Cái này chỉ có Phật Tổ Như Lai mới giải đáp được thôi. Đệ tử ruột mà huynh
Phật trong TDK vừa mạnh vừa tâm cơ, mấy ông khác ai cũng ăn đau của con khỉ, riêng Phật ở TDK là hành xác đc con khỉ =]]]]]]]]]] về cuối vẫn khiến con khỉ cúi đầu nhập vào hàng 'đệ tử' =]]]]]]]] còn ai bằng nữa =]]]]]]]]]]
BÍ ẨN KIM THIỀN TỬPhật Tổ Như Lai thì cũng trong Lục Thánh thôi, cơ bản là 5 người còn lại ko care con khỉ, nên ko có xuất hiện, chứ cỡ chú khỉ Tôn Ngộ Không nhà ta, thì pet của mấy ông này ra là đủ xử rồi![]()
#tây_du
Tác giả: Mật Ngữ Nhà Tô
Tây Du ký nhiều lần nhắc tới tiền kiếp của Tam Tạng là Kim Thiền tử (金蝉子) là đồ đệ thứ 2 của Phật tổ Như Lai. Do “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp” mà bị đọa vào luân hồi. Vậy trong Phật giáo, Kim Thiền tử là vị nào trong 10 đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni? Ta hãy cùng xem.
Đầu tiên, xét về mặt chữ nghĩa: chữ Kim, theo ngũ hành đường nhiên chỉ phương tây rồi. Chữ Thiền (蝉) tức con ve, ám chỉ Kim thiền thoát xác, đầu thai trở lại, chữ Thiền lại đồng âm với Thiền (禅) chỉ phép thiền của Ấn giáo, Phật giáo. Như vậy chỉ xét tên cũng đủ thấy đây là nhân vật thuộc về Tây phương Phật giáo rồi.
1. Đại Ca Diếp tôn giả: Đầu đà đệ nhất. Vị này có chút khả nghi vì thói tu khổ hạnh, xa rời tăng đoàn, rất dễ bị chụp cái mũ “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”. Nhưng Đại Ca Diếp theo Thiền tông lại là sơ Tổ, lại là người thừa y bát của Như Lai nên hẳn không thể là kẻ phản giáo kia. Thêm nữa Ca Diếp có chứng cớ ngoại phạm là xuất hiện ở Linh Sơn khi trao kinh cho Đường Tăng.
2. Xá Lợi Phất tôn giả: Trí tuệ đệ nhất, được xưng là thượng tọa đệ tử của Thích Ca Mâu Ni, thường theo hầu bên đức Phật, quy y 15 ngày đã đoạn hết phiền não, chứng ngộ. Do vậy không thể có chuyện “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”
3. Mục Kiền Liên tôn giả: Thần thông đệ nhất. Ngộ tính của ngài còn cao hơn Xá Lợi tử, chỉ 7 ngày đã đoạn phiền não, chứng thần thông, đạt quả vị A la hán. Do vậy cũng như Xá Lợi tử, không có chuyện “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
4. Ca Chiên Diên tôn giả: Luận nghị đệ nhất. Ngài giỏi về phân tích pháp nghĩa, giỏi thuyết pháp, thường cùng ngoại đạo tranh luận và giành thắng lợi, như vậy cũng không hợp với câu “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
5. A Nan tôn giả: Đệ nhất đa văn. Vị này cũng có chút tình nghi vì nghe nhiều mà chẳng ngộ bao nhiêu. Mãi sau khi Như Lai nhập diệt, tại lần kiết tập thứ nhất mới đạt ngộ. Hơn nữa, A Nan có trí nhớ siêu phàm, thường tụng đọc toàn bộ kinh điển của Thích Ca nên không thích hợp với câu “Không chịu nghe giảng”. Vả, sau này A Nan tôn giả cũng được tôn là Thiên tông nhị tổ nên khó có chuyện là phản giáo. Dĩ nhiên cũng như Đại Ca Diếp, A Nan cũng cũng có chứng cớ ngoại phạm.
6. A Na Luật tôn giả: Đệ nhất thiên nhãn. Vị này chưa từng ngừng nghỉ tụng kinh tu luyện tới mức hỏng mắt, sau được Như Lai truyền cho phép Kim cương chiếu minh tam muội, đắc thiên nhãn thông. Do vậy cũng không hợp với câu “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
7. La Hầu La tôn giả: Đệ nhất mật hạnh. Con trai của Thích Ca, được chính Như Lai bảo chứng về mật hạnh nên không có chuyện “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
8. Phú Lâu Na tôn giả: Thuyết pháp đệ nhất. Ngài rất giỏi thuyết pháp, tương truyền đã hóa độ cho 99 ngàn người quy y nên không thể có chuyện “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
9. Ư Bà Ly tôn giả: Đệ nhất trì giới. Ngài được nói là “từ khi theo Phật thụ giới, chưa từng phạm giới một hào một ly”. Như vậy cũng không thích hợp với câu “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp”.
Trong 10 đại đệ tử của phật, duy còn lại Tu Bồ Đề tôn giả (Subhuti), đệ nhất giải không, chính thị là Kim Thiền tử. Nói đến đây hẳn nhiều bác giật mình vỗ đùi cái đét, hóa ra Tu Bồ Đề sư tổ không phải cái tên trung hợp tình cờ. Ngay hồi 1, tác giả đã mượn lời tiều phu để nêu tên Tu Bồ Đề để chỉ vị tổ sư này, “Núi này là Linh Đài Phương Thốn Sơn, trong núi có tòa Tà Nguyệt Tam Tinh Động, trong động có một vị thần tiên, xưng danh Tu Bồ Đề tổ sư.”
Về sau mới lược chữ Tu mà chỉ còn Bồ Đề tổ sư. Vâng, Ngộ Không với Tu Bồ Đề có thể gọi là duyên sư đồ 2 kiếp. Cũng bởi Tu Bồ Đề là giải không đệ nhất nên Mỹ Hầu vương đã được ban cái tên Ngộ Không. Tại sao Tu Bồ Đề lại dạy 72 phép thần thông cho Ngộ Không? Ấy chính để có người trợ giúp mình trong 10 kiếp sau thỉnh kinh.
Lại nói về ngài Tu Bồ Đề tôn giả, ban đầu là tu sĩ Bà la môn. Khi Thích Ca bắt đầu truyền bá đạo Phật, Tu Bồ Đề không phục, thậm chí từng nói: “Đức Phật trong con mắt của phụ thân là bậc nhất thiết trí, nhưng trong mắt của con thì ông ta cũng chỉ là người bình thường mà thôi.”
Ngay cả khi cha mẹ ngài đã quy y Phật thì Tu Bồ Đề vẫn khăng khăng giữ Bà la môn giáo, về sau cha mẹ khuyên bảo nhiều thì Tu Bồ Đề mới về với Phật.
Phép tu của ngài Tu Bồ Đề cũng có điểm khác người, chỉ xin người giàu bố thí chứ không xin người nghèo, nên nhiều người trong tăng đoàn không hài lòng với ngài, đặc biệt là Đại Ca Diếp tôn giả. Nếu ta dõi theo hành trình của Đường Tam Tạng trong Tây Du ký, cũng thấy phần đa là ghé xin ở trọ chùa to, miếu lớn hoặc gia trang, đại hộ, rất hiếm khi vào khuyến giáo chốn hàn môn.
Tây Du ký hồi 2 cũng hé lộ Bồ Đề sư tổ kiêm tu cả ngoại đạo và Phật đạo. Nửa đêm truyền thần thông cho Ngộ Không, Tu Bồ Đề đọc bài thơ, câu cuối là "Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác phật hòa tiên. - Ngũ hành gom tụ dùng điên đảo, nên công tùy thành Phật với tiên."
Việc Bồ đề sư tổ “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp” cũng được ngầm nhắc tới ngay trong hồi 2: Canh ba Ngộ Không lần vào phòng Bồ đề sư tổ “Kiến tổ sư quyền cứ thân khu, triêu lý thụy trứ liễu - Thấy tổ sư cuộn trong thân mình, quay mặt vào trong mà ngủ”. Ma ha tăng chỉ luật quyển 35 chép: “nếu nằm ngửa là kiểu A tu la, nắm sấp là kiểu Ngạ quỷ, nằm nghiêng mình bên trái là kiểu người tham dục, sao sánh được với thế nằm của Sư tử vương. Nằm nghiêng mình bên phải mới là t.ư thế của Sư tử vương.”
Đây cũng là t.ư thế của Như Lai nhập Niết bàn “Ngài nằm nghiêng về phía bên tay phải, hai chân xếp chồng lên nhau, tay phải đệm dưới gò má phải, tay trái đặt xuôi chân trái.” (Các bác lưu ý cho là t.ư thế này yêu cầu xương cụt, sống lưng, gáy thẳng tuyệt đối nhé, để hỏa xà Kundalini tại luôn xa đáy cột sống có thể đi thẳng tới luôn xa đỉnh đầu, còn gọi là phép thở bằng sống lưng.)
Kinh Dược Sư cũng nhắc tương tự như Ma ha tăng chỉ luật: “Này các tỳ kheo, có bốn cách nằm này. Thế nào là bốn? Cách nằm của ngạ quỷ, cách nằm của kẻ hưởng thọ dục vọng, cách nằm của sư tử và cách nằm của Như Lai. Thế nào là cách nằm của ngạ quỷ? Này các tỳ kheo, phần lớn các ngạ quỷ nằm ngửa. Này các tỳ kheo, thế nào là cách nằm của người hưởng thọ các dục vọng? Phần lớn những người hưởng thọ các dục vọng nằm nghiêng phía bên trái. Thế nào là cách nằm của sư tử? Này các tỳ kheo, sư tử, vua các loài thú nằm nghiêng về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau. Và này các tỳ kheo, thế nào là cách nằm của Như Lai? Ở đây, này các tỳ kheo, vị tỳ kheo ly dục… chứng đạt và an trú Tứ thiền, đây là cách nằm của Như Lai. Này các Tỳ kheo, có bốn cách nằm này.”
t.ư thế này mới gọi là t.ư thế cát tường, ngụ ý tăng nhân ngay cả khi ngủ cũng thực hành tu tập, tinh tấn không ngừng nghỉ. Cho nên Bồ Đề sư tổ nằm co người ngủ chính thị ám chỉ việc không tuân giới luật.
Trở lại với chính đề, Tu Bồ Đề tôn giả vì “Không chịu nghe giảng, khinh mạn Phật pháp” bị đuổi về phương đông, phải chuyển thế 10 kiếp mới thành Trần Huyền Trang. Để hoàn thành công cuộc thỉnh kinh này, Tu Bồ Đề phải dạy dỗ ra một Tôn Ngộ Không để làm người phò tá cho hậu kiếp của mình. Và từ khi Ngộ Không từ biệt thày về Hoa Quả Sơn thì cái tên Bồ Đề sư tổ không còn được nhắc đến nữa.
Khéo dạy ở chỗ Bồ đề sư tổ chỉ dạy Ngộ Không thần thông mà ko hề dạy tu tâm dưỡng tính, không dạy chính đạo mà đem cái bàng môn tả đạo trước kia truyền cho học trò (đây là ám chỉ Tu Bồ Đề trước quy y Phật là theo Bà la môn giáo), ấy là tạo cái can cớ để gây sự long trời lở đất, dẫn đến thiên khiển mà cuối cùng phải nhốt dưới Ngũ Hành sơn, tiện tay cho Đường Tam Tạng thu làm đồ đệ.
Lại nói thêm về âm mưu của Tu Bồ Đề với quân bài Ngộ Không. từ đầu chí cuối Ngộ Không chỉ mưu cầu là trường sinh bất lão, như Tu Bồ Đề du long tráo phượng đẩu chuyển tinh di đem thần thông dạy cho, là cái pháp môn thiên về công thủ, mà né đi cái trường sinh quyết dẫn tới Ngộ Không bị quỷ câu hồn bắt đi. Mục đích của Tu Bồ Đề là để Ngộ Không dùng vũ lực tự thoát sổ sinh tử, cũng là khởi nguyên của việc đại náo thiên cung. Mưu kế quả là sâu.
Trong khoảng 500 năm đó, Tu Bồ Đề đã làm gì? Xin thưa, Tu Bồ Đề đã chuyển thế 9 lần làm người lấy kinh và cả 9 kiếp đều vẫn lạc tại Lưu Sa hà. Tình tiết này được tác giả khéo léo gài trong câu nói của Sa Tăng ở hồi thứ 8: “Từ trước đến nay mấy người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi.”
Nhân nói về núi Linh Đài Phương Thốn (1 tấc vuông Linh Sơn - ấy là tâm) và động Tà Nguyệt Tam Tinh (Tà nguyệt như móc câu, tam tinh như tam điểm - cũng là tâm). Nhiều người đã lý giải 2 cái tên này đều chỉ về cái tâm, chỉ tu tâm dưỡng tính, đúng mà lại không đúng. Tâm ấy tâm nào? Giả như minh tâm kiến tính thì thành Phật thành tổ rồi, đâu cần sang Tây bái Phật. Tác giả đã vô cùng kín đáo mà chơi chữ, nếu hiểu sâu xa thì Linh Đài Phương Thốn là “cái tâm nhỏ nhen” còn Tà Nguyệt Tam Tinh là “cái tâm tà vạy”, có thày đó, có pháp môn đó mới đào tạo ra một con khỉ nháo hải phá thiên nghịch địa. Và cũng không ngạc nhiên khi Tôn Đại thánh dọc đường thỉnh kinh vẫn thường nói “một ngày làm thày cả đời là thày”. Đường tăng dạy dỗ cho Tôn Hành giả được cái gì? Ấy là do Tôn Ngộ Không biết Đường tăng là chuyển kiếp của Tu Bồ Đề nên mới mang nặng ân tình, cúc cung phò tá đến vậy.
---