[Sáng Tác] Huyết Mạch Đại Đế - HAIVU2020

HAIVU2020

Phàm Nhân
Ngọc
9,50
Tu vi
0,00
LỜI MỞ ĐẦU
Bí sử…
Hậu thế muôn đời tôn kính Quang Trung Nguyễn Huệ - vị hoàng đế thiên tài, người đã khắc tên mình vào lịch sử với những chiến công lẫy lừng làm chấn động cả một thời đại.
Thế nhưng, trong những năm tháng bão lửa ấy, còn có một nhân vật khác - một cái tên từng cùng Nhà Vua xông pha nơi trận mạc, chia lửa cùng sơn hà, góp phần viết nên những trang sử huy hoàng thay đổi vận mệnh đất nước.
Đây là bản thiên anh hùng ca chưa từng được kể - về những con người phi thường, và những bí mật bị chôn giấu trong lớp bụi thời gian, giờ đây đang dần được hé lộ...
Cuối thế kỷ XVIII - một quốc gia trụ vững, phát triển vượt bậc giữa phong ba bão táp của thời đại; những chiến thắng long trời lở đất, những trận chiến vang dội non sông, những cuộc đấu trí trên chiến địa và chốn hoàng cung chưa từng có tiền lệ...
Một bí sử.
Một thiên anh hùng ca.
Một vầng hào quang chưa từng lụi tắt…
Để rồi, Nhân dân đời đời tạc dạ ghi ơn...
Và trao tặng họ một danh xưng thiêng liêng, cao quý nhất…

Tác Giả: HAIVU2020
Số Tài Khoản: 0441003690728 - VIETCOMBANK
Điện thoại: 0931150684
 

HAIVU2020

Phàm Nhân
Ngọc
9,50
Tu vi
0,00
Chương 1. Huyết Long Quy Tông

Thành phố Thành phố những ngày tháng t.ư oai hùng kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày non sông liền một dải. Cơn mưa đầu mùa lất phất rơi, như muốn gột rửa bụi thời gian trên những đại lộ từng chứng kiến đoàn quân chiến thắng tiến về Dinh Độc Lập năm nào. Ánh đèn hòa với quốc kỳ rực rỡ giăng đầy đường tạo nên một khung cảnh vừa thiêng liêng, vừa tráng lệ. Giữa lòng đô thị sầm uất đang hòa vào bản anh hùng ca ấy, trong một đêm mưa, đèn đường vàng vọt hắt lên khuôn mặt người thanh niên đang cặm cụi bên giá gỗ cũ, giữa một căn phòng nhỏ chất đầy sách sử, bản đồ cổ và những món đồ lưu truyền từ thời Tây Sơn.

Nguyễn Minh, tân thủ khoa trẻ tuổi Đại học Bách khoa TPHCM và Học viện kỹ thuật quân sự, nổi tiếng trong thế hệ thanh niên đương thời với lòng yêu nước nồng nàn, khả năng kỹ thuật, chế tạo cơ khí, vũ khí và thành danh từ rất sớm trong giới nghiên cứu lịch sử nhờ thành tích học tập, nghiên cứu thực tiễn cùng trí nhớ siêu phàm, khả năng đọc hiểu Hán Nôm và niềm đam mê bất tận với triều đại Tây Sơn. Trong suốt những năm tháng tuổi trẻ, Nguyễn Minh luôn khao khát đi tìm lời giải cho một giấc mộng không tên của chính mình…

Nhiều năm liên tiếp, cậu thường mơ thấy mình đứng giữa trận tiền lửa khói, bên một người mặc chiến bào vàng, ánh mắt như lửa, giọng nói vang dội như sấm dội giữa non sông:

“Con là máu thịt của ta. Đại Việt này, phải có người giữ lấy hồn non nước”

Giấc mơ kỳ lạ đến ám ảnh, không có lời giải, không ai hiểu được… Cụ nội Minh từng là một thầy đồ ẩn cư vùng Nghệ An, người duy nhất trong dòng họ giữ một bí mật lớn. Trước khi mất, ông đã trao cho Minh một chiếc tráp gỗ mun bọc đồng, kèm lời dặn nghiêm cẩn:

“Hãy mở nó khi trời nổi sấm mà không mưa, vào giờ tý đúng ngày Rằm tháng Giêng.”

Ông mất ngay hôm sau. Chiếc tráp được niêm kín suốt mười năm. Minh chưa bao giờ dám mở.

Năm đó, khi Minh vừa tròn 18 tuổi - tuổi trẻ với bao hoài bão và ước mơ, trời cũng nổi sấm giữa đêm rằm. Không mưa. Gió lặng. Đồng hồ chỉ đúng 23 giờ 45.

Minh run tay mở tráp.

Bên trong là ba món vật kỳ lạ: (1) Một miếng ngọc bội khắc chữ “Quang”, cũ kỹ nhưng còn linh khí. (2) Một lá cờ nhỏ màu đỏ, thêu ngôi sao bằng chỉ vàng, nếp gấp còn nguyên. (3) Một bức thư viết bằng mực son, đã nhòe nửa chữ, nhưng vẫn đọc được hàng đầu.

“Nếu con là huyết mạch nhà ta, hãy nhớ:
Nơi ngươi rơi xuống, là nơi tổ phụ ngươi từng khởi binh.
Ngọc bội là tín vật. Cờ đỏ là hồn quân dân.
Huyết mạch ta sẽ quay lại.”
Ngay lúc đó, một tia sét xé ngang bầu trời, ánh sáng trắng xóa bao trùm căn phòng.

Vị thanh niên trẻ tuổi giật mình ngẩng lên. Trong thoáng chốc, cậu thấy cả bầu trời Phú Xuân đỏ lửa hiện lên sau lưng mình. “Vị hoàng tử tài hoa nhất của Quang Trung hoàng đế không bao giờ chết. Người chỉ hòa quyện vào nhân dân” lời cụ nội năm xưa vang lên. Tay Minh vô tình chạm vào ngọc bội. Một tiếng nổ vang lên. Ánh sáng chói lòa. Tất cả xoay cuồng.

Minh choàng tỉnh, trái tim đập thình thịch như trống trận. Anh chống tay ngồi dậy, tay vẫn còn run run vì cảm giác rơi xuyên qua một cơn lốc ánh sáng. Mùi khét lẹt của thuốc súng, tro bụi ngai ngái quện với hương cỏ dại bị giẫm nát dưới gót giày, mọi thứ đều thật... thật quá mức.

Anh ngẩng đầu nhìn cổng thành đồ sộ sừng sững trước mặt - không phải bê tông, không phải thép - mà là đất nung, từng viên một, được nén chắc thủ công như trong sách lịch sử. Hai tên lính đứng gác cau mày nhìn anh, áo giáp vải nhuộm chàm, tay lăm lăm trường thương, dáng dấp hệt như bước ra từ tranh cổ.
Minh lắp bắp:
- Chuyện gì đang diễn ra vậy...? Đây là đâu?
Ánh mắt anh dừng lại trên lá cờ đang tung bay phần phật trong gió - nền đỏ rực, chính giữa thêu hình trống đồng… chắc chắn là cờ hiệu của Tây Sơn. Tim anh như ngừng đập.
- Không thể nào… Cờ Tây Sơn?
Anh thở gấp, đưa tay sờ túi quần áo - vẫn còn chiếc điện thoại đã tắt ngúm và một số đồ vật anh mang theo...

Một người đàn ông râu quai nón, áo trận bạc màu, nhìn Minh sững sờ:
- Ngươi là ai? Sao mang cờ quân kỳ Hoàng gia Tây Sơn ta?
Minh chưa kịp trả lời, người lính đã rút dao, kéo tay áo cậu lên - và sững sờ khi thấy miếng vải thêu hình rồng giắt ở cổ tay.
- Trời ơi… kim lệnh của Hoàng tử Nguyễn Quang Minh?
Minh giật mình: Quang Minh? Người trong mộng… cũng tên ấy. Người lính lặng người, rồi quỳ sụp: – Thần là hộ vệ cũ của Hoàng tử Quang Minh. Trước khi mất tích, người từng truyền: “Một ngày nào đó, ta sẽ về giữa lửa chiến. Huyết mạch tương thông. Kim Long hiện ra, ngày ta trở lại”. Dao rút. Máu chảy.
Trên miếng ngọc bội “Quang”, tia sáng đỏ bùng lên. Vết rồng hiện rõ, lấp lánh như máu chảy. Gió bỗng nổi lên. Cờ phần phật. Lính hai bên quỳ rạp xuống đất. Từ xa, một giọng trầm hùng vang lên:
“Đem về. Bệ hạ đang đợi. Gió xưa đã trở lại…”

Mùa xuân năm Kỷ Dậu - 1789

Gió Lào vẫn cuộn mình qua những dãy núi bạc màu miền Trung, thổi tràn hơi nóng chiến thắng vào lòng đất Đại Việt. Trận Ngọc Hồi – Đống Đa vừa qua, máu quân Thanh còn chưa kịp se trên cỏ Bắc Thành, xương giặc chất thành đồi, gươm Việt nhuốm đỏ trời xuân. Tiếng trống trận, tiếng quân reo vẫn văng vẳng trong gió, như nhắc nhở thiên hạ rằng Tây Sơn là trời, Tây Sơn là đất, Tây Sơn là khí phách non sông. Nhưng khi giang sơn tạm ngưng tiếng binh đao, ngay giữa chính điện Phú Xuân - thủ phủ mới của vương triều Tây Sơn - một cơn sóng ngầm khác lại nổi lên. Một biến động âm thầm mà dữ dội, khiến cả triều đình bàng hoàng, khiến lòng người chao đảo, khiến ngay cả những tướng tài dạn dày trận mạc cũng phải lặng người sững sờ…

Bấy giờ, Quang Trung hoàng đế ngự giữa ngai vàng sơn son thếp vàng, tay cầm ngọc ấn, áo bào uy nghiêm. Quần thần chầu chực đông đủ: bên trái là Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết… bên phải là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… và cả những học sĩ mới tiến cử sau chiến thắng vang vọng núi sông.

Chàng trai trẻ tài hoa Nguyễn Minh, tuổi vừa tròn 18, tóc đen như mực, ánh mắt như gương cổ trầm. Mang theo một bọc gấm đỏ, bên trong là những vật rất kỳ lạ:
Một ngọc bội hình rồng khắc chữ “Quang”; Một thanh “Thiết hỏa trảo” - vật như ống đồng, có cơ quan phát ra âm thanh chấn động; Một tấm “Hộ tâm chú cơ” -miếng kim loại mỏng đeo ngực, trơn như gương đá.

Hoàng đế Quang Trung đích thân truyền vào điện.
Lần đầu tiên được diện kiến Quang Trung hoàng đế, Nguyễn Minh gần như nín thở. Đó không còn là vị vua trên trang sử, cũng không phải nhân vật trong những giấc mơ cháy bỏng thuở thiếu thời - mà là một con người bằng xương bằng thịt, đầy khí phách lẫm liệt, đôi mắt thâm sâu như chứa cả linh hồn của non sông, ngọn lửa chưa từng tắt của dân tộc.
Ngài cao lớn, bệ vệ hơn Minh từng tưởng tượng, dáng vẻ uy nghi khiến cả gian điện như lặng đi khi vua cất bước. Ánh mắt ấy - ánh mắt từng nhìn thẳng vào quân Thanh mà không run sợ nay đang nhìn Minh, ấm mà nghiêm, lạnh mà sáng như thép tôi. Trong khoảnh khắc ấy, Nguyễn Minh bất giác thấy lòng mình dâng trào: là tự hào, là run sợ, là cảm xúc của người hậu thế gặp lại người cha thiêng liêng của cả một thời đại.
Cậu quỳ xuống, trán chạm đất, giọng nghẹn lại:
- Tâu... Bệ hạ...
Chỉ hai chữ ấy thôi, nhưng cả tâm can Minh như vỡ ra. Trước mặt cậu là người từng làm nên trận Ngọc Hồi – Đống Đa lẫy lừng, người gầy dựng cả một triều đại từ tro tàn, người đã gieo vào sử Việt một thời khắc huy hoàng.
Trước vị quân vương ấy, lòng ngưỡng mộ của cậu thật như suối nguồn dâng trào không thể ngăn. Cậu thấy mình nhỏ bé trước ánh mắt ấy, nhưng cũng thấy mình được nâng đỡ bởi chính sự hiện diện của người. Người là Quang Trung Hoàng đế vĩ đại. Là gốc rễ. Là hồn thiêng của đất Việt.

Ngay khi truyền nhận ngọc bội, nét mặt vua biến sắc…

- Đây là ngọc tổ ta từng giao cho Quang Minh trước lúc Bắc tiến…

Ngài không vội kết luận. Chậm rãi, rút đao, chỉ vào ngực mình:

- Ta cắt máu. Ngươi cũng vậy. Nếu là huyết mạch của Trẫm, trời đất tự có an bài, ngọc kia sẽ sáng.

Cả triều nín thở.

Nhà vua và Nguyễn Minh cùng cắt máu, nhỏ lên ngọc bội “Quang”.

Ngọc phát sáng, phun ra khói đỏ hình rồng, vút lên nóc điện, khiến cờ Tây Sơn tung bay, trống trận tự đập liên hồi…

Tiếp theo, vua lấy từng vật:
Ấn đồng mặt trời: nhỏ máu Minh - không phát hiện gì. Nhỏ máu nhà vua - không gì. Khi cả hai máu cùng nhỏ, ấn nóng dần, rực sáng như mặt trời non.
Thiết hỏa trảo: khi vua chạm tay, phát ra tiếng ngân. Khi Minh chạm tay, nó tự động khởi cơ, phát ánh chớp đỏ.
Hộ tâm chú cơ: khi đặt lên ngực Minh, máu từ tay nhỏ xuống, vật rung nhẹ, hiện mờ mờ hình long văn.

Ngô Thì Nhậm khẽ thốt: đây là mệnh trời.

Quang Trung nghẹn giọng:

- Huyết thống của trẫm, hoàng nhi Quang Minh… trở về rồi.

Ngài đỡ Minh đứng dậy, không để quỳ nữa. Dắt Minh ra điện lớn.

Văn thần võ tướng đồng loạt xôn xao. Tiếng quạt phấp phới, tiếng xích giáp va nhau lách cách. Lý Văn Bưu nắm chặt chuôi đao, Võ Văn Dũng nheo mắt nhìn thiếu niên nọ không chớp mắt. Riêng Trần Quang Diệu khẽ rùng mình: đôi mắt của vị thiếu niên này… quá giống một người mà ông từng biết từ thuở dựng cờ khởi nghĩa…

- Ai nghi ngờ, hãy đích thân thử thách Minh nhi của Trẫm, Nhà vua quả quyết

Võ Văn Dũng - giáo dài 9 thước, thân pháp mãnh hổ
Dũng vung giáo múa như gió. Minh chỉ đứng tĩnh, tay cầm “Thiết hỏa trảo”. Khi Dũng lao tới, chàng bóp cò - tiếng nổ vang rền, đầu giáo vỡ vụn.
Võ Văn Dũng cười lớn: Thắng! Dù không phải sức tay, nhưng khí giới này thần diệu, lòng ta phục!

Trần Quang Diệu - đoản đao, tốc độ như ảnh
Diệu thử chém ba đường vào “Hộ tâm chú cơ”. Âm thanh như đập vào đá. Không vết trầy. Minh không phản công, chỉ nhích nhẹ tay, đấm một quyền - Diệu trượt chân lùi ba bước.

- Kình lực kinh người. Không phải đồ chơi. Người này… có căn cơ!

Nguyễn Văn Tuyết - song chùy
Tuyết tung hai chùy cùng lúc. Minh luồn người, bắn “Thiết hỏa trảo” vào chùy bên phải. Chùy gãy cán. Tay trái Minh chém ngược, bắn tia lửa làm chùy còn lại văng khỏi tay Tuyết.

-Thất bại! Nhưng vui lòng bại bởi kẻ như thế.

Nguyễn Văn Lộc - quyền pháp, Phạm Công Hưng - kiếm, Ngô Văn Sở - phi tiêu
Ba người cùng hợp công. Minh ẩn người, bật lên không, bắn hỏa trảo ba phát:
Một xuyên mũ của Lộc
Một làm Hưng rơi kiếm
Một phá phi tiêu của Sở giữa không trung

Ba người quỳ: Chúng thần thất bại. Người ấy, quả là thiên nhân.

Ngô Thì Nhậm: Đề thơ “Thế nước - lòng dân”.
Minh ngâm:

“Một giọt máu rơi, đất gọi tên
Gươm cha chém giặc, cháu giữ đền
Trời Nam mấy độ hồn sông núi
Nay hỏi ta: ai sẽ kế nên?”

Nhậm rơi lệ: Thơ ít chữ, mà khí lớn hơn ngàn sách.

Giữa chính điện Cần Chánh, sau khoảnh khắc bội ngọc được giơ cao, không khí như đông đặc lại. Quần thần chưa kịp hoàn hồn sau màn ứng chiến của Nguyễn Minh thì một tiếng động vang lên: bệ rồng phát ra âm vang trầm đục, như tiếng sấm vọng về từ trận Ngọc Hồi - Đống Đa.
Quang Trung - vị Hoàng đế từng một tay khuynh đảo sơn hà - đứng dậy. Tấm hoàng bào xô nhẹ theo bước chân ông khi rời ngai vàng, đi xuống từng bậc thềm đá rồng.

Ánh mắt của Ngài không còn là cái nhìn của một đế vương, mà là ánh nhìn của một người cha - đã chờ mòn mỏi giữa giông tố chính trị và chiến tranh - cuối cùng cũng thấy giọt máu của mình đứng đó, bằng xương bằng thịt.

Ngài tiến lên, ánh mắt rực lửa, giọng khản lại:
- Là... là Quang Minh của Trẫm đó sao?...
- Không... không thể nào... Nhưng... khí chất ấy, đôi mắt ấy...
- Trẫm tưởng đã mất con vĩnh viễn...
- Hay là ông trời đưa con trở về, để cùng Trẫm thống nhất sơn hà?

Quang Trung bước xuống thềm điện, ánh mắt nhìn chằm chằm vào chàng thanh niên quỳ trước mặt. Gương mặt ấy, đôi mắt ấy… bao năm qua tưởng đã chìm trong dĩ vãng. Giọng ông trầm xuống, nhưng ấm áp như tiếng đất mẹ vang vọng giữa mùa xuân năm Kỷ Dậu:
- Là con… thật rồi sao? Quang Minh của Trẫm…

Quang Trung đứng lặng một lúc, rồi bước tới, bàn tay chai sạn của người từng cầm kiếm, cầm cờ đánh dẹp thiên hạ giờ đây run nhẹ khi chạm vào vai con trai mình. Ông cười khẽ, ánh mắt sáng rực như ngày chiến thắng:
- Hoàng nhi của Trẫm mới vài năm đã rắn rỏi thế này rồi… Khi xưa còn là thiếu niên lém lỉnh, thiên t.ư mẫn tuệ, nay đã là tráng sĩ rồi, vai mang chí lớn, mắt có thần quang. Ông siết nhẹ vai Minh, vừa tự hào, vừa xúc động:

Ngài bước đến bên thiếu niên, bàn tay run lên nhưng vẫn rắn rỏi đặt lên vai hắn. Rồi quay mặt lại, nhìn toàn thể triều thần, giọng dội vang như chuông đồng giữa núi sông:
- “Đây chính là nhi tử của Trẫm - huyết mạch chân truyền của Tây Sơn ta!”

Nguyễn Minh ngẩng mặt lên, mắt hoe đỏ nhưng vững chãi:
- Phụ hoàng…

Một làn gió bất ngờ thổi qua, phất tung những lá cờ long vân treo dọc hai bên điện, vẽ nên cảnh tượng vừa trang nghiêm vừa kỳ vĩ. Các đại thần sững sờ, ánh mắt như ngưng đọng trong khoảnh khắc. Võ Văn Dũng là người đầu tiên quỳ xuống, tấu lên lời chúc tụng. Rồi kế tiếp là Lý Văn Bưu, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Lê Văn Hưng, Võ Đình Tú, Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích... Từng người một, tất cả đều đồng loạt cúi đầu sát đất, như thể trước mặt họ, một vì sao mới đang rực sáng giữa bầu trời phương Nam.
Thế nhưng, trong ánh mắt cúi thấp ấy, xen lẫn những tia sáng kính phục và nguyện trung, vẫn lấp ló những bóng tối ngờ vực, bàng hoàng. Có người, dù đã khuất phục hình thức, trong lòng vẫn chưa hoàn toàn quy phục. Cơn gió ngoài điện dường như cũng cuốn theo những tâm t.ư rối bời ấy, vần vũ không tan
Quang Trung ngẩng cao đầu, mắt lấp lánh như thanh gươm vừa rút khỏi vỏ, rực sáng giữa chính khí:
- “Từ nay, Minh nhi sẽ ngồi cùng Trẫm và các quân cơ đại thần, cùng nghị chính bàn mưu định quốc!”
Tiếng hô "Vạn tuế!" vang dội khắp đại điện. Trên cao, trống đồng ngân lên ba hồi, như chính tổ tiên Lạc Hồng cũng đang thức tỉnh chứng giám cho huyết mạch đế vương. Và từ giây phút ấy, vận mệnh nước Việt đã bước sang một trang mới - một chương sử viết bằng máu, trí lực và tình phụ tử thiêng liêng dưới bóng cờ đào.

Tối hôm ấy, Hoàng đế Quang Trung cùng Nguyễn Minh ngồi lặng trong Ngự thư phòng, ánh mắt nhà Vua trầm như biển sâu. Một cảm giác lạ lùng trỗi dậy trong lòng, Ngài truyền lệnh mở “Ngự Thư Các”, nơi cất giữ các sớ tấu cũ từng bị niêm phong.

Bên trong, một tập bản án dày cộm, phong kín bằng lụa nâu, đề dòng chữ nhỏ đã bạc màu:
“Án thất truyền về Quang Minh Hoàng tử - Bắc Bình Vương phủ, năm 1786.”
Ngài mở ra. Từng trang, từng dòng máu chữ, từng dấu triện đóng tội như gào thét xuyên qua năm tháng:
"Quang Minh Hoàng tử bị bắt giữ vì tội mưu nghịch. Sở hữu vật kỳ dị, mang tâm cải cách, bất hợp lòng người, lòng dân... Có kẻ mật báo, tâu cáo. Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc ban chiếu: tử hình trong đêm. Thi hành ngay lập tức."
Cuối tập, bút tích viết vội bằng máu của Quang Minh run rẩy mà quyết liệt:
“Nhi thần thực sự oan uổng. Thần chỉ mong non sông thống nhất, đổi mới cơ đồ. Nếu đời sau ai giữ được vật này, gặp huyết thống chân long, xin đừng bỏ qua…”
Hoàng đế Quang Trung đứng bật dậy, mắt rực lửa.
Ta không hề hay biết Hoàng huynh tự ý hạ chiếu giết Minh nhi của Trẫm! Lúc ấy Trẫm còn đang thân chinh Bắc Hà, đâu hay bọn gian thần đã mượn tay Hoàng huynh hãm hại giọt máu của Trẫm!
Ngài siết nắm tay, giọng nặng như tiếng sấm trầm:
Minh nhi… Ngươi là huyết thống chính danh của Trẫm, là người Trẫm gửi gắm cả kỳ vọng đổi mới giang sơn, thế mà lại bị hủy diệt bởi lòng tiểu nhân hèn hạ. Nay ngươi trở về, chính là trời xanh trả lại công bằng cho non sông gấm vóc này!
Ánh đuốc trong Ngự thư phòng bập bùng, bóng Quang Trung đổ dài trên nền đá lạnh. Nhà vua đứng lặng hồi lâu, mắt nhìn Nguyễn Minh – đứa con từng tưởng đã vĩnh viễn lìa xa - đang quỳ trước mặt, thân thể còn vương bụi đường thiên lý.
Giọng Quang Trung chìm xuống, như tiếng đá vỡ nát trong lòng đất:
Quang Minh… Hoàng nhi có biết, chỉ vì mất liên lạc với mẫu tử con năm ấy mà năm 1787 thiên hạ nhà Tây Sơn ta nghiêng ngả!
Ngài bước tới, tay run run siết chặt.
Năm 1786, Bắc Bình Vương ta thân chinh Thăng Long, vạn dặm gươm giáo, một lòng mưu đại nghiệp nhất thống. Khi ấy, mẫu tử con lưu lại Phú Xuân dưỡng bệnh. Nào ngờ, bọn gian thần nhân Trẫm vắng mặt, ngầm xu nịnh Hoàng huynh, gièm pha rằng Minh nhi nuôi chí tạo phản…
Nhà vua ngẩng đầu, cười lạnh, ánh mắt như đốt cháy trời cao:
Chỉ một đạo chiếu vô tình, Minh nhi của Trẫm từ một ánh sao hy vọng biến thành "tội nhân" trời đất không dung, bao gia quyến tướng sĩ cũng chịu họa lây, nhà tan cửa nát. Trẫm hồi kinh, nghe tin dữ, suýt nổi điên trước sân triều!
Nguyễn Minh lặng người, tay nắm chặt vạt áo, nghe từng lời như máu nhỏ vào tim. Quang Trung Hoàng đế chậm rãi ngồi xuống trước mặt con, mắt đỏ hoe:
Giữa năm 1787, Trẫm không nhẫn nhịn được nữa. Đã hạ hịch khắp thiên hạ, tập kết Ngũ Hổ tướng cùng mười vạn binh Tây Sơn, phát binh Nam tiến vây thành Quy Nhơn. Ngoài mặt lấy cớ đòi lại gia quyến cho tướng sĩ, nhưng trong lòng Trẫm... Trẫm chỉ vì Minh nhi yêu dấu, vì mẫu tử con… Ngươi có hiểu chăng?
Ngài siết chặt tay Minh, lời thề như vang vọng cả đất trời:
Trẫm từng mất con một lần. Nay trời cho Minh nhi trở lại. Hãy thề trước linh hồn tổ tông: lật lại huyết án năm xưa, trả lại thanh danh cho người đã vì nước nhà hy sinh oan khuất, chấn hưng triều chính!
Nguyễn Minh quỳ sụp xuống, dập đầu ba lần, giọng kiên quyết như khắc vào đá:
Nhi thần xin thề trước mặt phụ hoàng, trước tổ tiên, trước non sông Đại Việt: thề đem ánh sáng di vật tổ truyền soi đường cứu nước, thề viết tiếp huyết mạch Quang Trung vĩ đại vào sử xanh ngàn đời!

Tiếng gió rít qua Hoàng thành. Cờ đào Tây Sơn cuồn cuộn như mây đỏ. Trời cao không mưa mà rơi giọt máu - như chứng giám điều thiêng liêng kỳ diệu của tạo hóa. Trong ánh sáng chập chờn của những ánh nến hoàng cung, Hoàng đế Quang Trung trải tay lên bản án cũ của Quang Minh - nét chữ của người con từng được ngài xem là Tiểu Gia Cát, “phượng hoàng kế tục”. Mắt ngài rực lên, nhưng trong đó là cả ngàn cơn sóng đổ về từ ký ức.

- Hoàng nhi… Con là ánh sáng của một thời ta giấu kính trong lòng.

Nguyễn Minh đứng lặng. Lần đầu tiên, nhà vua ngậm ngùi…

“Năm ta mười bảy tuổi, còn là vị tướng trẻ Nguyễn Huệ xông pha trận mạc. Khi đại quân dừng chân ở Nghệ An, có một người con gái tên Hoàng Thu Nguyệt, vốn dòng dõi Nho gia, biết văn biết y, khéo trị binh lương. Gặp nhau một đêm trăng trên bến sông Lam, ta đọc thơ, nàng đối ẩm

“Ngàn trùng vẫy gió quân đi mãi,
Một thoáng trăng ngà lối hẹn xưa.”

“Rồi Nam chinh Bắc chiến cuốn Trẫm đi. Khi ta dẹp xong loạn Bắc Hà, nàng đã mất. Chỉ để lại một hoàng tử tài ba cho Trẫm - đó chính là con, Nguyễn Quang Minh”

Nhà vua nghẹn ngào. Tay siết chặt lá thư cũ mà Quang Minh từng gửi về trước lúc chết: Phụ vương, nếu có kiếp sau, con nguyện được làm cỏ lau hiếu kính Người, để giữ gió, giữ nắng, giữ lời thề viết tiếp giấc mộng nước mạnh, dân cường.”

Hoàng đế siết tay Minh:

- Hài nhi, con giống ta đến kinh người. Đôi mắt ấy, trán ấy, cách nói ấy… Đều là của tiên tổ, đều là… chính ta.

Minh nghẹn ngào, một giọt nước mắt không kìm nổi lăn trên má:

- Vậy… trí tuệ, thơ văn, võ nghệ, khả năng nhìn trận đồ như mộng… là huyết mạch chính thống của Bệ hạ?

Nhà vua gật đầu chậm rãi

- Thời niên thiếu, con giỏi cả chế tạo binh khí, tính được thời tiết theo sao trời, và từng soạn ra “Quốc lược tân thư” - sách cải cách khiến triều thần kinh sợ…

- Nhưng chính vì vậy mà bị đố kỵ?

- Phải, sợ Quang Minh nhà ta chiếm thế thượng phong nên có kẻ đã tấu báo xin Hoàng huynh ta, rồi hạ độc giết đi, phao là “thân vong nơi loạn binh”. Ta khi trở về, chỉ thấy tấm áo trận dính máu…

Hoàng đế lấy ra từ rương gấm một thanh gươm ngắn, chuôi khắc hai chữ “Hoàng mệnh”.

- Nay ta giao lại con. Con là truyền nhân huyết mạch tiên rồng. Hãy dọn sạch bóng tối vây kín Tây Sơn ta.

Nguyễn Minh nâng gươm, dập đầu:

- Vì Quang Trung đại đế vĩ đại. Vì Đại Việt, nhi thần tuân mệnh.

Gió đêm se lạnh. Trên ngọn đồi phía nam ngoại thành Phú Xuân, một mình trong căn phòng tĩnh lặng, chàng trai trẻ mặc áo vải nâu, ánh mắt trầm mặc, đang ngồi lặng trước chiếc rương cổ vừa mở. Máu trong người như sôi lên, từng mạch nghẹn lại. Minh ngẩng lên, mắt nhìn về phương Bắc. Ánh sao lấp lánh như rọi xuống một khúc sử thi đã bị lãng quên. Lồng ngực chàng tràn đầy một cảm giác chưa từng có: sự thức tỉnh của huyết thống, huyết thống Lạc Hồng.

- “Là ta, ta chính là truyền nhân của Nguyễn Quang Minh, vị hoàng tử được vua Quang Trung yêu quý nhất, và chính ta là huyết mạch chân chính của Quang Trung Đại Đế vĩ đại”.

Tiếng nói ấy bật ra như sấm giữa lòng chàng. Bao nhiêu mảnh vụn trong đời bỗng ghép lại: lời dặn của ông nội, bài thơ khắc trên ngọc, giấc mộng lập quốc kỳ lạ trong tiềm thức…

Chàng đứng dậy, tay nắm chặt mảnh ngọc và phong thư, ánh mắt kiên định

- Nếu thiên mệnh gọi ta trở về… Vậy thì, xin cho ta được làm rực sáng nước Nam này, để mỗi tấc đất, mỗi dòng sông, mỗi hơi thở của giang sơn đều khắc ghi tên Quang Trung Đại đế trong huyết mạch lịch sử.

Minh quỳ xuống bên rương cổ, nơi ánh đèn dầu vừa bùng lên rồi lặng lẽ lay động theo gió. Mảnh ngọc tổ tiên lạnh buốt trong tay, như nhịp tim của một quá khứ chưa yên giấc.

Minh nhắm mắt. Từ sâu trong lòng, một cơn giận cuộn trào. Không phải giận cho mình, mà giận cho huyết mạch đã bị vùi lấp trong hỗn mang thời cuộc, cho một vị hoàng tử từng được yêu quý nhất - Nguyễn Quang Minh - bị lịch sử nuốt chửng trong bóng tối, chỉ còn vài dòng mơ hồ trong ghi chép của đám loạn thần.

Chàng đứng dậy, mắt đỏ rực, giọng trầm như lời nguyền:
- Ta xin thề trước anh linh Lạc Hồng: sẽ truy cùng ngọn gió, lật cả trang sử đã bị che đậy! Huyết án năm xưa, vì sao Hoàng tử Quang Minh mất tích? Ai là kẻ đã khiến huyết mạch Tây Sơn bị mất đi một tài năng? Nếu mảnh ngọc và ấn tín này thật sự được truyền đến tay ta… thì nghĩa là lúc đó Ngài chưa chết, được cứu thoát. Hoặc… hậu nhân của ngài đã kịp ẩn thân thoát nạn?…

Gió đêm rít lên, như tiếng gào của linh hồn cổ sử vọng về. Minh đưa mảnh ngọc lên trời cao: “Dù ta đang mang thân phận của Nguyễn Quang Minh - đứa con mà vua Quang Trung tin là trở lại - Thì chính ta sẽ thay Hoàng tử ấy, tức đấng tiên tổ chính dòng của ta, đi tìm sự thật”
- “Cho lịch sử một lần được phán quyết bằng máu và chính nghĩa! Cho nước Nam ta một lần nữa đứng thẳng giữa đất trời”

Một tia chớp rạch ngang trời. Ngọn đèn bùng sáng rực rỡ như một đốm lửa thánh thiêng. Và giữa ánh sáng chói lòa, Minh siết chặt tay, lòng đã không còn đường lùi… Gió nổi lên, cuốn tung bụi thời gian. Trong đêm, ngọn đèn dầu bừng sáng như ánh sao chiếu xuống kẻ mang chân mệnh đế vương vừa thức tỉnh.
 

HAIVU2020

Phàm Nhân
Ngọc
9,50
Tu vi
0,00
Chương 2. Kỳ Tài Xuất Thế, Văn Võ Khuynh Thành

Kỷ Dậu 1789, hừng đông nhuộm đỏ mặt sông Hương như máu của bao anh hùng từng đổ xuống nơi này. Từ đầu tháng mười hai, khắp kinh thành treo đèn kết hoa, cờ quạt giăng đầy phố lớn. Các đội thợ khéo tay dựng lầu bát giác bên bờ sông Hương, lập đàn tế trời đất tại điện Thái Hòa, chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán. Người người tấp nập, quân lính chỉnh tề thao diễn ngoài thành, trống đồng dập dồn ngày đêm, rộn ràng như hội lớn.

Chỉ một năm trước đó, trong những ngày giáp Tết, Quang Trung Hoàng đế thân chinh Bắc tiến, đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh chỉ trong vài ngày. Trận Ngọc Hồi, trận Đống Đa… đã trở thành huyền thoại lừng lẫy cõi trời Đại Việt. Tiếng vó ngựa chiến từ Phú Xuân ra đến tận biên giới, làm run rẩy cả phương Bắc.

Nay, xuân lại về. Nhưng không còn loạn binh, chẳng còn tiếng trống gọi quân. Thay vào đó là tiếng trống hội, tiếng hò reo đón Tết cổ truyền, tiếng pháo nổ ran dưới ánh nắng vàng óng của sông Hương, sông Cầu, sông Lam…

Từ Nghệ Tĩnh đến Thuận Hóa, từ Bắc Thành đến Quy Nhơn, người người dựng nêu, gói bánh, tắm nước lá mùi, quét sạch bàn thờ tổ tiên. Các làng quê treo tranh vẽ chiến trận Ngọc Hồi - nơi “Quang Trung cưỡi voi phá giặc”, trẻ con tụng câu vè:
“Một xuân Quang Trung dẹp giặc Thanh,
Ngàn năm non nước rạng trời xanh…”

Tại Phú Xuân, triều đình tổ chức Lễ hội xuân 1790 vui cùng nhân dân cả nước với tinh thần “Trường ca chiến thắng”. Khắp núi rừng Đại Việt, từ thượng nguồn Tam Đảo đến dãy Trường Sơn hùng vĩ, tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng trống đồng như vọng về một thời đại mới. Một thời đại mà dân tộc không còn bị giày xéo, nhân dân không còn bị gọi là man di mọi rợ, tên tuổi Đại Việt được sánh ngang cùng thiên triều - không còn cúi đầu, chỉ ngẩng cao đầu như rồng bay giữa trời xuân.

Trên bức chiếu thư ban hành đầu năm 1790, vua Quang Trung viết:
“Xuân nay, trời Nam yên ổn, lòng người thống nhất. Khí thiêng núi sông đã tụ. Từ đây, con cháu ngàn đời phải giữ lấy, Trẫm ban chỉ tổ chức kỳ thi xuân tuyển chọn người tài giúp dân, giúp nước”
Phải nói thêm xuân năm nay 1790, khắp thành Phú Xuân, hoa đào hoa mai nở rộ hơn như hát vang bài ca chiến thắng của dân tộc Việt. Bên trong điện Thái Hòa, tiếng trống đồng trầm hùng vẫn còn âm vang chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm nào.
Thế nhưng, trong lòng các bậc văn thần võ tướng Tây Sơn, lại âm thầm nổi lên những đợt sóng ngầm. Họ thì thầm với nhau trong những buổi trà đàm:
- Kỳ lạ thay! Kẻ đó, Nguyễn Quang Minh, dẫu được Hoàng thượng nhận là nhi tử, nhưng xuất thân mơ hồ, lời nói, cử chỉ, binh khí đều dị thường, khác hẳn thường nhân!
– Ta từng thấy, hắn chỉ dùng vật kim loại nhỏ bé mà đánh lùi cả đội kỵ binh trong nháy mắt. Lẽ nào yêu thuật?
– Còn thơ văn hắn đọc, lời lẽ như từ nơi khác đến, vừa thanh thoát, vừa hàm chứa ý chí trời cao đất rộng... chưa từng thấy ai trong thiên hạ này có được.
Một số văn thần chắp tay trầm t.ư:
– Văn thì lạ, võ thì quá kỳ lạ. Chẳng lẽ trời sai xuống giúp Đại Việt ta?
Một số võ tướng lại nghiến răng:
– Thế gian không thể chỉ nghe danh mà không thấy tài! Phải thử hắn một phen, xem thực hư thế nào!
Kẻ gật gù, kẻ lắc đầu, ai nấy lòng đầy hồ nghi, mười phần ngờ vực xen lẫn ít nhiều nể trọng.
Vậy nên, nhân buổi lễ đầu xuân, van thần võ tướng tấu xin nhà vua
- Xin cho chúng thần mở cuộc "Thi Anh Hào", để cùng hoàng tử Minh thử thơ đối luận, tỷ kiếm luận võ. Nếu thực là kỳ nhân, chúng thần xin cúi đầu bái phục. Bằng không, xin bệ hạ định đoạt.
Quang Trung Nguyễn Huệ nghe vậy, cười dài như sấm động:
- Hay lắm! Người tài, thử lửa mới sáng. Người yếu, búa rìu mới bộc lộ. Trẫm cũng muốn xem các nhi tử của ta ra sao, Quang Minh - hoàng nhi của Trẫm - bái kiến các vị tiền bối nào.
Một hồi trống lệnh nổi lên.
Cờ xí giăng đầy.
Sân điện Thái Hòa bừng sáng dưới trời xuân, hứa hẹn một ngày quyết đấu rực lửa giữa lòng đế đô Phú Xuân… Trong không khí ngưng đọng đến nghẹt thở, một tiếng xướng vang lên:
- Minh hoàng tử triều bái!
Từ phía cửa đông, Nguyễn Minh khoác áo vải nâu sẫm, đai trắng ngang lưng, chậm rãi tiến vào chính điện. Bên hông, lấp ló thứ binh khí kỳ lạ bằng kim loại đen tuyền - vật mà những con mắt tinh tường nhất nơi đây cũng không thể gọi tên.
Không áo giáp, chỉ có tấm hộ tâm khiên đeo quanh ngực, không đao kiếm truyền thống, không ngựa hùng hổ, Minh chỉ có dáng vẻ bình thản, ánh mắt đạm nhiên như nước hồ sâu. Cả triều văn võ nín thở. Trong lòng người, ba phần nghi ngờ, ba phần kinh ngạc, ba phần thù địch, chỉ còn một phần mỏng manh dành cho niềm hy vọng chưa thành lời. Tiến đến sân rồng, Quang Minh hoàng tử quỳ xuống cúi đầu
- Nhi thần yết kiến Phụ hoàng, nguyện Phụ hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế

Nhà vua vui mừng:

Minh nhi, chớ đa lễ, bình thân. Hoàng nhi của Trẫm đã trưởng thành rồi, ta tổ chức kỳ thi để con cùng con cháu Tây Sơn lĩnh giáo văn thần, võ tướng!

Nguyễn Minh trìu mến nhìn nhà Vua: Nhi thần tuân mệnh, sẽ không làm Phụ hoàng thất vọng. Sau đó, Chàng đứng lên khiêm nhường cung kính, nhưng ánh mắt nghiêm nghị hào hùng, tự tin đối mặt quần thần và các hoàng tử:

Hôm nay, điệt nhi xin lĩnh giáo chư vị văn thần võ tướng Tây Sơn.

Gió xuân thổi qua, cuốn bay nhẹ vạt áo nâu.

Nhưng trong lòng những bậc anh hùng từng vào sinh ra tử hôm nào, bỗng dâng lên một cảm giác rất lạ: vị thiếu niên kia, không phải chỉ đến để học hỏi… mà là để khẳng định huyết mạch Tiên Rồng của Quang Trung đại đế vĩ đại.

Tiếng trống hội nổi lên, trên bậc điện cao, Nhà vua khoanh tay, ánh mắt như lưỡi kiếm soi thấu nhân tâm. Bên cạnh ngài, các trọng thần như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ... đều nghiêm sắc mặt.
- Trận đầu, cho phép hai hổ tướng cùng lúc ra trận. Minh nhi vất vả cho con rồi.
Một tiếng hô vang:
- Truyền mời Nhị vị hổ tướng Võ Văn Dũng và Võ Đình Tú ra trận!
Hai bóng người như hai ngọn núi lao xuống sân:
Một người đao dài sáng loáng – đó là Võ Văn Dũng, thiên hạ đệ nhất đao pháp.
Một người côn thép đỏ rực – chính là Võ Đình Tú, vô địch thiết côn.
Tiếng reo hò chấn động cả nền đá. Các võ tướng đồng loạt siết nắm đấm:
– Để xem thiếu niên này đỡ nổi mấy chiêu!
Võ Văn Dũng vung đao Lôi Long, ánh bạc xé gió hú rít.
Võ Đình Tú quật thiết côn, tiếng gió rít như sấm sét giáng xuống đầu Minh.
– Xem đao! – Xem côn!
Hai luồng sát khí ép xuống như trời sập.
Nhưng Minh không né, không rút kiếm.
Chỉ có hai bàn tay không - và một ánh sáng lạnh lẽo chớp lên từ vật kim loại bên hông!
Đoàng!
Đoàng!
Hai tiếng nổ như long trời lở đất.
Mắt người chưa kịp nhìn rõ, đã thấy:
– Thanh Lôi Long đao bật văng khỏi tay Võ Văn Dũng, bay xoay tròn ba vòng giữa không trung; Thiết côn trong tay Võ Đình Tú run bần bật rồi gãy đôi, mảnh vỡ cắm phập xuống nền đá!
Cả sân điện im phăng phắc.
Võ Văn Dũng, thân thể như sư tử, lảo đảo lùi ba bước, nhìn trân trân vết đạn xuyên chính xác vào chuôi đao của mình. Võ Đình Tú trợn trừng mắt: thiết côn bằng thép ròng cũng không chịu nổi một phát!
Minh thu súng về, cúi đầu thi lễ:
- Nhị vị thúc thúc đã nhường, Minh nhi ngưỡng mộ các vị thúc thúc từ lâu…
Võ Đình Tú ngạc nhiên hỏi dò:
Minh hoàng tử… làm sao biết rõ về chúng ta như thế?
Minh khẽ cúi đầu, giọng trầm tĩnh mà đầy hào khí:
Nhị vị thúc thúc là Hổ tướng của Tây Sơn ta, theo Phụ hoàng kiến công lập nghiệp, trải qua trăm trận, chiến công lẫy lừng

t.ư đồ Võ Văn Dũng, trụ cột quan trọng của triều đình ta, tuyệt kỹ đao pháp Lôi long đao do thúc nghiên cứu được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.

Hổ tướng Võ Đình Tú sở hữu tuyệt kỹ đánh côn, luôn được Phụ hoàng ta yêu mến, phong làm Đại Tổng lý. Nữ tướng Bùi Thị Xuân, một trong Tây Sơn Ngũ phụng thư mến tài đã thêu lá cờ có 4 chữ vàng “Thiết côn vô địch” tặng thúc.
Giữa khoảng không tĩnh lặng, khi tiếng Minh vang lên, nhắc đến lá cờ "Thiết Côn Vô Địch" mà nàng từng thêu tặng, nơi cuối hàng võ tướng, Bùi Thị Xuân khẽ rùng mình, nhưng ánh nhìn về vị hoàng tử trẻ tuổi vẫn đầy cảnh giác:
- Nhi tử của bệ hạ quả thật tài năng, đó thực sự là điềm lành cho giang sơn xã tắc, tuy vậy nếu chỉ có hư danh, Tây Sơn ta quyết không dung dưỡng”
Khoảnh khắc Thanh Lôi Long đao bị bắn văng khỏi tay, cỗ thiết côn thép ròng gãy đôi,
Khoảnh khắc thiếu niên thu súng vào vạt áo, ung dung cúi đầu hành lễ,
Trong lòng Võ Văn Dũng, một trong những trụ cột vững chãi nhất của đại nghiệp Tây Sơn, từng xông pha trăm trận, quen nhìn thiên hạ anh hùng như có sấm vang.
Chưa từng, chưa từng có ai, ngoài Quang Trung Đại đế vĩ đại, ở cái tuổi ấy, lại khiến ông từ kinh ngạc, chuyển thành kính phục nhanh đến vậy. Ánh mắt Võ Văn Dũng dán chặt vào Nguyễn Minh. Ông thấy ở thiếu niên ấy khí độ của một đấng quân vương, thấy sự bình thản của người từng bước qua máu lửa, và thấy cả một ngọn lửa âm ỉ, cháy đỏ trong đáy mắt - thứ lửa chỉ những chiến tướng từng đứng giữa mưa tên bão đạn mới nhận ra.
Và trong trong nháy mắt, hai mãnh tướng lừng danh Tây Sơn cúi đầu nhận thua.
Nhà vua mỉm cười nhẹ, ánh mắt lóe lên vẻ hài lòng sâu kín.
Còn toàn triều văn võ - kẻ thì ngây người, kẻ thì nổi da gà, kẻ thì cảm thấy sống lưng lạnh buốt như đón một cơn gió mịt mùng thổi tới…
Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu.
Phía sau, tiếng trống giục lên dồn dập: Trận tiếp theo - thi bắn cung với Lý Văn Bưu!
Lý Văn Bưu thong thả tiến ra, vai khoác một cây cung lạ - Kỳ Nam cung. Thân cung đen nhánh ánh lên dưới nắng sớm, đường viền được nạm bạc khéo léo, mỗi họa tiết như ẩn hiện dưới lớp nhung đen bí ẩn. Tay cầm của cung được chạm trổ từ gỗ Kỳ Nam ngàn năm, thứ kỳ mộc hiếm có, lúc treo trong phòng, từng làn hương trầm thơm ngát lan ra, tĩnh lặng như núi cao, thanh sạch như sương sớm.
Mỗi lần giương cung, mọi kẻ địch đều cảm thấy trước ngực như bị khóa chặt bởi một bàn tay vô hình. Người ta gọi Lý Văn Bưu là Thần xạ Tây Sơn. Hôm nay, hắn mang theo Kỳ Nam cung, ánh mắt lạnh như nước giếng sâu, thản nhiên nhìn Nguyễn Minh:
- Ta muốn xem… Minh hoàng tử có dám cùng ta đấu bắn cung, thứ đã dựng nên thiên hạ Đại Việt?
Lý Văn Bưu vác Kỳ Nam cung, kéo dây, giương cung, mũi tên lao vút đi như tia chớp
Phập!
Mũi tên cắm thẳng vào hồng tâm cách đó một trăm bước, chính giữa điểm đỏ nhỏ bằng đồng xu.
Cả sân điện rì rào tán thưởng. Ai cũng biết, Kỳ Nam cung là vương giả trong các loại cung, còn Lý Văn Bưu là thần xạ nổi danh trăm trận, đòn vừa rồi tuyệt đối không hề cố sức.
Minh bước ra, ánh mắt bình thản nhìn mục tiêu. Chàng chậm rãi nói:
- Xin dời bia ngắm ra xa... gấp đôi!
Tiếng nói vang lên như sét đánh giữa trời quang, làm cả sân điện xôn xao.
Quan văn, võ tướng đều chau mày. Gấp đôi? Hai trăm bước? Thế còn ai bắn trúng nổi?!
Nhưng Minh không đợi ai phản ứng. Chàng nhẹ nhàng lôi ra từ trong vạt áo một vật kỳ lạ - một khẩu súng ngắm gọn nhẹ, đen bóng như sừng đen, gắn theo đó là ống nhòm laser phát ra một luồng sáng nhỏ như sợi tóc.

Quân lính rì rầm: Thần khí gì vậy?
Minh thong thả quỳ một gối xuống nền đá, kê súng lên cánh tay, mắt áp sát ống ngắm.
Chỉ một khoảnh khắc thở ra thật nhẹ: Đoàng!
Tiếng súng nổ nhỏ, gọn, không lan dài. Trên hồng tâm mới dựng, ở khoảng cách hai trăm bước, ngay chính giữa tâm đỏ, không lệch nửa phân!
Một phát, trúng! Không cần lấy đà, không cần thử cung.
Cả triều thần nhất tề ồ lên kinh hãi, rồi im bặt như tắt thở. Chỉ còn tiếng gió thổi phần phật trong sân điện.
Lý Văn Bưu đứng chết lặng, nắm chặt Kỳ Nam cung trong tay đến mức khớp tay trắng bệch. Hắn ngẩng đầu, nhìn Nguyễn Minh như nhìn một con rồng vừa phá tan mặt đất mà bay lên trời.

Rồi chầm chậm cúi đầu, vái một vái thật sâu.
Nguyễn Minh cúi đầu thi lễ: “Tướng quân đã nhường”
Ầm ầm!
Tiếng trống lệnh vừa dứt, đất trời như nổ tung. Hai đại tướng Tây Sơn đồng loạt tấn công:
Lê Văn Hưng: vung roi dài đỏ au, quét tới như sóng thần tràn bờ
Phan Văn Lân: cầm họa kích - lưỡi thép lạnh sáng như băng, đâm thẳng như chớp vào giữa ngực Minh!
Một trận thế tuyệt đối không kẻ nào có thể toàn mạng... nếu là người thường
Nhưng Minh không né.Chàng sải một bước dài, áo chiến bào tung bay. Bên tay trái - khẩu súng ngắm ngắn lóe sáng. Bên tay phải - roi điện ngắn rung lên tiếng vù vù, những tia điện xanh nhạt lấp lóe trên thân roi.
Choang!
Họa kích đâm thẳng vào ngực Minh, nhưng... Ngay tức khắc, một làn sóng ánh sáng bạc bật lên từ tấm hộ tâm khiên giấu trong áo giáp hiện đại! Toàn bộ lực đâm của họa kích như đâm vào tường thép, bật ngược lại, làm Phan Văn Lân cũng hơi chấn động.

Cùng lúc đó, roi dài của Lê Văn Hưng quất tới. Minh nhanh như cắt - vung roi điện quấn lấy. Chỉ nghe “xèo” một tiếng nhỏ, điện truyền từ roi Minh qua roi dài, giật nhẹ một cái
Bốp!

Roi dài rơi khỏi tay Lê Văn Hưng, uốn éo dưới đất như rắn bị trúng độc!
Lê Văn Hưng cả người run bần bật, thần trí còn chưa kịp định thần!
Ngay khoảnh khắc ấy, họa kích của Phan Văn Lân lao tới lần hai, động tác cực nhanh!
Minh liếc mắt

Đoàng!

Một phát súng trúng ngay cán họa kích!

Không cần xuyên, chỉ cần lực súng hất mạnh, cây họa kích chệch hẳn đường đâm.
Minh bật người, một cú đá quét vào bụng dưới Phan Văn Lân.
Đồng thời, đầu roi điện trong tay chạm nhẹ vào họa kích sắt — điện truyền theo kim loại,
Một luồng điện nhẹ giật xuyên từ kích vào tay Phan Văn Lân!
Phan Văn Lân lảo đảo, ánh mắt tròn xoe ngơ ngác!
Cả sân điện sững sờ.
Minh thong thả thu roi điện về, giọng nói trầm tĩnh như đá núi, ánh mắt sáng như trời thu chắp tay cúi đầu thi lễ:
- Đa tạ nhị vị thúc thúc đã nhường. Học được một chiêu nửa thức của các thúc, Minh nhi đã thấy vinh hạnh vô cùng.
Hai tướng cúi đầu thi lễ chào Minh Hoàng tử:
Minh hoàng tử quả là nhi tử tài hoa của bệ hạ, chúng thần tâm phục
Trên ngai vàng cao nhất, ánh mắt Quang Trung hoàng đế luôn dõi theo đứa con thiên thần của mình không chớp mắt, như thấy được trong hình dáng thiếu niên trẻ tuổi này - một ngọn núi lớn đang từ từ mọc lên giữa đất trời Đại Việt.
Sau đó, Nguyễn Minh tiến vào sân rộng trải bản đồ Đại Việt. Chỉ vào từng mũi tấn công, sử dụng cách gọi kỳ lạ: “chiến lược phản vệ tinh, nhiễu âm điện từ, đội hình tam giác lửa, tập kích hồi chuyển…”

Trần Quang Diệu ngẩn người: những kế sách này… không có trong binh thư xưa, xin Minh hoàng tử tiếp tục khai nhãn cho bổn tướng:

“Trong các trận chiến, những tướng quân tài ba đã dùng những chiến thuật nghệ thuật của việc bố trí quân đội, như giả thua để dẫn dụ, như vờ yếu để phục kích… Còn trong thời nay, ta có thể sử dụng thiết bị đặc biệt để thăm dò, hoặc hệ thống phá mây tạo mưa để đạt mục đích…”

Chiến thắng không phải chỉ dựa vào sức mạnh quân sự, mà là sự linh động trong mỗi bước đi, là khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới, hiểu rõ đối thủ và không bao giờ ngừng học hỏi. Chính vì vậy, những mưu lược cổ kim, hay bây giờ, phải được kết hợp thật khéo léo, có như vậy chúng ta mới có thể đánh bại được mọi thế lực, chinh phục được giang sơn, thống nhất sơn hà.

Sau đó Nguyễn Minh chắp tay cung kính vái Trần Quang Diệu thật sâu và kính cẩn nói:
- "Bá phụ!
Hổ tướng Trần Quang Diệu Ngài, cùng với nữ trung hào kiệt Bùi Thị Xuân, được người đời xưng tụng là 'Kim đồng Ngọc nữ' của Tây Sơn ta. Hai vị là rường cột trụ quốc, giữ nhiều chức vụ trọng yếu, lập nên bao chiến công hiển hách, được Phụ hoàng ta vô cùng tin yêu và trọng vọng.

Thanh Huỳnh Long đao trong tay Bá phụ, Ô Long đao của Phụ hoàng ta và Xích Long đao của Hổ tướng quân Lê Sỹ Hoàng, ba thanh đao ấy hợp thành 'Tam thần đao' - cái thế vô song, khiến thiên hạ bạt vía, chiến công lẫy lừng. Điệt nhi từ lâu đã ngưỡng mộ, nay có cơ duyên mong được bái học, học lấy tinh hoa chiêu thức trong bộ Tam thần đao, để không phụ lòng Tây Sơn, không phụ một đời kỳ vọng của Phụ hoàng, của anh linh Lạc Hồng.

Cả điện đình lặng ngắt. Bao ánh mắt triều thần, tướng sĩ đều ngưỡng mộ nhìn Nguyễn Minh không chớp mắt. Kẻ trẻ tuổi ấy - phong t.ư tuấn lãng, hiểu biết sâu rộng, lễ nghi chu toàn, lại ôm chí lớn - quả thực mang cốt cách Tiên Rồng của Quang Trung hoàng đế vĩ đại.

Trần Quang Diệu đứng thẳng, ánh mắt kiên định nhưng tràn đầy sự kính trọng nhìn về phía Quang Trung hoàng đế và Minh hoàng tử. Ông chậm rãi cúi đầu, rồi cất lời, giọng đầy vẻ thành kính nhưng cũng không giấu nổi niềm tự hào:

- Hoàng đế bệ hạ, Nhi tử của Ngài, quả thật là một thần nhân. Từ lúc gặp gỡ, hạ thần đã thấy rõ Minh hoàng tử không chỉ có tài năng mà còn có khí phách, cử chỉ lời nói, tấm lòng chăm lo muôn dân thiên hạ của Ngài, hạ thần vô cùng vinh hạnh khi được chứng kiến Minh hoàng tử trưởng thành dưới sự dìu dắt của Bệ hạ”

Các tướng đồng loạt đứng lên kính nhà Vua: Bệ hạ vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Nguyễn Minh cúi đầu cảm tạ, lòng rưng rưng. Quang Trung hoàng đế trong lòng thấm đẫm niềm tự hào về đứa con tài hoa của Nhà vua, Nguyễn Quang Minh. Ông nhìn Minh với ánh mắt đầy yêu thương.

Ngay lúc đó, Là Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp bước lên, ánh mắt của ông đầy sự cần trọng như thể ông đã sẵn sàng đặt ra những câu hỏi quan trọng cho Minh hoàng tử. Ông chậm rãi đặt tay lên chòm râu bạc phơ, rồi nhìn Minh một cách sâu sắc. Cả không gian im lặng, mọi ánh mắt đều dồn về phía ông.

- Minh hoàng tử, thần không thể không thừa nhận tài năng của Ngài trong võ học, nếu Người thật sự có cả văn trị, hãy dùng một bài thơ mà cả trăm năm chưa từng nghe, khiến triều thần lay động tâm can

Minh bước vào giữa điện, bái lạy lão nho gia - người được Quang Trung Nguyễn Huệ xưng tụng là bậc thầy thiên hạ. Minh cúi đầu, chậm rãi đọc:

Mùa xuân Đại thắng rực cờ hoa
Thống nhất Bắc Nam hiệp một nhà
Tranh đấu trường kỳ đà kết thúc
Hòa Bình hàn gắn buổi can qua
Gia đình phân tán nay sum họp
Đất nước nối liền hết cách xa
Đoàn kết chung lòng cùng đổi mới
Việt Nam muôn thuở vững Sơn Hà.

Và Chàng tiếp tục ngâm nga bài thơ:

Giờ tuổi trẻ chúng ta dựng nước
Đẹp cho đời tiếp bước cha anh
Giữ cho non nước yên lành
Một màu hoa gấm mãi xanh hòa bình

Mừng kỷ niệm quang vinh chiến thắng
Ngày non sông nối thẳng nói liền
Để cho con cháu Lạc - Tiên
Muôn đời ghi nhớ lời nguyền cha ông.


Cả điện văn thần võ tướng đứng dậy khen không ngớt lời. Gió nổi lên ngoài hiên, thổi bay từng tà áo. Nguyễn Thiếp cúi mình thật sâu:
- Thiên hạ chưa từng có thơ như vậy. Không mùi Tống, chẳng khí Đường. Bội phục, bội phục

Minh hoàng tử, Ngài nghĩ thế nào về việc giải quyết tranh chấp trong một đất nước lớn như Đại Việt ta? Khi đối mặt với các thế lực thù trong, giặc ngoài, Ngài sẽ làm gì để duy trì sự ổn định trong nội bộ Tây Sơn?

Nguyễn Minh nhẹ nhàng trả lời:

- "Phu Tử, Ta nghĩ rằng trong một đất nước lớn mạnh, không chỉ quân sự mà cả sự hòa thuận trong nội bộ mới là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lâu dài. Khi có tranh chấp, nhất là trong nội bộ, cần phải dùng trí tuệ để kiểm soát cảm xúc của cá nhân, làm sao để mọi quyết định đều vì lợi ích chung của dân tộc, của giang sơn, xã tắc và của nhân dân. Quân đội là thành trì vững chắc, nhưng chắc chắn phải có lòng dân, khi lòng dân đoàn kết, không gì có thể phá vỡ được"

Là Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp gật đầu, ánh mắt ông sáng lên như thể đã tìm ra điều mình muốn thấy. Ông khẽ mỉm cười, rồi chậm rãi quay về Quang Trung Hoàng đế và kính cẩn tâu trình:
- "Tâu Bệ hạ, Vị Nhi tử tài trí của bệ hạ có lời nói nặng ngàn cân, hạ thần tin rằng huyết mạch của Ngài sẽ không chỉ giỏi về chinh chiến, mà còn có thể giữ được ổn định, tạo ra hoà bình thịnh thế cho Đại Việt ta".

Thái tử Nguyễn Quang Toản cùng hai vị hoàng tử Nguyễn Quang Thuỳ, Nguyễn Quang Bàn run rẩy, khiếp sợ xen lẫn nể trọng tự hào, cùng các văn thần, võ tướng đồng loạt đứng dậy tâu trình:
- Chúc mừng Phụ hoàng, chúng nhi thần tự biết không bì kịp Hoàng huynh, kết quả kỳ thi đã rất rõ ràng, chúc mừng Hoàng huynh Quang Minh.

Vua Quang Trung ngự trên điện rồng, ánh mắt sáng rực như sao trời, râu tóc bay nhẹ theo gió mát. Ngài đảo mắt nhìn khắp triều thần, thấy quần thần quỳ lạy, lòng chan chứa nỗi tự hào không kiềm được. Ngài bật cười sang sảng, tiếng cười như sấm động:
Thiên hạ thái bình, xã tắc vững bền, ắt phải nhờ những bậc anh tài như thế! Nay con cháu ta như vậy, trẫm còn gì phải âu lo nữa.
Ngài phất tay áo bào, truyền lệnh:
Ban yến thiết triều! Khen thưởng các vị hoàng tử, ban đặc ân cho quần thần đồng lòng tận trung vì nước. Từ nay, hãy cùng trẫm chung sức, dựng nền thái bình vững bền muôn thuở.
Nhà vua ánh mắt uy nghiêm, truyền Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ tuyên chỉ, Trần Văn Kỷ đứng dậy, đón lấy chiếu chỉ của Quang Trung hoàng đế, mở rộng, giọng dõng dạc, mỗi tiếng mỗi chữ như khắc vào lòng đất trời
Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết:
Hoàng nhi của Trẫm, Nguyễn Quang Minh, tuổi trẻ gian truân, hiếu kính tiên tổ, tài đức vẹn toàn, văn võ kiêm bị, chí khí cao dày, lòng son vì nước. Nay phong Nam Bình Vương, cấp ấn vàng, mở phủ riêng, đứng ngang hàng với các công thần khai quốc. Từ đây phụ tá đại nghiệp, dốc lòng hộ quốc an dân, nối tiếp cơ đồ, bền vững muôn đời.
Văn võ bá quan, chư quân chư dân trong thiên hạ, đều phải kính cẩn tuân theo, không được trái mệnh.
Khâm thử
Tiếng đọc chiếu vừa dứt, trống đồng nổi ba hồi, chiêng vàng rền vang khắp điện. Quần thần nhất tề quỳ rạp, đồng thanh hô vang:
Cung chúc hoàng thượng: Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Cung chúc Nam Bình Vương điện hạ: Thiên tuế, Thiên tuế, Thiên thiên tuế.

Tiếng hô vang dội như sấm, dậy khắp điện vàng lầu ngọc. Ngoài điện, cờ xí tung bay, trống chiêng nổi dậy, như phụ họa cho thời đại mới đang đến - thời đại của huy hoàng và thịnh trị.

Nghe Trần Văn Kỷ tuyên xong chiếu thư của Nhà vua, Nguyễn Minh đứng chôn chân tại chỗ, thần sắc thất thần, hai bàn tay siết chặt đến run rẩy. Giữa bao ánh mắt chăm chú, vị hoàng tử tài hoa ấy quá đỗi bất ngờ, đột nhiên quỳ sụp xuống giữa điện vàng, ánh mắt nghiêm nghị bỗng rưng rưng. Trong tiếng trống rền vang, Nguyễn Minh nghẹn ngào bái lạy:
Phụ hoàng thánh ân như biển trời, nhi thần hèn mọn, nào dám nghĩ tới vinh sủng cao dày này
Vua Quang Trung từ trên ngai vàng bước xuống vài bậc, nhìn hài nhi yêu thương nhất đời của Nhà vua quỳ rạp nơi bệ ngọc, ánh mắt ngời lên niềm kiêu hãnh khôn tả. Một nụ cười hiền hậu điểm trên khóe miệng uy nghiêm. Nhà vua tiến thêm một bước, áo bào lay động trong gió, rồi khẽ cất tiếng, giọng ấm mà vang vọng khắp điện:
Trẫm dõi theo con từ thuở còn thơ ấu, từng bước nhìn thấy hoàng nhi trưởng thành dưới bóng cờ đào Tây Sơn ta, giữa lửa gươm binh đao, con chính là hình ảnh kiêu hùng của thời trai trẻ trẫm từng hiến dâng cho non sông này...
Giọng Nhà vua chùng xuống, trầm mặc như những ký ức thời trai trẻ ùa về:
Mẫu thân con chắc cũng đang mỉm cười, vui mừng mà ngậm cười nơi chín suối, thấy con nối chí cha ông, làm rạng danh tổ nghiệp.
Ngừng lại một khắc, ánh mắt Quang Trung Đại đế như chứa chan cả trời non nước, cả máu lệ một đời:
Hoàng nhi phải luôn luôn ghi nhớ, thân này của trẫm đã thuộc về giang sơn, xã tắc. Máu thịt của trẫm đã đổ xuống cho từng tấc đất, từng dòng sông này. Nay truyền cho con chí lớn phải giữ lấy cơ đồ, lấy thiên hạ làm nhà, lấy bách tính làm trọng, nhất thống sơn hà, để muôn dân an cư lạc nghiệp, thái bình thịnh thế.

Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh quỳ lạy ba lạy thật sâu, trán chạm bệ ngọc, thân hình run lên vì xúc động. Chàng nghẹn lời, cổ họng như có nghìn vạn tơ vò siết chặt, mãi một hồi lâu mới dâng tiếng tâu lên, giọng chan chứa nghĩa tình:
Thuở nhỏ, nhi thần tính khí hiếu động, kiến giải hạn hẹp, chưa thấu hết ân tình của Phụ hoàng, của Mẫu thân, chưa từng hiểu những đêm dài người gánh chịu canh khuya đơn độc, trăm mối quốc sự nặng trên vai.

Chàng dừng lại, hít sâu một hơi, dập đầu lần nữa, đôi mắt hoe đỏ:
Nay, trải qua sóng gió biến cố cuộc đời, bôn ba giữa mưa đạn gió gươm, từng chứng kiến máu đào nhuộm đất, dân chúng lầm than, nhi thần mới hiểu được tấm lòng bao la như núi non trời biển của Phụ hoàng, của Mẫu thân, và của bao thế hệ tiên tổ Đại Việt ta đã đổ máu vì giang sơn gấm vóc này.
Nhi thần nguyện một đời tận trung tận hiếu, không phụ thánh ân trời biển của Phụ hoàng, một đời ghi lòng tạc dạ ân đức Mẫu thân, một đời không phụ công lao của tiên tổ Đại Việt. Nguyện đem toàn trí toàn lực, truyền đời hậu thế nhất thống sơn hà, đánh đuổi ngoại xâm, dựng xây giang sơn Đại Việt thái bình, thịnh thế!
Nói rồi, Nam Bình Vương dập đầu bái lạy lần nữa, tiếng vái lạy mạnh mẽ vang vọng khắp điện vàng, khiến không chỉ văn võ bá quan mà cả những lão thần tóc bạc cũng phải đỏ hoe mắt, nghẹn ngào cảm động.

Tiếng chiêng trống, tiếng hô muôn người, tiếng gió ngàn cuộn trào trong điện lớn như sóng thần tiếp sức cho lời thề son sắt ấy bay thẳng lên tầng trời cao hoà quyện cùng hồn thiêng sông núi.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top