Mạnh Bà Thần ra đời vào thời kỳ Tây Hán, khi tuổi thơ luôn hăng say đọc tứ thư của nhà Nho, lúc tuổi thanh xuân đã đọc Kinh niệm Phật. Bà đã tu hành đến mức không quan tâm đến việc quá khứ và chuyện tương lai. Lúc còn sống trên trần gian, chuyên tâm khuyên răn người không sát sanh, phải ăn chay. Lúc năm tám mươi mốt tuổi, nhan sắc trở lại như thơ, còn giữ trinh nguyên. Bà chỉ nói là bà họ Mạnh, nên ai cũng đều gọi bà là Mạnh Bà A Nải. Sau khi vào trong núi sâu tu luyện, vẫn còn sống đến thời Đông Hán.
Trên thế gian có số người do có linh cơ thâm hậu, có thể đoán được nhân quả của kiếp trước, vì thích đùa giỡn khoe khoang thuật số, nên đã tiết lộ thiên cơ của âm dương, dẫn đến người trên thế gian nhìn thấy nhớ lại người thân kiếp trước của mình, gây xáo trộn trình tự nhân duyên của trần gian. Cho nên, Ngọc Hoàng Đại Đế kêu gọi mụ Mạnh Bà là tri thần của Diêm phủ, xây thành Quên Lãng, cho phép bà được sai lính quỷ trong Diêm phủ. Chỉ định và đưa đến điện thứ mười, những hồn ma được chuyển đi nơi nào sẽ tận dụng thuốc của trần thế, hợp lại một chất như rượu nhưng không phải là rượu, chia ra thành năm khẩu vị: cay, đắng, tân, chua, mặn.
Tất cả các ma quỷ trước khi đi chuyển kiếp đều phải uống loại thuốc này, để cho họ quên hết những chuyện của kiếp trước. Đồng thời, sức lực của thuốc sẽ duy trì đến trần gian, tạo cho họ phải có một số ít bệnh tật như lo lắng nhiều bị cảm phải chảy nước mũi, hoặc do cười vui và lao động nhiều phải toát mồ hôi, hoặc ưu sầu đau lòng phải chảy nước mắt. Người sống trên trần gian thường hành thiện, sẽ tạo cho họ tứ chi và mắt tinh tai thính hơn trước, mạnh khỏe hơn. Còn người làm ác thì đầu óc không minh mẫn phải tiêu hao tinh thần trí óc nhiều, nhanh chóng suy yếu và mệt mỏi nhằm cho họ tự suy nghĩ và biết sám hối. Sửa đổi tà ác, làm lại việc thiện.
Đài Quên Lãng đặt tại điện thứ mười, ngoài cầu lục của điện Diêm Vương, đài cao một trượng, xung quanh có tất cả một trăm lẻ tám gian phòng. Có một lối đi thông đến hướng Đông, tất cả các nam nữ ma quỷ được áp giải đến đây, được đưa vào các phòng. Trong phòng đều có ly để kêu họ uống vào loại thuốc đó, uống nhiều hay ít cũng được. Nếu như có những ma quỷ gian xảo và ngoan cố, không muốn nuốt vào loại thuốc đó thì chân của họ sẽ mọc ra dao móc. Móc chân họ lại và lính quỷ sẽ dùng ống đồng đâm vào cổ họng của họ, để cho họ bị đau đớn không được động đậy và sẽ ép họ uống thuốc đó vào.
Tất cả ma quỷ sau khi uống thuốc này vào, các phái lính quỷ sẽ dắt họ từ thông lộ đi ra, đẩy họ bước lên chiếc cầu treo thắt bằng dây thừng tên là cầu Khổ Trúc. Dưới cầu là một hang đá có dòng sông chảy xiết. Đứng trên cầu nhìn ra phía trước, trên bờ đối mặt có một tảng đá màu đỏ. Có bốn hàng chữ to màu vàng kim, chữ ghi:
Vi nhân dung dị tác nhân nan
Tái yêu vi nhân khổng càng nan
Dục sinh phuớc địa vô nan sở
Khẩu giữ tâm đồng tất bất nan.
(Sống làm người đã khó, làm người tốt còn khó hơn.
Chết rồi muốn trở lại làm người thì còn khó gấp bội
Muốn được đầu thai đến nơi phước lành không khó
Chỉ cần tâm khẩu đồng nhất thì được rồi)
Lúc những ma quỷ đang đứng xem và đọc, phía bờ bên kia đột ngột nhảy ra hai ma quỷ vừa cao vừa to lớn, nhảy xuống mặt nước, làm cho các ma quỷ ai ai cũng hốt hoảng đứng không vững. Nhìn kỹ lại, một ma quỷ thì đội mũ ô sa, thân mặc lễ phục, tay cầm bút và giấy, trên vai có một đao sắc, trên eo có treo dụng cụ tra tấn, mở to hai con mắt nhìn lên và cười ha ha rất to lớn, có tên gọi là “Hoạt Vô Thường”, còn một ma quỷ khác mặt nhìn dơ bẩn, chảy máu đầm đìa, thân mặc áo trắng, tay cầm bàn tính, trên vai vác một túi gạo, trước ngực đeo đầy giấy tiền vàng bạc, đôi mày co lại, hét rất to. Có tên gọi là “Tử Hữu Phân”.
Hai đại ma quỷ này, hối thúc những hồn ma quỷ và đẩy họ rớt xuống con sông có nước đỏ chảy ngang và đưa vô trong một hang đá. Những hồn ma có căn khí đạo hạnh mỏng thì vui mừng hoan hỷ vì sắp có thể được sanh thân người. Những người có căn khí đạo hạnh cao thì đau khổ khóc lóc kêu gào, tự hận mình lúc trên trần gian không tu tốt để có thể siêu thoát hồng trần để cho thân xác này không còn đau khổ trong luân hồi nữa.
Những hồn ma nam và nữ như vừa khờ vừa say từng bước dõi theo nhân duyên của họ, đến các nhà có người mang thai và chui vô bụng người thai phụ để chuẩn bị đầu thai. Do sự thay đổi của âm phủ và dương trần, không khí ngột ngạt, cộng thêm trong bào thai lật ngược, buồn bực cho nên dùng sức đôi chân đá một phát, đạp khỏi bào thai, rời khỏi bụng mẹ, hét lên một tiếng “Oa” và sẽ bắt đầu một đời mới của họ.
Tất cả chúng sinh, do suốt tháng quanh năm mê muội các thứ ngũ dục, mùi vị, nhất là sát sinh nhiều, ngày càng che khuất đi Như Lai Phật tánh của chúng sinh, phụ ơn đức của Phật Bồ Tát và Ngọc Hoàng Đại Đế, phụ ơn khuyên nhủ của các Thần minh, không chịu nghĩ phải làm thế nào để hoàn thiện mình, để có thể trở thành Phật Bồ Tát; làm như thế nào để khi chết không phải đọa lạc vào tam ác để chịu cực hình đau khổ; chưa bao giờ nghĩ đến tương lai của mình sẽ như thế nào khi kết thúc, để lặp đi lặp lại lao vào những ác nghiệp, cuối cùng lại thành ma quỷ, uổng công một đời trên thế gian của mình, vả lại còn phải đọa lạc vào địa ngục thành ma quỷ chịu cực hình đau khổ.
Những điều khoản và các quy luật như trên sau khi quan văn thư của đài Quên Lãng đã ghi nhận xong, cung kính trình lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế và sẽ biên soạn vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thông hành đến trần gian, để người đời trên trần gian hiểu rõ, hành thiện trừ ác.