Hồn của Ngõ...

Đạo Phong

*Chí Tôn*
*Thiên Tôn*
“…Ngõ nhỏ, phố nhỏ, nhà tôi ở đó/ Đêm nằm nghe trong gió, tiếng sông Hồng thở than…”. Tôi lớn lên khi con ngõ nhỏ nơi tôi ở đã hiện hữu ở đó từ bao giờ, nơi con sông Hồng cứ miệt mài chảy miết như không biết đến dấu thời gian. Tuổi thơ tôi bình lặng là thế, mà chỉ cần chạm khẽ tới thôi là lòng lại xốn xang. Hà Nội của tôi, ngõ nhỏ của tôi đẹp giản dị, đặc trưng và rất đỗi thân thương. Đó cũng là nơi tôi có thể tận hưởng giây phút sống thật chậm, chạy trốn sự nhộn nhịp, hiện đại của phố phường. Về đây, úp mặt vào nỗi nhớ, thấy tâm hồn mình cứ mãi tuổi đôi mươi.

Nếu có ai hỏi tôi rằng, Hà Nội có điều gì đặc biệt, thú vị mà đặc trưng đến vậy thì có lẽ chẳng cần suy nghĩ lâu, với tôi đó là sự tồn tại của những con ngõ nhỏ, sâu hun hút, vừa lạ vừa thân quen lại mộc mạc, giản dị đến khiêm nhường. Bên trong đó, từng khoảng không gian nhỏ nhưng cũng rất đỗi yên bình. Ngõ Hà Nội là vậy, có chật hẹp, có cũ kỹ rêu phong nhưng mang đậm nét riêng mà chỉ nơi này mới có. Đâu đó, những con ngõ vẫn còn tồn tại nếp sống, cái cốt cách thanh lịch của người Tràng An và lưu giữ được nguyên vẹn những giá trị văn hóa truyền thống của đất Kinh Kỳ ngàn năm văn hiến.

hon cua ngo
Ngõ Nhà Thờ là nơi để lại nhiều hoài niệm trong lòng người xa xứ, một địa điểm “sống ảo” của giới trẻ Hà Thành.

Hà Nội có nhiều ngõ nhỏ, nhỏ đến mức chỉ vừa một người đi lọt. Đôi khi muốn qua cần phải lách và nhường nhau. Phía sau từng bó dây điện chồng chéo, giăng mắc như mạng nhện lại là dấu hiệu của sự sống bên trong từng lối đi. Có những con ngõ giống như một đường hầm bí mật, thiếu ánh sáng, sâu hun hút, xung quanh là những căn nhà cũ kỹ xếp tầng, úa màu theo tháng năm. Nhìn bề ngoài, ngõ siêu nhỏ, có phần tối và chật hẹp, nếu không chú ý kỹ, sẽ khiến người ta lầm tưởng đó chỉ là khoảng ranh giới giữa hai ngôi nhà mà có đâu biết rằng, đằng sau đó là mảnh đời đang ngày đêm oằn mình với cuộc sống mưu sinh. Nhiều hộ gia đình cùng chung khoảng không gian chừng 10 mét vuông đã trở thành “đặc sản” của người dân phố cổ.

Bất kỳ góc phố nào của 36 phố phường Hà Nội cũng tồn tại ngõ. Và mỗi con ngõ lại có một sự thú vị khác nhau cũng như cất giữ cho mình một câu chuyện riêng.

Những ngày mệt nhọc, cô đơn, tôi thường về góc phố bình dị khi xưa để tìm cho mình một chỗ trốn và thấy lòng an yên đến lạ. Ở ngoài kia, mọi thứ có thể đã thay đổi, thì sau bao nhiêu năm, những con ngõ nhỏ nơi đây vẫn vậy, vẫn sự mộc mạc như nó vốn có, là một phần hơi thở của cuộc đời tôi.

Không chỉ có những con ngõ tĩnh lặng, phố cổ Hà Nội cũng không thiếu những con ngõ tuy nhỏ nhưng sầm uất, là nơi thu hút khách du lịch tìm đến, khám phá vẻ đẹp rất đặc trưng cũng như nền văn hoá, ẩm thực vô cùng đa dạng và phong phú của mảnh đất Hà thành. Ngõ cũng là nơi sinh sống lâu đời của nhiều hộ dân. Qua bao thế hệ, họ vẫn lựa chọn ở lại nơi đây và có trách nhiệm gìn giữ những điều quý giá không thể đặt tên này.

Bắt đầu từ Ngõ Nhà Thờ trong một lần tình cờ được đứa bạn rủ đi “trà chanh, chém gió”. Rồi dần dà, nơi đây trở thành địa điểm “check in” của chúng tôi tự lúc nào. Nằm trên phố đông người qua lại, con ngõ bình yên đến lạ. Đi sâu vào bên trong, từng cánh cửa nhà san sát nhau, lặng lẽ tồn tại, lặng lẽ đi qua tháng năm. Ngõ ở đây không quá dài nhưng khung cảnh thì rất đẹp. Ngồi một góc trong quán cafe khiêm nhường đối diện Nhà thờ, thưởng thức ly cà phê sữa nóng, trong không gian tĩnh lặng, ngắm dòng người ngược xuôi có cảm giác thời gian trôi đi thật chậm. Như một thói quen, người ta tìm về đây vì nhớ hương vị cà phê phố cũ trong một chiều thu hoa sữa thơm bay. Và hoài niệm về một thời đâu dễ đã lãng quên.

Dù thế nào đi chăng nữa thì cuộc sống vẫn phải tiếp diễn. Đôi khi, chỉ cần một chút an yên thế thôi để thấy lòng lắng lại.

hon cua ngo
Ngõ Chợ Đồng Xuân được coi là “Thiên đường” ẩm thực giữa lòng phố cổ.

Còn Ngõ Chợ Đồng Xuân nơi được mệnh danh “Thiên đường” ẩm thực giữa lòng phố cổ chỉ kéo dài gần 200m nhưng con ngõ này có thể coi là “siêu ngõ” ẩm thực bởi ngút ngàn các dãy hàng quán ăn trải dài hết ngõ. Ẩm thực Hà Nội giống như một cô gái đẹp bí ẩn mà người ta cần tìm hiểu, muốn khám phá. Trong vô vàn những con ngõ ăn uống, có khi cứ tưởng đã đi hết 36 phố phường, ăn hết biết bao nhiêu món ngon rồi, vậy mà đến đây, tôi có cảm giác như lần đầu được thưởng thức nhiều thứ hay ho và lạ đến vậy.Kể sơ qua những món mà suốt tuổi thanh xuân tôi và những đứa bạn từng ngồi mòn ghế ở đây: Bún chả que tre thơm nức mũi, bánh tôm cuộn, bánh xèo vàng rộm béo ngậy, bún đậu mắm tôm, bún ốc, bún nem cua bể, bánh bột lọc, nem lụi, hủ tiếu, bánh rán, các loại chè... Món ăn ở đây vô cùng đa dạng. Nhắc đến là cả miền ký ức lại ùa về.

Phần lớn những món ăn đại diện cho ẩm thực Hà Nội đều có thể tìm thấy trên con ngõ này.

Ở Ngõ Gạch lại giống như đường đi của bàn cờ vua vậy. Nhiều khi ẩn mình ghê lắm, nép ở tận đẩu tận đâu, vậy mà lại có bao nhiều điều thú vị. Ngõ Gạch là một trong những con ngõ cổ nhất ở Hà Nội. Cùng tên ngõ nhưng Ngõ Gạch lại lớn hơn nhiều so với những con ngõ khác. Phố Ngõ Gạch chỉ dài khoảng 130m, phía đông giáp ngã t.ư Hàng Giầy và nối với phố Nguyễn Văn Siêu, phía tây giáp ngã t.ư Hàng Đường và nối với phố Hàng Cá.

hon cua ngo
Ngõ Gạch vẫn còn lưu giữ những nét đặc trưng riêng của mảnh đất Kinh Kỳ.

Ngõ Gạch cùng với phố Nguyễn Siêu nguyên là lòng sông Tô Lịch cũ, bị lấp. Tại đây có những hàng bán vật liệu xây dựng như vôi, gạch, theo đó mà thành tên. Theo thời gian, những hàng bán vật liệu xây dựng cũng dần ít đi, nhường chỗ cho những hàng quán ăn nhanh dành cho khách du lịch. Bún đậu Ngõ Gạch là một địa chỉ không còn xa lạ với những người mê bún đậu. Không quá đông khách và chật chội như Hàng Khay, Ngõ Tràng Tiền, Đông Thái... nhưng bún đậu ở đây lúc nào cũng đều đều khách. Đặc biệt, ai đã từng đến đây uống cafe mà chưa thưởng thức món Mỳ tim bầu dục của ông chủ quán cafe trên phố Ngõ Gạch thì quả thật là một điều đáng tiếc. Đó cũng một trong những món ngon của con phố nhỏ này.

hon cua ngo
Như bao con ngõ khác của Hà Nội, Ngõ Huyện vẫn bình dị như chưa từng có sự hiện hữu của nền kinh tế thị trường với nhịp sống hiện đại.

Ngõ Huyện, cách đây chừng 5, 6 năm, tôi trở về sau một chuyến công tác xa nhà. Hà Nội đón tôi bằng cơn mưa phùn lất phất đầu đông. Cái tiết trời se se, lành lạnh làm cho tôi có cảm giác thèm một bát cháo nóng đến lạ. Gặp lại đứa bạn thân từ thời mẫu giáo - cái đứa bạn mà chỉ cần nhìn vào mắt thôi là nó hiểu tôi muốn gì. Và món cháo sườn Ngõ Huyện, lần đầu tiên tôi được ăn cũng là món cháo tôi nhớ nhất cho đến giờ. Cháo sườn Ngõ Huyện thì từ lâu đã nổi tiếng và quen thuộc với người ở Hà Nội, quán không có một cửa hàng cố định, chỉ bán cạnh đầu ngõ Huyện mà bao giờ cũng đông người tới ăn, có hai hàng ghế ven đường để khách ngồi. Quán bán cả ngày lẫn đêm, lúc nào cũng đông khách, gặp trời mưa thì phải vừa đứng vừa ăn. Cháo mịn và thơm, sụn mềm, sần sật rất vừa miệng, cô chủ quán thì thân thiện và nhiệt tình, nhẹ nhàng như bản chất con người Hà Nội vốn dĩ vậy.

Đây cũng là ngõ rất nổi tiếng với nhiều món ăn vặt, thường đông từ chiều đến đêm. Là nơi hấp dẫn khách du lịch với nhiều khách sạn lớn nhỏ, quán bar, spa làm đẹp...

Nhộn nhịp là thế, đông đúc là thế, Ngõ Huyện hiện vẫn còn một số ngôi nhà cổ, cuộc sống của người dân nơi đây vẫn bình dị như chưa từng có sự hiện hữu của nền kinh tế thị trường với nhịp sống hiện đại.

hon cua ngo
Không còn sự yên ắng như xưa, nhưng người dân sống trong con ngõ Tạm Thương bao đời nay vẫn vậy, vẫn giữ cho mình sự lịch thiệp, bình dị của cốt cách người Tràng An.

Cuối cùng là ngõ Tạm Thương nơi mà người dân hay nói, thương một đời, đâu phải Tạm Thương. “Trai ngõ Trạm, gái Tạm Thương”, đó là câu dân gian truyền miệng của người dân phố cổ khi nhắc đến con ngõ lâu đời này. Có những địa danh mà chỉ mới nghe tên thôi đã chạm vào cảm xúc. Ngõ Tạm Thương là một cái tên như vậy. Nhà thơ Chế Lan Viên khi qua đây đã không đành lòng bước: “Sương giăng mờ trên ngõ Tạm Thương/Ngõ rất cụt mà lòng xa thẳm/Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm/Thương một đời đâu phải Tạm Thương!”

Từ Hàng Bông nhộn nhịp, rẽ vào ngõ Tạm Thương sẽ cho ta có cảm giác như bước vào một thế giới khác. Không gian chật hẹp, những âm thanh ồn ào của phố thị dường như được bỏ lại sau lưng. Con ngõ nhỏ mang tên Tạm Thương từng nổi danh vì có đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan và tích truyền miệng về chuyện tình của mấy người lính trạm xa nhà cùng những cô gái hay... thương người. Ngõ chỉ kéo dài chừng 800m, nhưng ở đây như một thế giới thu nhỏ, có tất cả mọi thứ để phục vụ cuộc sống thường ngày của người dân.

Khi Thủ đô khoác lên mình diện mạo mới, con ngõ đã trở nên sầm uất, những căn nhà cao tầng, khang trang mọc san sát nhau, các cửa hàng buôn bán với đầy đủ các loại hàng hóa. Đặc biệt nơi đây nổi tiếng là món nem rán thơm ngon, béo ngậy hấp dẫn dành cho những tín đồ ăn vặt. Tạm Thương được biết đến như một điểm ẩm thực hấp dẫn về đêm nổi tiếng lâu đời gắn bó với biết bao thế hệ người dân Hà Nội. Tuy vậy, nơi đây vẫn giữ riêng cho mình những nét hoài cổ đặc sắc. Đó là chiếc giếng cổ hàng trăm năm tuổi, ngôi đền Yên Thái - nơi thờ Nguyên phi Ỷ Lan hay truyền thống treo cờ cổ truyền của người dân.

Trong con mắt của người Hà Nội, Tạm Thương vẫn bình dị, là một nét chấm phá tạo nên bức tranh đa sắc trên mảnh đất Kinh Kỳ.

hon cua ngo
Ngõ nhỏ Hà Nội một ngày thu. Tranh Phạm Ánh.

Để nói về những con ngõ ở Hà Nội thì chắc chẳng bao giờ hết được, người ta nhớ về Hà Nội bởi những điều giản dị, thân quen ở từng con ngõ, góc phố. Bởi ngõ, ngách nào ở đây cũng chứa một câu chuyện của riêng mình. Ngõ nhỏ Hà Nội có chật hẹp, nhỏ bé và đôi khi gây khó khăn trong sinh hoạt nhưng luôn mang đậm những nét đặc trưng mà chỉ riêng ở mảnh đất Kinh Kỳ này mới thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nhất. Những con ngõ lưu giữ, tồn tại nhịp sống văn hóa của người dân chẳng thể nào thay đổi, phá bỏ hay chìm vào quên lãng.

Có ai đó đã từng nói, mỗi con ngõ nhỏ ở Hà Nội cũng như một thế giới, ở đó có đầy đủ các hoạt động, các mối quan hệ diễn ra. Ngõ Hà Nội là vậy, có chật hẹp, có cũ kỹ, có những góc cạnh nhưng hết sức đặc trưng mà chỉ riêng nơi này mới có. Nó vẫn còn giữ nguyên vẹn giá trị lịch sử, là nét văn hóa mà có lẽ chẳng thể nào thay đổi của những người Hà Nội mang tâm hồn xưa cũ.

Bài: Song Thu - Ảnh: Minh Phương

Hà Nội, nơi có tình yêu tôi
Trong sáng sao kì đến lạ.
Ngày ngày em có gọi tên tôi,
Mà sao hoa sữa thơm hương vô chừng.
 

Vong Vất Vưởng

Phàm Nhân
Ngọc
-396,48
Tu vi
0,00
Tràng An ở Ninh Bình cơ mà? Liên quan gì đến HN nhỉ?
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Câu ca dao này tôi từng nhiều lần được nghe, được đọc trong sách báo và hiểu được như mọi người thường hiểu đó là niềm tự hào của người Thăng Long cũ hay Hà Nội ngày nay vốn có nếp sống văn minh lịch lãm. Nhưng tôi rất băn khoăn: Tại sao trong câu ca dao lại gọi Thăng Long là Tràng An?

Tôi học Lịch sử Việt Nam từ thời tiểu học đến hết thời trung học, chưa bao giờ nói đất Hà Nội ngày nay có tên là Tràng An. Thời Bắc thuộc Hà Nội có tên là Đại La, một thời gian khá dài bọn thống trị lấy đây làm trung tâm hành chính, văn hóa, kinh tế của quận Giao Chỉ và gọi là La Thành. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên La Thành là Thăng Long Thành, tên này đã được dùng trải qua hai triều đại Lý - Trần.

Sau biến cố Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần thì dời đô về Hậu Lộc - Thanh Hóa lấy tên là Tây Đô, còn Thăng Long gọi là Đông Đô. Đến khi Lê Lợi đánh tan quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước lên ngôi vua rồi chọn Đông Đô làm kinh thành và lấy lại tên Thăng Long như cũ. Tên Thăng Long lại trải qua ba triều đại Hậu Lê - Tây Sơn và Nguyễn. Đến đời vua Tự Đức, do nhà Nguyễn phân chia lại địa dư hành chính nên Thăng Long Thành mới đổi tên là Thành Hà Nội.

Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, Hà Nội lại chính thức trở thành Thủ đô nước Việt Nam ta cho đến tận ngày nay. Như vậy có thể khẳng định rằng Hà Nội chưa bao giờ có tên là Tràng An cả.

Một lần nhân ngày hội tôi đi dự lễ ở chùa Láng, tình cờ được gặp một học giả khá nổi tiếng về Hà Nội và tôi có hỏi ông về câu ca dao này với thắc mắc trên. Ông lấp lửng trả lời Tràng An là danh từ chung. Tôi hiểu ý của ông là từ Tràng An tương đương với từ kinh thành hay thủ đô, thế thì rất lạ và vô lý quá, chả lẽ có thể nói Tràng An Hà Nội, Tràng An Bắc Kinh… hay Tràng An Mạc t.ư Khoa được sao? Hay có thể thay các danh từ riêng trên bằng Tràng An được à?

Rồi tôi lại nghĩ: Phải chăng người xưa muốn ví Thăng Long như Tràng An là kinh đô của một nước chư hầu thời Trung Quốc cổ đại? Cũng không có lý vì các cụ nhà ta đâu có tự ti mà so sánh khập khiễng như vậy.

Thế rồi một lần hội họp lớp cũ (thời học phổ thông) trong lúc trà dư tửu hậu, tôi lại mang vấn đề này ra trao đổi. Một ông bạn tôi có nói với mọi người đại ý là ông nội của ông đỗ phó bảng làm quan tuần phủ có giải thích cho bố ông về câu ca dao này như sau: Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua rồi dời đô về Đại La đương nhiên phải mang theo toàn bộ bộ máy hành chính đi theo, như vậy cũng có rất nhiều người nhà, lính tráng, nô lệ và cả dân chúng tháp tùng các gia đình vua quan định cư nơi ở mới.

Những người gốc Hoa Lư này vốn có nếp sống dân dã miền sơn cước nên vụng về thô kệch, còn dân gốc Đại La thì từ lâu chịu ảnh hưởng nền văn minh của người phương Bắc nên nếp sống văn minh hơn, lịch lãm hơn, dẫn đến trong giao tiếp, người gốc La Thành kinh rẻ miệt thị người gốc Hoa Lư (điều này còn ảnh hưởng ít nhiều đến tận ngày nay). Để tự vệ và giữ gìn danh tiếng của mình đã từng sống ở kinh đô Hoa Lư thuộc đất Tràng An (còn gọi là đất Trường Yên) nên người gốc Hoa Lư mới đặt ca dao:

"Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"
Là để đáp lại người gốc La Thành mà thôi. Vậy các ông nên hiểu Tràng An ở đây là Tràng An ở đất Ninh Bình chứ không phải ở đất Đại La hay Thăng Long sau này và đừng có lầm lẫn với Tràng An ở Trung Quốc cổ đại. Còn nói Tràng An là danh từ chung thì quá sai rồi vì Từ điển Việt Nam đâu có giải nghĩa như thế.

Về nhà tôi ngẫm nghĩ điều giải thích của cụ phó bảng là rất có lý, ta nên hiểu Tràng An trong câu ca dao là Tràng An ở Ninh Bình mà xưa nay nhiều người lại hiểu nhầm là tên gọi khác của đất Thăng Long. Vốn là dân học tự nhiên, tôi chỉ xét theo logic mà phán đoán thôi chứ chẳng biết đúng sai thế nào và cứ mạnh dạn viết bài này để mong các độc giả gần xa tham khảo và mong có lời chỉ dẫn để tôi và các bạn bè hiểu được đúng nghĩa câu ca dao danh tiếng này

Lộc Thành
Tràng An là đất ở đâu?
 

Đạo Phong

*Chí Tôn*
*Thiên Tôn*
Câu ca dao này tôi từng nhiều lần được nghe, được đọc trong sách báo và hiểu được như mọi người thường hiểu đó là niềm tự hào của người Thăng Long cũ hay Hà Nội ngày nay vốn có nếp sống văn minh lịch lãm. Nhưng tôi rất băn khoăn: Tại sao trong câu ca dao lại gọi Thăng Long là Tràng An?

Tôi học Lịch sử Việt Nam từ thời tiểu học đến hết thời trung học, chưa bao giờ nói đất Hà Nội ngày nay có tên là Tràng An. Thời Bắc thuộc Hà Nội có tên là Đại La, một thời gian khá dài bọn thống trị lấy đây làm trung tâm hành chính, văn hóa, kinh tế của quận Giao Chỉ và gọi là La Thành. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên La Thành là Thăng Long Thành, tên này đã được dùng trải qua hai triều đại Lý - Trần.

Sau biến cố Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần thì dời đô về Hậu Lộc - Thanh Hóa lấy tên là Tây Đô, còn Thăng Long gọi là Đông Đô. Đến khi Lê Lợi đánh tan quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước lên ngôi vua rồi chọn Đông Đô làm kinh thành và lấy lại tên Thăng Long như cũ. Tên Thăng Long lại trải qua ba triều đại Hậu Lê - Tây Sơn và Nguyễn. Đến đời vua Tự Đức, do nhà Nguyễn phân chia lại địa dư hành chính nên Thăng Long Thành mới đổi tên là Thành Hà Nội.

Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, Hà Nội lại chính thức trở thành Thủ đô nước Việt Nam ta cho đến tận ngày nay. Như vậy có thể khẳng định rằng Hà Nội chưa bao giờ có tên là Tràng An cả.

Một lần nhân ngày hội tôi đi dự lễ ở chùa Láng, tình cờ được gặp một học giả khá nổi tiếng về Hà Nội và tôi có hỏi ông về câu ca dao này với thắc mắc trên. Ông lấp lửng trả lời Tràng An là danh từ chung. Tôi hiểu ý của ông là từ Tràng An tương đương với từ kinh thành hay thủ đô, thế thì rất lạ và vô lý quá, chả lẽ có thể nói Tràng An Hà Nội, Tràng An Bắc Kinh… hay Tràng An Mạc t.ư Khoa được sao? Hay có thể thay các danh từ riêng trên bằng Tràng An được à?

Rồi tôi lại nghĩ: Phải chăng người xưa muốn ví Thăng Long như Tràng An là kinh đô của một nước chư hầu thời Trung Quốc cổ đại? Cũng không có lý vì các cụ nhà ta đâu có tự ti mà so sánh khập khiễng như vậy.

Thế rồi một lần hội họp lớp cũ (thời học phổ thông) trong lúc trà dư tửu hậu, tôi lại mang vấn đề này ra trao đổi. Một ông bạn tôi có nói với mọi người đại ý là ông nội của ông đỗ phó bảng làm quan tuần phủ có giải thích cho bố ông về câu ca dao này như sau: Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua rồi dời đô về Đại La đương nhiên phải mang theo toàn bộ bộ máy hành chính đi theo, như vậy cũng có rất nhiều người nhà, lính tráng, nô lệ và cả dân chúng tháp tùng các gia đình vua quan định cư nơi ở mới.

Những người gốc Hoa Lư này vốn có nếp sống dân dã miền sơn cước nên vụng về thô kệch, còn dân gốc Đại La thì từ lâu chịu ảnh hưởng nền văn minh của người phương Bắc nên nếp sống văn minh hơn, lịch lãm hơn, dẫn đến trong giao tiếp, người gốc La Thành kinh rẻ miệt thị người gốc Hoa Lư (điều này còn ảnh hưởng ít nhiều đến tận ngày nay). Để tự vệ và giữ gìn danh tiếng của mình đã từng sống ở kinh đô Hoa Lư thuộc đất Tràng An (còn gọi là đất Trường Yên) nên người gốc Hoa Lư mới đặt ca dao:


Là để đáp lại người gốc La Thành mà thôi. Vậy các ông nên hiểu Tràng An ở đây là Tràng An ở đất Ninh Bình chứ không phải ở đất Đại La hay Thăng Long sau này và đừng có lầm lẫn với Tràng An ở Trung Quốc cổ đại. Còn nói Tràng An là danh từ chung thì quá sai rồi vì Từ điển Việt Nam đâu có giải nghĩa như thế.

Về nhà tôi ngẫm nghĩ điều giải thích của cụ phó bảng là rất có lý, ta nên hiểu Tràng An trong câu ca dao là Tràng An ở Ninh Bình mà xưa nay nhiều người lại hiểu nhầm là tên gọi khác của đất Thăng Long. Vốn là dân học tự nhiên, tôi chỉ xét theo logic mà phán đoán thôi chứ chẳng biết đúng sai thế nào và cứ mạnh dạn viết bài này để mong các độc giả gần xa tham khảo và mong có lời chỉ dẫn để tôi và các bạn bè hiểu được đúng nghĩa câu ca dao danh tiếng này

Lộc Thành
Tràng An là đất ở đâu?
Tại sao gọi người Hà Nội là người Tràng An?

Câu ca dao cổ tự ngàn xưa gợi nhắc cho ta về nét đẹp người Hà Thành, nhưng ý nghĩa của nó chưa mấy ai đã hiểu rõ. Tại sao lại là “Tràng An”? Trong lịch sử, Hà Nội chưa bao giờ được gọi là Tràng An cả, mặc dù đã từng qua rất nhiều lần thay đổi tên gọi như: Thăng Long, Đại La, Đông Đô… hay nôm na là Kẻ Chợ. Tuy nhiên, trong câu ca trên thì Tràng An đích thị là chỉ Hà Nội – Thủ đô ngàn năm văn hiến của người Việt – chứ không chỉ bất cứ một nơi nào khác.

“Tràng An” là một mĩ từ có nguồn gốc xuất phát từ Trung Quốc. Đây vốn là kinh đô của Trung Hoa thời Đường, kéo dài suốt bốn thế kỷ (năm 608 – 907), cũng là bốn thế kỷ thịnh vượng, mang dấu ấn văn hóa Hán nhất. Người Trung Hoa sau này ấn tượng về sự phồn thịnh của kinh đô ấy tới mức đã cấp cho địa danh này một nghĩa mới: Cứ nói đến “Tràng An” tức là nói tới kinh đô. Hơn nữa, với nghĩa danh từ “Tràng An” là một cụm từ ghép cố định, chỉ một địa danh. Còn với nghĩa tính từ thì “Tràng An” còn chỉ sự lâu bền, bình yên, an lành. Như thế, đây là một cách sử dụng điển tích thể hiện niềm tự hào hoài cổ, nhưng ngày nay chúng ta đã Việt hóa làm cho ý nghĩa của hai chữ “Tràng An” trở nên sâu xa hơn (đất Tràng An, phong tục Tràng An…).

Câu ca dao trên được xây dựng trên cấu trúc song hành: “Chẳng… cũng thể…”, đặt “người Tràng An” bên cạnh “hoa nhài”, “thơm” sánh với “thanh lịch”. Đây quả là một sự liên tưởng độc đáo! “Nhài” là một loại cây nhỡ, lá hình bầu dục, hoa trắng mọc thành cụm, nở về đêm, có mùi thơm dịu nhẹ, thoang thoảng và quyến rũ. Có lẽ, chính từ phẩm chất này mà dân gian đã chuyển sang để so sánh với nét đẹp của người Hà Nội. “Thanh lịch”, thanh nhã và lịch sự, là một phẩm chất đáng quý. Người thanh lịch không chỉ có cử chỉ tao nhã, lịch sự mà phải là một người có hiểu biết sâu sắc, có cách ứng xử đúng mực, duyên dáng, đáng yêu, tức là người đó phải hội đủ các yếu tố về nội dung và hình thức. Tóm lại, câu ca dao muốn ngợi ca sự thanh lịch của người Tràng An, ắt là điều tất yếu không thể phủ nhận được giống như hương thơm của hoa nhài vậy.

Tuy nhiên, “người Tràng An” là bao gồm những ai và tại sao người Hà Nội – Tràng An lại được đề cao đến vậy? Thật khó mà xác định được điểm mốc nào để gọi là người Hà Nội gốc. Sinh ra ở Hà Nội, hay trưởng thành ở Hà Nội, hay có ông bà cha mẹ ở Hà Nội Người Hà Nội là những người đã sống ở đây từ trước năm 1945 hay trước 1954, 1975?

Theo tôi, điều đó không quan trọng. Tất cả những người đang sống và làm việc trên đất Hà Nội, đang cống hiến cho Hà Nội, và kể cả những người đang yêu thương Hà Nội dù chỉ là trong suy tưởng đều có thể coi là “người Hà Nội”.

Chúng ta không thể phủ nhận sự thanh lịch của Hà Nội, bởi đó là thực tế. Tính cách thanh lịch đó thể hiện ở cách ứng xử văn hóa mà cụ thể là trong cách nói năng, ăn mặc, giao tiếp… Tiếng nói Hà Nội phát âm đúng, từ ngữ chuẩn xác, có thể làm mẫu mực cho cả nước. Người Hà Nội biết tiếp thu có sàng lọc tiếng nói của mọi miền đất nước, giữ lại những gì tinh túy nhất nên lời nói lưu loát, nhã nhặn lại ý nhị, tôn trọng người đối thoại.

Mặt khác, người Hà Nội rất sành ăn uống, họ đã nâng việc nấu ăn lên thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn Hà Nội ngon từ cách chế biến, từ chút gia vị, nước chấm cho đến cách bày biện đẹp mắt, gợi cảm mà không phàm tục, và khi ăn cảm thấy thích thú. Chẳng thế mà bao nhà văn tên tuổi đã dành cả cuốn sách để viết về đề tài này như Thạch Lam với “Quà Hà Nội” hay Vũ Bằng với “Miếng ngon Hà Nội”. Trong trang phục, người Hà Nội ưa sự gọn gàng, tề chỉnh, trang nhã. Đẹp nhưng kín đáo, không hề cầu kỳ lòe loẹt, phô trương lố lăng, họ đã tôn vinh phong cách dân tộc trong trang phục.

Đã có không ít người nước ngoài ấn tượng đến sững sờ trước một tà áo dài Hà Nội duyên dáng như mây thu mơ hồ, mặc dù phụ nữ nước họ cũng có những bộ váy dân tộc rực rỡ với nhiều vẻ đẹp. Tính thanh lịch ấy còn được thể hiện trong cách làm ăn, giao tiếp. Sự thanh lịch mà Thăng Long – Hà Nội có được là do cả một quá trình lịch sử lâu dài.

Và cũng không thể nào hun đúc, bảo tồn được nền văn hiến thanh lịch ấy nếu không có sự bồi đắp của những tinh hoa khắp mọi miền dành cho Thủ đô. Chẳng hạn như những bài hát hay nhất cho Hà Nội cũng không phải người Hà Nội viết. Hay Bùi Xuân Phái, tác giả của rất nhiều bức tranh đẹp về Phố cổ Hà Nội, cũng là người xuất thân từ tỉnh Hà Đông chứ không phải từ 36 phố phường.

Ngày nay, Hà Nội cũng như mọi miền trên cả nước đang mở rộng trên con đường giao lưu và hội nhập quốc tế. Hà Nội đổi mới từng ngày, từng giờ nhưng bản sắc Hà Nội từ ngàn xưa vẫn còn giữ mãi. Với sức sống dẻo dai, với lòng yêu cái đẹp đã được hun đúc từ nhiều đời, người Hà Nội hôm nay đã và đang đẩy lùi những gì không phải là của mình. Từng người, từng gia đình vẫn giữ “nếp nhà” như thể người Hà Nội muôn đời thanh lịch.

(Sưu tầm-Du lịch Hà Nội)
 

Vũ Tích

Đại Thừa Hậu Kỳ
Tại sao gọi người Hà Nội là người Tràng An?

Câu ca dao cổ tự ngàn xưa gợi nhắc cho ta về nét đẹp người Hà Thành, nhưng ý nghĩa của nó chưa mấy ai đã hiểu rõ. Tại sao lại là “Tràng An”? Trong lịch sử, Hà Nội chưa bao giờ được gọi là Tràng An cả, mặc dù đã từng qua rất nhiều lần thay đổi tên gọi như: Thăng Long, Đại La, Đông Đô… hay nôm na là Kẻ Chợ. Tuy nhiên, trong câu ca trên thì Tràng An đích thị là chỉ Hà Nội – Thủ đô ngàn năm văn hiến của người Việt – chứ không chỉ bất cứ một nơi nào khác.

“Tràng An” là một mĩ từ có nguồn gốc xuất phát từ Trung Quốc. Đây vốn là kinh đô của Trung Hoa thời Đường, kéo dài suốt bốn thế kỷ (năm 608 – 907), cũng là bốn thế kỷ thịnh vượng, mang dấu ấn văn hóa Hán nhất. Người Trung Hoa sau này ấn tượng về sự phồn thịnh của kinh đô ấy tới mức đã cấp cho địa danh này một nghĩa mới: Cứ nói đến “Tràng An” tức là nói tới kinh đô. Hơn nữa, với nghĩa danh từ “Tràng An” là một cụm từ ghép cố định, chỉ một địa danh. Còn với nghĩa tính từ thì “Tràng An” còn chỉ sự lâu bền, bình yên, an lành. Như thế, đây là một cách sử dụng điển tích thể hiện niềm tự hào hoài cổ, nhưng ngày nay chúng ta đã Việt hóa làm cho ý nghĩa của hai chữ “Tràng An” trở nên sâu xa hơn (đất Tràng An, phong tục Tràng An…).

Câu ca dao trên được xây dựng trên cấu trúc song hành: “Chẳng… cũng thể…”, đặt “người Tràng An” bên cạnh “hoa nhài”, “thơm” sánh với “thanh lịch”. Đây quả là một sự liên tưởng độc đáo! “Nhài” là một loại cây nhỡ, lá hình bầu dục, hoa trắng mọc thành cụm, nở về đêm, có mùi thơm dịu nhẹ, thoang thoảng và quyến rũ. Có lẽ, chính từ phẩm chất này mà dân gian đã chuyển sang để so sánh với nét đẹp của người Hà Nội. “Thanh lịch”, thanh nhã và lịch sự, là một phẩm chất đáng quý. Người thanh lịch không chỉ có cử chỉ tao nhã, lịch sự mà phải là một người có hiểu biết sâu sắc, có cách ứng xử đúng mực, duyên dáng, đáng yêu, tức là người đó phải hội đủ các yếu tố về nội dung và hình thức. Tóm lại, câu ca dao muốn ngợi ca sự thanh lịch của người Tràng An, ắt là điều tất yếu không thể phủ nhận được giống như hương thơm của hoa nhài vậy.

Tuy nhiên, “người Tràng An” là bao gồm những ai và tại sao người Hà Nội – Tràng An lại được đề cao đến vậy? Thật khó mà xác định được điểm mốc nào để gọi là người Hà Nội gốc. Sinh ra ở Hà Nội, hay trưởng thành ở Hà Nội, hay có ông bà cha mẹ ở Hà Nội Người Hà Nội là những người đã sống ở đây từ trước năm 1945 hay trước 1954, 1975?

Theo tôi, điều đó không quan trọng. Tất cả những người đang sống và làm việc trên đất Hà Nội, đang cống hiến cho Hà Nội, và kể cả những người đang yêu thương Hà Nội dù chỉ là trong suy tưởng đều có thể coi là “người Hà Nội”.

Chúng ta không thể phủ nhận sự thanh lịch của Hà Nội, bởi đó là thực tế. Tính cách thanh lịch đó thể hiện ở cách ứng xử văn hóa mà cụ thể là trong cách nói năng, ăn mặc, giao tiếp… Tiếng nói Hà Nội phát âm đúng, từ ngữ chuẩn xác, có thể làm mẫu mực cho cả nước. Người Hà Nội biết tiếp thu có sàng lọc tiếng nói của mọi miền đất nước, giữ lại những gì tinh túy nhất nên lời nói lưu loát, nhã nhặn lại ý nhị, tôn trọng người đối thoại.

Mặt khác, người Hà Nội rất sành ăn uống, họ đã nâng việc nấu ăn lên thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn Hà Nội ngon từ cách chế biến, từ chút gia vị, nước chấm cho đến cách bày biện đẹp mắt, gợi cảm mà không phàm tục, và khi ăn cảm thấy thích thú. Chẳng thế mà bao nhà văn tên tuổi đã dành cả cuốn sách để viết về đề tài này như Thạch Lam với “Quà Hà Nội” hay Vũ Bằng với “Miếng ngon Hà Nội”. Trong trang phục, người Hà Nội ưa sự gọn gàng, tề chỉnh, trang nhã. Đẹp nhưng kín đáo, không hề cầu kỳ lòe loẹt, phô trương lố lăng, họ đã tôn vinh phong cách dân tộc trong trang phục.

Đã có không ít người nước ngoài ấn tượng đến sững sờ trước một tà áo dài Hà Nội duyên dáng như mây thu mơ hồ, mặc dù phụ nữ nước họ cũng có những bộ váy dân tộc rực rỡ với nhiều vẻ đẹp. Tính thanh lịch ấy còn được thể hiện trong cách làm ăn, giao tiếp. Sự thanh lịch mà Thăng Long – Hà Nội có được là do cả một quá trình lịch sử lâu dài.

Và cũng không thể nào hun đúc, bảo tồn được nền văn hiến thanh lịch ấy nếu không có sự bồi đắp của những tinh hoa khắp mọi miền dành cho Thủ đô. Chẳng hạn như những bài hát hay nhất cho Hà Nội cũng không phải người Hà Nội viết. Hay Bùi Xuân Phái, tác giả của rất nhiều bức tranh đẹp về Phố cổ Hà Nội, cũng là người xuất thân từ tỉnh Hà Đông chứ không phải từ 36 phố phường.

Ngày nay, Hà Nội cũng như mọi miền trên cả nước đang mở rộng trên con đường giao lưu và hội nhập quốc tế. Hà Nội đổi mới từng ngày, từng giờ nhưng bản sắc Hà Nội từ ngàn xưa vẫn còn giữ mãi. Với sức sống dẻo dai, với lòng yêu cái đẹp đã được hun đúc từ nhiều đời, người Hà Nội hôm nay đã và đang đẩy lùi những gì không phải là của mình. Từng người, từng gia đình vẫn giữ “nếp nhà” như thể người Hà Nội muôn đời thanh lịch.

(Sưu tầm-Du lịch Hà Nội)
Bài này nó hông có giải thích lý do gọi HN là Tràng An. Nó lập lờ xong rồi nhấn mạnh cái thanh lịch của người HN.
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Cho nên HN thanh lịch, HN không phải người Tràng An đâu nhé!
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top