Luận Truyện Kinh Đào

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Kinh Đào là một tiểu thuyết dự án của mình và bạn phối hợp thực hiện.

Câu truyện xoay quanh 2 nhân vật hư cấu mang dòng dõi hoàng tộc của triều đại còn xót lại. Truyện lấy bối cảnh xuất hiện vào niên hiệu Nhân tông hoàng đế năm thứ nhất trị vì. vào khoảng năm 1278 sau khi Trần Thánh tông đã bỏ hoàng vị, nhường ngôi cho thế tử là Trần Khâm- Trần Nhân Tông đi tu , lấy pháp danh là Bất Tham . Triều đình bấy giờ do vị vua chèo chống. Cùng lúc đó nhà Tống ở phương Bắc bị quân Nguyên chiếm lĩnh, chúng không từ bỏ dã tâm tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Chúng đã chiếm được nước Đại Lý, sau đó tiếp tục tiến công Đại Việt nhằm tạo thế gọng kìm, diệt nhà Nam Tống.
Truyện bắt đầu bằng việc La Huyền đạo sĩ ( Hư cấu) đến mời Thánh tông thái thượng hoàng tham gia cuộc chiến chống quân nguyên mông lần thứ 2

Liệu Lý triều có thể thừa cơ hội đông sơn tái khởi?
Liệu Trần quốc công sẽ đối phó với quân Nguyên Mông như thế nào?
Các võ công Phật, Đạo, Nho sẽ được thể hiện ra sao?

Tất cả còn phụ thuộc vào sự đóng góp nhiệt tình của các bạn để mình có thể hoàn thiện hơn. mạch văn trôi chảy hơn.

Xin cám ơn.

Link đọc truyện : Tại đây
Chính Tâm đề tự.
Hòa Chính Tử sáng tác.
 
Last edited:

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Một số nét về nhân vật có trong lịch sử
Áp Lãng Chân Nhân
Chuyện về Áp Lãng Chân Nhân đã được tác giả Hồ Nguyên Trừng ghi lại trong sách "Nam ông mộng lục" như sau:
"Đời Tống Nhân Tông, nhà Lý nước An Nam đem binh thuyền đi đánh Chiêm Thành. Tới cửa Thần Đầu thì bỗng có sóng gió nổi lên liên tục mấy ngày liền, không sao qua được. Hoàng Đế nghe tin ở dãy núi gần đấy có vị Đạo Sĩ tu luyện một mình trong am, bèn cho mời tới để giúp việc cầu khẩn. Đạo Sĩ tới và nói rằng:
Đã có sức mạnh của phúc đức thì thần cam đoan rằng tất cả chẳng đáng phải lo. Ngày mai xin cứ việc lên đường, chớ ngại gì cả.
Nửa đêm hôm đó, trời bỗng ngưng nổi gió. Sáng sớm, khi quân vừa ra biển, trông xa vẫn thấy sóng cao như núi, nhưng binh thuyền tới đâu thì sóng yên tới đó. Bấy giờ lại còn thoáng thấy bóng Đạo Sĩ bước đi trên mặt nước, khi phía trước, lúc đàng sau, rõ ràng mà không sao gần tới được. Ngày trở về, tới cửa Thần Đầu, Đạo Sĩ ra để nghênh tiếp, Hoàng Đế vui mừng ủy lạo cho. Đạo Sĩ nói:
Thần biết Hoàng Đế có phúc lớn, chẳng có gì phải lo, tất cả là nhờ thần linh giúp đỡ chớ chẳng phải là do hạ thần.
Hoàng Đế lấy làm lạ, liền phong cho đạo hiệu là Áp Lãng Chân Nhân, ban thưởng cho Đạo Sĩ nhiều vàng và lụa, nhưng Đạo Sĩ không nhận. Sau, Đạo Sĩ vào núi mà không rõ đi đâu. Hoàng Đế hỏi người trong làng thì họ đều nói:
Từ dạo ấy, Đạo Sĩ đi hái lá làm thuốc, không thấy trở về am để ở.
Chân Nhân người họ La, còn tên thì chưa rõ, chỉ gọi theo đạo hiệu là Áp Lãng Chân Nhân. Đạo Sĩ từ hồi còn trẻ đã bỏ vợ con để đi học đạo. Trong số các con cháu của Chân Nhân, có La Tu đỗ Tiến Sĩ, làm quan thời Trần Nghệ Tông, được phong tới chức Thẩm Hình Viện Sứ rồi mất. Người này thì chính tôi có quen biết".
Trúc lâm thiền sư - Thánh Tông hoàng đế
(chữ Hán: 陳聖宗; 12 tháng 10, 1240 - 3 tháng 7, 1290) là vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 cho đến khi qua đời.
Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên Mông tạm thời không sang xâm lược nữa, tạo điệu kiện phát triển lực lượng hùng mạnh. Không những đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế và giáo dục, ông đã thực hiện chính sách đối ngoại khôn khéo, nhưng cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt chứ quyết không để cho người Nguyên sang thôn tính.Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với Nhân Tông hoàng đế lãnh đạo quân sĩ giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyên.
Ông còn là vị Hoàng đế có lòng thương dân và đặc biệt thân thiết với anh em trong Hoàng tộc, điều mà trước nay và sau này hầu như không có.
Ông tên thật là Trần Hoảng (陳晃) (sách Việt Sử Toàn Thư chép là Khoán) là con trai thứ, nhưng mà là con trưởng dòng đích của Trần Thái Tông và bà Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị. Ông sinh ngày 25 tháng Chín âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức 12 tháng 10 năm 1240) và ngay lập tức được lập làmĐông cung thái tử. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước khi Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu mang thai ông, vua Thái Tông nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu.
Trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1, vào ngày 24 tháng 12 năm 1257 (năm Nguyên Phong thứ bảy), Thái tử Hoảng cùng với vua cha Thái Tông ngự lâu thuyền mà kéo quân đến Đông Bộ Đầu, đập tan tác quân Nguyên Mông trong trận đánh ở đây, buộc họ phải rút chạy và chấm dứt cuộc xâm lược Đại Việt.
Ngày 24 tháng Hai niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (tức 30 tháng 3 năm 1258), Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, về Bắc cung làm Thái thượng hoàng, mong muốn ông sẽ nắm thêm về đường lối trị quốc và mai này các anh em của ông sẽ cùng chung sống hòa đồng với nhau. Trần Thánh Tông lên ngôi, đổiniên hiệu là Thiệu Long, xưng làm Nhân Hoàng (仁皇), tôn Thái Tông Thượng hoàng đế là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Triều thần dâng tôn hiệu cho ông là Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quảng Hiếu Hoàng đế.
Vua Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị. Vào năm Tân Dậu 1261, ông phong cho em là Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải làm Thái úy, chứ không phong cho Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang do ông này kém tài năng.
Thánh Tông được xem là một vị vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. Ông thường nói rằng:
Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung

Do vậy, trong nội cung khi ăn uống nô đùa không có phân tôn ti trật tự, các hoàng thân trong nội điện thường ăn chung một cỗ và cùng ngủ trên một giường với nhau, rất là đầm ấm, chỉ lúc nào có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo lẽ phép.
Trần quốc công - Hưng Đạo vương
Trần Hưng Đạo (chữ Hán: 陳興道; ? - 1300), còn được gọi là Hưng Đạo Vương (興道王), tên thật là Trần Quốc Tuấn(陳國峻); là một nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, và là nhà vănViệt Nam nổi tiếng thời Trần.
Trần Quốc Tuấn là con trai An Sinh Vương Trần Liễu, gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột , và Công chúa Thụy Bà (chị ruột của vua Trần Thái Tông, và là cô ruột Trần Quốc Tuấn) là mẹ nuôi của ông. Ông quê quán ở phủ Thiên Trường, thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định ngày nay.
Không rõ năm sinh của Trần Hưng Đạo. Các tài liệu ghi chép khác nhau về năm sinh của ông. Hoàng Thúc Trâm cho rằng ông sinh khoảng 1228-1231, Trần Xuân Sinh cho rằng ông sinh đầu năm 1229, có tài liệu khác lại cho rằng ông sinh năm 1228, hoặc vào khoảng 1226-1229.
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có "dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người", và nhờ "được những người tài giỏi đến giảng dạy" mà ông sớm trở thành người "đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ".
Bát t.ư Ba
Bát t.ư Ba, thần đồng của phật giáo Tây Tạng, người nắm trong tay vận mệnh của giáo phái phật môn Sakya, cũng là người nắm trong tay vận mệnh của phật giáo Tây Tạng. Cậu đã mang trên đôi vai gánh nặng từ khi sinh ra, và sẽ mang gánh nặng đó đến hết cuộc đời. Với tuổi đời còn rất trẻ, Bát t.ư Ba với tài năng và trí tuệ của mình, trở thành thượng sư trong phủ của Hốt Tất Liệt. Với thân phận và trách nhiệm nặng nề như vậy, vốn dĩ tình yêu đôi lứa, thành gia lập thất không nằm trong cuộc đời của Bát t.ư Ba…
Với chất giọng khàn khàn do bôn ba sương gió, chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm, làn da ngăm đen, và nhất là đôi mắt long lanh, tuôn trào sống động, Bát t.ư Ba đã làm xiêu lòng con hồ ly tinh màu lam kỳ lạ. Nó đã theo anh em Bát t.ư Ba rong ruổi qua hàng nghìn dặm đường sương gió, cùng cậu bước qua những thăng trầm của lịch sử với một tình yêu mãnh liệt, được ràng buộc qua lời thề độc bảo vệ anh em Bát t.ư Ba đến hết cuộc đời..
Lục tổ Huệ Năng
Huệ Năng 638-713, đắc đạo lúc chưa xuất gia, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông, môn đệ và pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng Sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành t.ư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Namqua các vị như Thảo Đường, Nhất Cú Tri Giáo, Vô Ngôn Thông và Chuyết Công.
Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau:
Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa Kiến tính. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau:
Bồ-đề bổn vô thụ,
minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật,
hà xứ hữu (nặc) trần ai?

Bồ-đề vốn chẳng cây,
gương sáng cũng chẳng phải là đài
Xưa nay không một vật,
nơi nào dính bụi trần?
 
Last edited:

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Một số nét về sự kiện có trong lịch sử
Ba lần chống quân Nguyên Mông
lần thứ nhất
Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giữ quyền "tiết chế" để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn" .

Quân Mông Cổ bị đánh đuổi không lâu sau đó. Do hiềm khích giữa cha ông với gia đình Trần Thái Tông trước đây, sau khi đánh đuổi được quân Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Còn con vua Thái Tông là hoàng tử Trần Quang Khải không lâu sau được phong tước Đại vương và thăng làm Thái úy.

Lần thứ hai
Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt. Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành....

Đầu năm 1277, Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Trần Quang Khải đi theo, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm t.ư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:

"Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm t.ư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".
Khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.

Sau đó, Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước. Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng tốt.

Đầu năm 1281, vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt sai Sài Xuân đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu... Vua (Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông..."

Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việt với nhà Nguyên đến gần. Tháng Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.

Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Những trận đánh chặn ở biên giới của nhà Trần thất bại, quân Trần bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.

Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Trần rút lui. Toàn bộ quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long.. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân.

Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng".

Sau trận quân nhà Trần phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ (do sự phản bội của Trần Kiện), đại quân Trần chỉ lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông rút về vùng bờ biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng ngày nay, là nơi mà quân Nguyên chưa vươn tới. Trong hành trình rút lui, quân Trần bị quân Nguyên đuổi gấp. Trước thế quân Nguyên Mông bức bách, ông đưa hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn địch. Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, lại còn mối hiềm cũ của Trần Liễu, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy không mà đi, bởi vậy hai vua Trần và mọi người khỏi nghi ngại.

Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285, Trần Hưng Đạo lại đưa 2 vua Trần cùng đại quân vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp của đối phương. Hàng loạt tông thất nhà Trần ra hàng quân Nguyên như hoàng tử Trần Ích Tắc, các hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiện.

Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, các cánh quân Trần do Trần Hưng Đạo cùng các hoàng tử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật chỉ huy thắng lợi ở Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,... quân dân nhà Trần đã tiến vào Thăng Long, hoàng tử Thoát Hoan nhà Nguyên bỏ chạy. Trần Hưng Đạo và Trần Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên đại bại rút chạy về phía Bắc. Quân Trần do con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy truy kích đến tận biên giới, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống đồng để chạy trốn. Trong cuộc chiến này, quân Trần giết được tướng Nguyên là Toa Đô và Lý Hằng.

Lần thứ ba
Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi ông: "Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: "Năm nay đánh giặc nhàn". Lần này biết nhà Trần đã phòng bị ở Thanh - Nghệ, Thoát Hoan tiến thẳng vào từ phía bắc và đông bắc. Sau những cuộc đụng độ bất lợi ở biên giới, quân Trần rút lui. Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Trần nấp trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút lui.

Trong khi đó, đoàn thuyền lương quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy bị Trần Khánh Dư chặn đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do bị thiếu lương và bệnh dịch, Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy. Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng t.ư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288), bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần".

Bài thơ đề tự: Bài Cư Trần Lạc Đạo
Nhân Tông hoàng đế có trước tác bài Cư trần lạc đạo phú, dài mười hội, cuối bài phú có bốn câu kệ. Xưa nay, bài phú dài ít người thuộc, nên khi nhắc Cư trần lạc đạo thường khiến mọi người nhớ đến bài kệ:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xa hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.


Dịch nghĩa:
"Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa
”.
Bài thơ bản lai vô nhất vật:
Bồ-đề bổn vô thụ,
minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật,
hà xứ hữu (nặc) trần ai?

Bồ-đề vốn chẳng cây,
gương sáng cũng chẳng phải là đài
Xưa nay không một vật,
nơi nào dính bụi trần?
 
Last edited:

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Một số nét về Địa danh có trong lịch sử

Cửa biển Thần Phù

Cửa Thần Phù là vốn là một cửa biển hiểm yếu xa xưa nằm trên con đường hành quân Nam tiến của người Việt nên được gắn với nhiều truyền thuyết ly kỳ trong dân gian và sử sách. Cửa Thần Phù ngày nay đã bị phù sa bồi đắp và trở thành vùng đất nằm cách bờ biển hơn 10 km. Trước đây khu vực này thuộc tỉnh Ninh Bình, dưới thời Nguyễn, một phần được tách về tỉnh Thanh Hóa. Cửa biển Thần Phù hiện nằm trên tuyến sông Nhà Lê, thuộc ranh giới giữa 2 xã Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình và Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa. Khu vực Thần Phù nay thuộc lưu vực sông Càn, con sông cùng với dãy núi Tam Điệp là ranh giới giữa 2 miền Trung - Bắc Việt Nam.
Theo Nam Ông mộng lục, Vua Lý Thái Tông (có thuyết lại cho rằng vua Trần) mang quân Nam chinh dẹp Chiêm Thành, đến cửa biển Thần Phù gặp gió to sóng dữ, không đi được; may nhờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường dẹp yên sóng dữ. Khi ban sự trở về, đạo sĩ mất ở dọc đường. Vua cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là "Áp Lãng Chân Nhân" (người dẹp yên được sóng dữ). Hiện nay đền thờ và những di chứng khác vẫn còn ở thôn Yên Phẩm và Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Đại thiện tự - cố đô Hoa Lư (Địa danh hư cấu)
Đại thiện tự là 1 địa danh hư cấu , Chùa được xây dựng trên khu vực Hang Cả . Nơi Thái Tông hoàng đế từng xuất gia tu hành. Nằm ngay tại đất cố đô Hoa Lư ngày xưa. Sau này đến thời Thánh Tông thì cho xây dựng hành cung Lâm Vũ. Trong cung bao gồm nhiều công trình cung điện, chùa chiền. Là nơi ẩn cư của hoàng đế thời Trần sau khi thoái vị.

-Một vài thông tin về Hang cả
Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất (1258) vua Trần Thái Tông 40 tuổi, đã nhường ngôi cho con và trở về vùng núi Trường Yên lập am Thái tử để tu hành, mở đầu cho việc xây dựng hành cung Vũ Lâm[1]
Vua Trần Thái Tông (1255 - 1258)[2] đã dựng một am nhỏ trên vạt đất cao gần Hang Cả của danh thắng (Tam Cốc) làm nơi tu hành. Nơi đây vẫn còn di tích một khu đất rộng khoảng hơn một sào, cao hơn mặt ruộng được gọi là Vườn Am. Nhà vua đã cho dựng am Thái Vi ở đây, chiêu mộ dân lưu tán đến để khai hoang lập ấp, mở mang đường giao thông, tôn tạo những nơi xung yếu, chuẩn bị sẵn sàng với tình thế khẩn trương, một khi chiến tranh chống xâm lược lại nổ ra. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình, dưới sự chủ trì của Trần Thái Tông đã được tổ chức ở đây. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Nguyên Mông lần thứ hai năm 1285, khu Hành cung Vũ Lâm trở thành căn cứ địa vững chắc của quân dân đời Trần.

Vũ Lâm là nơi xuất gia tu Phật đầu tiên của đức Phật hoàng Trần Nhân tông. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Thượng hoàng đến Vũ Lâm vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền" Thời gian này vào khoảng tháng 7 năm Giáp ngọ (1294). Sang năm Ất mão (1295) Đại Việt sử ký toàn thư tờ 540 lại ghi: "Mùa hạ, tháng 6, thượng hoàng về kinh sư. Đã xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, lại trở về vậy".
Sách "Khâm định đại Việt sử thông giám cương mục" cho biết rõ hơn là hành cung Vũ Lâm ở huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình: "ở đây núi non trùng điệp, trong ruột núi có hang, chu vi núi non rộng đến vài mươi mẫu, bên ngoài có con sông nhỏ quanh co khuất khúc, thông vào núi, thuyền nhỏ có thể chở vào được"
Ải Chi Lăng
Ải Chi Lăng cấu thành từ một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi, phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài-Thái Họa và phía Tây là núi đá Kai Kinh (Cai Kinh) dựng đứng. Con sông Thương ngoằn ngoèo chảy dọc theo thung lũng, bên con đường quốc lộ số 1A mà trước kia là đường cái quan lên biên giới, xuôi về kinh đô. Con đường sắt xuyên Việt với ga trung tâm là ga Trăm Năm (cách Hà Nội 105 km), được xây dựng từ thời Pháp thuộc tạo thuận lợi cho thông thương lên vùng Đông Bắc Việt Nam và ít nhiều làm giảm tính chất hiểm địa của cửa ải.
Những ngọn núi thấp rải rác dọc thung lũng và trấn ven đường cái quan như núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài 5 km, rộng khoảng 3 km.
Tại Ải Chi Lăng còn có Thành Chi Lăng ở vào cây số 109 tính từ Hà Nội và tới cây số thứ 154 thì tới tỉnh lỵ Lạng Sơn, theo Đi thăm đất nước của Hoàng Đạo Thúy. Theo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội (nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ 20).
Phía nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn, một khối có hình dáng giống như thanh kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm (thanh kiếm của vua Lê Thái Tổ) và một tượng đá có hình dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch (tức đá Liễu Thăng, ám chỉ tướng Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu tại ải)
Quỷ Môn quan
Xã Chi Lăng có Ải Chi Lăng và Quỷ Môn Quan. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn dẫn sách Hoàn Vũ Ký của Trung Quốc cho biết Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu (Bắc Lưu thuộc châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây Trung Quốc), cách huyện lỵ Bắc Lưu khoảng 30 dặm. Tại cửa quan này có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng 30 bước, tục gọi Quỷ Môn Quan. Mã Viện đánh Việt Nam qua đấy dựng bia và tạc rùa đá. Đời nhà Tấn (265-420) binh lính Trung Hoa qua đó bị giết nhiều nên có câu
Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn

Dịch nghĩa là "Ải cửa Quỷ, Ải cửa Quỷ! Mười người đi, một người về". Theo Phương Đình dư địa chí, xã Chi Lăng có quan lộ hẹp, núi đá hiểm trở, sông sâu nước độc được gọi là Quỷ Môn Quan.
Thời Lê Trung Hưng sứ Trung Hoa sang Việt Nam sắc phong, ghét tên Quỷ Môn Quan nên đổi gọi bằng tên Úy Thiên Quan. Theo Việt Hoa thông sứ sử lược của Bế Lãng Ngoạn và Lê Văn Hòe, sứ bộ Việt Nam trên bước đường thiên lý sang Trung Hoa đều dừng tại Quỷ Môn Quan trước khi tiến đến Ải Nam Quan. Như vậy, Quỷ Môn Quan chính là một phần không thể tách rời của Ải Chi Lăng.
 
Last edited:

archnguyen1984

Phàm Nhân
Ngọc
732.235,35
Tu vi
0,00
Chào mừng huynh đệ cùng bạn với dự án đang tiến hành này! :64:

Tại hạ hiện thời có một góp ý nhỏ thôi. Vì hai tác giả đều là người mình, bối cảnh câu chuyện tới nhân vật cũng là người mình nốt, nên trong truyện từ lời đề tự tới nội dung cố gắng dùng câu, từ thật thuần việt nhé. Bọn mình sẽ theo dõi và ủng hộ, góp ý nhiệt tình :yob38::hayhay:
 

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
hi cám ơn bạn nhiều nhé.
_ Mình đã cân nhắc rất kỹ rồi ấy, từ Hán Việt cũng là thuần việt mà bạn. Chữ quốc ngữ được giáo sĩ phương Tây i-ne-khu tạo ra do nhu cầu giao tiếp và truyền giáo của ông khi đến Việt Nam năm 1533. Khi đó Việt Nam mình vẫn sử dụng thông dụng song song 2 bộ chữ viết là Hán và Nôm. Cho nên về thực tế thì từ Hán Việt vẫn nằm trong bộ chữ quốc ngữ, chỉ là ngày nay ít dùng mà thôi.
_ Hơn nữa trước năm 1533 thì người Việt vẫn sử dụng chữ Hán và chữ Nôm thì ko thể nói chữ Hán và chữ Nôm không phải thuần Việt được, vì dân ta có cách sử dụng tiếng Hán kết hợp Nôm hoàn toàn khác Trung Quốc. Việc sử dụng Hán Việt cũng giống như người Nhật. Họ sử dụng 3 bộ chữ cái là kanakata Hiragana và Kanji trong đó bộ Kanji là tiếng Hán, nhưng là tiếng Hán của người Nhật. Bộ Hangul Hàn Quốc thỉnh thoảng vẫn có chữ Hán xuất hiện.
_ Tiếng Hán ( hay nói đúng hơn là bộ chữ tượng hình) là kết quả sáng tạo của các dân tộc phương Đông bắt đầu từ thời Hoàng Đế sáng tạo ra chữ viết rồi lan truyền khắp khu vực châu Á. Các dân tộc sử dụng và đều có sự biến đổi riêng để phù hợp với dân tộc của mình. Cho nên chữ tượng hình là thành quả sáng tạo của nhân loại . Trung quốc khác mà bạn. Nên theo mình nghĩ chữ Hán Việt vẫn là thuần việt như thường :D
_ Một phần nữa với bối cảnh nhà Trần thì thời này sử dụng Hán - Nôm là chính. Thực sự nếu mình viết bỏ đi các từ Hán việt thì rất khó cho mình để diễn tả không khí cũng như mạch văn. Chữ Nôm thì mình lại rất kém nên khó sử dụng.

Tuy nhiên mình xin cám ơn bạn rất nhiều. Mình sẽ hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng các từ Hán việt để cho cảm giác câu truyện được mới mẻ hơn.
:3:
 

tiểu toán bàn

Phàm Nhân
Ngọc
551,43
Tu vi
0,00
Thực sự mình cũng không bít góp ý gì thấy bối cảnh nhân vật là lấy từ sử ta mình rất thích mong bạn hãy dùng nnhiều tới các di tích lịch sử và các nhân vật của viet nam chớ nên vay muon nhiều bên trung quốc mà đánh mất cái nét đặc trưng của tác phẩm việt.dân ta phải biết sử ta lịch sử vietnam hào hùng khí phách đâu kém gì trung quốc mà phải vay mượn địa danh trung quốc . các địa danh gắn liền với các chiến tich lịch sử mình có rất nhiều ban có thể tham khảo.các tác phẩm thời xưa mình có rất nhiều và hay như hoàng lê nhất thống chí.mong rằng với bối cảnh vietnam ta thì lão đừng để râu ông này cắm cằm bà kia. Rất nhiều tác giả vietnam rất k để ý vay mượn bên truyện tàu Rất nhiều làm mất đi nét đặc trưng của truyện việt. Tài k bằng người viết k bằng họ rồi chẳng ai đọc.vay mượn chỉ là cuối cũng là vay mượn lúc bí k bít dựa vào đâu nản bỏ giữa chừng.mong rằng lão k đi vào lối mòn đó.người vietnam mình cũng có tính dân tộc mà viết về dân tộc sẽ nnhiều người ủng hộ.
 

tiểu toán bàn

Phàm Nhân
Ngọc
551,43
Tu vi
0,00
hi cám ơn bạn nhiều nhé.
_ Mình đã cân nhắc rất kỹ rồi ấy, từ Hán Việt cũng là thuần việt mà bạn. Chữ quốc ngữ được giá sĩ phương Tây i-ne-khu tạo ra do nhu cầu giao tiếp và truyền giáo của ông khi đến Việt Nam năm 1533. Khi đó Việt Nam mình vẫn sử dụng thông dụng song song 2 bộ chữ viết là Hán và Nôm. Cho nên về thực tế thì từ Hán Việt vẫn nằm trong bộ chữ quốc ngữ, chỉ là ngày nay ít dùng mà thôi.
_ Hơn nữa trước năm 1533 thì người Việt vẫn sử dụng chữ Hán và chữ Nôm thì ko thể nói chữ Hán và chữ Nôm không phải thuần Việt được, vì dân ta có cách sử dụng tiếng Hán kết hợp Nôm hoàn toàn khác Trung Quốc. Việc sử dụng Hán Việt cũng giống như người Nhật. Họ sử dụng 3 bộ chữ cái là kanakata Hiragana và Kanji trong đó bộ Kanji là tiếng Hán, nhưng là tiếng Hán của người Nhật. Bộ Hangul Hàn Quốc thỉnh thoảng vẫn có chữ Hán xuất hiện.
_ Tiếng Hán ( hay nói đúng hơn là bộ chữ tượng hình) là kết quả sáng tạo của các dân tộc phương Đông bắt đầu từ thời Hoàng Đế sáng tạo ra chữ viết rồi lan truyền khắp khu vực châu Á. Các dân tộc sử dụng và đều có sự biến đổi riêng để phù hợp với dân tộc của mình. Cho nên chữ tượng hình là thành quả sáng tạo của nhân loại . Trung quốc khác mà bạn. Nên theo mình nghĩ chữ Hán Việt vẫn là thuần việt như thường :D
_ Một phần nữa với bối cảnh nhà Trần thì thời này sử dụng Hán - Nôm là chính. Thực sự nếu mình viết bỏ đi các từ Hán việt thì rất khó cho mình để diễn tả không khí cũng như mạch văn. Chữ Nôm thì mình lại rất kém nên khó sử dụng.

Tuy nhiên mình xin cám ơn bạn rất nhiều. Mình sẽ hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng các từ Hán việt để cho cảm giác câu truyện được mới mẻ hơn.
:3:
MÌnh đồng ý với bạn nếu là thời xưa thì dùng hán việt k sao cả.quan trọng là nhân vật bối cảnh địa danh điển tích đừng đem vay mượn trung quốc day la tối kỵ. Nếu chuyển map bên trung quốc thì k sao.
 

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Thực sự mình cũng không bít góp ý gì thấy bối cảnh nhân vật là lấy từ sử ta mình rất thích mong bạn hãy dùng nnhiều tới các di tích lịch sử và các nhân vật của viet nam chớ nên vay muon nhiều bên trung quốc mà đánh mất cái nét đặc trưng của tác phẩm việt.dân ta phải biết sử ta lịch sử vietnam hào hùng khí phách đâu kém gì trung quốc mà phải vay mượn địa danh trung quốc . các địa danh gắn liền với các chiến tich lịch sử mình có rất nhiều ban có thể tham khảo.các tác phẩm thời xưa mình có rất nhiều và hay như hoàng lê nhất thống chí.mong rằng với bối cảnh vietnam ta thì lão đừng để râu ông này cắm cằm bà kia. Rất nhiều tác giả vietnam rất k để ý vay mượn bên truyện tàu Rất nhiều làm mất đi nét đặc trưng của truyện việt. Tài k bằng người viết k bằng họ rồi chẳng ai đọc.vay mượn chỉ là cuối cũng là vay mượn lúc bí k bít dựa vào đâu nản bỏ giữa chừng.mong rằng lão k đi vào lối mòn đó.người vietnam mình cũng có tính dân tộc mà viết về dân tộc sẽ nnhiều người ủng hộ.

_Uhm đúng rồi bạn, tụi mình đang cố gắng nghiên cứu và sắp xếp, sẽ đưa vào các địa danh, điển tích của sử Việt. Tuy nhiên do là truyện nên đôi khi nhóm mình phải hư cấu 1 chút. Nhưng nếu là địa danh hư cấu thì sẽ là bịa chứ ko lấy của Trung Quốc.
_Vd như cửa biển Thần Phù ở chương 2 là 1 cửa biển cũ ở Thanh Hóa. Ở đó còn có đền Áp Lãng chân nhân xưa nữa :3 . Ở đây mình sẽ cố gắng update thêm thông tin để mọi ng đọc nhé.
Cám ơn góp ý của bạn rất nhiều. Sẽ còn nhiều tập tục văn hóa khác tụi mình sẽ cố gắng lồng ghép. Tự hào là người Việt chứ ko phải ng Tàu :D
:54:
 

tp1307

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Bài thơ đề tự . Các bạn đọc thêm cho vui nhé
2 câu đề tự chương 1, nằm trong 4 câu kệ cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xa hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.


Bài kệ trên, dịch nghĩa là thế này:

"Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa
”.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top