Game Tìm từ

nhaque

Tác Giả Đại Thần
trì, bế, nguyện, khách, quá
xuất, dị, nan, thỉnh, sinh

Ghép được thành câu sẽ cho ngọc:d6m3l1y:

Khách nguyện bế trì quá -- Thứa chịu (tự) nhốt trễ khỏi/hơn (thời hạn)
Sinh thỉnh dị xuất nan -- Chàng mời thì dễ nhưng đi thì khó

Chú:
- Không ghép lại được thành cặp đối, nhưng miễn cưỡng có thể ghép thành một cặp câu có nghĩa nào đó.
- Thứa: là từ thuần Việt (Quốc ngữ). Đồng nghĩa với: khách/khứa (Hán-Việt), stranger/visitor/customer/client (Anh/Mỹ).

Nói thêm: Thuở xưa, khi người Hán (China) chiếm nước Việt, thì những từ Hán-Việt mà người Việt nghe phát âm thì chủ yếu xuất phát từ những người ở phía Nam Trung Quốc ngày nay. Về sau, người ngoại tộc ở biên giới phía Bắc đã xâm lược lãnh thổ và dần dần hợp nhất các dân tộc Trung Quốc quy về một mối, cho nên người ngoại tộc đó được/bị người Trung Quốc gốc đã gọi là người "Quan ngoại" (ở ngoài cửa ải) nói giọng "Quan thoại" (kiểu/giọng nói chuyện của người ngoài cửa ải), đến bây giờ chính là giọng Bắc Kinh.

Cho nên:
- thuở xưa thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khách
- sau này thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khứa 客
- thuần Việt là: Thứa
(Thứa đến nhà = "Khách nhân lai gia" Hán-Việt)

Rất nhiều từ Hán-Việt bị 2 âm đọc khác nhau như thế:
- đường (pre) = đàng (late)
- sanh (pre) = sinh (late)
- khách (pre) = khứa (late)

Lưu ý:
- Thuở xưa (trước khi bị đô hộ), giai đoạn Hùng Vương hơn 1000 năm thì phía Nam Trung Quốc ngày nay (hạ nguồn sông Dương Tử, lưỡng Quảng) thuộc lãnh thổ Văn Lang. Do vậy mà nhiều từ vựng giữa người Việt ngày nay và người phía Nam Trung Quốc ngày nay có nhiều nét giống nhau - chứ không phải là người Việt bị nhiễm tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, biết thì biết vậy thôi. Hiện tại/hiện trạng mới là quan trọng nhất.
 

Hminh985

Tầm Tiên
Ngọc
1.390,20
Tu vi
12,00
Khách nguyện bế trì quá -- Thứa chịu (tự) nhốt trễ khỏi/hơn (thời hạn)
Sinh thỉnh dị xuất nan -- Chàng mời thì dễ nhưng đi thì khó

Chú:
- Không ghép lại được thành cặp đối, nhưng miễn cưỡng có thể ghép thành một cặp câu có nghĩa nào đó.
- Thứa: là từ thuần Việt (Quốc ngữ). Đồng nghĩa với: khách/khứa (Hán-Việt), stranger/visitor/customer/client (Anh/Mỹ).

Nói thêm: Thuở xưa, khi người Hán (China) chiếm nước Việt, thì những từ Hán-Việt mà người Việt nghe phát âm thì chủ yếu xuất phát từ những người ở phía Nam Trung Quốc ngày nay. Về sau, người ngoại tộc ở biên giới phía Bắc đã xâm lược lãnh thổ và dần dần hợp nhất các dân tộc Trung Quốc quy về một mối, cho nên người ngoại tộc đó được/bị người Trung Quốc gốc đã gọi là người "Quan ngoại" (ở ngoài cửa ải) nói giọng "Quan thoại" (kiểu/giọng nói chuyện của người ngoài cửa ải), đến bây giờ chính là giọng Bắc Kinh.

Cho nên:
- thuở xưa thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khách
- sau này thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khứa 客
- thuần Việt là: Thứa
(Thứa đến nhà = "Khách nhân lai gia" Hán-Việt)

Rất nhiều từ Hán-Việt bị 2 âm đọc khác nhau như thế:
- đường (pre) = đàng (late)
- sinh (pre) = sanh (late)
- khách (pre) = khứa (late)

Lưu ý:
- Thuở xưa (trước khi bị đô hộ), giai đoạn Hùng Vương hơn 1000 năm thì phía Nam Trung Quốc ngày nay (hạ nguồn sông Dương Tử, lưỡng Quảng) thuộc lãnh thổ Văn Lang. Do vậy mà nhiều từ vựng giữa người Việt ngày nay và người phía Nam Trung Quốc ngày nay có nhiều nét giống nhau - chứ không phải là người Việt bị nhiễm tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, biết thì biết vậy thôi. Hiện tại/hiện trạng mới là quan trọng nhất.
cao nhân nơi nào, nhận chủ thớt một bái :xinvai:
 

Xuân Mộc Đăng Phong

Luyện Khí Hậu Kỳ
Ngọc
5.584,60
Tu vi
54,67
Khách nguyện bế trì quá -- Thứa chịu (tự) nhốt trễ khỏi/hơn (thời hạn)
Sinh thỉnh dị xuất nan -- Chàng mời thì dễ nhưng đi thì khó

Chú:
- Không ghép lại được thành cặp đối, nhưng miễn cưỡng có thể ghép thành một cặp câu có nghĩa nào đó.
- Thứa: là từ thuần Việt (Quốc ngữ). Đồng nghĩa với: khách/khứa (Hán-Việt), stranger/visitor/customer/client (Anh/Mỹ).

Nói thêm: Thuở xưa, khi người Hán (China) chiếm nước Việt, thì những từ Hán-Việt mà người Việt nghe phát âm thì chủ yếu xuất phát từ những người ở phía Nam Trung Quốc ngày nay. Về sau, người ngoại tộc ở biên giới phía Bắc đã xâm lược lãnh thổ và dần dần hợp nhất các dân tộc Trung Quốc quy về một mối, cho nên người ngoại tộc đó được/bị người Trung Quốc gốc đã gọi là người "Quan ngoại" (ở ngoài cửa ải) nói giọng "Quan thoại" (kiểu/giọng nói chuyện của người ngoài cửa ải), đến bây giờ chính là giọng Bắc Kinh.

Cho nên:
- thuở xưa thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khách
- sau này thì người Việt có âm Hán-Việt là: Khứa 客
- thuần Việt là: Thứa
(Thứa đến nhà = "Khách nhân lai gia" Hán-Việt)

Rất nhiều từ Hán-Việt bị 2 âm đọc khác nhau như thế:
- đường (pre) = đàng (late)
- sinh (pre) = sanh (late)
- khách (pre) = khứa (late)

Lưu ý:
- Thuở xưa (trước khi bị đô hộ), giai đoạn Hùng Vương hơn 1000 năm thì phía Nam Trung Quốc ngày nay (hạ nguồn sông Dương Tử, lưỡng Quảng) thuộc lãnh thổ Văn Lang. Do vậy mà nhiều từ vựng giữa người Việt ngày nay và người phía Nam Trung Quốc ngày nay có nhiều nét giống nhau - chứ không phải là người Việt bị nhiễm tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, biết thì biết vậy thôi. Hiện tại/hiện trạng mới là quan trọng nhất.
Chỉ biết nép vào cửa nhìn lão gia gia thi triển tài hoa !!!
(Vần phết nhỉ! Để bê qua "Tui thích" kiếm xiền mua cà rốt)
@Xuân Mộc Đăng Phong
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top