dáng dấp của một chiến thuyền kiểu mẫu của Anh Cát Lơi. Đây là một chiến thuyền kiểu mới chăng? Không đâu, về hình dáng bên ngoài, nó chính là một chiếc Định Quốc.

Ngạc nhiên chưa? Định Quốc có thể vượt biển đó nha. Về cơ bản, các loại chiến thuyền trước đó của Đại Việt không có khả năng vượt đại dương. Vì hai lý do: hệ thống buồm và đáy thuyền.

Nói về buồm thì khỏi cần phải bàn, với loại buồm cũ của Châu Á, tốc độ của thuyền không thể nhanh được, chưa hết, nó làm thuyền đi theo đường zigzac với biên độ lớn. Từ ngày nhìn thấy chiếc “Người khai sáng”, thợ thuyền của Đại Việt đã dày công nghiên cứu và phát hiện ra tính năng đặc biệt của loại buồm trên chiến thuyền của Anh Cát Lợi. Từ đó, Toản yêu cầu thay đổi tất cả các loại buồm này và sử dụng hình mẫu của Anh Cát Lợi.

Về đáy thuyền. Tất cả các chiến thuyền ở phương Đông đều là đáy bằng. Điều này giúp thuyền dễ nổi hơn thật, nhưng nó cũng có nhược điểm chí mạng. Đó chính là làm tải trọng của thuyền không thể nâng cao, quan trọng nhất là độ ổn định không cao. Những “nghiên cứu” của bản thân Toản và công nghệ đóng tàu mà Anh Cát Lợi chuyển giao cho thấy một điều. Phải thay đổi sang dạng đáy nhọn như chiến thuyền của Anh Cát Lợi. Cuối cùng, Toản ra lệnh cải tạo toàn bộ số thuyền chiến hiện có, đặc biệt ưu tiên cho Định Quốc. Có điều, dù chiến thuyền Anh Cát Lợi được xem là đáy nhọn nhưng vẫn có hình dáng bầu bầu. Bàn lại khác, cậu yêu cầu đáy thuyền phải “nhọn” thật sự, điều này làm tăng tính ổn định của thuyền.

Kết quả là Đại Việt đã cải tạo thành công bảy chiếc Định Quốc hiện có và tiếp tục đóng thêm năm chiếc khác nhưng kích thước lớn hơn, tải trọng cũng lớn hơn. Và đương nhiên là, số lượng đại bác cũng nhiều hơn, là một trăm lẻ bốn khẩu. Việc này lẽ dĩ nhiên sẽ tốn rất nhiều thời gian, nhưng Toản cho huy động trên hai nghìn người chỉ lo cho việc đóng năm chiến thuyền này và thực hiện song song. Theo dự kiến, có lẽ hơn hai năm nữa để hoàn thành, tức là phải tốn thời gian năm năm tính từ năm 1796.

Quay lại với đoàn người, số lượng lần này cũng là ba trăm, dẫn đầu là Phan Huy Ích, đương nhiên, vì ông là người duy nhất ở Đại Việt đặt chân đến xứ sở sương mù năm đó và trở về. Điều bất ngờ là có sự hiện diện của hai người: Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết và Bắc định Vương Nguyễn Quang Thùy. Sự có mặt của Thùy không có gì là khó hiểu với lý do là đi thăm em. Còn Tuyết thì sao?

Số là ngày đoàn thuyền chở Quang Bàn khỏi hành cũng là lúc Phủ Đô đốc oanh động. Tiểu thư Nguyễn Thị Ngọc Sương mất tích. Cô đã đi đâu? Chính vì điều này mà suốt thời gian gần hai năm trời Đô đốc Tuyết bị vợ mắng nhiếc thậm tệ. Cũng may, vài ngày sau khi đoàn thuyền ra khơi, người hầu gái mang đến hai vợ chồng ông lá thư của Ngọc Sương. Trong đó, cô viết mình muốn đi cùng đoàn người và đã cải nam trang lên đường. Sự việc này chỉ có Phan Huy Ích là biết nhưng ông giấu nhẹm, chỉ đến khi quay về mới nói lại để trấn an vợ chồng ông bạn già.

Lần này, Đô đốc Tuyết nhất định phải đi cho bằng được. Ông ta lấy lý do là đi tìm con gái. Nhưng khỏi nói thì ai cũng hiểu, ông muốn “trốn” con cọp già nhà mình. Cuối cùng ông cũng toại nguyện khi nhìn thấy cô con gái rượu. Sau một hồi la mắng lấy lệ, ông lại bắt Ngọc Sương kể lại chuyến hành trình và học tập của mình.

Sáng hôm sau, Phan Huy Ích dẫn theo hai người cùng với sự có mặt của Bàn đến điện Buckingham. Nhìn cảnh vật ven đường, Thùy và Tuyết liên tục xuýt xoa. Mọi thứ có vẻ quá mới mẻ trong mắt họ. Ngay cả con đường dưới chân cũng được lát đá bằng phẳng. Vào trong điện, Phan Huy Ích hành lễ xã giao và nói:

- Sứ bộ ngoại giao Đại Việt xin chào Quốc vương Bệ hạ.

- Ồ! Ngài Phan, cũng khá lâu rồi chúng ta chưa gặp nhỉ – George III nói. – Ngài có khỏe không? Và có thể giới thiệu cho chúng tôi hai vị bên cạnh không?

- Tôi khỏe. Cho phép tôi giới thiệu, đây là Bắc Định Vương William Nguyễn và Đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, vị tướng quân cao cấp nhất của chúng tôi.

George III nghe vậy liền vồn vã ra mặt. Ông ta cùng Thùy và Tuyết nói mấy lời khách sáo đại loại như “Rất hân hạnh được biết Ngài”. Sau đó, ông hỏi Ích vì biết dù sao thì trưởng phái đoàn cũng chính là vị này.

- Ngài Phan. Chắc là Ngài đến đây không phải chỉ là chuyến thăm thông thường chứ?

- Đương nhiên. Chúng tôi có hai mục đích. Thứ nhất là xem xét quá trình học tập của những du học sinh lần trước cùng với Vương gia Jack của chúng tôi. Thứ hai…

Ích dừng lại rồi nói tiếp:

- Chúng tôi muốn Ngài tiếp nhận nhóm du học sinh thứ hai, số lượng là ba trăm , cả nam lẫn nữ.

- Ồ! Thế à? Nhóm du học sinh lần trước là theo thỏa thuận của chúng ta, không cần nói làm gì. Nhưng còn nhóm thứ hai, các Ngài cũng nên bỏ ra một chút gì đó gọi là “học phí” chứ. Các Giáo sư của chúng tôi cũng phải kiếm sống. – George III nói rất nhẹ nhàng, pha vào đó là một chút hài hước.

- Đương nhiên, chúng ta dù kết minh hữu nhưng không có nghĩa bên nào cho không bên nào thứ gì. Chúng tôi có đem “học phí” đến.

- Ha… ha… ha… Đại Việt các Ngài quả là biết cách ngoại giao. Được rồi, thế “học phí” các Ngài mang theo là gì?

- Muốn xem “học phí” này, tôi xin mượn của Bệ hạ một bãi luyện quân, nếu như không lầm thì các Ngài gọi đó là Quân trường nhỉ.

George III dĩ nhiên không có lý do gì để phản đối. Ông sai người chuẩn bị xe, đưa mình và phái đoàn đến Quân trường Hoàng gia. Trên đường đi, ông nhiều lần nhìn ngắm và đánh giá hai vị tướng, một già một trẻ của Đại Việt. George III hỏi Augustus có nhận xét thế nào về hai người này. Câu trả lời làm ông vô cùng ngạc nhiên, đó là: “Giỏi gấp mấy lần so với Thiếu tá Jack về quân sự nhưng lại kém hơn nhiều về ngoại giao”.

Cuối cùng cũng đến Quân trường, Phan Huy Ích lấy ra một chiếc hộp hình chữ nhật với chiều dài khoảng một mét và mở ra:

- Đây chính là học phí.

- Một cây súng à? – George III hỏi nhanh.

- Không phải một, mà là mười nghìn.

- Uy lực của nó thế nào thì thỉnh Vương gia nói cho Bệ hạ cùng các vị ở đây được rõ. Vì đây chính là phát minh của Ngài. – Ích quay sang nói với Thùy.

Nhà phát minh của chúng ta gật đầu rồi bắt đầu nói về công năng của súng. Nhưng trước hết, anh phải cho mọi người chứng kiến uy lực của súng cái đã. Thùy nhờ người Anh Cát Lợi chuẩn bị cho mình một bia bắn. Khoảng cách đặt bia là … tám trăm mét.

Đoành… Tiếng súng nổ vang. Mọi người chợt há hốc khi nhìn thấy viên đạn tuy lệch khá xa so với hồng tâm nhưng có thể xem là trúng đích. Đây tuyệt đối là điều không thể làm được với các loại súng hiện tại. Chưa cần tính đến độ chính xác, chỉ nói đến tầm xa của viên đạn đã đủ để làm mọi người thất kinh rồi. Đằng này, Thùy còn bắn trúng bia.

Chờ mọi người bình tâm lại, Thùy bắt đầu giới thiệu về cây súng. Đây là một khẩu súng với hai nòng, chiều dài không khác gì khẩu Điểu thương cải tiến lần thứ hai. Cả kích thước viên đạn cũng thế. Có điều, lượng thuốc súng được nhồi vào nhiều hơn một ít. Súng cũng có hai “con thỏ” nhưng chỉ có một cò súng duy nhất với hai nấc bấm. Khi nạp đạn, người bắn chỉ cần bẻ gập nòng súng xuống và bỏ đạn vào phần cuối nòng, sau đó bẻ thẳng này. Mẫu súng này so ra có vẻ tương t.ư như các loại súng săn xuất hiện sau đó khoảng ba mươi năm. Đoạn, người bắn chỉ cần mở chốt hai “con thỏ”, kéo cò với hai nấc, mỗi nấc tương ứng với việc một “con thỏ” đập vào hạt nổ.

- Trong quá trình nghiên cứu, tôi chợt nhớ đến điều này – Thùy nói. – Trước đây, em tôi, tức là vua David I có nói, uy lực của viên đạn ngoài lượng thuốc súng ra thì áp suất đóng vai trò then chốt. Trong lúc vô tình, một người thợ khi đúc nòng đã vô tình làm sản phẩm bị xoắn lại. Song, nếu không quan sát kỹ sẽ khó thấy được. Chính tôi là người phát hiện ra điều này. Tôi liền bắn thử và kết quả là nòng súng bị nứt ra, đương nhiên thôi. Tuy vậy, tôi nhận ra một điều, viên đạn có vẻ bay xa hơn và đường đạn cũng ổn hơn. Tôi đem điều này đi thỉnh giáo vài vị Giáo sư mà các Ngài đã hào phóng phái đến cùng với Thượng thư Vũ Huy Tấn. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện ra, chính những rãnh xoắn đã làm nên tất cả. Từ đó, chúng tôi đã đúc nòng với hai lớp, lớp thứ nhất có những rãnh xoắn theo y như khuôn mẫu. Lớp thứ hai là một ống thép trơn, bao phủ vừa khít với ống xoắn.

- Ra là thế – Đại tá Arthur đứng gần đó chợt lên tiếng, ông là người rất biết nhìn hàng. – Nhưng tôi có một thắc mắc. Dù là uy lực, tầm xa và độ ổn định đường đạn có tăng lên, nhưng Ngài cũng không thể bắn trúng đích ở khoảng cách như vậy.

- Câu hỏi của Ngài rất hay. Nói đến đây, chúng tôi phải cám ơn một vị Giáo sư của các Ngài, Giáo sư Benjamin Robins. Chính ông ấy phát minh ra một thứ gọi là “thước ngắm và đầu ruồi”. Chúng tôi đã áp dụng ngay như các Ngài thấy đấy.

Nói đoạn, Thùy chỉ cho mọi người bộ phận gọi là thước ngắm và đầu ruồi ấy. Sau đó, chính Arthur đứng lên thử súng. Kết quả, anh bắn còn chính xác hơn Thùy khi đạn chỉ lệch hồng tâm một khoảng cách nhỏ hơn. Anh tỏ ra rất thích thú. Hơn nữa, một lần nạp đạn có thể bắn được hai viên nữa chứ. Đây chính là ưu thế không thể chối cãi trên chiến trường.

Lúc này, George III lên tiếng:

- Chúng tôi rất hài lòng, Ngài Phan ạ. Và tôi cũng phải ngã mũ thán phục sự thông minh của Ngài Thân vương William đây.

- Không có gì, thưa Bệ Hạ – Ích khiêm tốn đáp lời.

Bất chợt, George III quay sang Bàn và nói một lời làm mọi người hết sức bất ngờ:

- Thiếu tá Jack. Không cần Ngài phải chứng minh gì nữa. Ta bằng lòng gả Sophia cho Ngài. Nhân dịp có anh Ngài ở đây, tuần sau, ta sẽ cho cả hai thực hiện lễ đính hôn.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu
Chương 36: Lễ đính hôn
Chương 36: Lễ đính hôn

- Này này chú ba, đính hôn là thế nào hả?

Trong toà nhà dành để tiếp đón đoàn sứ bộ và du học sinh Đại Việt, Nguyễn Quang Thuỳ túm lấy cổ áo ông em quý giá Quang Bàn của mình mà hỏi. Điệu bộ của anh tỏ ra vô cùng hùng hổ, thiếu điều như muốn xé xác cậu em.

- Nói đi chứ! Chú tính không nói gì sao?

- Em... Em... Anh hai à...

Bàn cứ ấp a ấp úng. Phải diễn tả diện mạo của anh thế nào cho đúng nhỉ. À, tóc tai thì bù xù, áo xống thì nhăn nhúm, xốc xếch vô cùng. Đây là hậu quả của mấy cái lắc mạnh của Thuỳ ấy mà. Nhìn Bàn lúc này, không ai có thể tin được đây chính là vị sĩ quan tài giỏi, người hùng của thành London. Người Anh Cát Lợi vốn sùng bái anh hùng, giả như chuyện này xảy ra dưới phố, dám người dân nhào vô mà xé xác Quang Thuỳ mất thôi.

Phần những người Đại Việt xung quanh thì có thái độ rất khác nhau. Phản Huy Ích thì lo lắng vô cùng, chẳng may hai vị Vương gia xảy ra xung đột thì nguy to. Trong khi đó, Đô đốc Tuyết lại tỏ ra bình thản, đôi lúc ông còn cười mỉm nữa. Thật trong bá quan, người hiểu rõ tính nết mấy anh em nhà vua thì ông nói mình thứ hai, không ai dám nhận thứ nhất. Ông dư biết Thuỳ chỉ ra vẻ thế thôi, anh muốn chọc ghẹo em mình.

- Lão Tuyết - Phan Huy Ích nói - lão không thấy lo lắng hay sao mà còn ở đó mà cười?

- Lo lắng? Tại sao tôi phải lo lắng? Y cưới vợ, vậy còn Ngọc Sương nhà tôi sao đây? Tôi chưa hỏi tội là may rồi.

Ích ngớ người ra khi nhận được câu trả lời này. Nào hay, có một người lại tỏ ra không vừa ý, đó chính là cô con gái rượu của ông:

- Cha! Ai bảo với cha là con có gì với Vương gia mà Ngài phải lo cho con?

- Ớ... Chẳng phải ngày xưa y tỏ tình với con à?

- Chuyện con nít mà cha. Với lại lúc này con chưa nghĩ tới chuyện chồng con.
Nói ra câu này, Ngọc Sương quả đã làm mọi người ngây ra như phỗng, kể cả hai anh em đương sự. Đừng đùa chứ, con gái mười bảy như cô mà chưa chịu tính đến chuyện chồng con thì có mà ở giá.

- Con muốn làm một bác sĩ - Ngọc Sương nói rất nghiêm túc. - Con phải học xong rồi mới tính tiếp. Vả lại, Vương gia không phải là đối tượng của con.

- Này này này cô bé - Bàn mặc đu đang bị hạch tội cũng nhịn không được mà xen vào. - Khôi ngô tuấn lãng, lại văn võ song toàn như tôi mà không phải đối tượng của cô à?

- Hi... Hi... Hi... Tuấn lãng cái nỗi gì? Có mà lãng xẹt ấy chứ. Chuyện anh với công chúa người ta thư từ qua lại mấy năm nay thì cả thành London này ai mà chẳng biết. Công khai cũng chat dám vậy mà còn ra vẻ.

- Nè, đừng đánh trống lãng chứ chú ba. Chú chưa trả lời anh đó - Thuỳ quay lại đề tài chính.

- Anh hai à. Em cũng không biết trước được đâu. Anh cũng biết tính tình em rồi. Nhưng, nhìn thấy ánh mắt nàng, em cứ như là bị mất hồn vậy.

Nói đoạn Bàn kể lại hai người đến với nhau thế nào? Rằng lý do mà anh xông pha chiến trường tìm kiếm chiến công để làm gì. Rồi anh lại cúi đầu xin lỗi Thùy vì đã tùy ý mà định đoạt những việc này, dù sao thì ông bà ta cũng có câu “quyền huynh thế phụ" mà.

- Ha… ha… ha… Thùy bỗng cười sặc sụa. – Nhìn chú kìa. Ha… ha… ha… Không ngờ cũng có ngày anh đục thủng cái da mặt dày như mo cau của chú. Chẳng phải trước giờ chú nổi tiếng mặt dày, ai nói gì cũng vẫn cười đùa được sao? Cuối cùng ta cũng trả được thù. Ha… ha… ha…

Nghe đến đây, Phan Huy Ích mới hiểu ra là Thùy chỉ muốn trêu ghẹo em mình. Ông thở phào nhẹ nhõm. Suy nghĩ một chút, Ích lại nói:

- Vương gia, chuyện này cũng không phải là xấu. Rất có thể nhờ đó mà công cuộc tái thiết nước nhà của Hoàng thượng sẽ thuận lợi hơn nhiều.

- Đúng vậy, ta là người giỏi nhất, tính trước ngày hôm nay mà. Ha… ha… ha…

Lúc này, bản tính của Bàn lại trỗi dậy. Anh quả là xứng với cái danh mặt dày mà. Cười sảng khoái một hồi như để xả bớt cái nỗi xấu hổ vừa nãy, anh lại nói:

- Thực ra, tôi cũng đã cố gắng tạo dựng uy tín mấy năm qua. Các vị không biết đó thôi, muốn làm rể của nhà vua thì chỉ có vua hoặc thái tử các nước khác. Tôi tuy là Hoàng tộc, nhưng Đại Việt chúng ta dù sao cũng chỉ là một xứ nhược tiểu cho đến lúc này. Nhà vua không thèm để mắt đến đâu.

- Người Anh Cát Lợi rất trọng những vị anh hùng – Phạm Thái nãy giờ đứng nghe bắt đầu lên tiếng. – Bởi vậy Vương gia phải đi kiếm về cho mình những chiến công.

À, nhắc đến Phạm Thái, cũng nên nói đến nhóm du học sinh đầu tiên. Hiện nay hơn ba phần t.ư đã hoàn thành các khóa học. Phải công nhận, người Việt dù đi đâu, ở thời đại nào cũng là những người cần cù, chịu khó và hết sức thông minh, chính các vị Giáo sư hướng dẫn họ phải nhận xét như thế. Hôm nay, nhân dịp đoàn sứ bộ đến thăm Anh Cát Lợi, họ cũng được triệu tập về.

- Nói như cậu chỉ đúng một phần thôi, cậu Thái ạ – Bàn nói tiếp. Sở dĩ tôi muốn tạo dựng uy tín chính là để chúng ta nhận được nhiều sự ủng hộ hơn từ không những là người Anh Cát Lợi mà kể cả các nước khác nữa. Đặc biệt nhất là gần đây tôi được gặp mặt Thái tử Charles của nước Áo. So với người Anh, có thể họ không bằng, nhưng nói chung, nếu họ là đối thủ của Đại Việt ta thì hết bảy phần chúng ta không có cơ hội thắng.

- Họ thật sự mạnh mẽ như vậy à? – Đô đốc Tuyết dù sao cũng là một võ tướng nên ông xem ra rất quan tâm.

- Đúng vậy – Bàn tiếp. – Chỉ là họ không có mưu mẹo như người Á Đông chúng ta thôi. Chiến tranh thời này, họ không còn dùng cung kiếm nữa mà hoàn toàn dùng súng ống. Có mối quan hệ tốt, sau này chúng ta có thể bán súng cho họ. Đương nhiên không thể là loại tốt nhất.

Phan Huy Ích cũng tỏ ra đồng tình:

- Có lý. Đây chính là một mỏ vàng. Hơn nữa, như trước đây Vương gia có nói với thần, rằng Ngài muốn tìm hiểu cách vận hành của quân đội Anh Cát Lợi.

- Đúng vậy, ở đây tôi có ghi ra một bản tổng kết. Nhân có Đô đốc Tuyết và anh hai, tôi cũng xin chuyển lại. Các vị về trước, cứ tiếp tục nghiên cứu và cải tiến quân đội của chúng ta cho phù hợp.

Bàn đưa cho Tuyết một cuốn sổ tay. Sau đó, như nhớ ra chuyện gì, anh lại nói:

- À! Về nhà Nguyễn. Trước đây chúng ta đã đánh giá quá thấp về họ rồi. Năm ngoái, tôi có chạm trán với Hoàng tử Cảnh. Y cũng như tôi, có quân hàm Thiếu tá. Chắc hẳn nhà Nguyễn cũng cử người sang Phú Lang Sa để du học.

- Vậy thì chúng ta phải dè chừng rồi. – Phan Huy Ích đồng tình.

- Ở trời Tây này, tôi tin giữa mình và Cảnh còn đụng độ nhau dài dài. Nếu có cơ hội, tôi sẽ tìm cách giết y.

Cuộc nói chuyện chính sự đến đây là dừng, việc tiếp theo mọi người cần làm là… nhập tiệc đoàn viên. Nói thế thôi chứ trong bữa tiệc, họ cũng vẫn bàn đến công việc, nhất là làm sao để họ nhà trai không bị mất mặt trong lễ đính hôn sắp tới.

Cuối cùng thì ngày lễ đính hôn cũng đến. Dân thành London nô nức vui mừng. Họ chào đón lễ đính hôn trong sự mong chờ. Mấy ngày nay, người ta mới biết vị Thiếu tá anh hùng kia thật ra là một ông Hoàng, vậy thì anh ta cưới công chúa nước Anh là hợp lý rồi. Về phần nhiều cô gái trong giới quý tộc, họ tỏ ra vô cùng tiếc nuối, giá mà họ chính là cô dâu trong ngày hôm nay thì tốt biết mấy.

Con đường chính dẫn đến nhà thờ St. Paul hôm nay rải đầy hoa hồng. Hai bên con đường là hai hàng cờ, một của Vương quốc Anh, một của Đại Việt.

Đúng chín giờ sáng, đoàn xe của Đại Việt cũng xuất hiện. Theo đúng nghi thức, họ nhà trai phải có mặt trước tiên ở nhà thờ, sau đó mới đến lượt họ nhà gái.

Bàn bước xuống xe, hôm nay anh bận bộ lễ phục đúng chuẩn của nhà binh với găng tay trắng. Anh vẫy tay và tươi cười chào những người lính danh dự đang bồng súng đứng hai bên. Đó chính là những người anh em trong Trung đội pháo binh số mười ba. Hôm nay, chỉ huy của họ làm lễ đính hôn, nhất là đính hôn với Hoàng tộc nữa chứ, làm ai nấy cũng hãnh diện vô cùng. Bàn bước lên Cung Thánh của nhà thờ, bên tay trái là Thùy.

Ít phút sau, nhạc trỗi lên, mọi người quay mặt xuống nhìn về phía cuối nhà thờ. Thái tử Augustus trong bộ trang phục màu vàng, màu yêu thích nhất của ông đang nắm tay Sophia và dẫn em mình đi lên Cung Thánh. Hôm nay, Sophia thật nổi bật với bộ váy màu trắng tinh khôi, cô cười thật rạng rỡ, bỏ lại sau lưng vẻ buồn bã và cô độc thường ngày.

Lúc này, bốn người của hai họ đã ổn định vị trí của mình. George III đứng dậy, tiến lên Cung Thánh, ông nói lời tuyên bố chấp thuận cho lễ đính hôn này. Đây chính là thủ tục cần có trong lễ cưới hay đính hôn của Hoàng gia từ thời vua George II: “Ta, vua George III, hôm nay cho phép hai người thực hiện nghi lễ đính hôn. Từ giờ phút này, không ai có quyền ngăn cản các nghi thức diễn ra theo trình tự của nó”.

Sau lời tuyên bố của mình, ông bước xuống hàng ghế bên dưới để buổi lễ được tiến hành. Phải nói, nghi thức cưới của những người theo đạo Anh giáo hay cả Thiên Chúa giáo thật sự rất đơn giản. Tuy nhiên, các nghi thức quan trọng cũng không thể thiếu, nhất là nghi thức đọc lời thề chung thủy và trao nhẫn cưới. Vì đây chưa phải là lễ cưới chính thức nên nghi thức đọc lời thề được bỏ qua, nhưng trao nhẫn đính hôn thì vẫn không thể thiếu.

Trước sự chứng kiến của mọi người, Bàn đeo vào tay trái Sophia một chiếc nhẫn bằng vàng có đính một viên ngọc bích thật to và đẹp. Theo phong tục, chiếc nhẫn này phải được làm từ vàng được khai thác ở trong một mỏ xứ Wales.

Nghi lễ đến đây là kết thúc. Cả đoàn người sau đó quay về điện Buckingham, nơi đại tiệc đính hôn đã được chuẩn bị sẵn. Cuộc vui kéo dài đến tận khuya với đủ các tiếc mục như biểu diễn ảo thuật, hề, và đương nhiên không thể thiếu khiêu vũ.

Vậy là từ hôm nay, cuộc đời của Bàn chính thức bước sang một trang mới. Và cũng ngày này, mối quan hệ giữa Đại Việt và Anh Cát Lợi cũng thêm gắn bó hơn. Buổi lễ tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn ngủi nhưng nó lại góp một phần khá quan trọng trong việc quyết định đại cục của Đại Việt sau này.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 37: Trái ngọt đầu mùa
Chương 37: Trái ngọt đầu mùa

London đã vào cuối mùa thu, tiết trời đã bắt đầu se lạnh. Trên những cành cây khẳng khiu, từng chiếc lá vàng úa cuối cùng cũng rơi rụng dần. Một cơn gió nhẹ mang theo sương mai giá buốt phả vào những người đi đường như muốn nhắc nhở đông đã đến gần.

Một chiếc xe ngựa mui trần đang chậm rãi chạy từ cuối đường Merron. Trên xe là hai người thanh niên da vàng. Trông dáng vẻ họ không có vẻ giống nhau lắm nhưng qua điệu bộ, người ta dễ đang nhận ra đó là hai anh em. Không cần phải suy đoán nhiều cũng có thể nhận biết họ là ai. Ở xứ sở sương mù mùa này, người da vàng và là anh em đâu có mấy ai.

- Chú ba, chú nói xem. Nhà Wellesley sao lại mời anh em ta đung bữa trưa?

- Vì những cây TSG anh đem đến và vì trận chiến sắp tới ở Ấn Độ.

Nói thêm một chút. TSG chính là tên của khẩu Điểu thương vừa được cải tiến. Tên đầy đủ của nó là Tay Son Gun. Sở dĩ lấy tiếng Anh Cát Lợi đặt tên cho nó là vì Quang Toản muốn phổ biến loại súng này ở Châu Âu, cậu muốn Đại Việt trở thành quốc gia xuất khẩu vũ khí. Nên nhớ, nhờ buôn bán súng ống mà Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ mới có được sự phồn vinh và phát triển thành một cuồng quốc trong thời gian ngắn.

- Anh hiểu. Nhưng buôn bán vũ khí là việc của Hoàng gia, nhà Wellesley được lợi gì ở đây?

- Anh hai, anh nên nhớ một điều, mỗi dòng họ quý tộc ở Anh Cát Lợi này đều là thương buôn. Bất kể thứ gì có thể kiếm ra tiền đều được họ khai thác triệt để. Em nghĩ, họ có thể Thoòng qua Hoàng gia để được nắm quyền buôn bán vũ khí. Muốn làm được điều đó, mối quan hệ với anh em mình là cần thiết nhất. Rồi anh xem, trong thời gian ngắn sắp tới, anh sẽ nhận được nhiều lời mời dùng bữa của những gia tộc khác nữa.

- Hiểu rồi. Trong ba anh em, anh là đứa ngốc nhất. Chú nghĩ anh phải ứng phó thế nào đây?

- Cứ tỏ ra thân thiện và đồng ý với nhà Wellesley. Các gia tộc khác thì tìm cách từ chối khéo.

- Sao chú lại không chọn những gia tộc khác?

- Quân sự, chính trị. Về mặt chính trị, nhà họ đang là những người có tiếng nói nhất. Về quân sự, anh chưa biết đâu, Arthur lúc này mới là Đại tá, nhưng anh ta có một tầm nhìn rất xa và là một thiên tài đó. Em nghĩ, trong chuyến đi đến Ấn Độ sắp tới, anh ta sẽ được thăng làm thiếu tướng.

- Xem ra thời gian chua ở đây không phải là uổng phí. Xem ra chú t.ư cho chú sang đây thật chính xác. Chú bảo sao thì anh làm vậy.

Hai anh em họ cũng thôi không nói chuyện nữa vì xe ngựa đã dừng lại trước căn nhà số bốn đường Merron, Dublin. Đây là căn nhà hai tầng với kiến trúc đặc trưng của những căn biệt thự cổ xưa và quý phái. Đối diện là trường Đại học Khoa học Hoàng gia, nơi hiện có khoảng hai trăm người Việt đang theo học cả hai nhóm du học sinh gộp lại.

Hai anh em xuống xe. Hôm nay họ cùng khoác lên mình bộ áo dài truyền thống. Bàn bước tới gõ lên cửa ba cái. Lát sau, một người hầu da đen ra mở cửa và dẫn họ vào sảnh lớn đung để tiếp khách.

Tiếp đón hai anh em là Arthur trong bộ trang phục đơn giản, mái tóc cắt ngắn, trái ngược hẳn với ông anh Hầu tước với bộ tóc giả dành cho giới quý tộc trên đầu. Arthur dẫn họ ra vườn sau, hôm nay nhà Wellesley tổ chức tiệc thịt nướng ngoài trời. Vị đại tá của chúng ta giới thiệu cho Thuỳ ba người anh của mình:

- Ngài Thân vương...

- Ngài cứ gọi tôi là William được rồi, Thuỳ ngắt lời.

- Được rồi, William. Đây là các anh tôi, Hầu tước Wellesley Ngài biết rồi. Bên trái là Nam tước Maryborough và Nam tước Cowley.

Hầu tước Wellesley bước đến bắt tay và nói với Thùy:

- William, rất hân hạnh được biết Ngài. Hôm trước tôi có xem Ngài biểu diễn kỹ thuật bắn của Ngài. Thứ cho tôi nói thẳng, tôi không tin là với một người khác, viên đạn có thể bay chính xác đến thế.

- Ngài nói đúng, nhưng ở đây chúng ta phải loại trừ Ngài Đại tá đây. Chẳng phải Ngài ấy bắn còn chính xác hơn tôi hay sao?

Arthur đang suy nghĩ điều gì chợt giật mình khi nghe Thùy nhắc đến:

- À, đó chỉ nhờ vào kinh nghiệm thôi – anh trả lời. – Nhưng theo tôi được biết, binh sĩ nước ngoài vẫn chưa sử dụng súng nhiều, họ quen với gươm giáo hơn. Vì thế, tôi chắc là họ cũng không bắn tốt được như Ngài đâu.

- Ngài nói vừa đúng, vừa chưa đúng, Arthur ạ. Đúng là binh sĩ của chúng tôi vẫn còn sử dụng gươm giáo, nhưng không lâu nữa, có lẽ là trong năm sau, chúng tôi sẽ thay đổi tất cả, chuyển sang dùng súng toàn bộ. Còn về độ chính xác khi bắn, thiết nghĩ cũng nói cho các Ngài hiểu rõ. Chúng tôi cho binh sĩ học võ. Thứ nhất là để giết chết kẻ thù, thứ nữa là để tăng thể lực cho họ. Nhờ thế, các giác quan của họ linh mẫn hơn. Bởi vậy, nếu người thường có thể ngắm bắn trong phạm vi ba trăm mét thì với họ, mục tiêu cách đó khoảng năm trăm mét vẫn có thể thấy được. Người có võ công càng cao thì càng nhìn được xa.

- Tôi đồng ý với Ngài điều này. Chắc Ngài cũng được nghe Thiếu tá Jack kể lại, Ngài ấy đã dạy cho binh sĩ của mình hai môn võ của nước mình. Hai môn võ này sau đó cũng được lan truyền rất nhanh trong các binh chủng khác. Tôi cũng tập và nhận thấy đúng như Ngài nói vừa nãy.

- Thôi nào – Nam tước Cowley xen vào. – Các vị tính nói chuyện này mãi ở đây hay sao? Chúng ta hãy mời những vị khách của mình ngồi vào bàn thôi.

Mọi người cùng cười, đoạn ngồi vào chỗ của mình trên bàn tiệc. Các món ăn được bày biện khá phong phú với đùi trừu nướng, thịt heo xông khói, xúc xích cùng món súp khoai tây. Bữa tiệc diễn ra trong không khí cởi mở và thân tình. Bởi lẽ ngoại trừ Thùy, đã rất nhiều lần Bàn đã được mời đến nhà Wellesley dự tiệc. Khi hỏi đến các vấn đề quân sự, tất cả đều tỏ ra rất ngạc nhiên và thán phục về Thùy. Họ không nghĩ đến, với một người ở độ tuổi của Thùy mà lại có thể vừa quản lý hơn một trăm năm mươi nghìn binh sĩ, lại quán xuyến cả các công việc hành chính ở Bắc Hà. Thêm vào đó, anh còn là một nhà nghiên cứu về vũ khí quân sự nữa chứ, không phải Thùy chính là tác giả của TSG sao. Mọi người bỏ qua hết thảy tước vị, phẩm cấp hiện tại mà nói chuyện với nhau.

Khi bữa tiệc đã đi qua được hơn phân nữa thời gian, Hầu tước Wellesley đặt ra một vấn đề:

- William, anh lần này mang đến mười nghìn cây súng chắc không phải chỉ là “học phí” cho các du học sinh của mình chứ?

- Anh thật tinh ý, anh Wellesley ạ. Chúng còn được sử dụng với mục đích nữa là “chào hàng”. Các anh thấy thế nào?

- Chúng đến trong thời điểm này là rất thích hợp, William ạ. Tôi cũng vừa ở chỗ nhà vua về cách nay mấy ngày. Ngài ấy cảm thấy rất thích thú với loại súng mới và trao cho tôi quyền thuyết phục các anh cung cấp số lượng lớn. Đương nhiên là với cái giá phù hợp nhất.

Ra là thế đấy, cả hai anh em đều không ngờ là nhà Wellesley lại nhanh hơn những người khác một bước. Họ nhanh chóng chộp lấy cơ hội này mà đề nghị nhà vua trao quyền thương lượng cho mình. Kể ra cũng tốt thôi, ít ra cả hai đều cảm nhận được sự thân thiện của gia tộc này.

- Ồ! Nếu thế thì tốt quá. Các anh cũng biết đấy, nước tôi nếu muốn nhanh chóng giàu mạnh hơn chỉ có một con đường là buôn bán. Ở miền Viễn Đông, dưới sự ảnh hưởng của người Trung Hoa, các nước đều thi hành lệnh “bế quan tỏa cảng”. Chính bởi vì vậy mà chúng tôi ngày càng lạc hậu, không có phát triển được mạnh mẽ như ở Châu Âu.

- Tôi hiểu điều này – Nam tước Cowley nói. – Một quốc gia cứ mãi đóng cửa, không giao lưu với các nước khác thì chả khác nào con ếch nằm trong đáy giếng. Điều này lại bóp chết chính họ. Thế các anh tính là mình sẽ bán đi những sản phẩm chủ lực nào?

- Vũ khí, lúa gạo, đồ gốm, tơ lụa, trà. Nhưng trước mắt, vũ khí chính là hàng hóa nhanh chóng sinh ra tiền nhất. Đã nhiều lần, chúng tôi có dự định thông qua Công ty Đông Ấn Anh mà xuất khẩu vũ khí, song, ngẫm lại thì không thấy phù hợp.

- Vì sao thế? Hầu tước Wellesley tỏ ra khá hứng thú.

- Vì giữa hai nước chúng ta có một hiệp ước. Thế nên, chúng tôi dự định sẽ bàn với cao tầng của Quý quốc. Vừa hay chính các anh lại mở lời trước. Vậy thì việc này nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

- Tốt, tốt lắm. Tôi sẽ bàn lại việc này với nhà vua. Về việc này nữa, mỗi năm các anh có thể sản xuất được bao nhiêu cây súng loại này?

- Chúng tôi sản xuất trên một “dây truyền” với quy mô khá lớn. Thế nên mỗi tháng có thể cho ra được khoảng mười nghìn cây chỉ với một công xưởng duy nhất. Nếu như tận lực của cả ba công xưởng hiện có thì số lượng chắc cũng tầm khoảng ba mươi nghìn. Năm vừa rồi, ngoài số súng cấp cho binh sĩ của mình, chúng tôi còn lưu kho khoảng một trăm nghìn cây súng như vậy.

- Thế thì tốt quá – Hầu tước Wellesley hào hứng. – Nếu có thể, chúng tôi sẽ thu mua hết toàn bộ số súng này.

- Một điều nữa, anh Wellesley. Chúng tôi có dự định bán chúng cho một số quốc gia ở Châu Âu, đương nhiên vẫn nằm trong liên minh của chúng ta thôi và giá cả phải cao hơn các anh khoảng mười phần trăm.

- Việc này hãy để em tôi, Nam tước Maryborough lo liệu, cậu ta là một thương buôn chính cống đấy nhé. Có điều, các anh hãy trao cho chúng tôi quyền phân phối chính thức và độc quyền, giá cả có thể tăng thêm năm đến mười phần trăm.

- Việc này không thành vấn đề. Với t.ư cách là một người được nhà vua trao cho nhiệm vụ đàm phán về việc này, tôi có thể ký kết một hiệp ước với các anh. Tuy nhiên, trong hiệp ước, chúng tôi chỉ để giá trị ở mức mười phần trăm thôi, việc nâng lên bao nhiêu thì tùy các anh.

Bữa tiệc kết thúc trong vui vẻ, ai cũng đều đạt được mục đích của mình. Hai anh em Thùy quay trở về và bàn bạc với những người khác trong đoàn về việc này. Ngày hôm sau, Hầu tước Welling ton báo cáo việc này với George III và được nhà vua đồng ý trao toàn quyền đàm phán, kể cả việc trở thành nhà phân phối cho Đại Việt.

Ba ngày tiếp theo nữa, Thùy đại diện cho Đại Việt ký kết một thỏa thuận buôn bán một trăm nghìn súng TSG với giá năm mươi Bảng một cây. Thời gian giao hàng cũng ghi rõ là trong vòng hai năm kể cả thời gian vận chuyển. Vậy là một bước quan trọng trong kế hoạch làm đất nước lớn mạnh của vị vua trẻ tuổi Nguyễn Quang Toản đã thành công. Trong tương lai, các mặt hàng khác cũng được đẩy mạnh khai thác. Những việc này đã mở ra một cơ hội mới để biến Đại Việt trở thành một cường quốc không chỉ ở khu vực Á Châu mà đã bắt đầu vươn ra Thế giới.

Đến ngày 20 tháng 9, đoàn sứ bộ Đại Việt lên thuyền trở về nước cùng với hai trăm du học sinh đã hoàn thành khóa học của mình. Ngoài ra, lần này chiếc “Quang Trung” còn mang theo khoảng hơn mười nhà khoa học của nước Anh Cát Lợi nữa. Những nhà khoa học này tỏ ra khá tò mò và hào hứng với đất nước nhỏ bé mà giàu tiềm năng ở miền Viễn Đông này.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 38: Khởi hành đi Ấn Độ
Chương 38: Khởi hành đi Ấn Độ

Vậy là mọi việc quay về với nhịp điệu thường ngày của nó. Bàn cứ đều đặn cùng những binh sĩ của Trung đội pháo binh số mười ba lao vào với những bài huấn luyện ngày một nặng hơn. Trong khi đó, các trung đội khác lần lượt lên đường đi làm nhiệm vụ. Có đội được cử đi Áo, có đội đi Phổ, lại còn hai đội lại được vinh hạnh bước lên những chiến thuyền của hải đội bách chiến bách thắng của Đô đốc Nelson.

Một ngày nọ, Bàn được mời đến tham dự một cuộc họp đặc biệt. Địa điểm được tổ chức lần này lại chính là văn phòng của Bộ Tổng tham mưu quân đội Hoàng gia. Bước vào phòng họp, Bàn thấy có sự hiện diện của Thái tử Augustus cùng các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp khác.

- Thiếu tá Jack có mặt - Bàn mở lời chào.

- Thiếu tá đến sớm hơn năm phút, tốt lắm. - Augustus nói.

Nói người Anh Cát Lợi bảo thủ quả không sai. Người cuối cùng có mặt là Bàn, lý ra có thể tiến hành ngay cuộc họp. Đằng này, do anh đến sớm năm phút nên cũng phai năm phút sau, khi đồng hồ điểm chín tiếng họ mới bắt đầu.

Người chủ trì là Thái tử Augustus. Ông nói sau khi gõ một tiếng búa gỗ khai mạc:

- Các Ngài đã biết được lý do được triệu tập cho buổi họp hôm nay chưa?

- Có phải là do tình hình ở Ấn Độ hiện nay? - Một bị với quân hàm thiếu tướng lên tiếng.

- Có vẻ như tin tức của Ngài nhanh thật, Thiếu tướng David Baird.

- Thái tử, Ngài nói quá lời rồi. Tôi chỉ vì có cổ phần ở công ty Đông Ấn Anh nên mới nắm một chút thông tin thôi. Nhưng có lẽ một chút đó không thể so với Ngài.

- Được rồi, để tôi nói luôn cho các Ngài hiểu - Augustus nói. - Vừa rồi, Tổng Đốc của chúng ta ở Ấn Độ, Ngài Richard Wellesley có gửi một báo cáo khẩn về tình hình ở Ấn Độ. Tôi đã cho người sao chép lại thành nhiều bản và đặt trước mặt các Ngài. Mời xem tự nhiên.

Cũng như các sĩ quan khác, Bàn nhìn vào tập hồ sơ đặt trước mặt mình. Anh mở ra và bắt đầu đọc. Đây là một bản báo cáo hỏa tốc. Theo đó, Ngài Richard Wellesley cho biết công ty Đông Ấn Anh đang gặp rất nhiều khó khăn ở Ấn Độ, đồng thời, Vương triều Mysore cũng có những động thái hết sức đáng lo ngại.
Chờ mọi người đọc qua một lượt, Augustus mới hỏi:

- Sao? Các Ngài thấy sao?

- Tôi hiểu tính tình của Richard - Arthur nói. - Anh ấy luôn muốn tự mình giải quyết mọi việc, chỉ khi nào không thể làm gì được, anh ấy mới cầu viện như lúc này. Anh ấy cũng viết một bức thư cho gia đình. Tôi cũng xin được đọc một đoạn thế này.

“Hiện nay, người Pháp hoạt động ngày càng mạnh hơn ở đây. Tháng trước, công ty Đông Ấn Pháp đã chính thức có một cuộc đấu thầu bao tiêu cho sản phẩm hồ tiêu. Họ liên tục có những cuộc gặp bí mật với Sultan Tipu của Vương triều Mysore. Người của chúng ta đã mua chuộc được một nhân vật then chốt là tướng Mir Sadiq. Ông này cho biết, vị Tổng tài mới của nước Pháp, Napoleon Bonaparte, phái một người An Nam đến nói chuyện với Tipu. Họ đều là người Châu Á nên có khá nhiều điểm tương đồng. Người này, Sadiq chỉ nói đó là một vị Hoàng tử, trong quân đội Pháp cũng có hàm Thiếu tá. Về cơ bản, Tipu đã đồng ý sẽ “đá” chúng ta ra khỏi Mysore và cả Ấn Độ, với điều kiện, Pháp phải tài trợ cho họ về súng đạn và những cố vấn quân sự.

Theo đó, công ty Đông Ấn Anh của chúng ta dần bị thu hẹp địa bàn hoạt động ở Đông Nam Ấn. Một số kho hàng còn bị tập kích, đốt cháy sạch”.

Augustus cũng nói thêm:

- Theo bộ phận thám báo thì quân lính của Mysore vào khoảng ba mươi nghìn người với mười một trung đoàn. Trong đó, đáng chú ý là một trung đoàn với cái tên là Bengal Artillery. Họ sử dụng một loại vũ khí gọi là Rocket, binh lính của họ được gọi là Rocketer, đây đương nhiên là tên gọi của chúng ta đặt cho họ.

- Tôi đã thấy qua loại vũ khí này - Thiếu tướng David Baird lên tiếng. – Đó là một cái ống bằng gỗ, đầu nhọn, bên trong nhồi đầy thuốc phóng, đuôi được trát kín. Những Rocketer này đốt sợi dây cháy chậm ở phần đuôi, thuốc phóng bốc cháy làm những trái Rocket này bay đi rất xa, rớt xuống đất và làm cháy khắp nơi.

Baird hiểu rõ vấn đề này cũng phải thôi. Ông đã từng nếm mùi đau khổ vì nó và bị bắt nhốt sau đó trong bốn mươi bốn tháng vào khoảng hai mươi năm trước. Có thể nói ông chính là người căm thù Vương triều Mysore này nhất so với những người ở đây. Ông nói tiếp:

- Bây giờ, trước mắt là chúng ta nên bàn xem các phương án tấn công sẽ như thế nào. Về các quả Rocket thì chúng ta sẽ tính đến phương án giải quyết cụ thể sau khi đã có chiến lược tổng thể.

- Thái tử – Bàn lúc này lên tiếng nói. – Việc đối phó những quả Rocket này tôi đã có cách giải quyết. Xin các vị cứ bàn về chiến lược tổng thể trước đi. Ngày trước, tôi đã có hứa sẽ dâng cho nhà vua món quà cưới tốt nhất. Tôi nghĩ, đây chính là nó.

Mọi người đổ dồn các cặp mắt hiếu kỳ về phía Bàn. Quả thật họ không nghĩ tới trong chốc lát mà anh đã nghĩ ra giải pháp. Điều này có thể chăng? Còn nữa, đối phương có một Cố vấn là người An Nam, tính ra cũng là đồng hương với vị Thiếu tá trẻ tuổi này. Vậy chẳng phải là những con người ở đất nước nọ quá thông minh sao?

Việc sau đó là bàn thảo phương án tấn công. Phải công nhận một điều, người Anh Cát Lợi tuy nổi tiếng bảo thủ, nhưng khi đụng đến những vấn đề cần hợp tác để làm việc thì họ lại nhiệt tình một cách đáng nể. Cả phòng họp trở nên ồn ào hơn, tiếng tranh cãi xuất hiện ngày một nhiều. Nghĩ lại, nếu như không có những tiếng búa gỗ ổn định của Augustus thì mọi việc không biết sẽ trôi về đâu.

Cuối cùng thì sau hơn ba tiếng đồng hồ thảo luận, kế hoạch tác chiến cũng được định ra. Theo đó, Anh Cát Lợi sẽ phái đến Ấn Độ hai mươi sáu nghìn quân, kết hợp với hơn hai mươi bốn nghìn quân hiện hữu, nâng tổng quân số lên trên năm mươi nghìn người. Trong số đó bao gồm mười một tiểu đoàn Kỵ binh với quân số mười sáu nghìn người, phần còn lại là bộ binh, pháo binh cũng góp mặt với sáu trung đội, trong đó có trung đội số mười ba do Bàn chỉ huy.

Về phương án chuyển quân, tướng Baird sẽ lập tức quay về Ấn Độ theo ngã Ai Cập để chỉ huy hai mươi bốn nghìn binh sĩ địa phương. Tướng George Harris đảm nhiệm Tổng chỉ huy với hai mươi nghìn quân. Arthur sẽ dẫn theo sáu nghìn quân, trong đó có hai tiểu đoàn kỵ binh, một trung đội pháo số mười ba và phần còn lại là bộ binh. Vai trò của Arthur lúc này không lớn, nhiệm vụ chủ yếu của anh mang tính dự phòng và đoạn hậu. Bàn được phân vào nhánh quân của Arthur cũng có lý do, đó là mọi người đều muốn “con rể” của nhà vua có thể sống sót nếu như trận chiến có những biến đổi bất ngờ.

Quay sang Bàn, Augustus hỏi:

- Nào, giờ thì Thiếu tá đã nói ra được phương án chống lại đội Rocketer kia chưa?

- Nói thế nào thì những quả Rocket đó chỉ là một loại tên lửa thôi. Chúng ta có thể bện những tấm phên dày từ rơm rạ, thấm nước và che trên đầu. Về độ dày của chúng thì phiền Ngài Baird cho ý kiến vì Ngài ấy hiểu rõ hơn.

- Vậy thì có gì để đáng nói là món “quà cưới” như Ngài đã nói khi nãy đâu? – Augustus cười.

- Ha… ha… ha… Cái đó đâu phải quà cưới. Món quà sẽ đến sau ba ngày nữa. Quyết định thế này nhé, ngày thứ năm tới, mời các vị quá bộ sang doanh trại của trung đội số mười ba của tôi để tham quan.

Nói xong, Bàn nở một nụ cười bí hiểm. Đến đây thì cuộc họp cũng kết thúc, mọi người ra về với tâm lý khá thoải mái trừ ngờ vực về “món quà” kia của Bàn. Nói thật, ở đây trừ Augustus và Arthur ra, không một ai tin là Bàn có thể làm được việc gì. Nhà vua và cả Augustus nữa chỉ đề cao anh vì mối quan hệ với Đại Việt mà thôi. Nếu cho là giỏi thì anh của anh, Quang Thùy mới thật là tài giỏi vì Thùy vừa là một vị tướng nắm giữ binh lực hùng hậu, vừa là một nhà phát minh.

Về đến trại của mình, việc đầu tiên Bàn làm là tập hợp một số pháo thủ dưới tay. Anh ra lệnh cho mọi người đi chặt về một số cây tre hoặc một loại cây nào đó tương tự, bởi lẽ, Bàn không biết ở xứ này có tre hay không. Lại nữa, anh sai binh sĩ mang đến cho mình mười bọc thuốc súng, loại bọc sẵn sử dụng khi nhồi vào đại bác cùng với năm phần lõi của quả đại bác mới cải tiến.

Đến khoảng hai tiếng sau đó, binh sĩ mang lại đúng mười bọc thuốc nhưng lại không có tre hay loại cây nào tương tự. Hết cách, anh lại bảo mọi người đem về cho mình những thanh gỗ cây dương, đây là loại gỗ có trọng lượng nhẹ. Anh đang tính làm gì đây? Không ai, kể cả những người đi kiếm vật liệu về cho Bàn hiểu rõ. Anh quay về lán của mình trong trai, lấy giấy bút rồi vẽ cái gì đó. Chỉ biết anh phải mất khoảng hơn một tiếng đồng hồ chỉ để vừa tính toán và vẽ.

Thời hạn ba ngày cũng đã đến. Augustus dẫn theo các vị tướng và sĩ quan đến trại của Trung đội pháo binh số mười ba để xem thử “món quà” mà Bàn hứa là gì. Điều rõ ràng nhất mà họ nhận thấy là vẻ mặt hãnh diện của những binh sĩ tiếp đón. Mấy ngày nay, các binh sĩ cũng đã hiểu được vị chỉ huy mà mình thần tượng đang làm gì. Anh ta đang chế tạo ra một loại vũ khí mới và đã… thành công.

Mọi người được dẫn đến sân tập bắn. Ở đó, người ta thấy một cái giá tạo bởi năm cây sắt tròn, đường kính khoảng một inch, cắm trên cùng một cái đế cũng bằng sắt. Khoảng cách giữa các cây sắt là đều nhau. Phía dưới đế có hai bánh xe nhỏ, hẳn là để dễ di chuyển. Lúc này, Bàn bước ra và nói với tướng Baird:

- Tướng quân, Ngài thấy vật này có quen mắt không?

- Khá là quen, nhưng tôi không biết mình từng nhìn thấy ở đâu.

- Đúng là Ngài sẽ biết mình đã từng thấy ở đâu. Tôi tin là so với cái vật kia thì dụng cụ này của tôi cũng không khác là mấy.

Dừng lại một chút và nhìn về phía mọi người, Bàn nói:

- Tôi xin giới thiệu, đây là dàn phóng Rocket của chúng ta. Cái gì người Mysore làm được thì chúng ta cũng làm được và còn có uy lực cao hơn. Đúng vậy, ba ngày qua tôi đã chế tạo ra những quả Rocket, một loại vũ khí thực sự và dẽ mang vác. Tôi sẽ chứng minh cho các vị thấy uy lực của nó dữ dội thế nào và cũng nhân đây, xin Thiếu tướng Baird so sánh hiệu quả của chúng với món của người Mysore.

Nói đoạn, Bàn ra lệnh cho binh sĩ mang ra năm quả Rocket. Mỗi quả đều được hình thành từ hai phần hình trụ, phần ở trên lại có chóp nhọn. Trên mỗi phần đều có ba miếng gỗ đặt theo thế chân vạc mà Bàn tạm gọi là các “cánh”. Hai phần được gắn liền vào nhau, tạo thành một thể duy nhất với ba chiếc khoen.

Theo lệnh Bàn, các binh sĩ “xỏ” năm quả đạn vào năm cây sắt nhờ ba chiếc khoen, phần đuôi của chúng chạm vào đế sắt phía dưới. Họ điều chỉnh cho toàn bộ dàn phóng nghiêng ở mức khoảng sáu mươi độ. Xong, dây cháy chậm được châm ngòi. Một tiếng nổ nhỏ cùng tia lửa phụt ra ở đuôi các quả Rocket. Nhờ phản lực, chúng bay thẳng lên trời theo phương sáu mươi độ.

Đến lúc số thuốc của phần trụ đuôi cháy hết, hai phần được tách ra. Phần đầu tiếp tục bay một đoạn ngắn rồi chúc đầu xuống. Lúc này, phía đuôi của phần đầu lại thấy có tia lửa phụt ra, đẩy nó lao nhanh xuống đất. Khi các quả đạn chạm đất cũng chính là lúc có tiếng nổ lớn phát ra, hiệu quả cũng tương tự như khi một quả đạn đại bác cải tiến chạm đất.

Mọi người sững sờ khi nhìn thấy kết quả. Ai nấy anh nhìn tôi, tôi nhìn anh mà không thể nói được lời nào. Lúc này, Thiếu tướng Baird vỗ tay lốp bốp, reo lên:

- Tuyệt vời… không… trên cả tuyệt vời. Thiếu tá à! Tôi thật sự phải ngả mũ trước mặt Ngài. Những quả Rocket này còn hiệu quả hơn hẳn loại của đám Mysore kia nữa. Của chúng thì chỉ có một phần đuôi là cháy thôi, còn của Ngài, cả hai phần nếu đặt riêng lẻ thì đã là một quả Rocket rồi.

- Ngài quá khen. Về uy lực của nó, Ngài thấy sao?

- Ăn đứt là cái chắc. Uy lực cũng mạnh hơn mười lần. Tôi nói không ngoa đâu. Thiếu tá có thể giải thích cho chúng tôi hay không?

Bàn bắt đầu lấy bản vẽ mà mình làm hôm trước ra rồi thuyết minh cho mọi người nghe. Thì ra, anh lấy hai bọc thuốc đạn pháo nối với nhau bằng dây cháy chậm. Mỗi bọc thuốc lại được bọc bằng những thanh gỗ xếp khít vào nhau thành hình trụ dài tạo thành hai phần của quả đạn. Ở phần đầu, anh thêm vào đó là quả đại bác cải tiến với hạt nổ được thu nhỏ lại, đường kính chỉ khoảng bốn inch, đặt hơi lồi lên ở phần đầu nên nhìn từ xa trông có vẻ như hình chóp. Trên mỗi phần có thêm ba cánh để ổn định đường bay.

Khi châm ngòi, phần đuôi nhờ thuốc súng mà đẩy cả quả đạn bay đi. Đến khi thuốc của nó cháy hết cũng là lúc dây cháy chậm của phần đầu bắt lửa, cả hai phần được kết với nhau cũng tách rời ra. Lúc này, phần đầu có quả đạn đại bác nhỏ nặng hơn nên bắt đầu chúc xuống. Nhờ sức đẩy của khối thuốc thứ hai mà quả đạn lại lao nhanh xuống, thậm chí còn nhanh hơn hẳn so với lúc bay lên mấy lần. Điều gì sẽ xảy ra khi chạm đất thì mọi người không cần phải hỏi nữa.

Quay sang Augustus, Bàn hỏi:

- Augustus, Ngài thấy món quà này thế nào?

- Tốt… rất tốt… cậu em ạ. Loại vũ khí này tính ra cũng dễ chế tạo và gọn nhẹ. Chúng ta sẽ gấp rút chế ra ít nhất là hai mươi dàn phóng thế này cùng với một nghìn quả đạn. Tôi tin là trong vòng một tuần lễ nữa, chúng ta sẽ có món vũ khí mới.

Mọi người cùng cười ồ lên tán thưởng. Việc chế tạo hàng loạt cũng chính thức được thực hiện một cách gấp rút. Và việc gì đến cũng phải đến, ngày 25 tháng 10 năm 1798, Bàn cũng theo mọi người lên thuyền tiến về Ấn Độ.
 
Last edited:

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top