VỀ TÂM LÍ BÁO OÁN, TRẢ THÙ…
Nghĩ mãi lí do vì sao cứ nói tới truyện cổ tích, tới văn học dân gian thì nhiều người nghĩ ngay tới Tấm Cám, còn văn học trung đại thì Truyện Kiều! Nhân đọc stt một bạn văn (ĐT) về cảnh Kiều báo ân báo oán, nhớ lại những điều vẫn giảng cho trò nhưng vì tới bài nào nói bài đó mà chưa hệ thống lại, chợt ngộ! Phải chăng ngoài những giá trị hiện thực, giá trị nhân văn, những nghệ thuật tả cảnh tả tình... thì hình như vẫn còn một nguyên nhân nữa: khao khát giải thoát khỏi mặc cảm và ẩn ức của những thân phận dưới đáy được thể hiện khá thoả thuê, sảng khoái trong một vài cảnh của hai tác phẩm ấy!
Thứ nhất là những lời cảnh báo của cô Tấm thảo hiền: Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra/ Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào, nếu phơi bờ rào tao cào mặt ra... Người ta hay nói “khẩu xà tâm Phật”, thực tôi chưa bao giờ nghĩ người có thể nói những lời rắn rết mà tâm lại từ bi, lời nói luôn là sự bộc lộ chân thực nhất tâm hồn hoặc tâm địa, là khao khát hiện thực hoá những ẩn ức chưa thành hiện thực!
Thứ hai là màn trả thù ghê sợ trong đoạn kết “có hậu”: Chị Tấm dịu dàng hỏi em gái chung một nửa dòng máu về ước mơ tắm trắng, rồi chị sai lính đào hố, cho em gái nằm dưới hố, dội nước sôi vào, chặt xác em làm mắm, gửi biếu mẹ em, để mẹ em ăn tới miếng cuối cùng thì nhìn thấy con, kinh hoàng về sự ác của người hiền, lăn đùng ra mà chết! Thú thật, dù dạy trò về đặc trưng nhân vật cổ tích để phần nào rửa mặt cho Tấm, tôi vẫn không thể không cảnh báo cho trò về cái Ác rất đáng sợ tiềm ẩn trong tâm lí những kẻ thường được coi là nạn nhân, là thân phận dưới đáy..., nếu “truyện cổ tích là giấc mơ đẹp” thì giấc mơ này không chỉ có ngôi vua hay phò mã, hoàng hậu... mà còn ước muốn mãnh liệt được khoét mắt, cào mặt, thậm chí lăng trì, tùng xẻo kẻ thù!
Thứ ba là cảnh Thuý Kiều báo ân báo oán. Cảnh báo ân khá mãn nguyện khi kẻ dưới đáy chớp mắt thành “phu nhân” quyền uy lệch đất nghiêng trời, dùng bạc vàng của người khác, đắc ý ban phát, hình như không chỉ để báo ân mà còn để xoá đi cái cảm giác ê chề nhục nhã của kiếp kĩ nữ tôi đòi, nhân tiện xoá mờ vị thế thấp kém của kẻ bám víu hàm ơn trước đó - trong màn báo ân này, vì quá phấn khích mà Kiều không kiềm chế được hai cái ác: “mời” vãi Giác Duyên ở lại xem nàng báo thù; và “cho gươm mời tới Thúc lang” - có cái ác nào đáng sợ hơn việc bắt người tu hành chứng kiến cảnh “xương rơi thịt nát”? có cái ác nào đê tiện hơn khi dùng quyền lực mượn để thị uy với “cố nhân”, và sau những mát mẻ, dằn hắt cùng đe doạ, “người cũ” này buộc “người cũ” kia chứng kiến cảnh nàng chuẩn bị báo thù vợ chàng ta!
Tôi đặc biệt hứng thú khi giúp học trò nhận ra sự thông minh, sắc sảo, thấu đạt nhân tình, vị thế hơn hẳn của người phụ nữ “Vốn dòng họ Hoạn danh gia” trong cuộc đấu trí với Thuý Kiều. Tất cả sự căm hờn uất ức của Kiều đã dồn vào Hoạn Thư, nâng Hoạn Thư lên thành “Chính danh thủ phạm” đầu tiên trong màn báo oán - vậy mà họ Hoạn chỉ nói mấy câu, “người phán xử” không còn lời nào để thị uy hay đay nghiến, chỉ vớt lại chút oai phong trong cái quyền khen và tha, cái sự tha rất hạ cố: “Tha ra thì cũng may đời”! Trong hoàn cảnh một tội nhân đơn thương độc mã, khi người chồng hèn yếu bạc nhược chỉ dám đứng xa mà “sợ thầm”, không nửa lời nói đỡ, Hoạn Thư phải tự mình bào chữa cho chính mình bằng những lời hoàn toàn thấu lí, đạt tình: trước hết nàng khẳng định “ghen tuông thì cũng người ta thường tình”, bởi đàn bà mà, “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”; nhưng nàng cũng nhắc nhẹ nhàng những trọng nể “kính yêu” có thật trước đây khi đã “Nghĩ tài nên trọng mà tình nên thương”, những ân tình có thật nàng dành cho Kiều khi cho Kiều ra Quan Âm các viết kinh, và đặc biệt, với câu “Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”, Hoạn Thư đã rất ý tứ nhắc tới điều mà chỉ có phu nhân và nàng biết, và nếu còn liêm sỉ, phu nhân tất phải xấu hổ, đó là việc Kiều trốn khỏi Quan Âm các, đã lấy trộm một số ngân xuyến vàng bạc trong nhà họ Hoạn - vậy là nếu xét tội, Hoạn Thư chỉ có tội là trót giống với cái “thường tình” của đời, còn nếu xét ơn, nàng trọng nể, nương nhẹ, nàng cho Kiều chốn dung thân, tu hành, nàng không truy đuổi kẻ có nhiều lí do để bị truy đuổi! Vậy nhưng cuối cùng, nàng Hoạn Thư hiểu chuyện vẫn cúi đầu nhận tội, cái tội không phải là tội, vẫn trông mong “lượng bể thương bài nào chăng” - tới đây, giữa thanh thiên bạch nhật, nếu phu nhân còn xuống tay, chắc sẽ thành tiểu nhân giữa trời đất, thế mới đành thành cái khoan dung “truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”!
Cũng cần xem lại trong cảnh báo oán với cái tàn nhẫn đáng sợ của một nhi nữ hiền thục “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, hai lần làm kĩ nữ, hai lần làm người ở..., nay đổi đời thành mệnh phụ phu nhân, thỏa thuê báo oán với lời đảm bảo ( giờ hay gọi là “chống lưng”!) của tướng công:“Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh”. Lời tuyên án uy nghiêm nhân danh lẽ nhân quả của tạo hóa: “Nàng rằng:“Lồng lộng trời cao/Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta” cùng cảnh tượng “Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà/ Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh / Tú Bà cùng Mã Giám Sinh /Thề sao thì lại cứ sao gia hình/ Máu rơi thịt nát tan tành/ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời…” khiến nhiều người đọc hình dung cái sảng khoái của một bữa tiệc máu! Nếu sự trả thù của cô Tấm thảo hiền đáng sợ về tính chất thì cuộc trả thù của nàng Kiều đáng sợ về cả tính chất và mức độ. Điểm giống nhau là họ đều trả thù rất hả hê tàn nhẫn sau khi đổi đời và được những sự “chống lưng” với quyền lực vô biên khiến luật pháp thành vô pháp; và sâu xa sự giống nhau giữa họ là mặc cảm dưới đáy của con sâu cái kiến khi bất ngờ được làm người, họ phải khiến cả thế giới biết họ đã là người – dù bằng báo ân hay báo oán, bởi thực chất, sự báo ân không chỉ là tình nghĩa thủy chung, sâu xa trong đó vẫn không phải không có cảm giác ban phát đắc ý mãn nguyện khi chuyển vị thế chịu ơn sang làm ơn!
Nếu so sánh với một vài truyện cổ tích khác, thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của đấng tối cao, thực thi công lí rất công minh nhưng không có sự hả hê đẫm máu, ví như Lí Thông được Thạch Sanh tha tội nhưng trên đường về bị sét đánh chết, hóa thành bọ hung; người anh trong truyện Cây khế lặng lẽ rơi xuống biển vì cái túi tham mười hai gang của mình như lẽ nhân quả nhỡn tiền…
Cũng thấy thêm một điều này trong motif khá phổ biến của cổ tích: những chàng ngốc được nắm quyền lực, những thằng Bờm gặp may mắn... Ở hiền gặp lành là lẽ nhân quả cho con người hướng thiện, nhưng mặc cảm thân phận dưới đáy khiến người ta ít khi dừng lại mong một cuộc sống hạnh phúc, bình yên - họ thường khao khát đổi đời, mong hoán đổi thân phận, mong có được quyền lực! Nhưng trong thực tế nếu anh tiều phu không được học hành trở thành phò mã rồi làm vua, công chúa có hạnh phúc không và đất nước ấy sẽ ra sao? Nếu những cô Tấm thành hoàng hậu, với khả năng thực thi cái ác đáng sợ như vậy, quyền lực từ hậu cung của cô sẽ khiến hoang cung như thế nào? Khát vọng nào khiến giấc mơ lớn nhất trong mọi truyện cổ tích luôn vẫn chỉ là ngôi vua, hoàng hậu, phò mã…, thấp nhất cũng phải như anh Khoai lấy được con gái phú ông…, nghĩa là len chân vào được cái thế giới giàu sang, uy quyền đã từng làm khổ mình.
Tự nhiên, nhớ tới “Kiến, Chuột và Ruồi” của tác giả Nguyễn Quang Lập, có nhân vật Đội trưởng, gã du côn vô học chuyên cầm dao phay đi đòi nợ thuê cho cường hào trước đây, gặp thời thành tiểu nhân đắc chí, áo mũ vênh vang, hay người đàn bà tên Hiên sau khi đổi đời, rũ mình khỏi “vai trò buôn cám lợn” đã thể hiện quyền uy khuynh đảo thị trấn Kô Long. Xa hơn, nhớ tới các nhân vật như cậu Chính, mụ Nần, gã Bích trong Những thiên đường mù của Dương Thu Hương… Tất nhiên, mọi so sánh đều khập khiễng!
Nghĩ mãi lí do vì sao cứ nói tới truyện cổ tích, tới văn học dân gian thì nhiều người nghĩ ngay tới Tấm Cám, còn văn học trung đại thì Truyện Kiều! Nhân đọc stt một bạn văn (ĐT) về cảnh Kiều báo ân báo oán, nhớ lại những điều vẫn giảng cho trò nhưng vì tới bài nào nói bài đó mà chưa hệ thống lại, chợt ngộ! Phải chăng ngoài những giá trị hiện thực, giá trị nhân văn, những nghệ thuật tả cảnh tả tình... thì hình như vẫn còn một nguyên nhân nữa: khao khát giải thoát khỏi mặc cảm và ẩn ức của những thân phận dưới đáy được thể hiện khá thoả thuê, sảng khoái trong một vài cảnh của hai tác phẩm ấy!
Thứ nhất là những lời cảnh báo của cô Tấm thảo hiền: Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra/ Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào, nếu phơi bờ rào tao cào mặt ra... Người ta hay nói “khẩu xà tâm Phật”, thực tôi chưa bao giờ nghĩ người có thể nói những lời rắn rết mà tâm lại từ bi, lời nói luôn là sự bộc lộ chân thực nhất tâm hồn hoặc tâm địa, là khao khát hiện thực hoá những ẩn ức chưa thành hiện thực!
Thứ hai là màn trả thù ghê sợ trong đoạn kết “có hậu”: Chị Tấm dịu dàng hỏi em gái chung một nửa dòng máu về ước mơ tắm trắng, rồi chị sai lính đào hố, cho em gái nằm dưới hố, dội nước sôi vào, chặt xác em làm mắm, gửi biếu mẹ em, để mẹ em ăn tới miếng cuối cùng thì nhìn thấy con, kinh hoàng về sự ác của người hiền, lăn đùng ra mà chết! Thú thật, dù dạy trò về đặc trưng nhân vật cổ tích để phần nào rửa mặt cho Tấm, tôi vẫn không thể không cảnh báo cho trò về cái Ác rất đáng sợ tiềm ẩn trong tâm lí những kẻ thường được coi là nạn nhân, là thân phận dưới đáy..., nếu “truyện cổ tích là giấc mơ đẹp” thì giấc mơ này không chỉ có ngôi vua hay phò mã, hoàng hậu... mà còn ước muốn mãnh liệt được khoét mắt, cào mặt, thậm chí lăng trì, tùng xẻo kẻ thù!
Thứ ba là cảnh Thuý Kiều báo ân báo oán. Cảnh báo ân khá mãn nguyện khi kẻ dưới đáy chớp mắt thành “phu nhân” quyền uy lệch đất nghiêng trời, dùng bạc vàng của người khác, đắc ý ban phát, hình như không chỉ để báo ân mà còn để xoá đi cái cảm giác ê chề nhục nhã của kiếp kĩ nữ tôi đòi, nhân tiện xoá mờ vị thế thấp kém của kẻ bám víu hàm ơn trước đó - trong màn báo ân này, vì quá phấn khích mà Kiều không kiềm chế được hai cái ác: “mời” vãi Giác Duyên ở lại xem nàng báo thù; và “cho gươm mời tới Thúc lang” - có cái ác nào đáng sợ hơn việc bắt người tu hành chứng kiến cảnh “xương rơi thịt nát”? có cái ác nào đê tiện hơn khi dùng quyền lực mượn để thị uy với “cố nhân”, và sau những mát mẻ, dằn hắt cùng đe doạ, “người cũ” này buộc “người cũ” kia chứng kiến cảnh nàng chuẩn bị báo thù vợ chàng ta!
Tôi đặc biệt hứng thú khi giúp học trò nhận ra sự thông minh, sắc sảo, thấu đạt nhân tình, vị thế hơn hẳn của người phụ nữ “Vốn dòng họ Hoạn danh gia” trong cuộc đấu trí với Thuý Kiều. Tất cả sự căm hờn uất ức của Kiều đã dồn vào Hoạn Thư, nâng Hoạn Thư lên thành “Chính danh thủ phạm” đầu tiên trong màn báo oán - vậy mà họ Hoạn chỉ nói mấy câu, “người phán xử” không còn lời nào để thị uy hay đay nghiến, chỉ vớt lại chút oai phong trong cái quyền khen và tha, cái sự tha rất hạ cố: “Tha ra thì cũng may đời”! Trong hoàn cảnh một tội nhân đơn thương độc mã, khi người chồng hèn yếu bạc nhược chỉ dám đứng xa mà “sợ thầm”, không nửa lời nói đỡ, Hoạn Thư phải tự mình bào chữa cho chính mình bằng những lời hoàn toàn thấu lí, đạt tình: trước hết nàng khẳng định “ghen tuông thì cũng người ta thường tình”, bởi đàn bà mà, “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”; nhưng nàng cũng nhắc nhẹ nhàng những trọng nể “kính yêu” có thật trước đây khi đã “Nghĩ tài nên trọng mà tình nên thương”, những ân tình có thật nàng dành cho Kiều khi cho Kiều ra Quan Âm các viết kinh, và đặc biệt, với câu “Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”, Hoạn Thư đã rất ý tứ nhắc tới điều mà chỉ có phu nhân và nàng biết, và nếu còn liêm sỉ, phu nhân tất phải xấu hổ, đó là việc Kiều trốn khỏi Quan Âm các, đã lấy trộm một số ngân xuyến vàng bạc trong nhà họ Hoạn - vậy là nếu xét tội, Hoạn Thư chỉ có tội là trót giống với cái “thường tình” của đời, còn nếu xét ơn, nàng trọng nể, nương nhẹ, nàng cho Kiều chốn dung thân, tu hành, nàng không truy đuổi kẻ có nhiều lí do để bị truy đuổi! Vậy nhưng cuối cùng, nàng Hoạn Thư hiểu chuyện vẫn cúi đầu nhận tội, cái tội không phải là tội, vẫn trông mong “lượng bể thương bài nào chăng” - tới đây, giữa thanh thiên bạch nhật, nếu phu nhân còn xuống tay, chắc sẽ thành tiểu nhân giữa trời đất, thế mới đành thành cái khoan dung “truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”!
Cũng cần xem lại trong cảnh báo oán với cái tàn nhẫn đáng sợ của một nhi nữ hiền thục “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, hai lần làm kĩ nữ, hai lần làm người ở..., nay đổi đời thành mệnh phụ phu nhân, thỏa thuê báo oán với lời đảm bảo ( giờ hay gọi là “chống lưng”!) của tướng công:“Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh”. Lời tuyên án uy nghiêm nhân danh lẽ nhân quả của tạo hóa: “Nàng rằng:“Lồng lộng trời cao/Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta” cùng cảnh tượng “Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà/ Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh / Tú Bà cùng Mã Giám Sinh /Thề sao thì lại cứ sao gia hình/ Máu rơi thịt nát tan tành/ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời…” khiến nhiều người đọc hình dung cái sảng khoái của một bữa tiệc máu! Nếu sự trả thù của cô Tấm thảo hiền đáng sợ về tính chất thì cuộc trả thù của nàng Kiều đáng sợ về cả tính chất và mức độ. Điểm giống nhau là họ đều trả thù rất hả hê tàn nhẫn sau khi đổi đời và được những sự “chống lưng” với quyền lực vô biên khiến luật pháp thành vô pháp; và sâu xa sự giống nhau giữa họ là mặc cảm dưới đáy của con sâu cái kiến khi bất ngờ được làm người, họ phải khiến cả thế giới biết họ đã là người – dù bằng báo ân hay báo oán, bởi thực chất, sự báo ân không chỉ là tình nghĩa thủy chung, sâu xa trong đó vẫn không phải không có cảm giác ban phát đắc ý mãn nguyện khi chuyển vị thế chịu ơn sang làm ơn!
Nếu so sánh với một vài truyện cổ tích khác, thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của đấng tối cao, thực thi công lí rất công minh nhưng không có sự hả hê đẫm máu, ví như Lí Thông được Thạch Sanh tha tội nhưng trên đường về bị sét đánh chết, hóa thành bọ hung; người anh trong truyện Cây khế lặng lẽ rơi xuống biển vì cái túi tham mười hai gang của mình như lẽ nhân quả nhỡn tiền…
Cũng thấy thêm một điều này trong motif khá phổ biến của cổ tích: những chàng ngốc được nắm quyền lực, những thằng Bờm gặp may mắn... Ở hiền gặp lành là lẽ nhân quả cho con người hướng thiện, nhưng mặc cảm thân phận dưới đáy khiến người ta ít khi dừng lại mong một cuộc sống hạnh phúc, bình yên - họ thường khao khát đổi đời, mong hoán đổi thân phận, mong có được quyền lực! Nhưng trong thực tế nếu anh tiều phu không được học hành trở thành phò mã rồi làm vua, công chúa có hạnh phúc không và đất nước ấy sẽ ra sao? Nếu những cô Tấm thành hoàng hậu, với khả năng thực thi cái ác đáng sợ như vậy, quyền lực từ hậu cung của cô sẽ khiến hoang cung như thế nào? Khát vọng nào khiến giấc mơ lớn nhất trong mọi truyện cổ tích luôn vẫn chỉ là ngôi vua, hoàng hậu, phò mã…, thấp nhất cũng phải như anh Khoai lấy được con gái phú ông…, nghĩa là len chân vào được cái thế giới giàu sang, uy quyền đã từng làm khổ mình.
Tự nhiên, nhớ tới “Kiến, Chuột và Ruồi” của tác giả Nguyễn Quang Lập, có nhân vật Đội trưởng, gã du côn vô học chuyên cầm dao phay đi đòi nợ thuê cho cường hào trước đây, gặp thời thành tiểu nhân đắc chí, áo mũ vênh vang, hay người đàn bà tên Hiên sau khi đổi đời, rũ mình khỏi “vai trò buôn cám lợn” đã thể hiện quyền uy khuynh đảo thị trấn Kô Long. Xa hơn, nhớ tới các nhân vật như cậu Chính, mụ Nần, gã Bích trong Những thiên đường mù của Dương Thu Hương… Tất nhiên, mọi so sánh đều khập khiễng!