Phần I - Giới thiệu câu truyện mà tác giả xây dựng dựa trên thần thoại Ấn Độ
Brahma
là thần sáng tạo ra thế giới, thường xuất hiện với hình tượng một nhà hiền triết, thường ngồi trên đỉnh núi suy t.ư những ý nghĩa thâm ảo nhất của vũ trụ. Thần có sức mạnh vĩ đại là sáng tạo sinh mạng, cả thế giới đều do tay ngài tạo nên. Sau khi Shiva diệt thế, cũng chính ngài là người phụ trách tái tạo lại thế giới.
Brahma mặc áo trắng, bốn đầu, bốn tay, lần lượt cầm kinh Veda, quyền trượng, chuỗi hạt, cung, bình nước hoặc hoa sen...Đặc điểm nổi bật nhất của Brahma là có bốn đầu, truyền thuyết kể rằng thần vốn có năm đầu, nhưng về sau đã bị Shiva chặt mất một.
Vishnu
Là một vị thần ôn hòa lương thiện, ngài lượng thứ cho mọi sai lầm của nhân thế, đồng thời dẫn đường cho nhân gian hướng thiện, phụ trách bảo vệ thế giới, duy trì trật tự và hòa bình cho vũ trụ, bảo hộ chúng sinh. Cúng tế Shiva cần huyết tế, còn cúng tế ngài chỉ cần hoa tươi.
Ngài có bốn cánh tay: một tay cầm tù và, một tay cầm kim luân, tay thứ ba cầm quyền trượng, tay còn lại cầm một đóa hoa sen. Vishnu, thần bảo hộ sẽ hóa thân xuống thế gian, phò trợ cho chính nghĩa, tiêu diệt tà ma và xây dựng nền pháp trị.
Shiva
Là vị thần cuốn hút nhất trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ cổ đại, ngài cô độc, hùng mạnh, tàn bạo, nhưng cũng từ bi. Ngài đồng thời là chủ sở hữu sức mạnh của những điệu múa, khổ hành, tính dục và dã thú. Ngài rời xa đám đông, cao ngạo, độc đoán, sở hữu sức mạnh hủy diệt tất cả. Một khi ngài đã quyết tâm hủy diệt thế giới, thì cả Brahma và Vishnu đều không thể ngăn cản được.
Shiva có mái tóc xanh, cổ họng màu xanh, ba mắt. Thiên nhãn trên trán là vũ khí cực kỳ lợi hại, khi hủy diệt thế gian, từ con mắt thứ ba sẽ phóng ra ngọn lửa, tiêu diệt vạn vật, chúng sinh, biến thế giới này thành cát bụi.
Vũ khí của Shiva là một cây chĩa ba, gọi là Trishula, tượng trưng cho sấm sét, chứng tỏ Shiva nắm giữ sức mạnh của gió bão, ngoài ra còn có kiếm và cung.
Trên người thần có ba con rắn độc quấn quanh, một con quốn trên cột tóc, một con quấn trên cổ, con còn lại là sợi dây quấn quanh bắp tay ngài. Ngài cưỡi trên con bò đực màu trắng Nandin, tiêu ký hình mảnh trăng non của Nandin cũng thường xuyên xuất hiện bên cạnh hình tượng của ngài.
Khi người vợ đầu tiên của thần là Sati chết, ngài đã ôm thi hài nàng nhảy múa như điên khắp thế giới này ba vòng, lại lưu lại nhân gian 7 năm. Điệu múa vừa tượng trưng cho vinh quang của ngài, cũng tượng trưng cho sự vận động vĩnh hằng của vũ trụ, vận động làm cho vũ trụ không già cỗi. Nhưng khi một thời đại kết thúc, ngài sẽ dùng điệu múa Tandava để hoàn thành việc hủy diệt thế giới, đồng thời khiến nó hòa nhập với tinh thần bất diệt của vũ trụ bao la.
Parvati
Người vợ đầu tiên của Shiva là Sati chuyển thế luân hồi, biến thành nữ thần Tuyết Sơn xinh đẹp nhưng cố chấp. Nàng cũng giống như tiền thế của mình, một lòng say đắm yêu Shiva, nàng đã ngâm mình trong dòng suối nước nóng của dòng Himalaya, cuối cùng đã dùng sự khổ hành khiến cả các vị thần cũng phải kinh hãi, làm rung động trái tim của Shiva.
Dưới sự chứng kiến của các thần, Parvati cuối cùng đã cử hành hôn lễ trọng thể với Shiva, trở thành đôi tình lữ được ngưỡng mộ nhất trên Thiên giới.
Vợ của Shiva cũng có rất nhiều hóa thân, có thể là ôn hòa như Uma, có thể là Parvati xinh đẹp quyến rũ (có tên khác là Shailaja, hoặc Aparna), có lúc lại biến thành nữ chiến thần Durga.
Durga là nữ chiến thần mạnh mẽ vô song, là mẹ của Ganesha, và Kartikeya, có chiến tích phục ma lẫy lừng cả trời đất.
Nguyên nhân ban đầu của câu chuyện, bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Brahma và Parvati.
Brahma ngồi một mình trên đỉnh Tuyết Sơn cả ngàn năm, lúc mở mắt ra bỗng nhiên phát hiện ra vị nữ thần xinh đẹp đang tu luyện chung một ngọn núi với mình là Parvati. Brahma không biết nàng chính là vợ của Shiva, ngài bị vẻ đẹp của nữ thần làm rung động, vậy nên đã sinh ra năm cái đầu, để có thể thưởng thức vẻ đẹp của nàng từ những góc độ khác nhau. Hành động này khiến Shiva nổi giận, không nói không rằng đã vung kiếm chặt đầu của Brahma xuống. Brahma vô cùng xấu hổ, nhưng cũng không giao chiến với Shiva mà trở về Tuyết Sơn ẩn cư. Nhưng từ đây giữa hai vị thần đã xảy ra rạn nứt.
Một lần, các thần đánh bại A Tu La của Ma tộc. A Tu La vương quyết định đem linh hồn của mình giao cho vị thần lớn mạnh nhất ở Thiên giới. Điều này đã gây nên một cuộc tranh luận giữa các vị thần. Sức mạnh sáng tạo của Brahma hay sức mạnh hủy diệt của Shiva, rốt cuộc bên nào vĩ đại hơn? Shiva và Brahma đối đầu quyết liệt, không ai nhường ai. Shiva vốn quyết dùng chiến đấu để phân ra thắng bại, nhưng Brahma cho rằng võ lực không phải là khởi nguồn duy nhất của sức mạnh. Cuối cùng, hai vị thần đã phải nghĩ ra một phương pháp công bằng nhất. Đó chính là chuyển thế xuống nhân gian.
Ở sâu trong Tuyết Sơn có một Luân Hồi bàn khổng lồ, do Phật Thích Ca Mâu Ni tạo ra khi ngộ đạo, có sức mạnh xuyên suốt lục giới. Vị thần nào bước vào luân hồi bàn này, sẽ chuyển thế xuống nhân gian, đồng thời mất đi ký ức cùng hầu hết sức mạnh. Cho đến khi tìm thấy các nhân duyên mà Luân Hồi bàn bố trí xung quanh mình, đánh thức ý thức của thần đang ngủ say trong mình.
Cuộc đánh đổ ước của Shiva và Brahma chính là xem ai có thể giác ngộ trở lại sớm hơn người kia. Trước khi tiến vào Luân Hồi bàn, hai vị thần đã đem hầu hết sức mạnh của mình thành một ngọn lửa, cho cháy trên trụ đá của Thiên giới. Ngọn lửa này có thể giữ cho thế giới cân bằng 24 năm sau khi họ ra đi. Hai vị thần vốn cho rằng 24 năm là đã đủ cho họ rồi.
Thế nhưng, khi hai vị thần bước vào Luân Hồi bàn, Parvati cũng biết tin tức này, nàng vô cùng kinh hãi, lập tức đi cản họ lại. Vì khi du hành trên Tuyết Sơn, nàng đã từng tận mắt trông thấy Phật Thích Ca Mâu Ni tạo ra Luân Hồi Bàn này, nàng biết rõ sự hung hiểm khó khăn trong đó - ngộ nhỡ không thế tìm được những nhân duyên bị tản ra thì vị thần chuyển thế có thể sẽ vĩnh viễn phải ở lại nhân gian, không thể nào thành thần được nữa. Mà khi sức mạnh của Shiva và Brahma để lại trụ đá cạn kiệt, sự cân bằng của thế giới sẽ mất đi, thế giới tự nhiên sẽ bị sụp đổ mà không thể vãn hồi.
Parvati quyết tâm ngăn cản họ lại. Nhưng khi nàng đến nơi thì đã quá muộn, Shiva và Brahma đã bước vào Luân Hồi bàn, Luân Hồi bàn cũng bắt đầu chuyển động. Parvati không biết phải làm sao , đành hóa thân thành Durga, chuẩn bị dùng sức mạnh cưỡng bức Luân Hồi bàn ngưng chuyển động. Thế nhưng nàng đã đánh giá thấp sức mạnh của Luân Hồi bàn, nhất thời bất cẩn, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên. cuốn cả nàng vào trong đó. Đồng thời Luân Hồi bàn cũng xuất hiện một lỗ hổng khổng lồ!
Trong vụ nổ đó, Shiva vì bảo vệ Parvati, cổ tay đã bị thương, chảy ra vài giọt máu. Những giọt máu này khi luân hồi đã hóa thành một hóa thân khác của ngài. Sức mạnh của Shiva, vì thế lại phân tán thêm lần nữa. Chín loại pháp khí của ba người, toàn bộ đều rơi vào trong Luân Hồi bàn. Brahma vốn rất mưu trí, đã giấu bên mình một cuốn sách (cũng chính là Phạn Thiên Bảo Quyển sau này), bên trong dùng phương pháp cực kỳ bí mật, ghi lại một phần ký ức của ngài. Nhưng trong chấn động đó, cuốn sách cũng bị thất lạc trong nhân gian.
Chín thứ pháp khí và một cuốn sách, bị cuốn vào thời không mấy trăm năm trước khi ba người chuyển thế, về sau được người đời phát hiện, gọi là Thiên La bảo tàng lưu truyền trong nhân thế.
Nghiêm trọng hơn đó là, nhân duyên do Luân Hồi bàn bố trí ban đầu đã bị đứt đoạn, rối mù như nắm tơ vò, trôi dạt trong trần thế mênh mông. Cơ hội giác ngộ của Shiva, Brahma và Parvati trở nên càng thêm mong manh bội phần.
24 năm chớp mắt đã qua đi, hai vị đại thần và Parvati vẫn bặt vô âm tín. Đại thần Vishnu phải luôn gồng mình lên gánh vác, mới khiến ngọn lửa trên trụ đá tiếp tục cháy, nhưng đã gần như sắp tắp, bất cứ lúc nào cũng có thể lụi tắt, thế giới lung lay như muốn sụp đổ.
Để mau chóng khôi phục lại sự cân bằng cho thế giới, Vishnu quyết định xuống nhân gian tìm kiếm hai vị đại thần, đồng thời giúp họ tỉnh ngộ.
Nhưng Luân Hồi bàn đã bị phá hỏng, Vishnu không sao chuyển thế được, thời gian khẩn cấp, nên ngài đã cùng Tây Vương Mẫu lập nên một khế ước.
Tây Vương Mẫu cư ngụ trên Côn Luân Sơn. Trong một trận chiến, linh hồn đã bị phong ấn trong một mặt trời mà Hậu Nghệ đã bắn rơi, không thể phục sinh. Nhưng người bảo vệ của Tây Vương Mẫu, những truyền nhân của tộc Thanh Điểu có sức mạnh tiên tri thần bí, đời đời kiếp kiếp đều nỗ lực hết sức để phục sinh bà. 20 năm trước bọn họ dùng máu tươi của mình tạo ra cho Tây Vương Mẫu một thân thể ở nhân giới. Song, vì linh hồn Tây Vương Mẫu vẫn đang bị phong ấn, thế nên thân thể này vẫn không thể kết hợp được với linh hồn của người.
Vì thế, Vishnu và Tây Vương Mẫu đã định ra khế ước. Ngài dùng sức mạnh của mình tách vầng mặt trời nóng bỏng đang phong ấn linh hồn Tây Vương Mẫu kia ra. Điều kiện là để ngài mượn thân thể Tây Vương Mẫu sử dụng, để bà ta giúp mình đến nhân gian tìm kiếm Shiva, Brahma và Parvati. Trước khi làm điều này, Vishnu đã phong ấn sức mạnh của mình trên Tây Côn Luân, để giao cho thân thể kia sử dụng.
Vậy là thân thể của Tây Vương Mẫu trên thế gian, nữ tử có tên Đơn Chân Nạp Mục, nữ hoạt phật của Hương Ba Cát Cử tự, có được sức mạnh của Tây Vương Mẫu và Vishnu, nàng sẽ lưu lãng trong nhân thế này, tìm kiếm một chữ "duyên" huyền diệu, hoàn thành sứ mệnh của mình.
Sau khi hai vị đại thần đều chuyển thế luân hồi không lâu, Phật Thích Ca đã dùng trí tuệ siêu phàm trác tuyệt của mình, dự cảm được kiếp vận của thế giới, liền đại phát từ bi, cũng chuyển thế luân hồi, trở thành Chuyển Luân thánh vương của kiếp này, gắng sức ngăn cản sự hủy diệt của thế gian, cứu vớt chúng sinh.
Vậy là Shiva Brahma Parvati Vishnu, Tây Vương Mẫu, Phật Thích Ca. Tất cả cùng luân hồi nhân thế, tạo nên bao nhân duyên hội ngộ chốn nhân gian.
Phần II - Giới thiệu nhân vật
1, Trác Vương Tôn
Hoa Âm các, bang phái có thế lực lớn nhất ở Trung Nguyên, sáng lập từ thời Tùy Dường. trải qua mấy trăm năm, vừa chính vừa tà, thanh thế vượt trên cả Thiểu Lâm, Võ Dang. Các chủ đời đầu tiên là Giản Xuân Thủy, truyền lại mười hai chiêu Xuân Thủy kiếm pháp, có thể nói là cực hạn trong kiếm đạo.
Hoa Âm các chủ - Trác Vương Tôn, Shiva chuyển thế.
Thượng Huyền Nguyệt chủ Tương t.ư, Pavrati chuyển thế. Vì khi họ rơi vào Luân Hồi bàn, trong lòng vẫn sắt son ý niệm nghĩ về nhau, quyết không tách rời. Vì vậy sau khi chuyến thế, hai người có thể gặp nhau sớm nhẩt.
Cả hai đều đã quên đi nhân duyên kiếp trước, nhưng Tương t.ư do Parvati chuyển thế, vẫn luôn ở bên cạnh Trác Vương Tôn, làm một trong những tình nhân và thủ hạ của y, nguyện vì y làm bất cứ chuyện gì. Còn Trác Vương Tôn thì lại mải lo chuyện trong thiên hạ, không hề để ý đến tình cảm Tương t.ư dành cho mình.
Trác Vương Tôn, Hoa Âm các chủ. Thiếu niên kiếm thân, dùng danh kiếm giết danh nhân, giết người xong bỏ kiếm ở nơi danh sơn danh hà, phất tay mà đi, xưa nay chưa từng biết thất bại, y là truyền kỳ nổi tiểng nhất trên giang hồ.
Nhưng Trác Vương Tôn kế nhiệm ngôi vị Hoa Âm cảc chủ không hề thuận buôm xuôi gió, dưới sự sắp đặt khổ tâm của nguyên lão Bộ Kiếm Trần, con trai cúa các chủ tiền nhiệm Quách Ngạo đã thay thế Trác Vương Tôn, tiếp nhận ngôi các chủ. Nhưng Quách Ngạo không đợi thực lực vững chắc đã dùng sức mạnh của Hoa Âm các hiệu lệnh thiên hạ, bắt mọi người tấn công tổng đàn Thiên La giáo, kết quả là lưỡng bại câu thương. Thiên La giáo từ đây tan như mây khói, phái thủ cựu trong Hoa Âm các cũng không còn lại chút thực lực. Lúc này Trác Vương Tôn từ trước đã ngấm ngầm sắp đặt tất cả trong bóng tối mới thừa cơ kết thúc cuộc sống nấp trong vỏ kín cúa mình, bước ra ánh sáng. Y nhanh chóng quét sạch thế lực phản đối trong các, ép Bộ Kiếm Trần phải tự tử, rồi giam cầm Quách Ngạo trong sơn cõc, tuyên bố mình là người kế thừa chính thống của Hoa Âm các, bắt đâu sự nghiệp huy hoàng chói lọi của mình.
Trác Vương Tôn có võ công kinh thế hãi tục, phong thái tiêu sái nhẹ nhàng, cơ trí tuyệt thế, hơn nữa lại bình tĩnh lạnh lùng, cơ hồ như không hề có khuyết điểm. Nhưng dưới bề ngoài tưởng chừng như đã tiếp cận đển cảnh giới thần nhân ấy lại ẩn chứa một trái tim cao ngạo khó gần, bạo ngược hiếu sát. Y bất cận nhân tình, duy nhất chỉ có con gái của Bộ Kiếm Trần - Bộ Tiểu Loan là được coi như bảo bối trong lòng y. Vì muốn giữ Bộ Tiểu Loan thân mang tuyệt chứng bên mình, Trác Vương Tôn đã bất chấp ý trời, dùng đủ mọi cách để kéo dài sinh mạng đáng lẽ phải kết thúc từ lâu của nàng.
Trong thời đại này, đối thủ duy nhất của Trác Vương Tôn, chính là Dương Dật Chi.
2, Dương Dật Chi
Con trai Binh bộ thượng thư Dương Kế Thịnh, minh chủ võ lâm đương thời. Brahma chuyển thế.
Mười ba tuổi bị cha đuổi ra khỏi nhà, lưu lạc giang hồ. Cuộc đời chìm nổi lênh đênh, nhưng vẫn luôn cố gắng chứng minh bản thân với cha mình, hi vọng được trở về nhà. Y từng một độ lưu lãng đến tận biên cương, được Mạn Đà La giáo ở Vân Nam thu nhận, trở thành đệ tử của giáo chủ Cơ Vân Thường, đồng thời có được thánh điển võ học Phạm Thiên Bảo Quyển.
Không lâu sau, vì một nguyên nhân bất đắc dĩ, Dương Dật Chi đã phản giáo đào tẩu, trở về Trung Nguyên. Khi đó võ lâm chính đạo vì muốn ứng phó với thế lực tà ma Thìên La giáo, đại triệu tập võ lâm đại hội ở Động Đình Hồ, chọn ra Võ lâm minh chủ. Vốn dĩ trưởng lão của các đại môn phái đều có sắp xếp riêng của mình, song vì cơ duyên xảo hợp, ngôi vị minh chủ không ngờ lại rơi vào tay thiếu niên này.
Vì vậy mà Dương Dật Chi mới đương tuổi đôi mươi đã ngôi lên bảo tọa Võ lâm minh chủ.
Võ công của y cực kỳ đặc thù, dùng phong nguyệt - gió và ánh sáng làm kiếm, đối địch chỉ xuất một chiêu, trước giờ chưa từng biết thất bại. Trác tuyệt ung dung, phong độ xuất chúng. Tuy rằng ngôi vị Võ lâm minh chủ mà vạn người đều ngưỡng mộ này đối với y mà nói chẳng hề nhẹ nhàng. Mới đầu nguyên lão của các đại phái chắng qua chỉ muốn tìm một con rối, nhưng con người trẻ tuổi này vẫn từng bước từng bước khống chế mọi chuyện trong lòng bàn tay. Có lẽ khí thế của y còn xa mới so được với Hoa Âm các chủ Trác Vương Tôn, nhưng dần dần từ từ, cũng đủ bịt miệng đám nguyên lão kia lại, khiến y cũng trở thành một truyền kỳ trong võ lâm.
3, Tiểu Án
Thiếu đảo chủ Đông Hải U Minh đảo, con trai thứ mười bốn của Thiên Hoàng Gonara. Thích Ca Mâu Ni chuyển thế.
Lúc ra đời thân thể y đã tỏa lên mùi hương lạ, vì vậy được sắc phong là Hinh Minh thân vương. Y có dung mạo hoàn mỹ không một khuyết điểm như thái tử Thích Ca, phong thái cao quý u nhã, tính cách oán trời thương dân như Chuyển Luân thánh vương, cùng võ công tuyệt thế đủ khiến bất cứ ai cũng phải chấn động. Vậy mà, lúc y ra đời đã trúng phải huyết chú thần bí của ác linh Thanh Điểu tộc, không thể không uống máu để sinh tồn.
Bi kịch bắt đâu từ tâm nguyện của mẹ y.
Mẫu thân y là Án Thanh My, đảo chủ U Minh đảo, thánh địa võ lâm miền Đông Hải đã đưa võ công âm nhu tới đỉnh cao trong thiên hạ. Bà ta có võ công trác việt, nhưng cả đời không có mong muốn gì khác, chỉ hy vọng Chuyển Luân thánh vương ứng kiếp đời này sẽ là con trai của mình, vì vậy đã chấp nhận ẩn tính mai danh, gả vào hoàng gia Nhật Bản, tìm gặp bằng được ác linh Nguyệt Khuyết đang ẩn nấp trong chiếc gương trấn quốc của Nhật Bản.
Nguyệt Khuyết đã đồng ý dùng sinh mạng của mình trao đổi với ông trời lấy lời dự báo về Chuyển Luân thánh vương. nhưng đã đưa ra một điều kiện - sau khi Chuyển Luân thánh vương, cũng chính là con trai duy nhất cùa bà ta sinh ra, sẽ cấy huyết chú lên người nó. Kể từ ngày huyết chú này tồn tại, đứa bé đó sẽ phải uống máu người để duy trì mạng sống. chịu đựng đau khổ suốt đời.
Năm Tiểu Án mười tám tuổi, để giải trừ huyết chú trên thân mình, y không thế không vượt trùng dương, đến Trung thổ một chuyến.
Phần III - Giới thiệu bối cảnh
Hoa Âm các sáng lập từ đời thịnh Đường, vừa xuất hiện đã có khí thế của bậc đế quân giáng lâm thiên hạ. Sau khi kỳ tài tuyệt thế Trác Vương Tôn kế nhiệm các chủ, lại càng nổi bật hơn. Thêm vào mấy năm đại họa Ma giáo, nhân tài chính đạo điêu linh, Hoa Âm các lại càng như vầng dương chính ngọ, không ai bì được. Cuối cùng đã khiến võ lâm chính đạo phẫn nộ phản kháng, triệu tập võ lâm đại hội, cùng thương nghị kế sách đối phó. Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, mỗi phái đều có ý đồ riêng, nhưng không ai có thể ngờ được, cuối cùng, kẻ đoạt lấy ngôi Võ lâm minh chủ, lại là Dương Dật Chi, một người xưa nay chưa từng được biết đến trên giang hô.
Không ai có thể ngờ, thiểu niên chưa một lần lộ diện này, lại có thể cùng Trác Vương Tôn không phân cao thấp, bất luận võ công, khí độ, mưu lược đều không chịu nhường, khiến võ lâm chính đạo nhìn thấy một tia hi vọng. Nhưng võ lâm xưa nay vốn vẫn là một vũng lầy không ngừng tranh đoạt, người muốn “đuổi hươu”, tuyệt đối không chỉ có một hai kẻ kỳ tài.
Ngô Việt Vương. ôm hoài bão thâu phục thiên hạ, hướng về ngôi báu, tự nhiên coi Trác Vương Tôn và Dương Dật Chi là hai cái gai trong mắt, cái kim trong thịt. Y muốn chiếm đoạt giang sơn, việc đầu tiên là phải trừ đi hai người này. Vì vậy, Ngô Việt Vương đã sắp đặt một loạt âm mưu, ý đồ cấu kết với Oa khẩu, khởi binh nơi hải ngoại. Trước đại nghĩa quốc gia, Dương Dật Chi đã quyết đoán bỏ hết ân oán giang hô, bắt tay hợp tác với Trác Vương Tôn, cuối cùng trong trận Chu Đại Khấu, hai người liên tiẽp bốn lần đánh bại Ngô Việt Vương, khiến Ngô Việt Vương lòng nguội như tro tàn, cuối cùng đã bỏ đi dã tâm xưng đế.
Nhưng các nguyên lão của chính đạo không hiểu được cách làm của Dương Dật Chi, bọn họ thậm chí còn cho rằng Dương Dật Chi đã cấu kết với Trác Vương Tôn, muốn đem cả giang hồ đặt xuống dưới chân Hoa Âm các. Dương Dật Chi không biết làm sao, đành đáp ứng quyết chiến một trận với Trác Vương Tôn. Nhưng hai người lại ước định chọn chiến trường cho trận quyểt chiến này ở một nơi xa lánh giang hồ, vậy nên đã tới núi thánh ở biên giới Tây Tạng, ngọn Cương Nhân Ba Tề quyết đấu.
Hai người lên thuyền xuất phát, trên biển lớn mênh mông, đã tình cờ gợi lại một câu chuyện bi thương nhất trong quá khứ Dương Dật Chi. Trên Lục chi thiên tế tuyệt diễm tuyệt ác, lơ lứng trải tim đã tan nát của Lan Ba - người từng là sư tỷ của y, nhưng Dương Dật Chi lại không thể nào chấp nhận, lòng y đặt ở nơi nao?
Trận quyết chiến đã được định trước sẽ trở thành truyền kỳ này cũng thu hút cả vương tử của đất nước mặt trời mọc, Hinh Minh thân vương Tiểu Án. Vị vương tử có dung mạo tuyệt thế này, cũng theo bọn họ cùng đi, muốn tận mắt chứng kiến trận chiến khoáng cổ tuyệt kim. Nhưng vòng xoay của số mệnh đã cuốn lấy y, định sẵn y sẽ nở rộ thời khắc sáng lạn huy hoàng nhất của mình trong trận chiến này.
Cùng bị cuốn vào vòng xoáy của trận chiến, còn có Thượng huyền nguyệt chủ của Hoa Âm các, Tương t.ư. Nữ tử nhu tình vô hạn, trái tim vĩnh viễn từ bi này, trên người lại mang theo một vết máu không bao giờ rửa sạch nổi.
Trận chiến này rồi sẽ ra sao?
Brahma
là thần sáng tạo ra thế giới, thường xuất hiện với hình tượng một nhà hiền triết, thường ngồi trên đỉnh núi suy t.ư những ý nghĩa thâm ảo nhất của vũ trụ. Thần có sức mạnh vĩ đại là sáng tạo sinh mạng, cả thế giới đều do tay ngài tạo nên. Sau khi Shiva diệt thế, cũng chính ngài là người phụ trách tái tạo lại thế giới.
Brahma mặc áo trắng, bốn đầu, bốn tay, lần lượt cầm kinh Veda, quyền trượng, chuỗi hạt, cung, bình nước hoặc hoa sen...Đặc điểm nổi bật nhất của Brahma là có bốn đầu, truyền thuyết kể rằng thần vốn có năm đầu, nhưng về sau đã bị Shiva chặt mất một.
Vishnu
Là một vị thần ôn hòa lương thiện, ngài lượng thứ cho mọi sai lầm của nhân thế, đồng thời dẫn đường cho nhân gian hướng thiện, phụ trách bảo vệ thế giới, duy trì trật tự và hòa bình cho vũ trụ, bảo hộ chúng sinh. Cúng tế Shiva cần huyết tế, còn cúng tế ngài chỉ cần hoa tươi.
Ngài có bốn cánh tay: một tay cầm tù và, một tay cầm kim luân, tay thứ ba cầm quyền trượng, tay còn lại cầm một đóa hoa sen. Vishnu, thần bảo hộ sẽ hóa thân xuống thế gian, phò trợ cho chính nghĩa, tiêu diệt tà ma và xây dựng nền pháp trị.
Shiva
Là vị thần cuốn hút nhất trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ cổ đại, ngài cô độc, hùng mạnh, tàn bạo, nhưng cũng từ bi. Ngài đồng thời là chủ sở hữu sức mạnh của những điệu múa, khổ hành, tính dục và dã thú. Ngài rời xa đám đông, cao ngạo, độc đoán, sở hữu sức mạnh hủy diệt tất cả. Một khi ngài đã quyết tâm hủy diệt thế giới, thì cả Brahma và Vishnu đều không thể ngăn cản được.
Shiva có mái tóc xanh, cổ họng màu xanh, ba mắt. Thiên nhãn trên trán là vũ khí cực kỳ lợi hại, khi hủy diệt thế gian, từ con mắt thứ ba sẽ phóng ra ngọn lửa, tiêu diệt vạn vật, chúng sinh, biến thế giới này thành cát bụi.
Vũ khí của Shiva là một cây chĩa ba, gọi là Trishula, tượng trưng cho sấm sét, chứng tỏ Shiva nắm giữ sức mạnh của gió bão, ngoài ra còn có kiếm và cung.
Trên người thần có ba con rắn độc quấn quanh, một con quốn trên cột tóc, một con quấn trên cổ, con còn lại là sợi dây quấn quanh bắp tay ngài. Ngài cưỡi trên con bò đực màu trắng Nandin, tiêu ký hình mảnh trăng non của Nandin cũng thường xuyên xuất hiện bên cạnh hình tượng của ngài.
Khi người vợ đầu tiên của thần là Sati chết, ngài đã ôm thi hài nàng nhảy múa như điên khắp thế giới này ba vòng, lại lưu lại nhân gian 7 năm. Điệu múa vừa tượng trưng cho vinh quang của ngài, cũng tượng trưng cho sự vận động vĩnh hằng của vũ trụ, vận động làm cho vũ trụ không già cỗi. Nhưng khi một thời đại kết thúc, ngài sẽ dùng điệu múa Tandava để hoàn thành việc hủy diệt thế giới, đồng thời khiến nó hòa nhập với tinh thần bất diệt của vũ trụ bao la.
Parvati
Người vợ đầu tiên của Shiva là Sati chuyển thế luân hồi, biến thành nữ thần Tuyết Sơn xinh đẹp nhưng cố chấp. Nàng cũng giống như tiền thế của mình, một lòng say đắm yêu Shiva, nàng đã ngâm mình trong dòng suối nước nóng của dòng Himalaya, cuối cùng đã dùng sự khổ hành khiến cả các vị thần cũng phải kinh hãi, làm rung động trái tim của Shiva.
Dưới sự chứng kiến của các thần, Parvati cuối cùng đã cử hành hôn lễ trọng thể với Shiva, trở thành đôi tình lữ được ngưỡng mộ nhất trên Thiên giới.
Vợ của Shiva cũng có rất nhiều hóa thân, có thể là ôn hòa như Uma, có thể là Parvati xinh đẹp quyến rũ (có tên khác là Shailaja, hoặc Aparna), có lúc lại biến thành nữ chiến thần Durga.
Durga là nữ chiến thần mạnh mẽ vô song, là mẹ của Ganesha, và Kartikeya, có chiến tích phục ma lẫy lừng cả trời đất.
Đánh đổ ước
Nguyên nhân ban đầu của câu chuyện, bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Brahma và Parvati.
Brahma ngồi một mình trên đỉnh Tuyết Sơn cả ngàn năm, lúc mở mắt ra bỗng nhiên phát hiện ra vị nữ thần xinh đẹp đang tu luyện chung một ngọn núi với mình là Parvati. Brahma không biết nàng chính là vợ của Shiva, ngài bị vẻ đẹp của nữ thần làm rung động, vậy nên đã sinh ra năm cái đầu, để có thể thưởng thức vẻ đẹp của nàng từ những góc độ khác nhau. Hành động này khiến Shiva nổi giận, không nói không rằng đã vung kiếm chặt đầu của Brahma xuống. Brahma vô cùng xấu hổ, nhưng cũng không giao chiến với Shiva mà trở về Tuyết Sơn ẩn cư. Nhưng từ đây giữa hai vị thần đã xảy ra rạn nứt.
Một lần, các thần đánh bại A Tu La của Ma tộc. A Tu La vương quyết định đem linh hồn của mình giao cho vị thần lớn mạnh nhất ở Thiên giới. Điều này đã gây nên một cuộc tranh luận giữa các vị thần. Sức mạnh sáng tạo của Brahma hay sức mạnh hủy diệt của Shiva, rốt cuộc bên nào vĩ đại hơn? Shiva và Brahma đối đầu quyết liệt, không ai nhường ai. Shiva vốn quyết dùng chiến đấu để phân ra thắng bại, nhưng Brahma cho rằng võ lực không phải là khởi nguồn duy nhất của sức mạnh. Cuối cùng, hai vị thần đã phải nghĩ ra một phương pháp công bằng nhất. Đó chính là chuyển thế xuống nhân gian.
Ở sâu trong Tuyết Sơn có một Luân Hồi bàn khổng lồ, do Phật Thích Ca Mâu Ni tạo ra khi ngộ đạo, có sức mạnh xuyên suốt lục giới. Vị thần nào bước vào luân hồi bàn này, sẽ chuyển thế xuống nhân gian, đồng thời mất đi ký ức cùng hầu hết sức mạnh. Cho đến khi tìm thấy các nhân duyên mà Luân Hồi bàn bố trí xung quanh mình, đánh thức ý thức của thần đang ngủ say trong mình.
Cuộc đánh đổ ước của Shiva và Brahma chính là xem ai có thể giác ngộ trở lại sớm hơn người kia. Trước khi tiến vào Luân Hồi bàn, hai vị thần đã đem hầu hết sức mạnh của mình thành một ngọn lửa, cho cháy trên trụ đá của Thiên giới. Ngọn lửa này có thể giữ cho thế giới cân bằng 24 năm sau khi họ ra đi. Hai vị thần vốn cho rằng 24 năm là đã đủ cho họ rồi.
Thế nhưng, khi hai vị thần bước vào Luân Hồi bàn, Parvati cũng biết tin tức này, nàng vô cùng kinh hãi, lập tức đi cản họ lại. Vì khi du hành trên Tuyết Sơn, nàng đã từng tận mắt trông thấy Phật Thích Ca Mâu Ni tạo ra Luân Hồi Bàn này, nàng biết rõ sự hung hiểm khó khăn trong đó - ngộ nhỡ không thế tìm được những nhân duyên bị tản ra thì vị thần chuyển thế có thể sẽ vĩnh viễn phải ở lại nhân gian, không thể nào thành thần được nữa. Mà khi sức mạnh của Shiva và Brahma để lại trụ đá cạn kiệt, sự cân bằng của thế giới sẽ mất đi, thế giới tự nhiên sẽ bị sụp đổ mà không thể vãn hồi.
Parvati quyết tâm ngăn cản họ lại. Nhưng khi nàng đến nơi thì đã quá muộn, Shiva và Brahma đã bước vào Luân Hồi bàn, Luân Hồi bàn cũng bắt đầu chuyển động. Parvati không biết phải làm sao , đành hóa thân thành Durga, chuẩn bị dùng sức mạnh cưỡng bức Luân Hồi bàn ngưng chuyển động. Thế nhưng nàng đã đánh giá thấp sức mạnh của Luân Hồi bàn, nhất thời bất cẩn, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên. cuốn cả nàng vào trong đó. Đồng thời Luân Hồi bàn cũng xuất hiện một lỗ hổng khổng lồ!
Trong vụ nổ đó, Shiva vì bảo vệ Parvati, cổ tay đã bị thương, chảy ra vài giọt máu. Những giọt máu này khi luân hồi đã hóa thành một hóa thân khác của ngài. Sức mạnh của Shiva, vì thế lại phân tán thêm lần nữa. Chín loại pháp khí của ba người, toàn bộ đều rơi vào trong Luân Hồi bàn. Brahma vốn rất mưu trí, đã giấu bên mình một cuốn sách (cũng chính là Phạn Thiên Bảo Quyển sau này), bên trong dùng phương pháp cực kỳ bí mật, ghi lại một phần ký ức của ngài. Nhưng trong chấn động đó, cuốn sách cũng bị thất lạc trong nhân gian.
Chín thứ pháp khí và một cuốn sách, bị cuốn vào thời không mấy trăm năm trước khi ba người chuyển thế, về sau được người đời phát hiện, gọi là Thiên La bảo tàng lưu truyền trong nhân thế.
Nghiêm trọng hơn đó là, nhân duyên do Luân Hồi bàn bố trí ban đầu đã bị đứt đoạn, rối mù như nắm tơ vò, trôi dạt trong trần thế mênh mông. Cơ hội giác ngộ của Shiva, Brahma và Parvati trở nên càng thêm mong manh bội phần.
Luân Hồi
24 năm chớp mắt đã qua đi, hai vị đại thần và Parvati vẫn bặt vô âm tín. Đại thần Vishnu phải luôn gồng mình lên gánh vác, mới khiến ngọn lửa trên trụ đá tiếp tục cháy, nhưng đã gần như sắp tắp, bất cứ lúc nào cũng có thể lụi tắt, thế giới lung lay như muốn sụp đổ.
Để mau chóng khôi phục lại sự cân bằng cho thế giới, Vishnu quyết định xuống nhân gian tìm kiếm hai vị đại thần, đồng thời giúp họ tỉnh ngộ.
Nhưng Luân Hồi bàn đã bị phá hỏng, Vishnu không sao chuyển thế được, thời gian khẩn cấp, nên ngài đã cùng Tây Vương Mẫu lập nên một khế ước.
Tây Vương Mẫu cư ngụ trên Côn Luân Sơn. Trong một trận chiến, linh hồn đã bị phong ấn trong một mặt trời mà Hậu Nghệ đã bắn rơi, không thể phục sinh. Nhưng người bảo vệ của Tây Vương Mẫu, những truyền nhân của tộc Thanh Điểu có sức mạnh tiên tri thần bí, đời đời kiếp kiếp đều nỗ lực hết sức để phục sinh bà. 20 năm trước bọn họ dùng máu tươi của mình tạo ra cho Tây Vương Mẫu một thân thể ở nhân giới. Song, vì linh hồn Tây Vương Mẫu vẫn đang bị phong ấn, thế nên thân thể này vẫn không thể kết hợp được với linh hồn của người.
Vì thế, Vishnu và Tây Vương Mẫu đã định ra khế ước. Ngài dùng sức mạnh của mình tách vầng mặt trời nóng bỏng đang phong ấn linh hồn Tây Vương Mẫu kia ra. Điều kiện là để ngài mượn thân thể Tây Vương Mẫu sử dụng, để bà ta giúp mình đến nhân gian tìm kiếm Shiva, Brahma và Parvati. Trước khi làm điều này, Vishnu đã phong ấn sức mạnh của mình trên Tây Côn Luân, để giao cho thân thể kia sử dụng.
Vậy là thân thể của Tây Vương Mẫu trên thế gian, nữ tử có tên Đơn Chân Nạp Mục, nữ hoạt phật của Hương Ba Cát Cử tự, có được sức mạnh của Tây Vương Mẫu và Vishnu, nàng sẽ lưu lãng trong nhân thế này, tìm kiếm một chữ "duyên" huyền diệu, hoàn thành sứ mệnh của mình.
Sau khi hai vị đại thần đều chuyển thế luân hồi không lâu, Phật Thích Ca đã dùng trí tuệ siêu phàm trác tuyệt của mình, dự cảm được kiếp vận của thế giới, liền đại phát từ bi, cũng chuyển thế luân hồi, trở thành Chuyển Luân thánh vương của kiếp này, gắng sức ngăn cản sự hủy diệt của thế gian, cứu vớt chúng sinh.
Vậy là Shiva Brahma Parvati Vishnu, Tây Vương Mẫu, Phật Thích Ca. Tất cả cùng luân hồi nhân thế, tạo nên bao nhân duyên hội ngộ chốn nhân gian.
Phần II - Giới thiệu nhân vật
1, Trác Vương Tôn
Thúy vũ già thiên dục hướng Đông
Quần hoa ám tịch Hán vương cung.
Long hàm hạ trạch khai thiên phú
Phượng túc đồng sơn bãi lan tùng
Đại đế kim giáng bạch sư tử
Khinh trần thùy thức từ đàn cung
Thịnh danh lũ hiệu thôi quân lão
Tự tại tranh như giá xích tùng.
Quần hoa ám tịch Hán vương cung.
Long hàm hạ trạch khai thiên phú
Phượng túc đồng sơn bãi lan tùng
Đại đế kim giáng bạch sư tử
Khinh trần thùy thức từ đàn cung
Thịnh danh lũ hiệu thôi quân lão
Tự tại tranh như giá xích tùng.
Hoa Âm các, bang phái có thế lực lớn nhất ở Trung Nguyên, sáng lập từ thời Tùy Dường. trải qua mấy trăm năm, vừa chính vừa tà, thanh thế vượt trên cả Thiểu Lâm, Võ Dang. Các chủ đời đầu tiên là Giản Xuân Thủy, truyền lại mười hai chiêu Xuân Thủy kiếm pháp, có thể nói là cực hạn trong kiếm đạo.
Hoa Âm các chủ - Trác Vương Tôn, Shiva chuyển thế.
Thượng Huyền Nguyệt chủ Tương t.ư, Pavrati chuyển thế. Vì khi họ rơi vào Luân Hồi bàn, trong lòng vẫn sắt son ý niệm nghĩ về nhau, quyết không tách rời. Vì vậy sau khi chuyến thế, hai người có thể gặp nhau sớm nhẩt.
Cả hai đều đã quên đi nhân duyên kiếp trước, nhưng Tương t.ư do Parvati chuyển thế, vẫn luôn ở bên cạnh Trác Vương Tôn, làm một trong những tình nhân và thủ hạ của y, nguyện vì y làm bất cứ chuyện gì. Còn Trác Vương Tôn thì lại mải lo chuyện trong thiên hạ, không hề để ý đến tình cảm Tương t.ư dành cho mình.
Trác Vương Tôn, Hoa Âm các chủ. Thiếu niên kiếm thân, dùng danh kiếm giết danh nhân, giết người xong bỏ kiếm ở nơi danh sơn danh hà, phất tay mà đi, xưa nay chưa từng biết thất bại, y là truyền kỳ nổi tiểng nhất trên giang hồ.
Nhưng Trác Vương Tôn kế nhiệm ngôi vị Hoa Âm cảc chủ không hề thuận buôm xuôi gió, dưới sự sắp đặt khổ tâm của nguyên lão Bộ Kiếm Trần, con trai cúa các chủ tiền nhiệm Quách Ngạo đã thay thế Trác Vương Tôn, tiếp nhận ngôi các chủ. Nhưng Quách Ngạo không đợi thực lực vững chắc đã dùng sức mạnh của Hoa Âm các hiệu lệnh thiên hạ, bắt mọi người tấn công tổng đàn Thiên La giáo, kết quả là lưỡng bại câu thương. Thiên La giáo từ đây tan như mây khói, phái thủ cựu trong Hoa Âm các cũng không còn lại chút thực lực. Lúc này Trác Vương Tôn từ trước đã ngấm ngầm sắp đặt tất cả trong bóng tối mới thừa cơ kết thúc cuộc sống nấp trong vỏ kín cúa mình, bước ra ánh sáng. Y nhanh chóng quét sạch thế lực phản đối trong các, ép Bộ Kiếm Trần phải tự tử, rồi giam cầm Quách Ngạo trong sơn cõc, tuyên bố mình là người kế thừa chính thống của Hoa Âm các, bắt đâu sự nghiệp huy hoàng chói lọi của mình.
Trác Vương Tôn có võ công kinh thế hãi tục, phong thái tiêu sái nhẹ nhàng, cơ trí tuyệt thế, hơn nữa lại bình tĩnh lạnh lùng, cơ hồ như không hề có khuyết điểm. Nhưng dưới bề ngoài tưởng chừng như đã tiếp cận đển cảnh giới thần nhân ấy lại ẩn chứa một trái tim cao ngạo khó gần, bạo ngược hiếu sát. Y bất cận nhân tình, duy nhất chỉ có con gái của Bộ Kiếm Trần - Bộ Tiểu Loan là được coi như bảo bối trong lòng y. Vì muốn giữ Bộ Tiểu Loan thân mang tuyệt chứng bên mình, Trác Vương Tôn đã bất chấp ý trời, dùng đủ mọi cách để kéo dài sinh mạng đáng lẽ phải kết thúc từ lâu của nàng.
Trong thời đại này, đối thủ duy nhất của Trác Vương Tôn, chính là Dương Dật Chi.
2, Dương Dật Chi
Kỳ hạc phi thiên địa, lai ngộ nghiêm lăng loan.
Thu sơn ước tố thủy, thương nhiên mãn hàm quan
Y khuyết phiêu ngũ dã, nhân tình tiếu lưỡng nhàn
Tự tại phi ngẫu đắc, tầm tha phù chu nhan
Sơ hốt ngũ hổ thượng, đạn kiệt liệt ngọc hoàn
Dao niêm nhất vĩ độ, chúng giai hô vi tiên
Cán cánh lộng minh thần, phong điêu túy ngọc hoàn
Tiêu tiêu cảnh thử khử, hà đắc cộng tôn tiền?
Thu sơn ước tố thủy, thương nhiên mãn hàm quan
Y khuyết phiêu ngũ dã, nhân tình tiếu lưỡng nhàn
Tự tại phi ngẫu đắc, tầm tha phù chu nhan
Sơ hốt ngũ hổ thượng, đạn kiệt liệt ngọc hoàn
Dao niêm nhất vĩ độ, chúng giai hô vi tiên
Cán cánh lộng minh thần, phong điêu túy ngọc hoàn
Tiêu tiêu cảnh thử khử, hà đắc cộng tôn tiền?
Con trai Binh bộ thượng thư Dương Kế Thịnh, minh chủ võ lâm đương thời. Brahma chuyển thế.
Mười ba tuổi bị cha đuổi ra khỏi nhà, lưu lạc giang hồ. Cuộc đời chìm nổi lênh đênh, nhưng vẫn luôn cố gắng chứng minh bản thân với cha mình, hi vọng được trở về nhà. Y từng một độ lưu lãng đến tận biên cương, được Mạn Đà La giáo ở Vân Nam thu nhận, trở thành đệ tử của giáo chủ Cơ Vân Thường, đồng thời có được thánh điển võ học Phạm Thiên Bảo Quyển.
Không lâu sau, vì một nguyên nhân bất đắc dĩ, Dương Dật Chi đã phản giáo đào tẩu, trở về Trung Nguyên. Khi đó võ lâm chính đạo vì muốn ứng phó với thế lực tà ma Thìên La giáo, đại triệu tập võ lâm đại hội ở Động Đình Hồ, chọn ra Võ lâm minh chủ. Vốn dĩ trưởng lão của các đại môn phái đều có sắp xếp riêng của mình, song vì cơ duyên xảo hợp, ngôi vị minh chủ không ngờ lại rơi vào tay thiếu niên này.
Vì vậy mà Dương Dật Chi mới đương tuổi đôi mươi đã ngôi lên bảo tọa Võ lâm minh chủ.
Võ công của y cực kỳ đặc thù, dùng phong nguyệt - gió và ánh sáng làm kiếm, đối địch chỉ xuất một chiêu, trước giờ chưa từng biết thất bại. Trác tuyệt ung dung, phong độ xuất chúng. Tuy rằng ngôi vị Võ lâm minh chủ mà vạn người đều ngưỡng mộ này đối với y mà nói chẳng hề nhẹ nhàng. Mới đầu nguyên lão của các đại phái chắng qua chỉ muốn tìm một con rối, nhưng con người trẻ tuổi này vẫn từng bước từng bước khống chế mọi chuyện trong lòng bàn tay. Có lẽ khí thế của y còn xa mới so được với Hoa Âm các chủ Trác Vương Tôn, nhưng dần dần từ từ, cũng đủ bịt miệng đám nguyên lão kia lại, khiến y cũng trở thành một truyền kỳ trong võ lâm.
3, Tiểu Án
Nguyệt lạc hoa đường tự tại phương
Thu đăng cánh cánh tạ vi hương
Thần ngao dục điếu ngô ngưu nhĩ
Hán đế thính truyền Việt nữ hương
Túc điệp dư hàn thiếu nghi mộng
Xa hoa bạc lộ đàm vi trang
Dư sương thành tích hán hà vật?
Ký đắc thiên nghi bạch ngọc chương
Thu đăng cánh cánh tạ vi hương
Thần ngao dục điếu ngô ngưu nhĩ
Hán đế thính truyền Việt nữ hương
Túc điệp dư hàn thiếu nghi mộng
Xa hoa bạc lộ đàm vi trang
Dư sương thành tích hán hà vật?
Ký đắc thiên nghi bạch ngọc chương
Thiếu đảo chủ Đông Hải U Minh đảo, con trai thứ mười bốn của Thiên Hoàng Gonara. Thích Ca Mâu Ni chuyển thế.
Lúc ra đời thân thể y đã tỏa lên mùi hương lạ, vì vậy được sắc phong là Hinh Minh thân vương. Y có dung mạo hoàn mỹ không một khuyết điểm như thái tử Thích Ca, phong thái cao quý u nhã, tính cách oán trời thương dân như Chuyển Luân thánh vương, cùng võ công tuyệt thế đủ khiến bất cứ ai cũng phải chấn động. Vậy mà, lúc y ra đời đã trúng phải huyết chú thần bí của ác linh Thanh Điểu tộc, không thể không uống máu để sinh tồn.
Bi kịch bắt đâu từ tâm nguyện của mẹ y.
Mẫu thân y là Án Thanh My, đảo chủ U Minh đảo, thánh địa võ lâm miền Đông Hải đã đưa võ công âm nhu tới đỉnh cao trong thiên hạ. Bà ta có võ công trác việt, nhưng cả đời không có mong muốn gì khác, chỉ hy vọng Chuyển Luân thánh vương ứng kiếp đời này sẽ là con trai của mình, vì vậy đã chấp nhận ẩn tính mai danh, gả vào hoàng gia Nhật Bản, tìm gặp bằng được ác linh Nguyệt Khuyết đang ẩn nấp trong chiếc gương trấn quốc của Nhật Bản.
Nguyệt Khuyết đã đồng ý dùng sinh mạng của mình trao đổi với ông trời lấy lời dự báo về Chuyển Luân thánh vương. nhưng đã đưa ra một điều kiện - sau khi Chuyển Luân thánh vương, cũng chính là con trai duy nhất cùa bà ta sinh ra, sẽ cấy huyết chú lên người nó. Kể từ ngày huyết chú này tồn tại, đứa bé đó sẽ phải uống máu người để duy trì mạng sống. chịu đựng đau khổ suốt đời.
Năm Tiểu Án mười tám tuổi, để giải trừ huyết chú trên thân mình, y không thế không vượt trùng dương, đến Trung thổ một chuyến.
Phần III - Giới thiệu bối cảnh
Hoa Âm các sáng lập từ đời thịnh Đường, vừa xuất hiện đã có khí thế của bậc đế quân giáng lâm thiên hạ. Sau khi kỳ tài tuyệt thế Trác Vương Tôn kế nhiệm các chủ, lại càng nổi bật hơn. Thêm vào mấy năm đại họa Ma giáo, nhân tài chính đạo điêu linh, Hoa Âm các lại càng như vầng dương chính ngọ, không ai bì được. Cuối cùng đã khiến võ lâm chính đạo phẫn nộ phản kháng, triệu tập võ lâm đại hội, cùng thương nghị kế sách đối phó. Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, mỗi phái đều có ý đồ riêng, nhưng không ai có thể ngờ được, cuối cùng, kẻ đoạt lấy ngôi Võ lâm minh chủ, lại là Dương Dật Chi, một người xưa nay chưa từng được biết đến trên giang hô.
Không ai có thể ngờ, thiểu niên chưa một lần lộ diện này, lại có thể cùng Trác Vương Tôn không phân cao thấp, bất luận võ công, khí độ, mưu lược đều không chịu nhường, khiến võ lâm chính đạo nhìn thấy một tia hi vọng. Nhưng võ lâm xưa nay vốn vẫn là một vũng lầy không ngừng tranh đoạt, người muốn “đuổi hươu”, tuyệt đối không chỉ có một hai kẻ kỳ tài.
Ngô Việt Vương. ôm hoài bão thâu phục thiên hạ, hướng về ngôi báu, tự nhiên coi Trác Vương Tôn và Dương Dật Chi là hai cái gai trong mắt, cái kim trong thịt. Y muốn chiếm đoạt giang sơn, việc đầu tiên là phải trừ đi hai người này. Vì vậy, Ngô Việt Vương đã sắp đặt một loạt âm mưu, ý đồ cấu kết với Oa khẩu, khởi binh nơi hải ngoại. Trước đại nghĩa quốc gia, Dương Dật Chi đã quyết đoán bỏ hết ân oán giang hô, bắt tay hợp tác với Trác Vương Tôn, cuối cùng trong trận Chu Đại Khấu, hai người liên tiẽp bốn lần đánh bại Ngô Việt Vương, khiến Ngô Việt Vương lòng nguội như tro tàn, cuối cùng đã bỏ đi dã tâm xưng đế.
Nhưng các nguyên lão của chính đạo không hiểu được cách làm của Dương Dật Chi, bọn họ thậm chí còn cho rằng Dương Dật Chi đã cấu kết với Trác Vương Tôn, muốn đem cả giang hồ đặt xuống dưới chân Hoa Âm các. Dương Dật Chi không biết làm sao, đành đáp ứng quyết chiến một trận với Trác Vương Tôn. Nhưng hai người lại ước định chọn chiến trường cho trận quyểt chiến này ở một nơi xa lánh giang hồ, vậy nên đã tới núi thánh ở biên giới Tây Tạng, ngọn Cương Nhân Ba Tề quyết đấu.
Hai người lên thuyền xuất phát, trên biển lớn mênh mông, đã tình cờ gợi lại một câu chuyện bi thương nhất trong quá khứ Dương Dật Chi. Trên Lục chi thiên tế tuyệt diễm tuyệt ác, lơ lứng trải tim đã tan nát của Lan Ba - người từng là sư tỷ của y, nhưng Dương Dật Chi lại không thể nào chấp nhận, lòng y đặt ở nơi nao?
Trận quyết chiến đã được định trước sẽ trở thành truyền kỳ này cũng thu hút cả vương tử của đất nước mặt trời mọc, Hinh Minh thân vương Tiểu Án. Vị vương tử có dung mạo tuyệt thế này, cũng theo bọn họ cùng đi, muốn tận mắt chứng kiến trận chiến khoáng cổ tuyệt kim. Nhưng vòng xoay của số mệnh đã cuốn lấy y, định sẵn y sẽ nở rộ thời khắc sáng lạn huy hoàng nhất của mình trong trận chiến này.
Cùng bị cuốn vào vòng xoáy của trận chiến, còn có Thượng huyền nguyệt chủ của Hoa Âm các, Tương t.ư. Nữ tử nhu tình vô hạn, trái tim vĩnh viễn từ bi này, trên người lại mang theo một vết máu không bao giờ rửa sạch nổi.
Trận chiến này rồi sẽ ra sao?
Last edited: