Game Tiểu Lách và Nối từ (lầu 5)

nhaque

Tác Giả Đại Thần
mạc mặt @nhaque

--
P/s 1: "Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" ("Chinh phụ ngâm khúc", Đặng Trần Côn & Đoàn Thị Điểm)
Đặng Trần Côn là người viết ra "Chinh phụ ngâm khúc" - tức là chữ Hán & theo thể ngâm xướng.
(Thời ấy, những kẻ có học thức đều dùng chữ Hán (chữ Nho) để làm tác phẩm - và đương nhiên làm theo ngữ pháp Hán văn).
Đặng Trần Côn mới đưa cho Đoàn Thị Điểm xem.
Đoàn Thị Điểm bèn dịch từ phiên bản chữ Hán thành phiên bản chữ Nôm (vẫn kiểu chữ gần như chữ Hán) & theo thể thơ "song thất - lục-bát".

Thí dụ:
Đặng Trần Côn viết chữ Hán (cọ quẹt tung hoành tùm lum), ghi âm đọc Hán-Việt theo Quốc-ngữ như sau:
"Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề...
Thùy tạo nhân?
Cổ bề thanh động Tràng thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ, phi hịch truyền tướng quân
..."

Đoàn Thị Điểm mới chuyển thành dạng thơ "Song thất - Lục - Bát" (lúc ấy cũng cọ quẹt tung hoành như chữ Hán), nhưng bây giờ thì chúng ta dùng chữ Quốc-ngữ để thể hiện nội dung:
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên...
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm, truyền hịch định ngày xuất chinh
..."

P/s 2: Lẽ ra có thể nối từ bằng "Mạc Phủ" (một thế lực chánh trị lớn của Nhật Bản ngày xưa), nhưng 'nhaque' cố ý dùng "mạc mặt" để giới thiệu thêm về "Chinh phụ ngâm khúc" cho những ai chưa biết. Ai biết rồi thì skip hen :xinloi:
 
Last edited:
mạc mặt @nhaque

--
P/s 1: "Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" ("Chinh phụ ngâm khúc", Đặng Trần Côn & Đoàn Thị Điểm)
Đặng Trần Côn là người viết ra "Chinh phụ ngâm khúc" - tức là chữ Hán & theo thể ngâm xướng.
(Thời ấy, những kẻ có học thức đều dùng chữ Hán (chữ Nho) để làm tác phẩm - và đương nhiên làm theo ngữ pháp Hán văn).
Đặng Trần Côn mới đưa cho Đoàn Thị Điểm xem.
Đoàn Thị Điểm bèn dịch từ phiên bản chữ Hán thành phiên bản chữ Nôm (vẫn kiểu chữ gần như chữ Hán) & theo thể thơ "song thất - lục-bát".

Thí dụ:
Đặng Trần Côn viết chữ Hán (cọ quẹt tung hoành tùm lum), ghi âm đọc Hán-Việt theo Quốc-ngữ như sau:
"Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề...
Thùy tạo nhân?
Cổ bề thanh động Tràng thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ, phi hịch truyền tướng quân
..."

Đoàn Thị Điểm mới chuyển thành dạng thơ "Song thất - Lục - Bát" (lúc ấy cũng cọ quẹt tung hoành như chữ Hán), nhưng bây giờ thì chúng ta dùng chữ Quốc-ngữ để thể hiện nội dung:
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên...
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm, truyền hịch định ngày xuất chinh
..."

P/s 2: Lẽ ra có thể nối từ bằng "Mạc Phủ" (một thế lực chánh trị lớn của Nhật Bản ngày xưa), nhưng 'nhaque' cố ý dùng "mạc mặt" để giới thiệu thêm về "Chinh phụ ngâm khúc" cho những ai chưa biết. Ai biết rồi thì skip hen :xinloi:
Mặt tiền. @Âu Dương Thiên Tuấn
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top