[Sáng Tác] Những ngôi sao trong thành phố - Nhóm 4.0

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
THÔNG TIN TRUYỆN:
Tác giả: Nguyên Nguyên - Nguyên Lê - Nhóm 4.0
Thể loại: Tiểu thuyết tâm lý - tình cảm
Số chương: 21



Văn án:

Ann, Jiho, Lưu Ly và Dahlia là những thành viên của nhóm nhạc The Town; họ mang trong mình nhiệt huyết của tuổi trẻ và đam mê cháy bỏng với âm nhạc. Mỗi người ở một phương trời khác nhau đã tụ hợp tại Hà Nội êm dịu mà khắc khoải của những hoài niệm.

Vào một chiều lặng yên tại Hàn Quốc xa xôi, Jiho nhận được tin của Ann về cái chết của người chị tài năng - giọng ca chính đầy nội lực của The Town - Dahlia. Jiho quay trở lại Việt Nam với ngập tràn ký ức của thuở yêu thương - ngọt ngào, nhiều hạnh phúc nhưng cũng đầy mệt mỏi, nghiệt ngã.

Trong khi đó, thành viên nhỏ tuổi nhất ban nhạc - Lưu Ly - đã quay về Sài Gòn, nơi mà cô từng muốn thoát khỏi những ký ức tuổi thơ nhiều u buồn.

The Town vì sao tan rã, vì sao họ có thể dễ dàng từ bỏ đam mê ban đầu để mỗi người một phương và thậm chí là quyên sinh? “Những ngôi sao thành phố” vụt sáng ngày nào, sao giờ đây lại phủ một màu tang thương?
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00


CHƯƠNG I

TRỞ LẠI

Nhìn từ trên cao, một phần của tháp truyền hình Namsan chìm trong làn sương mờ ảo. Tháng Ba ở Seoul trời vẫn rất lạnh. Jiho vừa có mặt trong phòng làm việc của mình. Một buổi sáng âm u hơn thường lệ - anh nghĩ bụng, rồi nhanh chóng cởi chiếc áo choàng dài ra khỏi người, treo lên chiếc giá nằm gọn lỏn trong góc phòng.

Jiho lặng lẽ tiến lại chiếc máy pha cà phê nằm gần cửa sổ, thói quen hằng ngày trước khi bắt đầu công việc. Anh nhấn nút, một thao tác đơn giản, cốc cà phê xuất hiện ngay trước mặt; từ miệng cốc, lọn khói mỏng mảnh khẽ tỏa lên, bốc thứ mùi ngai ngái - một mùi vị quen thuộc, đánh thức những giác quan. Jiho hít một hơi thật sâu, cảm thấy thoải mái đôi chút.

Dạo gần đây, anh thường xuyên mất ngủ, mà nếu có ngủ được thì y như rằng, cơn ác mộng sẽ lại ập tới quấy quả. Đôi khi anh choàng tỉnh giữa đêm khuya, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, nhịp tim đập nhanh hơn bình thường. Sau đó, nếu như có nằm lại thì cũng chẳng tài nào ngủ được nữa. Trong cơn ác mộng, anh thoáng thấy những hình ảnh kỳ dị về một người phụ nữ không nhìn rõ khuôn mặt. Cô ta cứ nhìn anh với ánh mắt vô hồn, trống rỗng. Khi ấy, anh cố gắng gọi nhưng chẳng ai trả lời, đáp lại chỉ là tiếng trở mình của màn đêm thăm thẳm, vô tận. Thậm chí có cả tiếng gào thét, tiếng khóc ỉ ôi như đang thán trách… Anh cảm thấy trống trải và sợ hãi - một nỗi sợ mơ hồ, lan tỏa như làn khói thuốc. Trong căn phòng nhỏ, giữa thành phố mênh mang, anh đang dần trở thành người xa lạ.

Trong những bữa cơm chiều ngắn ngủi, anh đem câu chuyện lạ lùng đó tâm sự với ba. Ông chăm chú lắng nghe, lúc nào cũng vậy, sự điềm tĩnh hiển hiện trên gương mặt người đàn ông đã bước sang độ tuổi ngũ tuần. Ông chưa vội nói gì, lặng lẽ nhấm nháp ly rượu mận Maesil-ju trong tay, thứ rượu khá mạnh như muốn đốt cháy cổ họng nhưng lại khiến con người ta trở nên bình tĩnh hơn. Một điềm báo, về những ký ức - Jiho nhớ mang máng ba anh đã nói thế; và ông không giải thích gì thêm. Anh cũng không muốn biến mình thành đứa trẻ con luôn phải đặt câu hỏi với người lớn, nên đành chọn cách im lặng. Cuộc trò chuyện trôi dạt về thinh không, càng nghĩ càng khiến đầu óc anh trở nên nặng trịch.

Jiho không muốn nghĩ nữa, cố giam giữ những cơn mơ, hình ảnh ma quái vào một góc tăm tối trong lòng mình; và chấp nhận rằng, rồi đến lúc nó lại cựa mình thức dậy, tìm đến anh như một điều hiển nhiên vậy. Cốc cà phê vẫn nằm trong lòng bàn tay phải, nhưng chẳng còn chút hơi ấm, tay còn lại đút trong túi quần. Mọi thứ đang dần tê cóng. Một lần nữa anh nhìn về khoảng không gian mờ mịt. Đâu đó vẫn còn những ánh đèn đường, thấp thoáng ẩn hiện, mờ ảo. Anh nhấp thêm một mụm cà phê nữa - lạnh lẽo và đắng ngắt.

Chuông điện thoại bên bàn làm việc réo lên, từng hồi, gấp gáp. Anh lẳng lặng bỏ cốc cà phê uống dở trên bục cửa, chạy ngay sang và nhấc máy.

Anh chào bằng tiếng Hàn - câu mở đầu quen thuộc khi nhận được cuộc gọi vào thời điểm này trong ngày. Lòng vẫn thắc mắc đầu dây bên kia là ai, vì ít khi nào chuyện công việc lại sớm thế này. Từ người lạ à? Hoặc giả cũng có thể có đột biến gì đấy? Cũng có thể là nhầm số… Jiho nghĩ rất nhanh, đủ mọi giả định, chỉ trong một giây chờ phía bên kia đáp lời.

“Jiho phải không?” - Một giọng nữ trung cất lên.

Anh im lặng. Người phụ nữ biết tên anh. Thứ ngôn ngữ mà đã rất lâu rồi anh không nghe lại - thứ ngôn ngữ dường như đã ăn sâu vào trong huyết quản của anh và đã quá nhiều lần nhập nhoạng trôi nổi trong những giấc mơ. Anh dần lấy lại sự bình tĩnh.

“Là Jiho phải không? Mình, Ann đây.” - Một chút gì đấy dè chừng.

Lần này anh chết lặng; cổ họng nghẹn ứ lại, dư âm của ly cà phê ban nãy không còn nhưng sao cổ họng nghe đắng ngắt - sự đắng đót vô hình và rất đau. Anh biết người con gái ấy, hẳn nhiên rồi! Một dư ảnh quen thuộc dội về tâm trí Jiho, nhưng rất mờ nhạt, theo kiểu từng bị bôi nhòa đi bởi chính anh không dám quay lại nhìn mà nhớ nữa.

“Ừ… mình, Jiho đây.” - Anh ngập ngừng. Cuối cùng, bằng nỗ lực đáng kể, anh cũng thốt ra ba từ đó bằng tiếng Việt. Đã bao lâu rồi anh không giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ này.

“Dahlia mất rồi!” - Ann nói, rồi cô im bặt ngay sau đó.

Jiho chẳng tài nào tưởng tượng nổi ra gương mặt của cô, nhưng anh biết, rằng cô đang khóc. Có lẽ, Ann chẳng thể giấu nổi điều đó, bởi anh thoáng nghe thấy thanh âm của sự nghẹn ngào, đổ vỡ.

Dahlia đã chết?! Jiho nghe rất rõ thứ gì đó trong mình vừa bị nghiền nát một cách thô bạo, vỡ vụn, giòn tan. Anh nhắm mắt, tay vẫn nắm chặt lấy ống nghe, hơi run. Không gian xung quanh như chuyển động, xoáy tròn; thứ ánh sáng nhờ nhờ của bóng đèn khiến đôi mắt trở nên nhưng nhức, anh cảm giác mình không thể giữ thăng bằng được nữa.

“Cậu sao vậy Jiho?” - Ann lên tiếng lôi anh ngược trở về với thực tại.

Jiho hít một hơi thật sâu rồi nói.

“Mình sẽ về Hà Nội ngay, nhanh nhất có thể.”

“Cảm ơn cậu, mình sẽ chờ.” - Ann nói rồi cúp máy. Tiếng tút tút vang dài trong thinh lặng.

Một thông báo ngắn gọn, về cái chết của một người bạn cũ. Jiho lẳng lặng bỏ chiếc điện thoại trở lại, vài giây sau anh bèn nhấc lên và nhấn số. Anh gọi tới địa chỉ một phòng bán vé máy bay gần đây, đặt chuyến bay sớm nhất để trở về Hà Nội.

Jiho cũng không quên gọi điện về cho ba, dặn ông chuẩn bị nhanh cho anh vài thứ trước khi lên đường. Ngay sau đó, anh tức tốc bắt taxi, trở về nhà lấy hành lý.

***​

Jiho đề nghị người lái xe taxi đợi ở đầu ngõ. Anh vội vàng chạy vào trong nhà. Ba anh đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần cho một chuyến đi xa. Sẽ không có một lịch trình cụ thể nào đâu - khi nghe giọng nói có phần hốt hoảng trong điện thoại của con, ông đã phần nào nhận ra. Không hề tỏ vẻ thắc mắc, bởi lẽ ông cho rằng, con trai đã hai mươi sáu tuổi và nó đủ nhận thức để làm những điều đúng đắn cho bản thân.

Chiếc xe từ từ chuyển bánh hướng ra đại lộ, từ đó đi khoảng mười cây số thì sẽ tới sân bay Incheon. Jiho dặn tài xế tìm đường nào đi nhanh nhất. Người tài xế chẳng nói chẳng rằng, bẻ ngoặt vô-lăng quành sang con đường khác nhỏ hơn, lắt léo. Jiho chẳng hề biết đến con đường này trước đây, nhưng thiết nghĩ đi đường đó sẽ nhanh hơn; thế nên anh cứ phó mặc cho tài xế vậy. Điều anh cần nhất bây giờ chỉ là làm thế nào để trở về Hà Nội sớm nhất có thể - nơi mà ba năm trước, cũng trong thời điểm này, anh đã lần đầu đặt chân đến rồi lại ra đi với những vết thương không thể liền sẹo. Jiho chẳng muốn nghĩ nữa, cơn đau đầu có thể dễ dàng hạ gục anh bất cứ khi nào. Anh tựa đầu vào khung cửa kính, và nhắm mắt lại, cố gắng không suy nghĩ thêm bất cứ gì.

Tới một đoạn, xe đột ngột dừng lại, đèn đỏ. Đường sá dần trở nên đông đúc hơn. Những chiếc xe ô tô chầm chậm di chuyển về trung tâm thành phố như những hình khối đen sì và nặng nề, màn sương vẫn chưa tan hẳn. Anh thiết nghĩ, ngày hôm nay sẽ chẳng có một chút dấu hiệu nào của ánh nắng. Mặt trời vẫn trốn biệt sau lớp xam xám dày đặc kia.

Đèn chuyển xanh, xe đi tiếp; người lái xe tăng tốc. Bên ngoài trời bắt đầu mưa. Những vệt mưa chạy dài trên ô kính, xóa nhòa cảnh trí hai bên đường. Mười lăm phút sau, Jiho tới được sân bay quốc tế Incheon. Đông nghẹt người, những dáng hình nặng nề di chuyển. Mỗi người một tâm trạng, Jiho không dưng cảm thấy hơi choáng váng khi đứng thẳng người dậy; nhưng như mọi khi, anh lại cố gắng giữ mình bình tĩnh như chẳng hề có chuyện gì, tiến nhanh vào quầy làm thủ tục. Thủ tục nhanh gọn hơn anh nhớ; cũng phải, đã lâu rồi anh chưa rời khỏi Hàn Quốc.

Khoảng 7 giờ 55 phút, Jiho đã yên vị trên máy bay. Vị trí gần cửa sổ, nhưng anh chẳng thể nhìn thấy gì phía bên ngoài. Thời tiết quá xấu, hy vọng khi tới Hà Nội mọi thứ sẽ ổn hơn. Người tiếp viên xinh đẹp hỏi anh, có cần dùng một chút cà phê cho tỉnh táo hay không, hẳn cô đã thoáng thấy sự mỏi mệt trên gương mặt thiếu ngủ của anh. Anh lắc đầu từ chối. Anh cần ngủ một chút, và hy vọng khi tỉnh dậy thì đã tới Hà Nội. Vài năm trở lại đây, khi sân bay quốc tế Incheon được mở rộng, quãng thời gian từ Hàn Quốc sang Việt Nam cũng dần được rút ngắn. Nếu không có gì thay đổi thì khoảng hơn bốn giờ bay, Jiho sẽ sớm có mặt ở Hà Nội. Trước đó, anh đã tranh thủ nhắn vài lời qua mail cho Ann, áng chừng khoảng thời gian mình tới để cô có thể sắp xếp.

Nghĩ tới Ann, một cảm giác quặn thắt từ dạ dày khiến anh thấy đôi chút khó chịu, bởi lẽ anh chưa bao giờ có thể quên đi hình ảnh của cô. Có chăng anh đang kìm nén lại mọi thứ mà thôi. Anh nhớ có lần chị Dahlia đã nói rằng, anh là người không dễ gì bộc lộ cảm xúc cho người khác biết được.

Jiho thiếp đi trong mớ suy nghĩ hỗn độn của chính mình - một giấc ngủ không sâu, chỉ là thời điểm mà tâm trí trôi đến một khoảng không vô định và lưng chừng. Đây là lúc mà con người vẫn có thể nghe thấy mọi thứ đang diễn ra xung quanh, biết được nhưng lại không thể nhìn được - mơ tỉnh, một kiểu bất lực của cơ thể con người.

Jiho nghĩ mình đã trôi đi một khoảng khá xa, cho tới khi người tiếp viên đánh thức anh dậy, nhẹ nhàng thông báo, đã tới sân bay Nội Bài, Hà Nội. Chút gì đó ngạc nhiên và bối rối hiển hiện trong ánh mắt Jiho và anh thật sự mong rằng, cô tiếp viên không thấy sự kỳ cục đó. Anh vội nói lời cảm ơn, rồi nhanh tay với lấy hành lý của mình. Dòng người chầm chậm bước ra khỏi khoang bụng của con chim sắt khổng lồ.

Bước chân ra khỏi máy bay, một hơi lạnh phả vào gương mặt khiến anh thấy tê tái đôi chút, dẫu thời tiết mùa này ở Hà Nội dễ chịu hơn Seoul rất nhiều. Không quá lạnh, và may thay trời không có mưa.

Sân bay đông đúc hơn cả Incheon, hàng tá người nhộn nhạo ngược xuôi, tiếng cười nói, tiếng loa thông báo bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Jiho nghĩ, mình cần đi sửa soạn đôi chút trước khi có thể đối mặt với Ann; anh không thể để cho cô thấy bộ dạng kinh khủng của mình được. Nghĩ vậy, anh bước vào nhà vệ sinh. Trắng toát và vắng lặng. Trên trần nhà đang phát một ca khúc nhạc trẻ thịnh hành bằng tiếng Việt. Anh hiểu từng câu từ, nhưng mọi thứ lại trôi tuột trong tâm trí. Anh vục nước lên mặt, rồi chằm chằm nhìn mình trong gương một hồi lâu.

Jiho đảo mắt nhìn quanh một lượt giữa đám người ồn ào và chen chúc. Nhìn thấy Ann, anh cố lách người qua đám đông để đến gần cô. Cô ấy vẫn đứng đó, lặng thinh, dáng hình nhỏ nhắn, gương mặt phảng phất buồn, mái tóc buông thả tự nhiên. Ann bận trên mình một chiếc áo dạ dài màu đen, bên trong mặc chiếc áo len màu mận chát, chân đi bốt đen. Chẳng có gì khác biệt - Jiho trộm nghĩ sau một hồi vừa di chuyển vừa quan sát, cho tới khi anh đứng trước mặt cô. Ngay sau đó, hai người lách nhanh qua đám đông, ra phía bên ngoài quảng trường. Trời âm u một màu xám xịt. Cảnh trí vẫn buồn tênh.

“Cậu đợi lâu chưa?” - Mãi sau đó Jiho mới cất tiếng. Anh cảm thấy khó khăn trong chính cách phát âm của mình.

“Mình đợi một tiếng rồi, mình nghĩ cậu có thể tới sớm hơn.” - Ann đáp lại, cô nhìn thẳng vào mắt khiến Jiho thấy bối rối.

“Vì thời tiết xấu nên…”

“Mình hiểu mà.” - Ann chặn lại, không cần nghe lời phân trần nào.

Mọi tưởng tượng trước đó đều trở nên vô nghĩa, anh nghĩ, hoặc do mình đã hy vọng mọi thứ có thể khác. Giờ đây, khi đứng trước mặt Ann, anh biết rằng, thứ kết nối giữa hai người chỉ còn là những ký ức mà thôi. Vậy nên anh chọn cách im lặng, trong khoảng thời gian đợi xe taxi tới.

“Cậu sao rồi? Ý mình là cuộc sống ở bên đó?” - Ann lên tiếng.

“Mọi thứ đều ổn.” - Jiho đáp gọn lỏn, anh chẳng biết nói gì trong hoàn cảnh này, càng không đề cập tới Dahlia, dẫu trong lòng có quá nhiều thứ cần được giải đáp.

“Mình rất vui khi gặp lại cậu, Jiho à!” - Ann nói, sau khi xuýt xoa thành tiếng.

Jiho vẫn chẳng thể đoán được tâm trạng của Ann sau câu nói đó. Vẫn là con người ấy, nhưng giờ đây mọi thứ đều trở nên xa lạ, giữa hai người có một khoảng cách mà anh chẳng thể nào định nghĩa nổi. Có lẽ, Ann cũng thấy như vậy, thế nên, giữa họ giờ là một khoảng lặng im rất đáng sợ.

Taxi tới, hai người bèn lên xe. Cơn đau đầu đột ngột trở lại, nhưng Jiho gắng kiềm chế. Cũng may, Ann đang lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ nên không để ý mấy đến chuyện vừa xảy tới với người đang ngồi sát cạnh mình.

Chiếc xe băng qua cầu, nhà cửa, phố xá dần trở nên đông đúc hơn. Mọi thứ đều thay đổi nhưng Jiho vẫn cảm nhận chút gì đó thân thuộc, dẫu sao những hoài niệm vẫn còn sót lại ở nơi góc phố, trạm dừng xe buýt và cả những quảng trường lộng gió. Thứ đã qua đâu có nghĩa rồi sẽ vĩnh viễn mất đi!

Xe dừng trước một khách sạn trên đường Hoàng Hoa Thám. Ann đã đặt phòng trước, thế nên họ có thể giao hành lý cho nhân viên trực sẵn rồi quay trở lại xe, đi ngay. Xe vòng vèo qua nhiều con phố mà tạm thời Jiho chẳng thể nào nhận ra, phải chăng sau ba năm, mọi thứ đều đã đổi thay?

Ann thông báo thêm chút thông tin về cái chết của Dahlia.

“Chị ấy tự sát, trong phòng của một khách sạn nằm ven ngoại ô. Giờ, mình cũng chắng nhớ chính xác địa điểm, cũng chẳng ai báo cho mình.”

“Tại sao cậu biết?” Jiho hỏi lại.

“Một vài trang tin trên mạng đã đăng bài. Mình vô tình đọc được thông tin trên mạng, thế rồi mình tới, và...” - Ann ngừng lại, có thứ gì đó mắc nghẹn trong cổ họng cô, chực trào; nhưng cô không khóc, cố gắng kìm nén lại cơn xúc động mãnh liệt, dữ dội đang cuộn dâng trong lòng.

Lúc này xe đang đi qua một cây cầu vượt, nếu phóng mắt ra tầm xa thì chẳng thấy gì ngoài một không gian mênh mang, những cảnh vật xung quanh bị xóa sạch không còn chút dấu vết.

Bất giác, Jiho đặt tay lên vai Ann như thể để an ủi, dẫu anh chẳng biết mình có đang làm điều đúng đắn hay không. Bản thân anh giờ đây cũng chẳng ổn chút nào, mọi thứ tại sao lại trở nên như vậy? Phải chăng cuộc đời lại quá tàn nhẫn đẩy đưa một con người tới sự khốn cùng và kết thúc bằng một cái chết đớn đau nơi cô quạnh, không người thân thích.

“Trông chị ấy vẫn rất đẹp, không phải là thời kỳ hoàng kim trên sân khấu, nhưng mình cảm thấy chị ấy rất đẹp và chút gì đó bình an.” - Ann nói, có vẻ đã lấy lại được bình tĩnh.

Rồi, Ann khẽ mỉm cười; trong một khoảnh khắc hiếm hoi, Jiho thấy được hình ảnh thân thuộc của người con gái mà anh đã từng yêu say đắm. Anh không nói gì nữa khi Ann bảo cô cần chợp mắt một lát, vì quãng đường hẵng còn xa, chưa kể chuyện tắc đường ở Hà Nội vào giờ cao điểm. Anh liếc nhìn đồng hồ, đã hơn 1 giờ chiều. Ann ngả người ra sau ghế, đầu hơi ngoẹo về phía bên phải khung cửa kính. Sau đó, cô nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ ngắn ngủi của mình.

Xe tiến gần tới trung tâm thành phố, chừng mười lăm phút nữa sẽ đến nơi. Ann vẫn ngủ một cách ngon lành.

Jiho dùng tay day day hai thái dương mạnh tới nỗi tấy đỏ. Cơn đau vẫn chưa ngừng lại. Jiho chẳng biết Dahlia đã từng chống chọi với những cơn đau của chị như thế nào. Anh nhớ có lần Dahlia đã nói điều đó, nhưng không hiểu sao khi ấy anh lại chẳng để tâm tới; để giờ đây, khi mọi thứ đã xảy ra thì anh lại trở về với tâm trạng dằn vặt với hàng triệu từ ”giá như” cứ bật lên trong đầu... Jiho nhìn ra bên ngoài với hy vọng có thể quên đi những cảm giác bức bối trong lòng; nhưng nhìn dòng người bệu rệu buồn thảm ngoài ấy càng khiến anh thấy nặng nề hơn. Anh nhắm mắt, hy vọng cơn đau sẽ qua!

Xe vòng vèo qua những tuyến phố lớn, rồi tới phố nhỏ; cuối cùng đỗ trước một con ngõ vắng, nhác trông bẩn thỉu vô cùng - đống rác đầy ứ với túi nilon xanh đỏ đựng thức ăn thừa đã bắt đầu bốc mùi hôi thối. Jiho liếc nhanh nhìn lên phía trên, đám dây điện chằng chịt như mạng nhện. Bên cạnh anh, Ann đã tỉnh dậy. Hai người bước xuống xe. Không khí đột ngột trở nên lạnh lẽo, Jiho để ý ở đầu ngõ người ta đã treo cờ trắng đen - treo một cách vụng về, nghi thức.

“Nhà chị ấy ở bên trong, cuối con ngõ.” - Ann nói, rồi ra hiệu cho Jiho đi cùng mình.

Họ lẳng lặng bước vào. Càng đi sâu, họ càng nghe rõ âm thanh ai oán. Không phải tiếng khóc, là một bài kinh tụng được mở sẵn từ một máy chạy đĩa CD. Họ bước vào, không khí tang tóc, buồn thảm, nặng trịch bủa vây tất cả những ai có mặt. Jiho quét ánh mắt một lượt quanh không gian có phần u tối, không phải để nhìn mà là để làm quen với ánh sáng lờ mờ. Chẳng có mấy ai, cũng chẳng có ai ngạc nhiên khi thấy sự xuất hiện của hai người. Chỉ duy nhất một người phụ nữ khá trẻ - được Ann giới thiệu là chị họ của Dahlia - đi lại và đưa cho họ hai nén nhang đã châm sẵn. Mùi nhang trầm bốc lên, thoang thoảng thơm. Phía bên trên ban thờ, một bức ảnh chụp Dahlia, có lẽ do ánh sáng quá yếu mà Jiho không thể nào nhận ra gương mặt chị, chỉ là một phiên bản trống rỗng và vô hồn. Jiho không muốn nhìn nữa.

Họ được đưa tới phòng bên - nơi ít chật hẹp hơn - có linh cữu của Dahlia để cho người thân, bạn bè có thể nhìn chị lần cuối. Một quan tài bằng gỗ sơn màu nâu cánh gián bóng loáng được kê giữa gian phòng độc một khung cửa sổ đã bị đóng kín mít; một phần nắp quan đang để mở. Ann bước tới trước, mau lẹ cúi xuống nhìn rất nhanh, rồi đi ra ngay nhưng Jiho vẫn kịp nhìn thấy một giọt lệ vương trên khóe mắt cô.

Tới lượt Jiho, hít một hơi thật sâu, anh khẽ cúi đầu nhìn chị. Một gương mặt trắng nhách, ốm o và xanh xao; vài dấu vết đau đớn được che đi bằng cách phủ lên lớp hóa trang khéo léo. Trông chẳng giống người chết chút nào, Dahlia chỉ đang ngủ mà thôi - một giấc ngủ chẳng bao giờ tỉnh dậy - Jiho đã tự an ủi lòng mình như vậy. Anh nhắm mắt lại và mường tượng, khao khát được nhìn lại nụ cười mỉm của chị. Nhưng không, dẫu cho anh đã cố gắng lục lọi phần sâu thẳm nhất trong ký ức của mình, vẫn chẳng thấy đâu; đáp trả lại chỉ là những tiếng vọng từ một nơi xa xăm - giống hệt một tiếng thét nghẹn lại.

Jiho quay ra, ngồi xuống cạnh bên Ann và người họ hàng của Dahlia mà cả hai đã gặp ban nãy. Người phụ nữ nhìn anh, rồi rót một chén trà nóng, đẩy về phía trước Jiho.

“Việc chôn cất sẽ được tiến hành trong chiều ngày kia. Hai người có thể sắp xếp thời gian để tới tiễn đưa chị ấy.” - Người phụ nữ thông báo.

“Bọn em nhất định sẽ tới.” - Ann gật đầu đáp.

Người phụ nữ không nói gì, cũng không cười, ánh mắt đượm chút buồn; rồi vội vã đứng dậy bước ra ngoài đón khách. Ngoài đó là vài người trong trang phục cực kỳ lịch sự, đến cùng vòng hoa.

Jiho liếc mắt ra ngoài rồi cúi xuống, nhấp một mụm trà trong chén; mọi thứ đang trở nên lạnh ngắt, như lòng của anh lúc này vậy.

“Cậu định tính sao Jiho?” - Ann hỏi anh.

“Mình sẽ ở lại đây vài ngày trước khi về! Mình cần làm vài thứ.” - Jiho nói, cố giữ giọng bình tĩnh.

Ann im lặng, ánh mắt cô dán vào một khoảng không vô định. Lúc này, căn phòng đã đông người hơn. Những giọng nói thì thầm, tiếng bước chân chầm chậm, làn khói nhang vảng vất xung quanh.

“Xin cho hỏi, hai cô cậu có phải là Ann và Jiho?” - Một giọng nói xa lạ lôi hai người về với thực tại.

Ann ngước mắt lên nhìn; trước mặt cô là một người đàn ông có vóc dáng nhỏ bé, nét mặt nghiêm nghị, khắc kỷ.

“Ông là...” - Ann thắc mắc.

“Tôi là quản lý của Jacqueline. Bà ấy yêu cầu tôi tới gặp hai người.”

“Jacqueline?” - Jiho nhắc lại, không khỏi ngạc nhiên.

Người đàn ông nhanh chóng đề cập vào phần chính của câu chuyện, vẻ như đang hết sức vội vã. Ông ta thậm chí không buồn quan tâm đến cái liếc mắt của Jiho về phía đoàn người vừa xuất hiện, như tự hỏi có phải ông là một trong số họ. Ông đi thẳng vào vấn đề mình quan tâm.

“Hai người có thể đi cùng tôi tới một nơi được không?”

Jiho thấy được sự chân thành hiển hiện trên gương mặt không mấy biểu lộ cảm xúc đó. Anh hỏi.

“Nhưng là đi đâu mới được chứ?”

“Đi tới gặp một người.” - Ông ta đáp gọn lỏn.

“Jacqueline ư?” - Ann hỏi.

Ông ta gật đầu, rồi vội vàng đứng dậy, buông lại một câu rằng xe đỗ đầu ngõ và sẽ đi ra xe trước đợi hai người họ. Ann và Jiho chưa hiểu chuyện gì xảy ra; tuy nhiên, một lúc sau họ quyết định đi cùng người đàn ông lạ mặt. Một chiếc xe màu đen đỗ trước con ngõ vắng sẵn sàng đợi.

Người đàn ông lạ mặt đứng nghiêm nghị, hai tay duỗi thẳng, đặt chéo nhau phía trước người; rồi gương mặt giãn ra khi thấy Jiho và Ann đang tiến lại. Họ cùng nhau lên xe đểtới gặp một người - người mà Dahlia đã dành một phần tuổi trẻ của mình để mến mộ và yêu thương.

Xe chạy ra con phố lớn hơn. Dòng người vẫn đông đúc qua lại như thường lệ. Jiho khẽ liếc nhanh xuống chiếc đồng hồ trên tay mình. Đã gần năm giờ chiều, thời gian trôi nhanh hơn anh tưởng. Trời bắt đầu nhập nhoạng, phố lác đác lên đèn, rọi thứ ánh sáng vàng vọt hiu hắt, vương vãi khắp trên mặt đường loang loáng nước sau cơn mưa.

Jiho không nhớ chính xác lắm mình đã đi qua những tuyến phố nào; chỉ đến tận khi xe đỗ trước một con ngõ lớn nằm trên đường Trần Khát Chân, gần ngã t.ư giao với đường Lò Đúc và Kim Ngưu thì anh mới lờ mờ nhớ, đi thêm một đoạn nữa thì sẽ tới bờ đê sông Hồng. Người đàn ông nhỏ bé nhanh nhẹn xuống xe, mở cửa, ra hiệu cho họ xuống và đi theo ông ta. Con ngõ lớn đông đúc hàng quán bày la liệt, những chiếc ghế màu xanh đặt dưới những tán ô rộng, tiếng cười nói râm ran. Dễ dàng ngửi thấy mùi thức ăn đường phố đang bủa vây không gian xung quanh.

Họ đi theo người đàn ông cho tới khi dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng, cũ kỹ. Từng mảng sơn màu vàng đã bong tróc theo thời gian, phía trước nhà đặt hai cây kim đao cỡ lớn, vài chiếc lá đã héo rũ xuống, khô quắt lại. Góc phải khoảng sân nhỏ trước nhà đặt một hòn non bộ cỡ nhỏ, bên dưới rêu mọc xanh rì phủ kín bồn nước. Người đàn ông đẩy cánh cửa khép hờ, bước thẳng vào trong. Không gian đang tối như bưng, thinh lặng bị xé toang bởi mấy tia sáng hiếm hoi vừa lọt vào theo liếp cửa hé rộng dần ra.

Cả ba cùng bước vào; thứ mùi cũ kỹ xộc thẳng vào mũi tạo cảm giác thật sự khó chịu. Người đàn ông hơi ngoái đầu lại, rồi tiếp tục dẫn Jiho và Ann đi thẳng lên lầu. Chiếc cầu thang gỗ kêu cọt kẹt sau từng bước chân nặng nề. Hành lang tối om om lại bị chắn ngang bởi rất nhiều thùng các-tông khiến việc di chuyển của cả ba người khá khó khăn. Cuối cùng, họ dừng chân trước một căn phòng lớn - có lẽ là căn phòng duy nhất ở tầng hai - cửa mở he hé. Nếu lắng nghe thật kỹ, có thể nghe thấy một giai điệu nhạc Pháp dìu dặt ngân lên khe khẽ từ bên trong phòng.

Người đàn ông đẩy cửa bước vào. Không gian sặc mùi thuốc khử trùng và mùi thức ăn. Đèn vặn nhỏ nên gian phòng khá tối; Jiho và Ann chưa quen nên không thấy gì; đến khi người đàn ông bật công tắc thì cả hai thật sự ngạc nhiên. Giữa gian phòng, bên khung cửa sổ đóng kín mít, một người đàn bà nhỏ thó đang nằm im, vẻ như bất động. Trên cánh tay nhăn nheo là vô số những thứ dây nhợ chằng chịt, thậm chí phía bên cạnh giường còn có cả một số thiết bị y tế. Jacqueline đang nằm đó với giây phút cuối cùng của đời bà.

Jacqueline khẽ ngoái đầu lại, gượng cười khi nhìn thấy Ann và Jiho. Người đàn ông nhanh chóng tiến lại, khéo léo vòng một tay ra sau gáy, tay còn lại dựng chiếc gối trắng đã ố vàng đôi chỗ tựa vào thành giường rồi cho bà tựa người vào gối. Xong xuôi, ông lặng lẽ ra ngoài để cho ba người có không gian riêng trò chuyện.

Jacqueline ra hiệu cho Ann và Jiho cùng ngồi xuống hai chiếc ghế như thể đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Chưa ai vội nói gì, bởi lẽ trong lòng còn quá nhiều thứ bộn bề cần phải sắp xếp trước khi có thể bắt đầu một câu chuyện dài về cuộc đời của một con người đã kết thúc - điểm cuối của cuộc hành trình đầy nước mắt.

“Hai người đã tới đám tang của Dahlia?” - Jacqueline lên tiếng, thứ tiếng Việt rõ ràng theo năm tháng, nhưng phát ra từ một cổ họng khản đặc vì bệnh tật hành hạ. Hẳn bà đã rất khó khăn để có thể nói rõ từng từ.

Ann gật đầu đáp lại.

“Tôi rất tiếc, khi mọi thứ xảy ra quá nhanh. Chính bản thân tôi cũng không lường trước được chuyện đó. Khi tôi nhận ra... thì mọi thứ đã trở nên quá muộn màng.” - Jacqueline ngập ngừng.

Jiho nhận ra sự đau khổ khôn cùng đang hiển hiện trên gương mặt già nua ấy, nhất là trong ánh mắt - ầng ậc những xúc cảm không dễ để diễn tả bằng lời - nhưng bà đang cố gắng kìm nén nó lại.

“Chúng tôi cũng vậy.” - Ann lên tiếng - “Tôi phát hiện ra khi lướt đọc tin tức, sau đó tôi đã báo cho Jiho ngay. Và anh ấy tới đây.”

Jacqueline im lặng một hồi. Tận đến khi Ann hỏi bà có cần giúp gì không thì Jacqueline mới lắc đầu, cố gắng cử động cánh tay trái của mình như thể muốn xin chút thời gian để lắng mình lại, để suy nghĩ. Mãi một lúc sau, Jecqueline mới khó khăn lên tiếng.

“Không phải tự nhiên mà tôi mời hai người tới đây. Có vài thứ tôi cần trao lại cho hai người, từ Dahlia. Cô ấy không bảo tôi làm, nhưng có lẽ đây là tâm nguyện của cô ấy và cả của tôi. Dù gì thì tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Ung thư giai đoạn cuối… như hai người biết đấy.”

Jacqueline cười, rồi nói thêm rằng, người đàn ông ban nãy sẽ trao lại cho hai người vài thứ, sau khi họ rời khỏi đây. Gương mặt Jecqueline trở nên tái nhợt, như thể chỉ một chuyển động nhỏ cũng khiến bà gục xuống và tan biến.

Jiho để ý tới một chi tiết nhỏ trên cánh tay của Jacqueline, đó là một hình xăm - một bông hoa thược dược đang nở to, nhưng giờ, trên cánh tay già nua nhăn nheo đó, chỉ là sự héo úa, lụi tàn.

“Bà không tới chỗ cô ấy ư?” - Jiho lên tiếng, rồi im bặt ngay, cảm thấy hối hận sau câu hỏi có phần ấu trĩ của mình.

Jacqueline lắc đầu.

“Giờ thì tôi không thể, mà nếu có thì tôi cũng đâu đủ can đảm để nhìn lại gương mặt cô ấy. Không thể nào...”

Jacqueline lắc đầu cúi mặt, nhắm tịt mắt, người run lên từng hồi vì cơn xúc động dữ dội như muốn nghiến nát thân thể già nua, èo uột đang thoi thóp cho khoảnh khắc cuối cùng.

“Bà ổn chứ, Jacqueline?” - Ann lên tiếng lo lắng.

Jacqueline lắc đầu, bảo bà chỉ hơi xúc động một chút thôi, có vẻ chỉ là lời trấn an cho hai người trẻ tuổi chưa thật sự biết đúng về cái chết.

“Bà còn cần gì nữa không?” - Ann lại hỏi, câu nói như một lời tạm biệt.

“Cô ấy trông thế nào?” - Jacqueline nói rất chậm.

“Bình yên.” - Ann đáp lại, cũng rất chậm.

Jacqueline lại mỉm cười, gật đầu rồi nhấn chiếc chuông báo nằm ở phía bên tay phải của mình, cạnh bậu cửa sổ. Người đàn ông bước ngay vào rồi dẫn Jiho và Ann đi xuống dưới, trao lại cho hai người một chiếc túi giấy lớn, ngả vàng, được cố định bằng một sợi dây ruy băng màu cam nhạt.

Chiếc xe chở cả hai về khách sạn mà Ann đã đặt cho Jiho. Họ tần ngần đứng dưới sảnh; Jiho đề nghị và cả hai ngồi uống nước luôn ở đây. Không ai nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi đối diện nhau, nhìn ra cửa. Ngoài ấy, mưa đã tạnh rồi nhưng mọi thứ hãy còn sũng ướt!

Một lúc sau, họ mở chiếc túi mà Jacqueline trao lại cho hai người. Bên trong là những bức hình chụp ảnh nhóm The Town, từ ngày mới thành lập tới khi họ bước lên bục vinh quang. Ann chăm chú nhìn vào bức ảnh chụp bốn người, trông họ khi ấy có khác nào The Beatles huyền thoại, nếu như vậy thì cô sẽ là một George Harrison thứ thiệt. Cô thầm mỉm cười trước suy nghĩ của mình. Vẫn là Dahlia với nụ cười mỉm, hai tay đút vào túi quần vẻ tự tin, Lưu Ly xinh đẹp luôn tỏ ra kiêu sa, lạnh lùng mỗi khi chụp ảnh. Phía bên phải, Jiho đang khẽ đan tay mình vào tay cô. Họ đều đang mỉm cười. Họ đều đang hạnh phúc.

“Nhìn này, Ann!” - Jiho thốt lên, vẻ ngạc nhiên khi anh tìm thấy một chiếc hộp đựng đĩa CD, bề mặt bám đầy bụi.

Anh đẩy nó về phía Ann; cô vội vàng chộp lấy. Một trong những album sản phầm đầu tay của nhóm. Ann run run nâng chiếc hộp đĩa lên trước mặt, bốn gương mặt được vẽ cách điệu, phần nền màu vàng, còn phía dưới họ, một thành phố mênh mang đang trải rộng với những tòa cao ốc, những ngọn đèn, đại lộ ngoại vi lộng gió. Phía trên đầu là bốn vì sao đang tỏa sáng rực rỡ.

“Những ngôi sao trong thành phố.” - Ann thì thầm từng từ trong miệng.

Mắt chực nhòa đi, cô không nhìn thấy Jiho nữa, những thanh âm bị đánh bạt đi một khoảng cách quá xa. Một nhiễu đoạn âm thanh giống như ai đó dùng tay để dò chỉnh tần số; tiếng rè rè vang lên đột ngột trước khi mọi thứ trở về như ban đầu, trở về với thuở ấy, trở về với khúc ca tuổi trẻ họ đã có với nhau.
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG II

GẶP GỠ

Jiho lẳng lặng đi vào phía trong nhà, ngoan ngoãn làm theo sự chỉ dẫn của người phụ nữ đã đứng tuổi, có dáng hình thấp bé, hơi đậm người. Bà chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên gì trước giọng nói có phần hơi lơ lớ của anh, dẫu cho khi học ở trường, Jiho được các giáo viên trong khoa đánh giá là một trong những sinh viên có khả năng nói tiếng Việt lưu loát. Tuy nhiên, đôi khi một số vấn đề đơn giản chỉ nằm trên giấy tờ, hay nói một cách khác, chẳng có gì ngoài một mớ lý thuyết hỗn độn. Còn giờ đây, bản thân anh đang ở một đất nước xa lạ, một môi trường khác so với những gì anh đã từng sinh sống. Thú thực anh đã có những giây phút ngỡ ngàng khi vừa đặt chân xuống Hà Nội.

Người phụ nữ dừng lại trước cửa một gian phòng khá nhỏ nằm trên tầng ba của một tòa nhà đã có phần cũ kỹ, nằm sâu trong con ngõ nhỏ trên trục đường Nguyễn Trãi. Lý do anh quyết định thuê căn phòng này, đơn giản chỉ là gần trường học và giá cũng khá mềm. Jiho nghĩ, mình có thể xoay xở được mọi thứ ở đây mà không cần tới sự giúp đỡ nào - thế hệ thanh niên sinh ra ở Seoul vào những năm cuối thập niên 80 luôn biết cách đương đầu với cuộc sống tự lập một mình. Đó cũng là lý do ba không hề phàn nàn hay phản đối gì về quyết định sang Việt Nam học tập của anh lần này, hơn cả là một trải nghiệm của tuổi trẻ, ở một đất nước mà ông đã từng sinh ra.

“Đây là phòng của cậu.” – Người phụ nữ thông báo ngắn gọn, lúc này Jiho mới nhận ra sự điềm tĩnh hiếm có trên gương mặt không chút biểu lộ cảm xúc của bà.

“Cầm lấy chìa khóa đi, mọi thứ bên trong đều đã đầy đủ cả, tôi nghĩ cậu không cần sắm thêm thứ gì, và có thể dọn tới ở ngay.” – Người đàn bà nói một tràng dài, Jiho nghe tiếng mất tiếng được, có lẽ do bay đường dài không kịp nghỉ ngơi đã khiến anh thấy mệt mỏi vô cùng. Giờ đây anh chỉ muốn ngả mình xuống giường và đánh một giấc thật dài và sâu.

Anh bối rối đáp lại người phụ nữ.

“Cháu cảm ơn bà!”

Người đàn bà không cười, không nói, mặt chẳng chút biểu lộ cảm xúc. Đoạn, bà đưa cho Jiho chìa khóa rồi lanh lẹ rời đi, bỏ anh lại trong hành lang nhập nhoạng, tranh tối tranh sáng như buổi chiều tàn. Khẽ thở dài trong bóng tối, Jiho uể oải tra chìa khóa vào ổ, vặn mở. Căn phòng nhỏ chào đón anh bằng thứ mùi cũ kỹ và lạ lẫm. Nghĩ bụng, mình phải dành một khoảng thời gian chừng nửa ngày để dọn dẹp sạch sẽ nơi này, nơi sẽ gắn bó với anh trong vòng hai năm sắp tới.

Tạm bỏ đống hành lý sang bên cạnh chiếc giường đã trải nệm, sau đó anh ngả lưng xuống giường, sự mệt mỏi tạm thời thiêu rụi tâm trí. Giấc ngủ mau chóng tới, không một chút mộng mị.

Chẳng nhớ là anh đã ngủ được bao lâu trên chiếc giường bé nhỏ, kêu cọt kẹt mỗi khi cử động. Một tiếng động kỳ lạ đã đánh thức anh dậy, đinh ninh nghĩ rằng, đó là tiếng động do một con mèo hoang gây ra trên mái nhà. Vội nhỏm người dậy, thoáng hoảng hốt, chợt anh cảm thấy xa lạ, vì cứ ngỡ mình vẫn đang ở trong căn nhà nhỏ bé thuộc quận Seocho-gu, Seoul. Mất một hồi lâu anh mới nhận ra mình đang ở căn gác nhỏ, tăm tối ở Hà Nội, cách Seoul hàng ngàn cây số.

Lúc này, các giác quan trên cơ thể anh dần dần được đánh thức. Mắt quen với bóng tối, anh nhận ra căn phòng với chiếc cửa sổ duy nhất đóng kín mít. Còn cánh cửa thông ra hành lang nhỏ thì đang khép hờ, một dải sáng yếu ớt lọt qua khe hở, những hạt bụi lửng lơ bay trong đó. Anh chẳng biết là đã bao nhiêu tiếng đồng hồ trôi qua, đã ngủ được bao lâu rồi, nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo trên tay mình, thì đã gần 7 giờ tối. Vậy là anh đã ngủ được gần 5 tiếng đồng hồ rồi.

Jiho vươn vai, cảm thấy người đau nhức vô cùng. Đầu óc thì nặng trịch, mụ mẫm. Anh nghĩ mình cần phải đi tắm cho nhẹ nhõm. Nghĩ vậy, anh lọ mọ tiến về phía cửa chính, lần mò công tắc, bật sáng đèn. Ánh sáng lan tỏa khắp gian phòng bé nhỏ, khi ấy anh mới có cơ hội chiêm ngưỡng trọn vẹn căn phòng nhỏ của mình. Đồ đạc chẳng nhiều nhặn, chiếc giường nhỏ với ga trải giường đã ngả màu cháo lòng, nằm gần khung cửa sổ. Phía đối diện là một tủ đựng quần áo màu cánh gián vẫn còn mới, thơm mùi sơn. Một giá để giày dép được đặt ngay ngắn bên góc phòng, một chiếc bàn nhỏ kê gần cửa thông ra hành lang đặt vài chậu cây nhỏ đã héo rũ, còn bên trên tường có gắn một giá sách trống không. Jiho tạm thời hài lòng với những gì vừa thấy.

Sau đó anh lẳng lặng bỏ hết đống quần áo vào trong chiếc tủ, để giày dép ngay ngắn bên giá, rồi đi tắm, làn nước ấm áp khiến cơ thể thấy dễ chịu hơn bao giờ. Tắm xong, anh cảm thấy hơi đói bụng nên đi xuống phố ăn bữa tối, tiện thể sắm thêm một vài đồ dùng cá nhân.

Thời tiết Hà Nội đầu tháng Mười chưa lạnh rõ rệt như ở Seoul. Anh chỉ bận trên người một chiếc áo dài tay, chân mang thêm một đôi giày thể thao. Bước dọc hành lang của tòa nhà, anh dễ dàng ngửi thấy mùi thức ăn đang lan tỏa khắp không gian. Con ngõ khá nhộn nhịp với nhiều hàng quán, chủ yếu là bán đồ ăn nhanh. Anh nhanh chóng tìm thấy một cửa hàng tiện ích tự chọn ở đầu ngõ. Đồ bán khá phong phú, anh nhanh chóng lựa chọn vài món đồ cần thiết cho sinh hoạt thường ngày.

Jiho trở về nhà khoảng một giờ sau đó khi bụng đã no. Đi dọc hành lang tăm tối, giờ anh mới để ý tới sự cũ kỹ của những tòa nhà này, có nét gì đó giống với những ngôi nhà đã được xây dựng từ những thập niên trước ở Hàn Quốc. Thường thì người ta sẽ phá đi và thay thế vào đó bằng những hạng mục công trình hiện đại hơn, tuy nhiên ở nhiều chỗ, người ta vẫn tận dụng để cho sinh viên, người lao động nghèo thuê với giá rẻ, dù gì thì mọi thứ vẫn chưa hẳn là tồi tệ. Jiho để ý thấy có khá nhiều hộ gia đình nhỏ đã chuyển tới đây; khi đi dọc hành lang tầng ba, một người phụ nữ trẻ bế con có chào anh. Anh bối rối đáp lại, thú thực, đôi khi phản xạ ngôn ngữ của anh chưa thực sự tốt lắm.

Mở cửa vào phòng, bật sáng đèn, anh tạm bỏ đống đồ mới mua lại trên giường, còn mấy chai nước suối thì bỏ vào chiếc tủ lạnh mini đặt trong phòng bếp. Thử kiểm tra thì tủ chưa được nối điện, Jiho loay hoay một hồi mới khiến tủ hoạt động bình thường. May thay tủ còn mới, anh chỉ phải lau chùi một chút. Đoạn, Jiho bỏ mấy chai nước vào trong tủ, bỏ lại một chai, tiến gần về phía chiếc bàn. Mở toang cửa sổ, từ đây anh chỉ nhìn thấy một khoảng trời be bé hiện ra bằng cái mâm, còn tứ phía xung quanh bị bao vây bởi những bức tường xám đục, ảm đạm. Anh dự định sẽ viết cho ba một bức mail, nhưng thiết nghĩ, mọi thứ hãy để vào ngày mai.

***​

Jiho tới trường đại học để làm thủ tục nhập học vào ngày thứ Hai, tuần đầu tiên của tháng Mười. Trời vẫn chưa trở lạnh, nên thời tiết dễ chịu hơn. Đôi khi dễ dàng bắt gặp một cơn mưa rào bất chợt đổ xuống khiến mọi thứ trở nên lắng lại ì ạch. Mọi thứ thuận lợi hơn anh tưởng khi được các giáo viên trong khoa nhiệt tình giúp đỡ.

Vào một buổi sáng trong lành hơn thường lệ, bên chiếc bảng dùng để dán thông báo, áp-phích quảng cáo, một hình ảnh đã thu hút Jiho, khiến cho anh không thể nào rời mắt đi được. Trên áp-phích là hình ảnh một chiếc ghi-ta nhỏ xinh được cách điệu, bên dưới ghi ngay ngắn dòng chữ “Câu lạc bộ ghi-ta đang chiêu mộ thành viên mới. Hãy mau chóng đăng ký.” Bên dưới nữa là dòng chữ ghi rõ địa điểm, ngày giờ mà các thành viên nộp hồ sơ. Jiho nhanh chóng ghi thông tin vào trong cuốn sổ nhỏ. Khi ấy, tâm trạng anh háo hức hơn thường lệ.

Trở về nhà, anh nhận được email hồi đáp của ba, chẳng có gì, chỉ vỏn vẹn vài dòng hỏi thăm như thường lệ, cũng không dặn dò một lời. Ông luôn kiệm lời như thế kể từ ngày mẹ Jiho mất. Đôi khi anh chẳng thể nhớ nổi chuyện mẹ đã ra đi như thế nào, chỉ nhớ hồi đó anh đang học cấp III, khi đang ở trong lớp thì cô giáo chủ nhiệm gọi anh ra và nói với anh. Ba trở nên lầm lũi như một cái bóng kể từ hồi đó; ba để cho anh tự quyết định, chọn lựa và ông không bao giờ can thiệp quá sâu vào những chuyện riêng t.ư. Đôi lần, anh đã thầm trách móc ba chuyện đó, rằng ông không thực sự quan tâm tới mình, nhưng dần dà về sau Jiho càng hiểu được sự hy sinh thầm lặng mà ông đã dành cho anh suốt quãng thời gian trưởng thành. Đôi khi yêu thương không cần phải nói những lời quan tâm mà tự bản thân mình cho là sáo rỗng, không cần thiết - anh luôn tâm niệm như vậy.

Jiho đương suy nghĩ vẩn vơ thì một tiếng đổ vỡ lôi anh trở lại với căn phòng bé nhỏ. Đèn vẫn chưa bật, anh hoảng hốt nhìn quanh xem chuyện gì vừa mới xảy ra. Từ phía nhà bếp, anh vội vàng nhận định, nhanh chóng bật đèn rồi từ từ bước vào. Một chiếc chai thủy tinh rơi từ trên bệ bếp xuống, vỡ tan tành; những mảnh thủy tinh nhỏ rơi tung tóe, vương vãi khắp sàn phòng. Anh nhanh chóng tìm ra thủ phạm; ở phía góc nhà, một cặp mắt màu xanh huyền bí đang chằm chằm nhìn với vẻ mặt vô cùng thảm hại. Thở phào nhẹ nhõm, Jiho mỉm cười, hóa ra chỉ là một con mèo hoang, tội nghiệp, và vẻ như nó đang đói, bị phát giác trong lúc tìm kiếm đồ ăn.

“Mày đói phải không?” – Jiho lên tiếng. Con mèo vẫn nhìn anh chằm chằm như thể hiểu được những gì đang nói. Nhưng nó vẫn bất động một chỗ, vẻ như dè chừng quan sát đối phương một cách thận trọng nhất. Đúng là tinh ranh, Jiho bật cười.

Sau đó, anh chạy ngay về phía tủ lạnh, lấy ra chút thức ăn nhanh vừa mua ban chiều ở siêu thị. Trút thức ăn ra đĩa, Jiho đẩy về phía con mèo. Ban đầu còn e dè nhưng con mèo dần dần tiến lại, dùng mũi ngửi ngửi, rồi bất ngờ ăn lấy ăn để, có lẽ vì đói. Jiho tiến gần tới con mèo vuốt ve trong khi nó ăn, thầm nghĩ, từ giờ cuộc sống của anh sẽ bớt đơn điệu hơn khi có thêm một người bạn nhỏ.

***​

Câu lạc bộ ghi-ta trường Đại học Hà Nội họp mặt ra mắt thành viên vào hôm nay, sau giờ học buổi chiểu. Gã chủ nhiệm câu lạc bộ tên Vinh đã nhắn tin cho Jiho; anh rất ấn tượng với gã vào hôm phỏng vấn. Tóc búi củ hành, để râu quai nón được tỉa tót gọn ghẽ, và lúc nào cũng mang theo một cặp kính màu đen, họa hoằn lắm mới thấy gã bỏ kính để lộ đôi mắt nhỏ hơi xếch.

Jiho tới điểm hẹn sớm hơn bình thường. Đó là một quán cà phê có không gian mở khá rộng rãi nằm trên trục đường Trần Phú. Một nhóm người đã có mặt để chuẩn bị cho buổi ra mắt, tấm phông nền được trang trí đơn giản gồm logo của câu lạc bộ được dựng lên với vỏn vẹn dòng chữ “Ra mắt thành viên mới câu lạc bộ ghi-ta trường Đại học Hà Nội”.

Jiho lặng lẽ chọn cho mình một chỗ ngồi phía bên phải sân khấu, khoảng chừng 30 phút sau, mọi người đã có mặt đông đủ, anh nhận ra một vài người quen đã gặp hôm phỏng vấn. Gã chủ nhiệm tên Vinh cũng đã có mặt, hôm nay hắn bận một bộ đồ đơn giản với áo phông họa tiết rằn ri, quần kaki màu be, chân mang đôi sneaker màu trắng, Jiho để ý gã không còn đeo cặp kính nữa mà quay ngược về phía sau gáy. Gã xuất hiện, một tràng pháo tay nổi lên, kèm theo tiếng huýt sáo và tiếng cười vui vẻ. Gã nở một nụ cười lấy lệ rồi mau lẹ bước lên sân khấu. Sau một bài phát biểu ngắn gọn về câu lạc bộ, gã gọi tên từng thành viên mới theo danh sách, lần lượt từng người sẽ đứng dậy, giới thiệu đôi chút về bản thân. Tới lượt Jiho, tim đập nhanh hơn thường lệ, có lẽ một vài người đã nhận ra sự bối rối hiển hiện trên gương mặt, nhưng rất nhanh sau đó, anh lấy lại sự bình tĩnh vốn có. Jiho bắt đầu giới thiệu đôi điều về bản thân, vì không được chuẩn bị từ trước nên đôi chỗ vấp váp, nhưng cuối cùng vẫn xong. Tiếng vỗ tay rộ lên, anh cúi đầu cảm ơn rồi lặng lẽ ngồi xuống. Jiho cũng nhận ra trong câu lạc bộ không chỉ có mình anh là người ngoại quốc, mà bao gồm những người bạn tới từ các nước khác như Nhật, Úc và Trung Quốc.

Giao lưu văn nghệ có lẽ là phần được mong đợi nhất. Gã chủ nhiệm mở màn bằng một ca khúc của The Eagles mà Jiho tạm thời chưa nhớ tên, màn trình diễn được mọi người hò hét hưởng ứng, gã sở hữu một giọng ca trầm, dày rất đặc trưng. Lúc này, sự chú ý của Jiho không phải dành cho gã mà là một cô gái nhỏ nhắn đang ngồi đệm đàn bên cạnh gã. Những ngón tay trắng trẻo, nhỏ xinh uyển chuyển trên dây đàn, vừa đệm đàn cô vừa lắc lư theo những giai điệu khi trầm lắng, khi vút cao của The Eagles.

Gã mỉm cười cảm ơn sự cuồng nhiệt của mọi người, rồi sau đó giới thiệu một thành viên kì cựu trong câu lạc bộ, người mà sau này sẽ có buổi hướng dẫn các thành viên mới bắt đầu học đàn - không ai khác, người đó chính là cô gái nhỏ nhắn ban nãy đã đệm đàn cho gã hát. Cô gái đứng dậy, cầm đàn theo. Một vài người di chuyển chiếc ghế cao hơn, có gắn kèm thêm mic hát. Cô không nói gì mà ngồi ngay vào ghế, quay sang phải ra hiệu cho bộ phận âm thanh phía sau. Nhẹ nhàng chỉnh lại mic, cô khẽ nở một nụ cười dịu dàng. Những giai điệu cất lên, ngón tay nhỏ xinh xắn gẩy những thanh âm trong trẻo đầu tiên, rồi cô bắt đầu hát. Cả khán phòng im lặng. Jiho chăm chú nhìn cô, cả thân thể bị đánh dạt đi một khoảng cách khá xa mà khi ấy anh chẳng thể cảm nhận được không gian mình đang đứng. Anh nghĩ, nếu như nhìn xung quanh thì chẳng thể nhìn thấy gì ngoài bản thân, còn trên sân khấu ấy, dưới ánh đèn pha rọi xuống tạo thành một hình tròn, cô gái ấy vẫn hát, say sưa, mắt nhắm nghiền, phiêu theo những giai điệu của tự do, của hạnh phúc.

Tiếng vỗ tay rào rào của mọi người trong khán phòng lôi anh về thực tại. Không có sân khấu nào với ánh đèn pha rọi xuống cả, chỉ là anh đang tưởng tượng mà thôi. Có lẽ, chính giọng hát, phong thái của người con gái ấy đã thu hút khiến anh đắm chìm vào mộng tưởng, trong thoáng chốc. Cô gái gật đầu cảm ơn mọi người, không quên nở một nụ cười mỉm, kín đáo rồi lui về phía bên phải cánh gà, bước xuống. Jiho dõi theo dáng hình cô, trong một giây suy nghĩ, anh quyết định rời khỏi chiếc bàn đang ngồi.

Cô gái đang ngồi bên một chiếc bàn nhỏ, đặt gần cuối khán phòng, bên cạnh là một khung cửa kính nhìn xuống một phần thành phố đang trở nên lung linh, nhộn nhịp hơn về đêm. Cảnh tượng đó khiến Jiho khựng lại, như thể có thứ gì đã vô hiệu hóa mọi chuyển động của anh, chết trân. Người phục vụ tiến nhanh về phía bàn, cô không nhìn menu mà gọi ngay một loại đồ uống gì đó. Jiho hít một hơi thật sâu, rồi từ từ tiến về phía chiếc bàn. Cô gái đang lơ đãng nhìn về phía khung cửa mà không biết rằng có một chàng trai dáng hình dong dỏng cao đang đứng ngay gần cô, hệt như kẻ đang thực hiện một hành động vô cùng ngu ngốc. Jiho nghĩ mình không còn lựa chọn nào khác, anh bắt đầu lên tiếng, thật khó khăn khi phát ra những thanh âm đầu tiên, như thể đang bị chặn đứng nơi cổ họng.

“Mình...”

Cô gái bèn quay ngoắt lại khi phát hiện ra có người đang ở gần mình, ánh mắt không khỏi ngạc nhiên. Cô bèn cất tiếng hỏi:

“Cậu là?”

“Jiho. Mình có thể ngồi đây một lát được không?” – Cuối cùng anh cũng nói trọn vẹn một câu hoàn chỉnh.

Cô gái thoáng cười, không hề tỏ ra ngần ngại.

“Được chứ! Cậu là thành viên mới trong câu lạc bộ?” – Cô hỏi.

Jiho liền gật đầu.

“Mình là thành viên mới. Mình mới gia nhập. Mình thực sự rất thích bài hát của cậu.”

Jiho đỏ chín mặt khi cảm thấy mình đang nói thứ tiếng Việt kỳ cục. Là giọng hát chứ không phải bài hát. Anh định đính chính, nhưng khi ấy, cô gái không cho anh có cơ hội sửa sai, có lẽ cô cũng nhận ra nên chỉ tủm tỉm cười.

Lúc này, người phục vụ mang ly nước ra, đó là một thứ nước có màu đỏ chói. Cô gái lên tiếng:

“Cậu mới tới Hà Nội sao? Nhìn cậu không giống, ý mình là người Việt.”

“Mình là người Hàn Quốc, mới tới đây được... khoảng gần một tháng.”

Cô gật gù, chưa vội nói mà khẽ nâng ly nước lên nhấp một mụm nhỏ.

“Mình là Ann, thành viên cũ của câu lạc bộ. Rất vui được quen cậu, Jiho.” – Cô gái nói với giọng điệu vô cùng tự tin.

Jiho khẽ nhìn Ann, rồi tỏ vẻ thắc mắc, khi ấy anh phần nào đã lấy lại sự bình tĩnh của mình; vốn dĩ, Ann cũng là một người khá thân thiện.

“Cậu cũng không phải người ở đây, ý mình là người Việt Nam, trông cậu...” - Jiho hơi ngập ngừng.

Ann bèn lên tiếng ngắt lời:

“Ý cậu là mình không giống như những người khác đúng không, như về đôi mắt chẳng hạn.”

Jiho gật đầu. Ann thú nhận:

“Ba mình là người Pháp, mẹ mình là người Việt. Có lẽ mình vẫn thừa hưởng chút gì đó từ ba, dù mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt ông.”

“Chưa bao giờ?”

Ann gật đầu xác nhận, chút đượm buồn thoáng qua ánh mắt, nên Jiho không thắc mắc thêm nữa.

“Mình cũng không hoàn toàn một trăm phần trăm Hàn Quốc. Ba mình là người Việt, lâu rồi ông chưa về Việt Nam.” – Jiho nói.

Ann ngạc nhiên, rồi cô ấy nói, ít ra là chúng mình cũng có một điểm chung đấy, và khẽ mỉm cười.

Buổi giao lưu kết thúc ngay sau đó, gã chủ nhiệm đột nhiên xuất hiện làm ngắt quãng cuộc trò chuyện của hai người. Gã gật đầu chào Jiho, rồi ghé vào tai Ann thì thầm điều gì đó vẻ như bí mật, rồi cô bèn quay lại Jiho và nói:

“Giờ mình có việc phải đi ngay, hẹn gặp cậu vào buổi sinh hoạt câu lạc bộ nhé, Jiho.”

Gã chủ nhiệm nắm lấy bàn tay cô lôi đi, lẫn trong đám đông nhộn nhạo. Jiho đứng như trời trồng, anh còn chưa kịp nói lời tạm biệt mà.

Trở về nhà thì đã gần chín giờ tối, bụng không cảm thấy đói nên anh tính sẽ chẳng ăn gì mà có thể đi ngủ luôn. Jiho khẽ liếc nhìn về bát thức ăn của con mèo, nó vẫn chưa về, mọi thứ còn nguyên xi. Anh cũng không buồn bật máy tính lên để xem hôm nay ba có gửi thêm email nào không, thú thực là anh vẫn chẳng biết nói gì. Tâm trí anh lúc này chỉ nghĩ đến dáng hình nhỏ bé cùng nụ cười mỉm đầy tự tin ấy mà thôi.

***​

Ann lẳng lặng tiến vào giảng đường, trên vai quàng thêm chiếc đàn ghi-ta. Phía bên dưới, những thành viên mới đã có mặt đông đủ, trong đó có Jiho. Giây phút Ann xuất hiện khiến anh cảm thấy tâm trạng mình vừa bối rối vừa phấn khích lạ thường. Ann quét mắt một lượt quanh gian phòng rồi cúi chào mọi người. Hầu hết các thành viên mới đều chưa biết sử dụng ghi-ta, trừ Jiho và một, hai người nữa. Anh đã tự học ghi-ta từ năm cấp ba nên cũng biết chút đỉnh, vì thế mà dễ dàng làm quen với mọi thứ.

Trong khi đó, Ann đang mải mê hướng dẫn những người chưa biết, và dường như cô không nhận ra Jiho – người mà cô đã trò chuyện vào buổi tối hôm nọ, có lẽ chẳng chút nào ấn tượng để lại trong cô chăng? Những suy nghĩ ngổn ngang, cùng hàng chục câu hỏi tại sao xuất hiện trong đầu.

Jiho chăm chú nhìn cô từ đầu tới cuối, thảng hoặc, ánh mắt cô đột nhiên chạm vào ánh mắt anh khiến anh bối rối, cúi gằm mặt xuống, hai tai nóng bừng bất thường.

Buổi học đầu tiên của câu lạc bộ nhanh chóng kết thúc, vì thông thường sẽ chỉ dành hai giờ đồng hồ cho việc tập ghi-ta. Ann lẳng lặng cầm theo cây đàn ghi-ta rồi nhanh chóng rảo bước về phía hành lang. Thấy vậy, Jiho vội đi theo như thể anh đang theo dõi cô, định gọi lại nhưng chẳng hiểu thứ gì khiến cổ họng nghẹn ứ. Anh không muốn biến mình thành kẻ ngốc như lần trước nữa. Rồi đột ngột, Ann dừng lại, ngoảnh mặt về phía sau nhìn chằm chằm vào Jiho. Bị bắt quả tang nên anh cảm thấy ngượng ngùng vô cùng, ước gì có cái hố nào để có thể chui xuống phía dưới, Jiho trộm nghĩ.

“Cậu muốn đi uống chút gì không? Jiho!” – Ann cất tiếng, vẫn không thôi nhìn chằm chằm vào Jiho.

Anh chỉ đợi có thế rồi nhận lời đồng ý ngay. Hai người chọn một quán ăn vỉa hè gần khu vực trường đại học Hà Nội. Trời vừa mưa xong nên tiết trời bỗng trở nên se lạnh, mặt đường loang loáng nước. Đó là một quán nướng ven đường với đầy đủ các món nhậu.

“Cậu uống được rượu không?” – Ann hỏi.

“Một chút thì được.” – Jiho bèn đáp lời.

Rồi Ann mau lẹ gọi món, không quên gọi thêm một chai rượu. Ann rót rượu từ chiếc chai trong suốt ra hai cái chén nhỏ. Ngày còn ở Hàn Quốc, thi thoảng anh cũng cùng ba uống rượu vào một ngày gió lạnh về. Ann chẳng nói chẳng rằng, nhanh chóng đưa cốc rượu lên miệng nốc một hơi ngon lành, mặt dãn ra vẻ như sảng khoái vô cùng.

Jiho nhìn cô ái ngại, rồi Ann liếc nhìn anh như thắc mắc, sao vẫn chưa uống. Thấy thế, Jiho đưa chén lên miệng, nhấp một mụm nhỏ, rượu cay xè, nhưng khi trôi qua cổ họng thì lại thấy ấm áp khác thường.

“Cậu... cậu có chuyện gì sao?” – Jiho hỏi.

“Chuyện gì ư?” – Ann nhướng mày ngạc nhiên nhìn anh.

Jiho hít một hơi khẽ rồi bắt đầu nói:

“Thông thường khi người ta gặp phải chuyện gì đó thì mới đi uống rượu, và nhất là với người lạ.”

“Người lạ ư? Cậu coi mình là người sao?”

Dù gì thì Ann và Jiho mới có nói chuyện một lần.

Anh chưa vội nói, sự tự tin của Ann đang lấn át khiến Jiho thấy bất ngờ và có phần bối rối.

“Mình chỉ trêu cậu chút thôi, người Việt Nam thường có câu ‘Trước lạ sau quen’ mà. Còn chuyện tự dưng mình rủ cậu đi uống cũng chẳng có lý do gì to tát, chỉ là sự ngẫu hứng thôi. Thi thoảng mình cũng hay đi uống một mình mà.”

Rồi Ann mỉm cười, đoạn, cô tiếp tục rót rượu ra chén của mình, uống một hơi cạn sạch.

“Mình rất thích cách hát của cậu hôm nọ, cân bằng được giữa kỹ thuật hát và cảm xúc. Thú thực là mình chẳng thể diễn tả sao cho trọn vẹn. Tiếng Việt của mình chưa thực sự tốt. Cậu biết đấy!” – Jiho thú nhận.

“Cảm ơn Jiho. Cậu nói tốt hơn bất cứ người ngoại quốc nào mình đã từng gặp, mà cậu cũng mê hát sao?”

“Chỉ một chút, nhưng mình thích viết các ca khúc hơn.” - Jiho trả lời.

“Sáng tác nhạc ư?” – Ann ngạc nhiên hỏi lại.

Jiho gật đầu mỉm cười, anh cũng đưa chén rượu lên miệng, uống một hơi cạn sạch.

“Country rock, đôi khi là pop rock.”

“Thú vị thật, mình cũng mê dòng nhạc đó.”

“Chính vì thế mà cậu thường chọn Elvis và The Beatles ư?”

Ann gật đầu, im lặng. Hai người tiếp tục trò chuyện, về âm nhạc, những thần tượng của họ, giai điệu hay lời bài hát. Jiho cảm thấy chưa bao giờ mình nói nhiều như thế, thứ ngôn ngữ xa lạ dần dần trở nên quen thuộc. Và đâu đó, cảm giác lạc lõng, cô độc đã dần vơi bớt đi trong anh. Một phép màu kỳ diệu đến từ người con gái trước mặt.

Jiho thấy chếnh choáng khi bước đi bên đường phố đã trở nên vắng lặng, sau khi họ nhậu xong. Khẽ liếc nhìn sang Ann, dường như vẫn không suy chuyển gì, lúc này anh mới để ý thấy Ann có mái tóc dày, búi hơi cao, để lộ cổ nhỏ nhắn. Cô vừa đi vừa âm ư theo một giai điệu nào đó. Trời về khuya, hơi se lạnh, Jiho ước đoạn đường từ quán nhậu về căn phòng của mình sẽ dài hơn, để họ có thể tiếp tục nói về những cánh đồng dâu tây của The Beatles, hay khách sạn California của The Eagles, về tuổi trẻ. Tuy nhiên, căn nhà trọ đã hiện ra trước mặt khiến anh thấy đôi chút hụt hẫng.

“Tới đây thôi...” – Ann nói như thể cô biết chỗ ở của Jiho... – “Mình rất vui vì cậu đã đồng ý đi cùng mình mà không thấy ái ngại.”

“Mình cũng thế.” – Jiho nói, vẫn tần ngần đứng trước mặt cô như muốn nói điều gì to tát lắm, nhưng chẳng thể. Tạm biệt cậu, hẹn gặp lại, anh nói thêm.

Ann mỉm cười, rồi vội vàng quay đi. Jiho gọi với lại. Anh nói:

“Còn vụ đi hát ở quán cà phê âm nhạc mà cậu đã nói đó.”

Ann vội quay lại nói:

“Mình quên mất, cậu cho mình số điện thoại. Khi nào đi mình sẽ gọi cậu.”

Chỉ đợi có vậy, Jiho nhanh chóng lôi ra quyển sổ ghi nhớ đã thủ sẵn trong túi áo khoác. Anh đưa cho Ann, cô ghi lại số vào đó rồi trao cho anh.

“Mình sẽ đưa cậu tới một nơi khá thú vị. Cậu chờ nhé!”

Rồi Ann quay bước đi, Jiho chờ cho bóng dáng cô khuất hẳn sau bức tường gạch rêu phong rồi mới đi lên nhà.











 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG III

HOA THƯỢC DƯỢC ĐEN

Cơn mưa chiều đổ xuống khiến mọi thứ u buồn hơn thường lệ, con ngõ vắng chật hẹp dậy mùi xú uế, khó chịu. Khu tập thể được xây dựng từ thập niên 80 trông bệu rệu tàn tã hơn bình thường, bị quây quanh bởi những tòa nhà lô nhô cao thấp, nghe đâu người ta đang quy hoạch để tu bổ hay xây mới gì đó.

Dahlia vừa rít nhẹ điếu thuốc vừa mông lung nghĩ ngợi. Cô ngồi lại chiếc bàn nhỏ được kê sát cửa sổ, trên bậu cửa có một cây xương rồng đã héo quắt vì thiếu nước. Lạ thay, giống cây dẻo dai, bền bỉ sức sống ấy giờ đây lại trở nên như vậy.

Dahlia thở hắt một cái, vẻ như ngán ngẩm, rồi nhẹ nhàng dụi dụi điếu thuốc đang hút dở vào chiếc gạt tàn trước mặt. Lúc này, ánh mắt cô chuyển xuống tệp hóa đơn gồm tiền điện, nước, dịch vụ vẫn chưa thanh toán hết. Những dòng chữ xanh đỏ như nhảy múa loạn xạ trước mặt, Dahlia nhớ lại ánh mắt của gã tới đưa hóa đơn ban chiều, sự khó chịu hiển hiện trên gương mặt gã kèm theo câu thông báo ngắn gọn, lạnh lùng – nếu như tháng này không thanh toán đầy đủ thì sẽ cắt điện nước. Chỉ vậy thôi, Dahlia không nhớ tháng trước đã thanh toán khoản nợ như thế nào, hình như là một khoản vay từ một người chị họ.

Cô không tài nào nhớ nổi, người ta thường nói tới một triệu chứng về rối loạn tăng động giảm chú ý do căng thẳng kéo dài, người chị họ khuyên cô nên đi bác sĩ khám thử, nhưng nực cười thay, giờ cô còn chẳng đủ tiền trang trải chi phí sinh hoạt hằng ngày, huống chi nói tới chuyện đi khám bác sĩ, rồi còn chưa kể tới chi phí thuốc thang và phát sinh. Dahlia chẳng muốn nghĩ nữa, tệp hóa đơn chưa thanh toán dường như lôi cô về một thực tế phũ phàng khác buộc phải đối mặt và tìm cách giải quyết.

Dahlia lấy điện thoại ra, lần tìm trong danh bạ một số điện thoại cũ, không lưu tên nhưng cô dám chắc mình vẫn nhớ số đó. Tần ngần, chưa bấm vội, cô vẫn chưa quyết định, một giao ước từ lâu hay đúng hơn là một mối quan hệ xưa cũ mà cô không dám khẳng định đối phương vẫn còn nhớ tới mình. Đôi khi, những gì thuộc về quá khứ thì hãy để nó bị chôn vùi, và thời gian sẽ xóa sạch tất cả, không để lại dấu vết. Nhưng giờ đây, thứ quá khứ ấy đang buộc cô phải lựa chọn, phải quyết định. Rồi sau đó, Dahlia bấm số, sau tiếng chuông nhạc chờ thì đối phương bắt máy, một giọng điệu khản đặc vì hút thuốc lá quá nhiều vang lên. Vẻ như đối phương đã chờ cuộc gọi này từ rất lâu rồi. Họ kết thúc bằng một cuộc hẹn, anh ta nói, sẽ nhắn ngay địa chỉ vào máy của cô.

Ngán ngẩm nhìn tủ quần áo, một mùi ẩm mốc xộc thẳng vào mũi cô. Vài bộ váy nhăn nheo được treo ngay ngắn trên móc, thứ ánh sáng vàng đục trong gian phòng khiến chúng trông ghê tởm hơn, cô thắc mắc – đã bao lâu rồi mình chưa sắm thêm một bộ quần áo nào. Mất một lúc sau, mới chọn được một bộ, vẻ chừng như chưa ưng ý, nhưng thú thực cô chẳng còn lựa chọn nào nữa. Dahlia hy vọng, đối phương sẽ không mấy để tâm tới chuyện này.

Cô kiểm tra lại địa chỉ thêm một lần nữa – quán cà phê Les Jeunes, số 121, đường Yec Xanh, Hai Bà Trưng. Một địa chỉ mơ hồ, với cô, giờ đây mọi thứ dường như đều trở nên như vậy; có lẽ do tác động dài ngày của việc lạm dụng rượu và thuốc lá. Lắc đầu ngán ngẩm khi ngắm nhìn mình trước gương, cô thấy gò má nhô hơi cao, phía dưới mắt đã xuất hiện quầng thâm vì mất ngủ nhiều ngày, còn làn da thì hơi sạm đi đôi chút. Không hề gì, những khiếm khuyết này đều có thể che đi bằng việc trang điểm một cách khéo léo, nhưng còn đôi mắt, cô tập trung nhìn lại vào đôi mắt của mình. Sự mỏi mệt đã bao trùm lấy nó, vằn lên những tia máu đỏ chạy xung quanh đồng tử không cần để ý kỹ mà vẫn dễ dàng nhìn thấy. Trong khi tập trung trang điểm, Dahlia cố gắng hết sức để nở một nụ cười đúng nghĩa, cô không muốn đối phương nhìn thấy thứ năng lượng tồi tệ toát ra từ cơ thể đang rệu rã của mình.

Trang điểm xong xuôi, Dahlia tiến nhanh về phía hộc tủ bàn gần chiếc giường nhỏ, cô sực nhớ ra một thứ đã bỏ quên từ lâu. Kiểm tra một hồi rồi cô nhanh chóng lôi ra, một chiếc hộp màu ghi đã phủi bụi, bên ngoài được thắt chéo bằng một dây ruy băng màu vàng. Cô mở hộp, thứ bên trong vẫn còn nguyên vẹn, hoàn hảo – một đôi giày cao gót màu đỏ thắm. Ướm thử vào chân, khá vừa vặn, thực lòng cô chưa bao giờ đi nó cả, chẳng nhớ quãng thời gian bỏ xó đã bao lâu. Và cô nghĩ nó thực sự phù hợp cho dịp đặc biệt như hôm nay, ít ra là với cô.

Dahlia ngắm nghía một lần nữa trước gương, đôi giày đỏ tương phản với bộ đồ cô đang mặc, lệch tông hoàn toàn. Đôi giày trở nên lạc lõng giữa chốn tối tăm và bẩn thỉu này – thứ hào quang duy nhất còn sót lại chăng? Thứ hào quang đã bị thời gian vùi lấp?

***​

Đức đã chờ sẵn ở quán, anh ta đang hút thuốc; bên chiếc bàn, ly đen đá đang bốc lên những lọn khói mỏng mảnh, tỏa mùi ngai ngái đặc trưng của cà phê nguyên chất. Không gian hỗn tạp bởi mùi khói thuốc, mùi cà phê, mùi của cả những cơn mưa rào còn sót lại cuối mùa. Dahlia đẩy cánh cửa kính, bước vào. Quán khá vắng, còn rất nhiều bàn trống, cô nhanh chóng tiến về phía chiếc bàn nằm gần quầy pha chế. Thấy cô, Đức vội vàng đứng dậy, nở một nụ cười thân thiện, dáng người thấp đậm và khuôn ngực có phần vạm vỡ, hàng râu quai nón được tỉa tót gọn ghẽ, ấn tượng ban đầu không hẳn là tồi tệ. Đây không phải là lần đầu tiên Dahlia gặp Đức; trong một chuyến đi tour ở Khánh Hòa khoảng hai năm về trước, cô đã gặp anh, đúng hơn là anh đã chủ động gặp cô, bày tỏ sự ái mộ giọng hát của cô. Lúc đó, thú thực là Dahlia chưa mấy ấn tượng với anh, có lẽ đã quá nhiều thứ cô phải nghĩ hơn là chuyện để ý tới một người hâm mộ, xa lạ. Nhưng không ngờ, giờ đây Dahlia lại đặt mình trong t.ư thế của người bị động, ở một nơi mà Đức đang làm chủ, điều quan trọng là, chính anh sẽ là người giúp cô tháo gỡ những khó khăn hiện tại. Trong cuộc điện đàm ngắn ngủi ban chiều Đức cũng đã đề cập tới chuyện đó, anh nói, tiền bạc không phải vấn đề chính.

“Em uống gì?” – Đức lịch sự hỏi khi Dahlia từ tốn ngồi xuống chiếc ghế bành bọc nhung đỏ, khá êm ái.

“Một nâu đá đi anh.” – Dahlia nói ngay mà không cần nhìn xuống menu đang giở ra trước mặt.

Đức bèn giơ tay ra hiệu, một nhân viên đi ra như thể cậu ta đã chực sẵn ở đó, chờ đợi mệnh lệnh của ông chủ. Một nâu đá, anh nói. Cậu nhân viên gật đầu rồi lui vào chuẩn bị.

“Anh khá bất ngờ khi nhận được cuộc gọi của em, và càng bất ngờ hơn khi có cuộc hẹn này.” – Đức nói.

Dahlia cảm thấy khá ngạc nhiên trước câu mào đầu này, trước sự tự tin của Đức. Cũng đúng thôi, với người hiểu chuyện, quen biết rộng như anh ta thì chẳng có chuyện gì là không thể. Dahlia trộm nghĩ, rồi đáp lời:

“Em nghĩ tới một lời đề nghị, từ anh.” – Rồi cô mỉm cười.

Đức thừa biết ẩn ý giấu sau câu nói của cô – một người phụ nữ sắc sảo và thông minh. Anh mỉm cười, chưa vội nói, tay khẽ nâng tách cà phê, nhấp một mụm.

Người phục vụ mang ly nâu đá ra, Dahlia đón lấy, cô gật đầu cảm ơn.

“Em còn nhớ lần đầu chúng ta gặp nhau không?” – Đức hỏi.

Dahlia lắc đầu, rồi cô cười không nói gì.

“Anh cũng vậy. Anh chỉ nhớ lần đầu nghe em hát thôi, chưa bao giờ cảm thấy mê đắm đến thế. Nói không ngoa, đúng là một tài năng hiếm có.”

Một câu nói có phần hoa mỹ, một câu bông đùa, hay một lời tán tỉnh chẳng hạn. Đại khái vậy, Dahlia trộm nghĩ trong lòng, rồi nói cảm ơn. Không làm mất thêm thời gian chung của hai người, cô nhanh chóng đề cập vào phần chính của câu chuyện, về lời đề nghị mà Đức đã từng nói khoảng hai tháng trước. Đó là cô sẽ nhận lời hát ở Les Jeun vào tối thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy hằng tuần, trở thành một khách mời đặc biệt của quán.

“Đó là vinh dự của bản thân anh, cảm ơn em đã nhận lời.” – Đức nói.

“Cảm ơn anh, nhưng vẫn còn một chuyện, đó là anh đừng nên nhắc tới tên của em, em nghĩ nên hạn chế, vì…”

Dahlia ngập ngừng không nói thành lời. Đức tỏ ra vô cùng bình thản trước hành động khác thường của cô, có lẽ anh thừa hiểu Dahlia đang muốn đề cập tới điều gì.

“Quá khứ ư?” – Đức hỏi.

Cô gật đầu.

“Mọi chuyện cũng đã lâu rồi mà, đừng bận tâm tới nữa. Chúng ta sống vì tương lai. Em còn có cả một tương lai dài đang chờ ở phía trước.”

Cuộc trò chuyện kết thúc ngay sau đó, Đức nói, có công chuyện đột xuất mà anh cần giải quyết. Kinh doanh quán cà phê chỉ là một công việc nhỏ của Đức, nghe đâu anh ta còn sở hữu chuỗi dự án gì đó liên quan tới bất động sản, du lịch và nghỉ dưỡng nữa.

Đức ngỏ ý gọi xe để đưa Dahlia về nhà, nhưng cô khéo léo từ chối. Dahlia đi xe buýt trở về nhà khi trời đã sập tối. Phố vãn người, ánh đèn hiu hắt.

Sự mệt mỏi đột ngột xâm chiếm Dahlia khi cô trở về nhà, đôi chân đau nhức vì lâu ngày không đi cao gót. Vội vàng tháo khỏi chân, cô quăng mình lên chiếc giường nhỏ ọp ẹp, không bận tâm tới chuyện ăn uống nữa mà thiếp đi.

***​

Chiều muộn buông xuống con phố Yec Xanh, thứ đèn đường yếu ớt, vàng vọt và hoài niệm. Phía bên kia đường, những hàng quán ăn đêm đã mở sẵn, chờ phục vụ thực khách. Những thứ này khiến cho Jacqueline liên tưởng tới cửa hàng ăn đêm dọc con phố Rue Saint-Honoré ở Paris.

Jacqueline đã tới Hà Nội được một thời gian dài, bà không nhớ chính xác khoảng thời gian đã ở đây. Chỉ là một sự tình cờ, đôi khi bà nghĩ chính những sự tình cờ đã đẩy đưa cuộc đời của một con người tới những điều thú vị, như vùng đất này chẳng hạn.

Bốn mươi tám tuổi, đã đi nhiều nơi trên khắp thế giới, từ Washington hoa lệ tới những đất nước Bắc Âu lạnh giá, Jacqueline cuối cùng quyết định dừng chân ở đất nước nhỏ bé, nơi mà một trăm năm về trước đã xuất hiện dấu chân người Pháp, nơi Duras sinh ra, nơi bà đã sinh ra. Cha bà từng là nhân viên ở Sở t.ư pháp Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang. Jacqueline gần như chẳng có một chút ký ức nào về quãng thời gian tuổi thơ ở Việt Nam - xứ Đông Dương mịt mờ trong làn khói chiều bảng lảng, con nước triều dâng lên trên hạ lưu sông Mekong, tất cả chẳng còn chút dư ảnh; một dấu vết nhỏ nhoi để nhận ra cũng không. Phải chăng đó cũng chính là nguyên do gây ra sự tò mò của bà về vùng đất nhỏ bé này.

Vài ký ức xẹt ngang qua đầu Jacqueline vào những giây phút trầm lắng thế này khi thành phố lên đèn. Tâm trí dễ “sẩy chân” vào một vùng vô định và những ký ức theo đó cứ ùa về trong vô thức, để rồi khi về với thực tại, một khoảng trống hoác, mênh mang lại hiện lên cõi lòng, như vết thương chưa bao giờ được chữa lành.

Jacqueline hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, se mình lại trong chiếc áo khoác len mỏng màu mận chát mua ở một cửa hàng thời trang trên đại lộ Champs-Elysees. Đoạn, bà nâng tách trà đen lên một lần nữa, nhấp môi nhưng mọi thứ đang trở nên lạnh lẽo. Một tốp người đi vào; Les Jeunes nay đông đúc hơn thường lệ, nghe đám nhân viên kháo nhau, quán sẽ tổ chức chương trình giao lưu âm nhạc vào thứ Năm, thứ Bảy hằng tuần với những khách mời đặc biệt. Jacqueline chẳng muốn nán lại nữa, dăm ba thứ nhạc ồn ã của tuổi trẻ chỉ khiến bà thêm phiền não mà thôi. Tâm trạng chì xuống như bức màn trời xám xịt mỗi độ cuối thu, chẳng có chút cảm hứng, đã gần một tuần nay Jacqueline không vẽ thêm được bức tranh nào, những ý tưởng bốc hơi khỏi đầu bà như chưa hề tồn tại, giá vẽ nằm trơ trọi trong căn phòng, và những tuýp màu nằm lăn lóc bám bụi.

Jacqueline trộm nghĩ, rồi mau chóng đứng dậy, xách theo chiếc giỏ mây toan đi ra cửa, nhưng khi vừa mới bước chân ra ngoài hiên thì trời đổ mưa – những cơn mưa cuối mùa. Lắc đầu ngán ngẩm, rồi nhìn xuống đồng hồ đeo tay, bà tặc lưỡi, hẵng còn sớm, có thể nán lại đôi chút rồi về cũng không sao. Dẫu có về nhà lúc này thì bà cũng chẳng làm gì ngoài việc sẽ đi ngủ ngay. Nghĩ vậy, Jacqueline quay lại chiếc bàn mà bà vừa ngồi, nhưng đã có người ngồi thế ngay sau đó. Chán nản nhìn xung quanh, người phục vụ thấy vậy, nhanh trí đưa bà tới một chiếc bàn gần khung cửa, nằm phía cánh gà bên trái sân khấu. Để ý mới thấy phía trên sân khấu đã được chuẩn bị đẩy đủ với mic, đàn ghi-ta, và một dàn những chiếc trống lớn nhỏ phía sau.

Đêm nhạc bắt đầu lúc 8 giờ 30 phút. Không giống như suy nghĩ ban đầu của Jacqueline, không hẳn chỉ là những ca khúc nhạc trẻ với phần giai điệu sôi động và ca từ nghèo nàn. Khách mời lần lượt lên trình bày những tình khúc nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn, hay những ca khúc nhạc nhẹ nổi tiếng của Việt Nam. Những giai điệu cuốn Jacqueline theo lúc nào chẳng hay, thật sáng suốt khi ở lại đây, biết đâu cảm hứng trong bà lại trỗi dậy.

Tay MC mặc vest màu trắng bước lên sân khấu, giới thiệu với giọng điệu hào hứng, và sau đây là sự xuất hiện của nữ ca sĩ Dahlia. Trái với sự hào hứng của MC phía bên dưới, khán giả vẫn tỏ vẻ thờ ơ, vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt như lấy lệ. Từ phía trong cánh gà sân khấu, một cô gái chầm chậm bước ra với chiếc váy liền buông dài tới đầu gối, trang trí họa tiết giống như dân hippie, mái tóc ngang vai được búi gọn lên đầu để lộ một chiếc cổ cao thanh tú, gương mặt khá hài hòa, cân đối.

Sự xuất hiện của cô ca sĩ khiến Jacqueline chú ý. Cô không nói gì, chỉ gật đầu chào khán giả, rồi nhạc dạo vang lên, cô khẽ đung đưa, lắc lư nhẹ thân mình theo giai điệu. Rồi cô hát, một giọng hát cao vút, như cũng tràn đầy nội lực, khiến cho cả khán phòng im bặt.

Lặng người đi giây hát, một thứ gì đó đang cuộn dâng trong lòng Jacqueline mà mãi về sau này, mỗi khi nhắc lại, bà không dám chắc rằng mình có đang miêu tả đúng hay không? Như một thứ sức mạnh kỳ bí cuốn bà đi một nơi thật xa; và đó là một chuyến phiêu lưu trong tâm tưởng, nơi quá khứ lùi dần mãi về sau. Và khi ấy Jacqueline nhận ra mình đã đem lòng yêu một cô gái mang tên một loài hoa tuyệt đẹp nhưng cũng không kém phần bí ẩn – Dahlia.

***​



Trở về nhà với tâm trạng rệu rã hơn thường lệ, nhưng mọi thứ dần trở nên khá hơn, ít ra Dahlia có thể nhìn thẳng vào mặt gã tới thu tiền điện nước, phí dịch vụ mà không cảm thấy ái ngại như trước nữa. Căn phòng trở nên sáng sủa hơn với ga trải giường mới tinh, rèm cửa màu xanh lơ như bầu trời với họa tiết hình mây đang lững thững trôi.

Chưa vội bật đèn, cô tiến lại hành lang, rồi mở toang cánh cửa, đèn đường hắt vào phòng khiến mọi thứ được phủ lên một lớp sáng nhờ nhờ.

Dahlia ngậm điếu thuốc trên môi, châm lửa, rồi khẽ rít một hơi thật nhẹ. Mùi khói thuốc khiến cô cảm thấy dễ chịu hơn, tuy nhiên gần đây cũng phải hạn chế hút, vì khói thuốc có thể gây ảnh hưởng tới giọng hát của cô – thứ mà giờ đây đang trở thành công cụ để cô có thể trang trải mọi thứ cho sinh hoạt thường ngày, khiến cuộc sống trở nên dễ chịu hơn bao giờ.

Chiều nay, cô đã nhắn tin cho người chị họ, bảo chị gửi lại số tài khoản để trả khoản tiền đã vay từ trước. Người chị họ hỏi lại, cô đã làm gì để kiếm ra tiền. Dahlia đáp với giọng điệu tỉnh bơ – dĩ nhiên không phải làm gái rồi. Cô phá lên cười trước suy nghĩ vẩn vơ của mình.

Đức hài lòng về tất cả, anh đã nói với cô như vậy, gương mặt vuông vức, với làn da bánh mật như ánh lên niềm hạnh phúc kiêu hãnh. Anh nói thêm, doanh thu của quán tăng đột biến khi có sự xuất hiện của cô, mà anh tin chắc rằng, giọng hát nội lực, truyền cảm đã để lại ấn tượng sâu sắc hơn cả. Nhưng Dahlia biết, chuyện doanh thu như thế nào, đối với Đức không quan trọng, một khoản tiền nhỏ nhoi từ việc kinh doanh quán cà phê chẳng thấm vào đâu so với gia sản của anh, điều mà cô đã từng nghe qua trước đây. Dahlia nhớ, khoảng thời gian trước, lúc cô còn đi chạy show, thời hoàng kim với những buổi tiệc xa hoa, những bộ váy lộng lẫy, và là khách mời của rất nhiều event, cô đã từng quen rất nhiều người trong giới đó – những công tử con nhà giàu, người thừa kế gia sản hàng triệu đô, hay những gã trọc phú mới nổi nhờ tài năng và một chút mánh khóe của mình trong các thương vụ làm ăn, có nằm mơ Dahlia cũng chẳng thể hiểu nổi điều đó. Và Đức là một trong số đó, thêm một lời đề nghị nữa, Đức đã nói với cô như vậy trong cuộc trò chuyện chớp nhoáng hồi chiều nay.

“Nếu như em sẵn sàng trở lại, một sân khấu thực sự, thì anh tin mình sẽ giúp được.” Từng câu chữ in đậm trong tâm trí cô, gương mặt, ánh mắt phản chiếu sự tự tin của một gã giàu có, địa vị cao trong xã hội thượng lưu. Có lẽ, do quá bất ngờ nên Dahlia chỉ lịch sự đáp lại rằng, mình cần phải suy nghĩ, cần có thời gian để suy nghĩ cho thấu đáo mọi điều, hơn hết là để tránh khỏi những sai lầm không đáng có. Đức không vội vàng - một người thành công và tham vọng thì không bao giờ vội vàng, rồi anh ta nói, sẽ chờ đợi cô quyết định.

Dahlia sẽ chẳng suy nghĩ gì, thời gian ở đây chỉ là một khái niệm tương đối. Đôi lúc, thời gian trong cuộc sống này chẳng có nghĩa lý gì, ít ra là với cô. Những năm tháng tuổi trẻ vụt qua đi như đoàn tàu lao về phía chân trời, nơi hoàng hôn đỏ rực đang bao phủ một khoảng trời rộng lớn, cô đã không nghĩ nhiều về thời gian – một khái niệm xa vời, mà người ta vẫn thường ra rả nói với nhau rằng, hãy tôn trọng nó, hay trân quý nó, từng giờ, từng phút, từng giây.

Có lẽ, Dahlia sẽ chẳng bao giờ có diễm phúc để hiểu được điều đó. Bởi lẽ, quá khứ hằn lên những nỗi đau mà nó đã giày vò cô một khoảng thời gian khá dài, những vết thương chưa bao giờ lành sẹo; và chỉ cần một chút tác động thôi thì mọi thứ lại ứa máu, đớn đau khôn cùng. Như con quỷ sẵn sàng trỗi dậy một lần nữa, nó chiếm lấy tất cả và sẽ phá hoại mọi thứ.

Dahlia chẳng thể nghĩ được nữa khi miệng cô khát khô. Điếu thuốc trên tay đã tắt lụi, màn đêm tĩnh mịch bao phủ khắp thành phố mênh mang chứa đựng bao linh hồn cô độc, và đâu đó ngoài kia, có người đang khóc, có người đang có ý định tự sát và có người sẽ tự mình gặm nhấm nỗi đau khổ như cô.

Dahlia không thèm bật đèn, cũng chưa nghĩ tới chuyện ăn uống lúc này, đoạn cô ngả lưng xuống chiếc giường êm ái rồi ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Một giấc ngủ bình yên trước khi những cơn ác mộng lại ập tới. Biết đâu!

***​

Tối thứ Bảy, Jacqueline tới Les Jeunes sớm hơn thường lệ, quán vẫn vắng người. Gã phục vụ gương mặt trẻ măng dường như đã quen với sự hiện diện của một người phụ nữ trung niên ngoại quốc, đôi mắt xám đùng đục với mái tóc đã ngả màu muối tiêu. Một giọng nói tiếng Việt pha lẫn âm hưởng của tiếng Pháp, không khó nghe nhưng ắt mọi người sẽ nhận ra sự khác biệt. Jacqueline trộm nghĩ, sự khác biệt đã đến ngay từ cái nhìn bên ngoài về ngoại hình chứ chưa nói tới những cái khác, nhưng bà vẫn tâm niệm rằng, trong thâm tâm của mình, thứ gì đó, rất từ lâu đã thuộc về mảnh đất, xưa là xứ Đông Dương đẹp đẽ nhưng buồn bã này. Chính vì vậy, gã người Hoa của Duras mới theo chân bà từ chuyến phà năm nào, theo dấu chân người tình của mình, mãi về sau vẫn không thôi nhung nhớ.

Les Jeunes trong tiếng Pháp có nghĩa là tuổi trẻ - một khái niệm tưởng chừng như thân thuộc, nhưng với Jacqueline thì nó luôn trở nên mới lạ và xa vời. Tuổi trẻ của bà ư? Tuổi trẻ của cô thiếu nữ cá tính vùng ngoại ô Paris lớn lên cùng với những bức tranh của Lyubov Popova, Picasso hay Marc Chagall, lớn lên trong garage ô tô của cha bà với một góc đầu những khung tranh kích thước khác nhau, những tuýt màu và cọ vẽ đủ loại. Hay tuổi trẻ rong ruổi qua những thành phố khác nhau trên thế giới, có quá nhiều thứ để suy nghĩ, để hoài niệm về, nhưng sao giờ đây mọi thứ trong tâm trí Jacqueline đều trở nên trống rỗng - trở nên trống rỗng khi nghe giọng hát đó, trở nên trống rỗng khi nhìn sâu vào ánh mắt như chứa đựng những bí mật đó. Chính vì thế, khái niệm tuổi trẻ bỗng nhiên trôi tuột trong tâm trí bà, hay đúng hơn, đó là những năm tháng hoài phí, bà đã kiếm tìm một ý nghĩa, nhưng chẳng ai cho bà ý nghĩa đó cả. Tất cả đều trở nên xa xăm, và mỗi khi nghĩ về thì chẳng còn lại gì ngoài cảm giác nuối tiếc. Giờ đây, khi nhìn về người con gái ấy, trong bà trỗi dậy một cảm giác, một khát khao có phần ích kỷ, không tài nào hiểu nổi.

Dahlia xuất hiện trên sâu khấu sau khi vài khách mời đã trình diễn xong phần của họ. Khi ấy, cô gái với gương mặt thanh tú bước ra và cất tiếng hát. Cô luôn chọn những ca khúc có phần da diết, ca từ đôi khi ảm đạm, hoài niệm và tiếc thương khiến người ta lắng xuống vài giây và cảm giác luyến tiếc sẽ còn mãi sau đó.

Jacqueline dõi theo Dahlia từ chỗ ngồi của mình. Sau khi biểu diễn xong, cô tới bên quầy bar và gọi cho mình một ly. Jacqueline đứng dậy, tự nhiên, bà chẳng cảm thấy gì ngoài chuyện cần đến gần cô gái đó hơn, một thứ gì đó đã thúc đẩy, như chất adrenaline đang ào ạt chảy trong người.

Bà lẳng lặng ngồi vào chiếc ghế kế bên, nhưng Dahlia dường như không để ý, cô nhấp khẽ vào ly cooktail có màu xanh lơ của mình. Jacqueline gọi một ly bourbon, tay pha chế rót một ly và đẩy về phía bà. Bà nhấp một hơi, rồi hít thở thật sâu. Sau đó, bằng một hành động gần như là vô thức, Jacqueline nhìn sang phía bên cạnh mình, đúng lúc đó Dahlia cũng quay về phía bà, ánh mắt hai người chạm vào nhau khoảng vài giây khiến cho đối phương vẻ như bối rối thực sự. Rồi sau đó, Dahlia vội vàng quay đi trong sự lạ lùng.

“Cô có giọng hát thật sự rất đẹp!” – Jacqueline lên tiếng.

Dahlia sừng sỡ, rồi lặng nhìn người phụ nữ ngoại quốc với mái tóc xoăn đã ngả màu muối tiêu, đôi mắt màu xám sáng rực và sắc sảo, bà ta đang ngợi ca giọng hát của mình ư? Hay lại một fan hâm mộ thầm lặng? Cô chưa vội đánh giá điều gì, bởi lẽ ánh mắt tỏ rõ sự dò xét của đối phương như ngần ngại.

Đã bao lâu rồi cô không trò chuyện kiểu này, những cuộc gặp gỡ vô tình, như thể đối phương đã hiểu rõ về cô. Nghĩ tới đó, trong lòng cô lại dấy lên những suy nghĩ ái ngại, chút gì đó sợ hãi như thoáng qua gương mặt, và hiển nhiên, thứ màn chắn bảo vệ vô hình lại dựng lên, tạo ra những ngăn cách nhất định.

Jacqueline nốc một hơi cạn sạch ly rượu trong tay.

“Xin lỗi, nhưng bà là ai?” – Dahlia hỏi.

“Không là ai, đơn giản chỉ là một người yêu thích thôi. Tôi không biết sử dụng từ đó trong tiếng Việt có chính xác hay không. Từ hâm mộ thì đúng hơn. Đúng rồi, chính là nó.” – Jacqueline cười trừ, hy vọng cô gái sẽ không cảm thấy sợ hãi trước sự tiếp cận chủ động quá sức tự tin ở bà.

Dahlia im lặng một hồi lâu, người phụ nữ bên cạnh không còn nhìn cô nữa. Bà xoay xoay, rồi nắm chặt ly rượu đã hết cạn trong ly, vẻ như run run. Chưa bao giờ trong lòng cô lại cảm thấy lạ lùng đến vậy.

“Jacqueline. Tên tôi, rất vui được biết cô.” – Jacqueline quay sang, chìa đôi bàn tay đã chai sần đôi chỗ của mình, nở một nụ cười tươi nhất có thể. Nhưng sự ái ngại vẻ như đã dâng đầy trong ánh mắt của cô gái đối diện, phải chăng bà đã quá tỏ ra thân thiết, bởi lẽ ở mỗi vùng miền khác nhau thì văn hóa ứng xử cũng khác, huống chi bà lại là một người phụ nữ ngoại quốc đã luống tuổi. Nghĩ vậy, Jacqueline bèn rụt vội tay lại.

Dahlia đột ngột đứng dậy, chẳng hiểu sao cô lại hành động như vậy, có quá mất lịch sự không? Nhưng trong vô thức, cô đột nhiên sợ hãi sự tác động của thế giới bên ngoài, một con người xa lạ nào đó mà cô nghĩ họ sẽ dễ dàng phá vỡ bức màn ngăn cách, bảo vệ của cô với thế giới bên ngoài – thế giới đầy những tội lỗi và thương đau.

“Xin lỗi bà, lại tới lượt tôi hát rồi.” – Dahlia đáp gọn lỏn, rồi đi thẳng, bỏ lại sau lưng mình sự thất vọng đang hiện ra trên gương mặt của người phụ nữ đã chủ động tiếp cận cô. Jacqueline cảm thấy rõ được những khoảng trống đang được nong rộng ra trong lòng, khó có thể lý giải. Làm gì đây để lấp tạm những khoảng trống đó. Jacqueline cười trừ, rồi búng tách một cái, ra hiệu cho tay pha chế bên quầy, thêm hai ly tequila.

Có một nhà văn nào đó đã từng nói: “Thà dũng cảm đi vào cõi ấy ngay trên đỉnh điểm huy hoàng của niềm yêu thương, còn hơn là tàn tạ và héo úa dần dần một cách thảm thương cùng thời gian, tuổi tác.” Jacqueline nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ làm được, khi đang đứng trước một ánh mắt, một trái tim dường như chứa đựng những điều sâu thẳm, bao la như đại dương mênh mang, trong màn đêm đặc, mịt mùng, thứ hy vọng nào đó chỉ le lói như ngọn đèn hải đăng chờ cơn giông bão ập tới, và sẵn sàng cuốn đi.

Loài hoa đẹp đẽ ấy mọc giữa chốn đồng hoang hoải, chỉ có thể đứng nhìn từ xa, và e rằng sẽ chẳng bao giờ có thể chạm tới được. Chẳng bao giờ!
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG IV

LƯU LY MONG MANH

Buổi giao lưu kết thúc thì đã hơn mười giờ. Trời về đêm dường như trở lạnh hơn, thảng hoặc một cơn gió vô tình lướt qua cũng khiến người ta tê tái đi phần nào. Thu mình trong chiếc áo khoác gió mỏng khi đứng ở bên ngoài, Ann gật đầu chào gã chủ quán, còn gã nháy mắt ra hiệu như nói lời tạm biệt. Cô có giọng hát hay và hai người kết hợp với nhau vô cùng ăn ý, như một rock band thật sự - gã đã nói với Ann như vậy. Cô cười khẩy, có lẽ chỉ là lời bông đùa cợt nhả của gã mà thôi. Chưa có nhiều thông tin về gã nhưng Ann nghe phong thanh, rằng gã là một tay có máu mặt trong giới kinh doanh bất động sản, nhà hàng và khu du lịch vui chơi giải trí. Gã bảo thêm với Ann, rất sẵn lòng nếu như họ có thể sắp xếp một buổi trò chuyện lâu hơn vào một dịp khác.

Những vị khách lặng lẽ rời khỏi Les Jeunes, một vài người vẫn còn nán lại, quán có sắp xếp cho người ta qua đêm nếu như cần. Ann để ý thấy một người phụ nữ ngoại quốc đang chăm chú nhìn vào một cuốn sách, thảng hoặc bà lại dán mắt vào khung cửa kính, vô định như thể đang suy ngẫm điều gì đó rồi lại nhìn vào cuốn sách, cô tò mò không biết bà ta đang đọc sách gì.

Jiho lay cánh tay cô khi xe taxi tới, hình ảnh bị đứt đoạn, như trở về thực tại.

Họ lên xe, Ann không quên nhắc lại cho Jiho về những gì gã chủ quán đã nói với cô, nhưng anh chỉ cười, rồi lặng lẽ tựa đầu vào khung cửa kính, ngủ thiếp đi một lát. Nhiều lúc Ann nghĩ, Jiho như đứa trẻ bị vứt vào một thế giới bị lãng quên, và chính sự lãng quên đó đã thu hút anh đến nhường nào.

Lẳng lặng rút điện thoại ra nhưng rồi lại cất vào túi, cô định gọi cho mẹ nhưng có lẽ bà đã đi ngủ mất rồi; từ ngày mẹ phát bệnh, bà quyết định chuyển về sống cùng dì ở một huyện ngoại thành cách xa trung tâm khoảng bốn mươi cây số về hướng nam, cuối tuần Ann thường về đó thăm mẹ. Bà được bác sĩ chẩn đoán mắc căn bệnh Alzheimer, chứng bệnh mất trí nhớ thường gặp ở tuổi già, nhưng trường hợp của bà lại rất đặc biệt, thông thường độ tuổi mắc phải từ 45 đến 60, nhưng mẹ mới gần 40 đã có triệu chứng nên được coi là hiếm gặp. Một mình cô không thể tự chăm sóc mẹ, còn công việc học hành nên dì đã đề nghị đưa mẹ về cạnh dì để chăm sóc cho tiện, dù sao thì dì cũng chỉ sống một mình, chồng dì mất sớm, chẳng để lại mụn con nào, cũng không có ý định đi bước nữa nên nếu mẹ về thì đỡ hiu quạnh hơn. Giờ đây, trong căn nhà nhỏ nằm nép mình trong một con ngõ sâu hun hút trên đường Vũ Trọng Phụng giờ chỉ còn mình cô, mọi thứ theo đó dần trở nên trống trải. Đồ đạc của mẹ cũng mang đi phần nhiều, duy chỉ còn lại giá sách với những cuốn sách cũ mới, đủ thể loại. Mẹ bảo với Ann, sau này mẹ mà quên sạch rồi thì cũng chẳng cần gì đến chúng nữa; nói tới đó, giọng bà có cảm giác nghèn nghẹn ở cổ họng.

Tới ngã t.ư, đèn đỏ, xe đột ngột dừng lại, cú phanh nhẹ khiến Jiho tỉnh giấc, anh thắc mắc tới đâu rồi.

“Gần tới nhà mình rồi.” – Ann bèn nói.

Đột nhiên Jiho đề nghị họ xuống xe. Ann ngạc nhiên hỏi:

“Cậu sao vậy, có chuyện gì à?”

Jiho lắc đầu nói:

“Mình cảm thấy bí bách và nôn nao, chúng mình đi bộ được không, dù gì cũng gần tới nhà cậu rồi!”

Ann lắc đầu ngán ngẩm:

“Thôi được rồi!” – Cô nói.

Hai người xuống xe cuốc bộ, bỏ mặc người tài xế với vẻ mặt chưng hửng. Rẽ vào đường Vũ Trọng Phụng, Ann nói khoảng năm trăm mét nữa thì tới nhà cô. Họ có thể dừng đâu đó ăn chút gì vào bụng, vài hàng quán vẫn thường mở xuyên đêm để phục vụ những người lao động, có công việc về đêm. Jiho liền đồng ý, gương mặt cậu tỏ rõ sự háo hức lạ thường. Phố phường về đêm, vãn người, không khí se lạnh hơn. Ann và Jiho chầm chậm rảo bước trên con phố, không ai nói với nhau câu nào như thể đang tạm thời đeo đuổi những suy nghĩ của riêng mình.

Bỗng nhiên một bóng đen chạy vụt qua trước mặt khiến hai người thoáng ngỡ ngàng, sửng sốt, chưa biết chuyện gì đang xảy ra. Dáng người nhỏ bé nhanh nhẹn lỉnh sâu vào trong con ngõ vắng, thoáng chốc rồi mất hút, nhưng Ann kịp nhận ra đó là một cô gái. Một toán người chạy tới, khoảng ba nam thanh niên trẻ tuổi, hai tên với dáng người thấp đậm, đen trùi trũi, tên còn lại thì cao nhòng, người ốm o, mặt trắng nhách, trông như cái xác không hồn.

Dưới ánh đèn vàng vọt, Ann nhìn rõ nét mặt của từng người. Chúng dáo dác nhìn quanh như thể đang tìm kiếm thứ gì đó mà Ann biết chắc, cô gái nhỏ vừa chạy vào con ngõ ban nãy chính là nguyên nhân mà ba tên kia có mặt ở đây.

“Có lẽ nó trốn ở đâu đó rồi đại ca à!” – Một tên lên tiếng, giọng trầm đục vì hút quá nhiều thuốc lá.

“Tìm đi, phải tìm ra con khốn đó trong hôm nay cho tao.” – Tên cao nhòng nói như thể ra lệnh.

Chưa biết xử trí ra sao thì hắn lại to tiếng quát tháo, đốc thúc đàn em của mình.

“Còn đứng ngây ra đó làm gì, tìm đi, nó chưa chạy được xa đâu, chỉ loanh quanh gần đây thôi. Mau lên!”

Tên còn lại co dúm lại, vẻ như khúm na khúm núm. Hắn nháy mắt ra hiệu cho tên còn lại, rồi sau đó chúng tiến về phía Ann và Jiho đang đứng. Họ lo lắng, Jiho dường như á khẩu, có lẽ anh chưa bao giờ gặp phải những chuyện tương tự như thế này. Ann hít sâu lấy lại sự bình tĩnh, dẫu cô cũng đang rất sợ.

“Hai đứa kia có thấy con bé nào vừa chạy qua đây không?” – Một tên hỏi; tay xoay xoay khúc côn như để thị uy.

Lúc này, tên cầm đầu vẫn đứng nhìn từ xa quan sát, đoạn, hắn rút bao thuốc lá ra, châm lửa và rít.

Jiho định lắc đầu nói không, nhưng Ann đã nhanh nhảu lên tiếng, giọng có phần tự tin.

“Dĩ nhiên là có.” – Ann đáp.

Hai tên đàn em mắt như sáng lên.

“Nói mau?” – Một tên gằn lên, giọng hăm dọa.

Ann vẻ như chần chừ, tuy nhiên có chủ đích, nên cất giọng thản nhiên như chẳng có chuyện gì.

“Nhưng tôi cần biết các anh có chuyện gì với cô gái đó, ít ra…”

“Câm mồm!” – Tên cầm đầu nạt nộ bằng một chất giọng nhừa nhựa.

Hắn vất điếu thuốc xuống dưới, lấy chân di một lúc, điếu thuốc nát vụn. Hắn tới gần hơn, nhìn xoáy sâu vào mắt Ann rồi nói tiếp.

“Đừng nhiều chuyện cô em. Nếu như muốn toàn vẹn về nhà thì mau nói đi. Bọn này không đảm bảo tính mạng cho tụi bay đâu. Nói mau!”

Đứng bên cạnh, Jiho mặt như cắt không còn một giọt máu. Tên cầm đầu liếc nhìn anh rồi mỉm cười khinh bỉ.

“Đùa thôi. Tôi cũng chẳng thèm giấu làm gì. Cô ta chạy về đằng kia.” – Ann nói rồi hướng mắt về phía cuối con đường tối thẫm, chẳng nhìn thấy gì.

“Đùa bọn này hả. Nói rõ ra đi cưng?” – Hắn nói.

“Con hẻm cuối đường, cô ta chạy vào trong đó đó.” – Ann đáp gọn lỏn.

Bọn chúng im lặng nhìn nhau, như dò xét, nhưng sau cùng cũng quyết định đi thẳng về phía đó, chẳng còn lựa chọn nào khác.

Đợi cho chúng đi rồi, Ann và Jiho nhìn vào con ngõ tối, có lẽ cô gái vẫn còn đó. Hai người định đi vào thì cô gái từ từ đi ra; có vẻ, cô nàng không còn cảm thấy bị đe dọa nữa. Cô gái cao hơn Ann tưởng tượng, thậm chí còn cao hơn cả cô, tóc búi cao làm tôn lên gương mặt xinh đẹp và thanh tú.

“Cảm ơn anh chị!” – Âm giọng miền Nam trong trẻo từ tốn cất lên.

“Không có gì. Sao em lại chạy trốn bọn nó?” – Ann hỏi.

“Chuyện cũng không có gì, em lỡ đắc tội với tụi nó nên mới ra nông nỗi này.” – Cô gái đáp, giọng buồn tênh, mỏi mệt.

“Thế nhà em ở đâu?”- Ann lại hỏi.

“Em không muốn về nhà.”

Ann ngạc nhiên hỏi tại sao. Rồi cô gái lặng lẽ thú nhận:

“Vì em chưa dám về, sợ tụi nó không tìm thấy rồi phục sẵn ở đó. Em e là chúng đã biết chỗ của em rồi.”

Ann im lặng, Jiho nhìn cô gái, vẻ lo lắng hết sức.

“Nhà chị cũng gần đây, nếu không phiền thì em có thể về ở cùng chị đêm nay. Dù gì chị cũng ở một mình. Đồng ý chứ!”

Cô gái lặng lẽ gật đầu.

“Em tên Lưu Ly. Cảm ơn anh chị một lần nữa.”

***​

Ann đưa cho Lưu Ly chiếc khăn tắm kèm theo một bộ quần áo cũ trong tủ và không nói gì thêm. Cô gái tội nghiệp lẳng lặng đi vào nhà tắm, một lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng xả nước đều đều vang lên trong không gian im ắng, đã hơn mười một giờ đêm rồi. Không gian im ắng vô cùng. Jiho nhắn tin, anh đã an toàn trở về nhà. Họ thống nhất Lưu Ly sẽ qua đêm ở nhà Ann hôm nay để đề phòng bất trắc, trừ trường hợp lũ côn đồ quay lại quậy phá.

Ann lặng lẽ rót một cốc nước, tiện tay bỏ thêm vài viên đá lạnh, rồi uống một hơi, cô cảm thấy bình tĩnh hơn một ít, tuy trong lòng hỗn độn những nghĩ suy mà tạm thời không thể định hình được. Đoạn, chẳng biết nghĩ gì, cô bèn đứng dậy với tay lấy chồng đĩa nằm bên trên tủ đầu giường, lựa nhanh một đĩa CD rồi tra vào máy hát, bấm nút, những giai điệu dìu dặt, sâu lắng của Frank Sinatra vang lên, dường như rất phù hợp với không gian hiện giờ. Ann thả mình xuống giường, thở ra một hơi mỏi mệt. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi nhưng Ann đã biết kha khá thông tin về Lưu Ly, cô bé nhỏ hơn Ann một tuổi, là người Sài Gòn, do bất đồng quan điểm với ba mẹ nên Lưu Ly quyết định tạm rời xa họ một thời gian để suy nghĩ. Những câu nói ngây ngô, Ann suýt nữa bật cười trước những cụm từ như “bất đồng quan điểm” hay “thời gian để suy nghĩ”, nhưng khi thấy ánh mắt hiện rõ sự chân thành, đáng thương của Lưu Ly thì cô bỗng ngừng lại vài giây. Dẫu Lưu Ly chỉ nhỏ hơn cô một tuổi nhưng cô bé vẫn chưa biết tự lập, chưa có kinh nghiệm sống và hơn cả chỉ là sự bồng bột của một cô tiểu thư con nhà khá giả ở ngưỡng chạm tuổi đôi mươi. Ann không chắc những phân tích của mình có thực sự đúng không nhưng cô thấy đồng cảm với Lưu Ly, ai mà chẳng có những giây phút, quyết định sai lầm, nhất là của tuổi trẻ.

Tạm gác bỏ những suy nghĩ hỗn độn đó qua một bên, Ann chìm đắm trong giai điệu Come fly with me của Frank Sinatra. Lưu Ly đã tắm xong, cô bé đi ra, bận trên mình bộ quần áo cũ của Ann nhưng vẫn thu hút ánh nhìn của người đối diện. Lưu Ly sở hữu một đôi mắt trong sáng và ngây thơ, dễ hạ gục người đối diện nếu nhìn xoáy sâu vào trong đó.

“Frank Sinatra?” – Lưu Ly lên tiếng.

Ann mỉm cười, gật đầu.

“Em có một bộ sưu tập những CD của ổng, nhưng tiếc là em không mang chúng đi.”

“Chị mê Frank từ hồi học cấp III, có lẽ do ảnh hưởng từ mẹ chị. Sau này chị thích một phong cách sôi nổi hơn, nhưng chị tin Frank hồi còn trẻ có lẽ cũng rất nổi loạn.”

Lưu Ly chỉ cười rồi từ từ ngồi xuống giường, như vẫn còn e dè. Ann thu gọn chân mình lại.

“Em có thích hát không Lưu Ly?” – Ann buột miệng, chẳng hiểu sao cô lại hỏi như vậy.

Lưu Ly gật đầu, rồi cô bé thao thao bất tuyệt một tràng dài bất tận khi nói về niềm đam mê âm nhạc của mình. Thực lạ lùng, Ann trộm nghĩ, phải chăng như một định mệnh khi âm nhạc đã kết nối họ lại với nhau, tựa như những mảnh ghép tuổi trẻ, mỗi người đều mang trong mình một quá khứ riêng và song song cùng nó là niềm đam mê bất tận với những giai điệu – một điểm kết nối và níu giữ, một tiếng nói chung. Như định mệnh, giờ đây trong đầu Ann chỉ hiện lên hai từ đó.

Họ tiếp tục nghe những giai điệu của Frank cho tới tận khuya, rồi thiếp đi trong những cơn mơ bồng bềnh trôi nổi, mỗi người lại đeo đuổi những suy nghĩ của riêng mình. Và đâu đó, giữa khoảng mênh mang bất tận của cuộc đời, hơn hết là sự đồng cảm mà họ dành cho nhau.

***​

“Mình quyết định rồi, nên để Lưu Ly thử giọng xem sao?” – Ann nói.

Cô và anh đang ngồi ở quảng trường, giữa trung tâm thương mại. Tay vẫn cầm nguyên cốc cà phê âm ấm, thoảng hương thơm phưng phức.

“Thử giọng?” – Jiho hỏi lại, giọng điệu hết sức ngạc nhiên.

Ấn tượng trong anh về Lưu Ly vẫn chưa thực sự rõ rệt, đâu đó ẩn chứa trong cô gái nhỏ là một thứ gì chưa thực sự chắc chắn. Chúng mong manh và dễ dàng đổ ụp xuống bất cứ lúc nào chẳng hay. Nhưng khi nhìn thấy sự kiên quyết trong ánh mắt của Ann thì anh lại mềm lòng.

“Nên cho Lưu Ly một cơ hội, vì hoàn cảnh của cô bé thật sự rất tội nghiệp. Mình đã nghe Lưu Ly tâm sự rất nhiều.”

Rồi sau đó, Ann nói thêm, cô cũng đã suy nghĩ rất nhiều giờ đồng hồ để đi tới quyết định này, cô không thể bỏ rơi cô bé, một nỗi sợ hãi mơ hồ dâng lên trong lòng như một điềm báo, nếu như không đưa tay ra nắm lấy tay cô bé thì mọi thứ sẽ trôi đi với tốc độ khủng khiếp; và khi ấy, chẳng biết điều gì tồi tệ hơn sẽ xảy đến.

Jiho đồng ý, họ sẽ sắp xếp một buổi hẹn sau đó.



***​

Từ ban công tầng 18 của tòa nhà, Lưu Ly nhìn xuống những con đường lắt léo. Giờ cao điểm, từng dòng xe cộ chầm chậm qua lại, nối đuôi nhau như lũ kiến đang tha mồi về tổ thành hàng dài bất tận. Chưa bao giờ cô thích thành phố này, những đô thị chật hẹp ngổn ngang, những tòa nhà cao thấp lô nhô mọc lên tựa như những hình khối nặng nề, buồn thảm. Cô độc và nặng nề. Như cảm giác đè nặng tâm trí mình sau một ngày mệt nhoài rong chơi với những điều mới lạ. Hay sau một cuộc đuổi bắt giữa một bên đóng vai nạn nhân và một bên là kẻ săn mồi hung ác rình rập. Dường như chẳng có một thỏa thuận nào giữa hai bên, cũng chẳng bao giờ có chuyện mọi thứ được dựng lên như một vở kịch, ấy vậy mà cuộc sống buộc ta phải diễn, trải qua những lớp lang khác nhau của những vở kịch, và chúng ta nghiễm nhiên trở thành những diễn viên không hơn.

Chiều nay, má có nhắn tin cho Lưu Ly, bảo rằng, đã chuyển tiền vào tài khoản như yêu cầu của cô, và dĩ nhiên không thể cho ba biết. Thử tưởng tượng mà xem, ông ấy sẽ nổi xung lên như thế nào khi biết chuyện đó vẫn diễn ra đều đặn hằng tháng; mà cũng có thể, ba đã biết và ông chẳng thèm quan tâm tới chuyện đó. Những thứ ông quan tâm chỉ là gói gọn trong vài từ ngữ - đầu t.ư, chứng khoán, nhà đất, nghỉ dưỡng và những bữa tiệc xa hoa của tầng lớp thượng lưu. Có những lúc má khóc trong vài cuộc trò chuyện gần đây; má bảo cô trở về đi, rồi xin ba tha thứ. Tha thứ ư? Thật nực cười khi cô chẳng làm gì có lỗi! Lòng tự trọng dâng lên khiến Lưu Ly dường như càng quyết tâm hơn, má buộc phải đồng ý, không thể làm cách nào khác được. Má luôn như thế - luôn sợ hãi, khúm núm trước uy thế của ba; cả cuộc đời bà sẽ chẳng bao giờ làm trái ý ba, nhất mực theo ý ông, lặng lẽ làm một người vợ, sống cuộc sống xa hoa và buồn tẻ. Nhưng Lưu Ly thì không vậy? Cô có đam mê, khát khao và mục đích của đời mình, mà không ai có thể ngăn cản được. Nghĩ vậy Lưu Ly càng quyết tâm hơn. Cô háo hức tới cuộc hẹn với Ann và Jiho - hai người mà cô nghĩ rằng, họ không phải là những diễn viên trong vở kịch cuộc đời được nghiễm nhiên dựng lên. Giống như thứ định mệnh trói buộc mà chúng ta không thể nào biết trước được chuyện gì.

Chẳng thể nghĩ được gì hơn, Lưu Ly quay vào nhà, sửa soạn vài thứ cho buổi hẹn. Phía xa xa con sông Hồng đục ngầu đang trở mình ngái ngủ, trước khi màn đêm buông xuống nhấn chìm mọi thứ trong sự bình yên, tĩnh lặng.

***​

Họ hẹn nhau tại một quán cà phê yên tĩnh trên đường Tô Hiệu, trời cuối thu đầu đông, không khí dần trở lạnh như xóa sạch dấu vết của một mùa hè oi bức và nóng nực. Thi thoảng, một trận mưa rào đột nhiên đổ xuống cũng đủ để người ta luyến lưu dư vị của mùa cũ.

Ann và Jiho đã tới trước, họ đang trò chuyện, cười đùa vui vẻ. Lưu Ly tiến lại gần, nay cô mặc một bộ đầm trắng khiêm nhường và giản đơn, họa tiết hoa lưu ly màu xanh nhạt. Chân đi giày bệt, tóc búi cao gọn gàng càng làm tôn lên vẻ hài hòa, cân đối trên gương mặt xinh đẹp thanh tú. Ann nhìn thấy cô từ xa, bèn vẫy lại gần.

Quán khá yên tĩnh và vắng vẻ nên có thể tiện cho việc thử giọng mà không gây ảnh hưởng gì. Thi thoảng cũng có vài nhóm người yêu nhạc tới đây để giao lưu, nhưng không được tổ chức thường xuyên như ở Les Jeunes.

“Chào anh chị!” – Lưu Ly cất tiếng rồi lẳng lặng ngồi xuống.

Ann mỉm cười chào lại, rồi vẫy tay với người phục vụ. Lưu Ly chọn ngay một món đồ uống rồi họ bắt đầu vào việc.

Ann bèn lên tiếng:

“Trên tinh thần chị và Jiho đã trao đổi với nhau thì chị rất vui khi em đồng ý tham gia cùng với bọn chị.”

“Đó là vinh hạnh của em, nên chẳng cớ gì mà em lại từ chối cả.” – Lưu Ly trả lời với giọng điệu hào hứng.

“Vậy chúng ta bắt đầu ngay đi.” – Ann nói. Đồng thời ra hiệu cho Jiho lấy cây đàn ghi-ta.

“Sẵn sàng chưa?” – Jiho hỏi, tay ôm ghi-ta, những ngón tay đặt hờ trên dây đàn.

Lưu Ly gật đầu. Jiho bắt đầu gảy đàn; những thanh âm đầu tiên phát ra, nhẹ nhàng, trong trẻo như những giọt sương sớm mai hãy còn đọng lại trên những nhánh cỏ non tơ của buổi chớm xuân.

Lưu Ly bắt đầu hát, giọng nữ trung không quá cao, với những nốt bỏ nhỏ đầy tinh tế và khêu gợi, đôi khi là một kỹ thuật hát như thể được đào tạo bài bản tại trường lớp, nhưng có những trường đoạn lại vô cùng bản năng. Ann nhắm mắt phiêu theo những giai điệu, như cánh chim tự do bay trên bầu trời xám xịt. Và như một ai đó đã từng nói, khi ấy, những bức tường thành dần sụp đổ, chỉ còn giai điệu của tự do, của khát khao mãnh liệt, cháy bỏng.

Vài người ngoái nhìn lại chiếc bàn của họ, thậm chí có người đã vỗ tay tán thưởng, điều đó làm Lưu Ly ngại ngùng, mặt đỏ ửng lên sau khi hát xong.

“Tuyệt vời!” – Jiho bèn nói, giọng phấn khích lạ thường.

Ann cũng thấy vậy nhưng cô chẳng biết nói gì, khi tâm trạng lâng lâng cuốn theo nhịp điệu của bài hát, của ca từ. Một cái tôi hoàn toàn khác, Ann nghĩ vậy; khi hát, Lưu Ly như trở thành một con người hoàn toàn khác, sự mong manh yếu đuối chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che giấu đi nội tâm mạnh mẽ, sự hoang dại đẹp đẽ bên trong. Ann đã có cái nhìn hoàn toàn khác về Lưu Ly sau khi nghe cô hát.

“Giọng em hôm nay không được tốt cho lắm! Em hứa sẽ luyện tập thêm.” – Lưu Ly lên tiếng.

“Không sao, vậy là quá tuyệt rồi, phải không Jiho!?” – Ann nói.

Sau đó, cô thúc giục Jiho trình bày ý tưởng của anh cho Lưu Ly biết. Ý tưởng về việc thành lập một nhóm nhạc tự phát, trước mắt sẽ đi giao lưu ở các quán cà phê âm nhạc, sự kiện âm nhạc ở các trường đại học.

Chờ Jiho tua xong một tràng dài, Lưu Ly đáp gọn lỏn, ngay tắp lự.

“Em đồng ý, chẳng có lý do gì để từ chối cả.”

“Hay quá, vậy từ nay chúng mình thành một nhóm rồi.” – Ann thốt lên, tự hào.

***​

Lưu Ly về nhà thì nhận được tin nhắn của má, bảo ba đã phát hiện ra chuyện bà lén lút gửi tiền trợ cấp sinh hoạt cho cô. Tâm trạng liền trùng xuống sau đó, nhưng chẳng thể làm gì hơn, dẫu sao từ bây giờ, cuộc đời Lưu Ly cũng đã rẽ sang một hướng khác mà cô biết chắc rằng, rồi từ đây mọi thứ sẽ đổi thay.

Má nhắn thêm, bảo cô về nhà đi, bà sẽ thuyết phục ba tha thứ cho cô, dù gì cô cũng là đứa con gái duy nhất của họ, nếu như chuyện đồn đại ra ngoài thì chẳng hay chút nào. Không đời nào, Lưu Ly tự nhủ, còn chuyện gì mà cô chưa dám làm, vả lại cô chẳng làm gì có lỗi với ba, sao lại phải xin lỗi ông? Tại sao má lại nghĩ tới chuyện phải thuyết phục ông để cô có thể trở về nhà, có lẽ má đã lo quá xa, hay trong lòng má dẫu rất thương Lưu Ly, nhưng thứ tình thương ấy, đôi khi chỉ dừng lại ở chừng mực nào đó, còn có thứ đứng trên cả nó, hẳn là sự nể trọng, kính nhường mà má dành cho ba suốt mấy chục năm nay. Bà lặng lẽ đóng vai một người vợ hiền thục của ông, chẳng bao giờ dám cãi lại, nhưng Lưu Ly thì không phải như vậy.

Dở dang việc học ở một trường đại học danh tiếng, mười chín tuổi Lưu Ly quyết định đi du lịch từ Nam ra Bắc. Điểm dừng chân cuối cùng là ở đây, thành phố này. Lưu Ly chưa vội nhắn tin trả lời má, không cần thiết, cô trộm nghĩ. Có lẽ ba cũng chẳng thấy phiền hà gì về chuyện này, thậm chí ông còn muốn cô đi thật xa, tránh xa cái gia đình hiện tại của họ. Có thêm cô thì mọi chuyện chỉ rối lên như tơ vò mà thôi. Nhớ cái lần phát hiện ra ba đang tằng tịu với một cô gái trẻ, cô làm to chuyện lên, nhưng những gì nhận lại chỉ là một cái tát trời giáng - cái tát, có lẽ là duy nhất mà má dành cho cô. Bà cho rằng, Lưu Ly đã quá lỗ mãng và vô lễ với ba, người có ơn sinh thành. Sau chuyện đó, cô buông xuôi tất cả, để đi con đường riêng của mình.

Má đã khóc rất nhiều khi cô bỏ đi. Dù cố gắng can ngăn, thuyết phục thế nào, cuối cùng, má cũng đành câm lặng. Có người nói, tính cô giống ba hơn là giống má, nhưng tại sao hai cha con lại không thể nói chuyện.

Cái “sân khấu” gia đình ấy được dựng lên, được bao phủ bởi một căn biệt thự sang trọng hàng tỷ đồng, chiếc xe hơi đắt tiền hạng sang, những bộ quần áo lộng lẫy, xúng xính của hàng loạt những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Ba má khoác lên người cô những thứ hào nhoáng, giả hiệu đó chỉ để minh chứng rằng, họ đang là một gia đình mà người khác nhìn vào đều nghĩ họ đang thật sự hạnh phúc, đang thực sự hài lòng bởi những gì mình đang có. Sau rốt, họ, tất cả họ chỉ đang làm tốt công việc, làm tốt vai diễn của mình trong cái “sân khấu”, trong “vở kịch” mang tên gia đình ấy mà thôi. Cả ba, cả má, cả Lưu Ly đều vậy. Lưu Ly đã từng tự hỏi, tại sao má vẫn lặng lẽ khóc thầm trong những đêm khuya vắng khi ba chưa trở về, không biết đang bận bịu công việc hay vướng bận bên một người nào đó? Tại sao ông không tới dự lễ tốt nghiệp cấp III của Lưu Ly. Tại sao? Cô đang thầm trách móc họ ư? Cô chẳng biết, như cánh chim lạc lối biết khi nào mới lại có thể trở về.

Sự mệt mỏi, chán chường tạm thời choán lấy và thiêu rụi ý nghĩ của Lưu Ly khiến cô chẳng nghĩ được gì hơn nữa. Lúc này, cô chỉ cần một giấc ngủ thật sâu. Và đâu đó, trong cơn mộng mị chập chờn, sẽ chẳng còn những hào nhoáng, xa hoa và giả tạo. Tất cả đều trở về đúng với bản chất, con người thật của mình. Ở nơi đó, Lưu Ly thấy mình đang đứng hát, Jiho đệm đàn, anh mỉm cười, nhắm mắt. Họ cùng nhau phiêu theo những giai điệu của tự do, của tuổi trẻ.
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG V

NHỮNG MẢNG MÀU ĐEN TỐI

Dahlia tới Les Jeunes sớm hơn bình thường; còn khoảng hai tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ làm việc. Nghe thực nực cười khi sử dụng động từ đó, nhưng về bản chất thì cô đang đi làm mà, đâu còn những ngày tháng thong dong, tự do tự tại như trước nữa. Không tiền nong, không công việc, không giờ giấc và không ai quản lý. Dẫu có nhắm mắt thật lâu trong bóng tối thì cô cũng chẳng thể nào hình dung rõ ràng.

Người phục vụ trẻ tuổi mang ra một ly chanh muối ấm, có lẽ thức uống này sẽ tốt cho cổ họng của cô – thứ công cụ kiếm tiền hiện có. Thật mỉa mai làm sao, nhưng giờ đây có lẽ, Dahlia đã quá quen với nó rồi. Đam mê và hào quang ư? Giờ, chỉ còn những xa hoa, phù phiếm, như thứ ánh sáng xanh kỳ ảo bên bờ kia của đại dương mênh mang, thứ mà Jay Gastby sẽ chẳng bao giờ chạm tới. Khá nhiều người cho rằng, Daisy là một người phụ nữ đáng nguyền rủa nhưng trong tình cảnh ấy, lựa chọn đó với Dahlia là hoàn toàn chấp nhận được, cô luôn cảm thông cho nhân vật Daisy.

Người phụ nữ ngoại quốc đột ngột bước vào gian phòng, cắt ngang dòng suy nghĩ của Dahlia, lôi cô về với thực tại và thu hút ánh nhìn của cô. Những hình ảnh hỗn độn về cuộc tiếp xúc ngắn ngủi giữa Dahlia và bà ta vẫn không thôi ám ảnh trong tâm trí, thậm chí cả khi đi ngủ. Những giấc mơ không rõ ràng, đứt đoạn và rời rạc, giờ đây một lần nữa như chuyển động không ngừng trong một không gian tăm tối, luôn mất phương hướng. Một cảm giác gì đó rất lạ mà tạm thời Dahlia không thể nào gọi tên.

Nhấp thêm một mụm nước nữa, Dahlia cảm thấy mọi thứ bỗng trở nên lạnh ngắt. Người phụ nữ bận trên mình một bộ váy buông dài qua đầu gối với những họa tiết rằn ri tông màu trầm chẳng rõ hình thù, như thể bà ta đã mang cả một thế giới siêu thực và trừu tượng vào trong chiếc váy đó vậy. Tiếp tục quan sát, khi ấy người phụ nữ lặng lẽ ngồi xuống, lúc này Dahlia mới để ý thấy bà ấy còn mang thêm một chiếc giỏ mây xăng-đan có thêu họa tiết là quốc kỳ của Pháp ở bên ngoài.

Khéo léo để sang bên cạnh, đoạn, người phụ nữ lấy từ trong giỏ ra một bao thuốc và bật lửa. Rồi, bà lôi ra một cuốn sách cỡ lớn, trông giống một loại sách tranh ở những cửa hàng trưng bày họa phẩm. Bà châm lửa, khẽ rít nhẹ, lặng lẽ nhả khói ra khoảng không gian có phần thiếu sáng, từng lọn khói mỏng mảnh vảng vất, quẩn quanh. Ánh mắt màu xám chăm chú nhìn vào cuốn sách tranh, thảng hoặc, người phụ nữ khẽ nhíu mày, nhăn trán, ra vẻ suy nghĩ, rồi tiếp tục rít thuốc. Cứ như thế, hết điếu này tới điếu khác. Và chẳng hiểu sao như một thứ ma lực mạnh mẽ và thu hút, Dahlia chăm chú nhìn những hành động đó hệt như một đứa trẻ đang dán ánh mắt vào một khung cảnh vô cùng kỳ thú trong vườn bách thú hay viện bảo tàng.

“Dahlia…” – Có lẽ phải tới lần thứ ba Đức gọi thì Dahlia mới nghe thấy.

Sự bối rối, thẹn thùng hiện rõ trên gương mặt cô, hy vọng Đức không để ý thấy.

“Em… nghe đây.” – Dahlia nói.

“Sắp đến giờ diễn rồi! Mau chuẩn bị đi!” – Đức thúc giục.

“Em vào ngay đây! Anh đã dặn mọi người trong ban nhạc rồi chứ?”

“Anh dặn rồi.”

Dahlia mau lẹ đứng dậy, không quên liếc mắt nhìn sang phía bên kia chiếc bàn, khi ấy người phụ nữ đã không còn ở đó nữa. Thật kỳ lạ, chẳng còn gì, người phụ nữ tan biến như làn khói.

Người phụ nữ cũng không hề xuất hiện sau khi Dahlia hát xong; một mình bên quầy bar, cô vẫn gọi cho mình một ly cocktail trứ danh Margarita của Mexico, lặng lẽ nhấm nháp. Mọi đồ uống đều miễn phí với Dahlia - Đức đã tuyên bố như vậy, một đặc quyền riêng cho vị khách mời đặc biệt của Les Jeunes. Dahlia nhấp thêm vài mụm thì cảm thấy hơi chếnh choáng; phía bên kia chiếc bàn, nơi cô đã chăm chú nhìn cả tiếng đồng hồ, vẫn trống trơn. Cô thử dò hỏi tay bartender thì gã chỉ nói, đó là một phụ nữ người Pháp và là khách quen của quán, bà ta đã tới đây được một thời gian.

Trở về nhà với tâm trạng trống rỗng hơn thường lệ, hơi men ngấm sâu vào người khiến Dahlia hơi ngà ngà, bước đi loạng choạng. May thay, cuối cùng cũng về được tới nhà. Thông thường cô sẽ ngả lưng ngay xuống giường và nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Nhưng lần này, mắt cô lại thao láo nhìn lên trần nhà sơn màu be, đã bong tróc vài chỗ. Vắt tay lên trán vẻ nghĩ suy, Dahlia chẳng hiểu thứ gì đã khiến mình trở nên như vậy. Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi với người phụ nữ lại hiện về trong tâm trí, nó khiến cô bối rối, bởi lẽ cô đã tỏ ra bất kính với một người hơn tuổi, và như bà ta đã nói, bà hâm mộ cô. Nhưng chẳng hiểu sao khi ấy, những nỗi ngờ vực lại dâng lên trong lòng như bức màn ngăn cách khiến cho tâm trí cô bị che lại trong màn sương mịt mùng, dày đặc.

***​

“Họa sĩ tranh trừu tượng?” – Dahlia không ngần ngại bày tỏ sự ngạc nhiên khi Đức nói với cô điều đó.

Đức gật đầu xác nhận một lần nữa. Buổi giao lưu ngày thứ Bảy thường đông người hơn; từng tốp người di chuyển vào quán, một vài gia đình còn dắt díu thêm cả con nhỏ, những cặp tình nhân trẻ hay những người cô đơn đang tìm chút gì đó để lắng lòng mình lại, suy ngẫm. Phải chăng, người phụ nữ ngoại quốc cũng đang tìm kiếm thứ gì đó, ở đây! Dahlia trộm nghĩ.

“Có lẽ hôm nay bà ấy cũng sẽ tới, thông thường bà ấy không bỏ qua một buổi giao lưu âm nhạc nào vào ngày thứ Bảy.” – Đức nói tiếp.

Dahlia im lặng. Khi ấy Đức đứng dậy; buổi giao lưu âm nhạc sẽ diễn ra sớm hơn thường lệ.

“Jacqueline!”

“Gì cơ?”

“Tên bà ta là Jacqueline. Ai đó đã nói với anh, nhưng anh không nhớ rõ.” – Đức cười, nói ẩn ý, rồi mau chóng lủi vào trong phía sau sân khấu.

Tiết mục giao lưu của Dahlia được xếp lịch sớm hơn để nhường chỗ cho tiết mục giao lưu của một vài nhóm nhạc trẻ mới nổi trên mạng internet. Đức thông báo, nhưng dường như Dahlia không quan tâm tới chuyện đó; cô đã đi quá xa thời đại của mình rồi - nơi tuổi trẻ bị vùi lấp bởi những giấc mơ viển vông, như ngôi sao băng vụt nhanh qua bầu trời mà chẳng để lại chút dấu vết.

Hát xong, như thường lệ, cô tiến về phía quầy bar, gọi cho mình một ly, tính uống xong sẽ về nhà, đánh một giấc tới tận sáng mai. Có những tháng ngày Dahlia đi về như một cái bóng, lặng lẽ và vô hồn, trong khi ngoài kia cuộc sống vẫn đang không ngừng biến động, từng ngày, bao thứ đã đổi thay, ngay cả lòng người cũng vậy. Cô cười khẩy rồi nhấp thêm một mụm rượu nữa.

Khi ấy, bên cạnh cô, người phụ nữ ngoại quốc với mái tóc màu xám, xoăn dày đã xuất hiện. Bà lặng lẽ gọi một ly bourbon như mọi khi.

“Jac... Jacqueline phải không?” – Dahlia hít một hơi thật sâu lấy lại bình tĩnh rồi nói, thú thực, giọng cô có phần run run.

Người phụ nữ ngạc nhiên quay lại, nhìn cô, xoáy ánh mắt màu xám sâu thẳm – một ánh nhìn trực diện khiến đối phương có phần bối rối.

“Tại... tại sao cô biết tên tôi?” – Jacqueline hỏi lại.

“Đức đã nói với tôi.”

“Ra thế.”

“Bà là họa sĩ tranh trừu tượng?” – Dahlia hỏi.

Jacqueline gật đầu.

“Nếu được, bà có thể cho tôi xem một số bức tranh của bà được không?” – Dahlia đi thẳng vào mục đích của cô, cuộc trò chuyện đường đột này, và hy vọng bà ấy sẽ không cảm thấy sự lỗ mãng của mình.

Jacqueline ngạc nhiên hết sức, nhưng sau đó bà gật đầu đồng ý ngay, ánh mắt như ánh lên một niềm kiêu hãnh khôn tả.

Rồi sau đó, Jacqueline lôi từ trong túi xách xăng-đan quen thuộc của bà ra một tập sách tranh như được bày bán đại trà trên các cửa hàng họa phẩm ở phố Yết Kiêu. Jacqueline nói, đã scan chúng ra và in thành tập sách tranh để làm kỷ niệm, dưới mỗi bức tranh có kèm thêm thông tin ngày hoàn thành, tên tác phẩm và chữ ký của bà.

Dahlia cầm tập sách tranh trên tay, tò mò hệt như một đứa trẻ đang đứng trước cánh cửa mở ra những thế giới bí ẩn, đầy sắc màu. Duy chỉ khác ở chỗ thế giới trẻ thơ sẽ chẳng bao giờ u tối như thế giới trong bức tranh trừu tượng của Jacqueline. Nội tâm con người, truy tìm những bản ngã cuộc đời, hành trình tìm kiếm lại chính bản thân mình, những giấc mơ bị đánh cắp, có lẽ là nội dung chính của những hình hài đang phản chiếu lấp lánh trong ánh mắt của cô. Dahlia thấy lòng mình như lắng lại đôi chút, nhưng chẳng thể tìm thấy sự bình yên nào cả trong mớ những hỗn độn, mơ hồ ấy.

“Dòng chữ này nghĩa là gì?” – Lần tay theo dòng chữ ngay ngắn được viết bằng tiếng Pháp phía bên dưới bức tranh, Dahlia tỏ ra thắc mắc.

“Giấc mơ của người mẹ trong căn phòng đóng kín.” – Jacqueline dịch từng từ; một lát sau bà mới nghĩ ra, có nói thì Dahlia cũng đâu hiểu được, cô không biết tiếng Pháp.

Trong khi đó, Dahlia lại hướng ánh mắt về phía Jacqueline, không giấu khỏi sự ngạc nhiên.

Jacqueline chỉ cười, hít một hơi thật nhẹ như thể bà sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của cô.

“Tôi dành tặng bức tranh này cho mẹ mình, chỉ tiếc là bà ấy đã mất, không còn trên đời nữa.”

“Xin lỗi bà, tôi không có ý gì...”

“Không sao, chuyện đã xảy ra quá lâu nên có lẽ tôi chẳng nhớ được bao nhiêu. Đây cũng là một trong những bức tranh hiếm hoi tôi vẽ về bà ấy. Có thể coi là duy nhất.”

Một thứ gì đó giống như cuộc đời, tới đoạn đó, dường như Jacqueline khó có thể diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ khác so với ngôn ngữ mẹ đẻ của bà. Vô thức trong cuộc trò chuyện, Jacqueline buột miệng nói chêm vài câu tiếng Pháp, rồi sau đó bà dịch nghĩa sang tiếng Việt, để Dahlia có thể hiểu những gì mà mình đang muốn truyền đạt lại.

“Mẹ bà đã ở đâu? Ý tôi là trong không gian này?” – Dahlia hỏi, đồng thời chỉ tay vào bức tranh trước mặt cô, góc bên phải cuốn sách có chữ ký của Jacqueline và dòng chữ nhỏ, ngay ngắn viết bằng tiếng Pháp - “Pour Maman”, nghĩa là dành tặng mẹ thân yêu.

Jacqueline ghé đầu nhìn sát vào bức tranh, có lẽ ánh sáng hơi nhập nhoạng, đoạn bà lôi từ trong túi ra một cặp kính tròn, viền vàng óng ánh. Lặng lẽ quan sát, Jacqueline trầm t.ư một hồi như thể đang cố gắng sắp xếp những từ ngữ trong đầu mình - thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ. Chẳng có thời gian, bà hy vọng Dahlia có thể hiểu những gì mình sẽ nói.

“Cô có nhìn thấy một gương mặt nằm trong đống... hỗn độn này không?” – Jacqueline chỉ tay vào những hình khối lộn xộn, không trật tự trong những bức tranh.

Những hình thù đặc trưng, có cái giống như khối lô cốt nặng nề nằm trên bãi cỏ trong một khu quy hoạch bị bỏ hoang. Có cái giống như những lon nước, chiếc hộp bị bóp méo nằm im lìm trong bóng tối của nhà kho, nếu ánh sáng lọt vào, ta dễ dàng nhìn thấy một lớp bụi bặm đang bám đầy trên đó theo thời gian. Và có những hình khối hệt như cách điệu từ gương mặt những con người - mỗi con người đều có những tâm trạng khác nhau, hay đúng hơn, đó là những sắc thái biểu cảm, buồn, vui, giận hờn, đau khổ và cả sự tuyệt vọng. Tất cả trộn vào nhau, tạo nên một bối cảnh mơ hồ, trống rỗng mà Dahlia có nằm mơ cũng chẳng thể nào hiểu nổi.

“Đây ư?” – Dahlia chỉ tay vào một hình khối bất kỳ mà cô cho rằng nhân vật trong tranh đang tỏ ra hết sức tuyệt vọng.

Jacqueline gật đầu, thoáng chút buồn gợn trong đôi mắt của bà, như thể ta đang nhìn về phía đại dương mênh mang, vài chiếc thuyền nho nhỏ đậu đằng xa như chấm đen lọt thỏm giữa màu xanh vô tận, thăm thẳm.

“Bà ấy đã chết trong cô độc, bọc quanh mình là những nỗi cô độc, và chẳng ai có thể nhìn thấu được là bà ấy đang nghĩ gì, sẽ làm gì...”

Jacqueline dừng lại, ngập ngừng, chút gì đó nghẹn ngào, một xúc cảm mãnh liệt chực trào dâng trong lòng nhưng bà đang cố gắng kìm nén để chúng không vỡ bung ra thành trăm mảnh, huống hồ giờ bà không ở một mình. Jacqueline xin lỗi, Dahlia bảo không sao, cô hiểu. Rồi sau đó, bà xin phép cô hút một điếu thuốc để lấy lại bình tĩnh. Không phiền, Dahlia nói. Jacqueline lặng lẽ rút một điếu thuốc từ trong bao ra, châm lửa, rít nhẹ một hơi. Làn khói nhẹ nhàng phả ra trong không khí đượm buồn, đâu đó từ phía bên kia sân khấu ngăn cách bằng những tấm rèm nhung màu đỏ đun, một ca sĩ đang cất lên giọng ca có phần da diết, ảo não. Một người vợ mỏi mòn chờ thông tin của người chồng nơi chiến trận, dù bặt vô âm tín, nhưng vẫn đợi trông, mỏi mòn, tuyệt vọng.

“Cứ mỗi lần nhắc tới bà ấy, hay xem lại bức tranh này, tôi đều cảm thấy như vậy, xúc động.”

Dahlia bỏ lửng cuốn sách lên mặt quầy, ánh mắt vô định nhìn về phía bên quầy để những chai rượu nhiều chủng loại khác nhau; ánh sáng phản chiếu trên vỏ chai, lóng lánh.

“Dù tôi không hiểu gì về tranh trừu tượng, nhưng có lẽ mỗi bức tranh, mỗi tác phẩm của người nghệ sĩ đều ẩn chứa những câu chuyện khác nhau, dẫu rất buồn.”

Dahlia thực sự cảm thấy khá ấu trĩ trước câu nói của mình. Jacqueline gõ gõ điếu thuốc xuống gạt tàn, rồi bà khẽ cười.

“Tôi đã không ở bên cạnh mẹ mình trong những năm tháng cuối cuộc đời bà.”

“Vậy bà đã ở đâu khi đó?”

“Thành phố Orlando. Nơi cách xa Paris hàng ngàn cây số.”

“Có phải thành phố nằm trên bán đảo Florida không?”

“Đúng rồi, Florida, nếu nhìn sang bờ bên kia là đảo quốc Cuba. Có một thời gian cha tôi đã từng nghiên cứu vi sinh ở La Havana, trong một ngôi nhà cũ ba tầng chỉ cách vài cây số là sang tới căn nhà Finca Vigia của Ernest Hemingway, nơi mà Những hòn đảo quanh dòng nước ấm đã từng được viết ra.”

Jacqueline hỏi thêm, cô có biết cuốn sách đó không? Dahlia lắc đầu, có lẽ, mẹ cô sẽ biết nhiều hơn về những cuốn sách, giá mà bà còn sống thì hay biết mấy.

Đột nhiên im lặng, Jacqueline bèn đưa diếu thuốc đang cháy dở lên môi, rít một hơi thật dài, rồi lặng lẽ nhả khói, ánh mắt trở nên mơ màng. Dahlia chăm chú lắng nghe câu chuyện.

Jacqueline tiếp tục, giọng bà đã không còn xúc động như trước nữa; sâu thẳm trong ánh mắt màu xám ấy là một sự can trường, mạnh mẽ hiếm có của người phụ nữ trạc tứ tuần, đã trải qua những thăng trầm cuộc đời.

“Lần đó, ba tôi đã gọi điện báo, nhưng tôi không thể về được, còn vướng một số thứ. Đúng hơn là tôi đã không muốn về.”

“Tại sao?”

“Bởi vì tôi sợ, mơ hồ. Nỗi sợ ấy mơ hồ.”

Jacqueline miêu tả nỗi sợ hãi của bà bằng những từ ngữ rời rạc, đôi khi chen vào vài từ tiếng Pháp. “Regretter”, sự hối tiếc. Bà tiếc rằng, mình đã không chịu học cách lắng nghe, bởi tuổi trẻ ai cũng từng sa ngã, từng bồng bột. Đôi khi ta biết chắc vấn đề nhưng vẫn mắc những sai lầm.

“Tôi sợ nhìn thấy hình ảnh của bà, khi già nua, dù mẹ tôi rất đẹp, ai cũng cho rằng mẹ tôi rất đẹp...” – Jacqueline cười khẩy... – “có lẽ tôi không may mắn thừa hưởng những gen đó từ bà, người ta bảo tôi giống cha mình hơn. Tôi thích những chuyến phiêu lưu, những vùng đất mới, như Florida chẳng hạn, cái rốn của những cơn bão nhiệt đới. Tôi đã sống sót qua bão Keith và nhiều cơn bão khác nữa. Nhưng còn cơn bão này…”

Jacqueline ngập ngừng, không thể nói, bởi lẽ bà chẳng biết cách diễn tả ra sao. Thấy vậy, Dahlia bèn tiếp lời.

“Cơn bão từ gia đình của bà, mẹ bà.”

Jacqueline gật đầu tiết lộ thêm, mẹ bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ về tâm lý – Cryptomnesiahay, còn gọi là hội chứng “Hidden Memory - Ký ức ẩn giấu.”

“Bà ấy không thể phân biệt được các sự kiện, nói một cách đơn giản là không thể biết đâu là ranh giới giữa hiện thực và mơ. Tôi nhớ có một lần, bà ấy không thể nhận ra tôi. Tôi là con gái bà, nhưng bà lại nói, tôi là một người bà đã gặp ở đâu đó mà không thể nhớ ra. Rồi thậm chí, bà khăng khăng khẳng định bố tôi chính là nam diễn viên huyền thoại người Pháp Alain Delon nữa chứ. Thật lạ lùng!” – Jacqueline cười khẩy một lần nữa, để lộ hai hàm răng trắng muốt, thẳng đều tăm tắp. Nếu nhìn kỹ sâu vào phía bên trong vẻ hoang sơ hiếm có toát ra bên ngoài, sẽ thấy một tâm hồn dễ bị lay động bởi những ấn tượng nhỏ nhưng sâu sắc. Dahlia trộm nghĩ.

Điếu thuốc lá đã tắt lụi trong tay tự bao giờ; và Jacqueline không có ý định châm thêm một điếu nào nữa; còn Dahlia, dường như cô đã bị thu hút bởi câu chuyện của gia đình bà, sự tò mò hiện rõ trên gương mặt.


“Nhưng đó không phải là lý do đúng không?” – Dahlia hỏi.

Jacqueline ngạc nhiên, có lẽ bà không hiểu tại sao Dahlia lại hỏi mình như thế.

“Ý tôi là, đó không phải là lý do mà bà với mẹ mình xa cách đúng không? Và thêm nữa, việc bà vẽ bức tranh này cũng không hẳn là để tưởng nhớ bà ấy.”

Dahlia im bặt, có lẽ cô đã đi quá xa, không nên hỏi những câu tương tự như vậy. Cô định lên tiếng bày tỏ sự hối lỗi, nhưng Jacqueline bèn gật đầu và nói tiếp.

“Đúng thế! Sự xa cách, tôi nghĩ, nó đã có từ rất lâu. Kể từ ngày tôi rời Paris đi khắp nơi trên thế giới và không trở về. Những thư từ, cuộc gọi, tin nhắn... chẳng thể...”

Jacqueline nói đó là những ranh giới mong manh và miễn cưỡng, chứ không hẳn là một sự nhung nhớ, tin yêu nào ở đây.

“Tôi đã đi rất lâu để cho tới khi trở về, không có ý nghĩa gì. Ích kỷ, chỉ có những người ích kỷ mới làm những việc đó, ngay cả khi vẽ bức tranh này, bao biện cho sự nhung nhớ đối với người mẹ đã mất.”

“Nhưng tại sao bà vẫn vẽ nó, ngay cả khi bà biết nó chẳng có ý nghĩa gì?”

Jacqueline bèn phản biện lại:

“Không, nó có ý nghĩa với tôi, và là thứ tôi có thể làm một cách xuất sắc nhất. Một niềm đam mê lớn.”

Sau đó, Jacqueline đính chính lại bằng từ “mãnh liệt”, một niềm đam mê mãnh liệt cháy lên trong bà; và việc biến những ký ức đớn đau, trống rỗng và ích kỷ thành những hình khối bao gồm cả hình ảnh của mẹ bà là việc làm cần thiết. Hơn hết, bà chẳng bao giờ tự vấn lương tâm, rằng mình đã làm đúng, rằng mình đã làm sai, không có ranh giới đúng sai trong quan niệm của bà, đặc biệt đó là nghệ thuật. Thứ nghệ thuật vượt qua những ranh giới, những rào cản khác nhau rồi cuối cùng trở về với bản thể nguyên sơ, là chính nó – thứ nghệ thuật sinh ra từ những ám thị, u tối và mất mát.

Dahlia chợt thấy lòng mình lắng lại trong vài giây, thời gian thì ngưng đọng, cô chẳng biết thế giới bên ngoài kia vẫn đang không ngừng chuyển động, có những người đang chết đi. Nhưng nó chẳng có nghĩa lý gì trong không gian này, với Jacqueline và những hình khối của bà. Một trong những quan niệm về nghệ thuật mà có nằm mơ cô cũng chẳng tài nào mường tượng nổi.

“Đôi khi tôi thấy xấu hổ về cái yêu thương, cái thứ phù phiếm như dòng chữ Pour Maman mà tôi ghi dưới đây, tuy nhiên chẳng còn cách nào khác. Nếu như tôi trình bày bức tranh này với đông đảo mọi người thì tôi vẫn phải kể câu chuyện này, dù tôi muốn hay không! Có thể nói đó là một thứ hào quang sáng chói khiến mọi thứ xung quanh bị lu mờ. Tôi đã mê đắm thứ hào quang phù phiếm ấy.”

Dahlia im lặng, trống rỗng như thấy mình đang rơi xuống một cái hố với tốc độ khủng khiếp, xung quanh không tiếng động, chỉ nghe thấy tiếng thở, tiếng nhịp tim yếu ớt của chính cô. Đột nhiên, mặt cô nóng bừng, thứ gì đó dâng lên và chẹn lại nơi lồng ngực, thiếu dưỡng khí, cô chợt thấy khó thở vô cùng.

“Cô sao vậy, D?” – Jacqueline lên tiếng, vẻ mặt bà tỏ rõ sự lo lắng.

“Tôi xin lỗi, có lẽ, câu chuyện của tôi quá tăm tối chăng?”

Dahlia lắc đầu.

“Không phải, tôi rất thích câu chuyện của bà, có lẽ do tôi hơi kiệt sức thôi, dạo này tôi không được khỏe cho lắm. Có lẽ tôi cần về nhà.”

“Tôi có thể đưa cô về?”

“Không, tôi tự về được, không có gì. Hẹn gặp lại bà vào dịp khác. Cảm ơn bà vì câu chuyện.”

“Không có gì.”

Rồi Dahlia trao lại cho Jacqueline cuốn sách tranh. Cô lặng lẽ tụt khỏi chiếc ghế cao bên quầy, gật đầu lịch sự chào Jacqueline rồi nhanh chóng rời khỏi Les Jeunes. Không khí ngột ngạt, bức bối trong quán sẽ giết chết cô mất.

Jacqueline bất lực nhìn cô rời khỏi quán, hy vọng mọi thứ không trở nên quá tồi tệ, một thứ mà bà thấp thoáng thấy trong ánh mắt ấy – ánh mắt như đại dương luôn ẩn chứa những điều bí mật.

***​

Về đến nhà thì đã gần 11 giờ đêm, khu cư xá im lìm trong ánh đèn cao áp vàng vọt rọi xuống, loang lổ trên mặt đường, trong con ngõ nhỏ chật hẹp, san sát những ngôi nhà cao thấp. Những cửa hiệu đã đóng cửa gần hết, duy chỉ còn vài hàng ăn đêm vẫn còn mở; chẳng có bụng dạ gì để ăn, Dahlia đi thẳng lên nhà. Hành lang tăm tối, tiếng nhạc khe khẽ phát ra từ một chương trình dân ca nhạc cổ truyền. Đột nhiên có đứa trẻ khóc ré lên trong đêm khiến Dahlia giật mình, là căn nhà kế bên của một đôi vợ chồng trẻ mới chuyển tới được hai tháng nay. Người mẹ khẽ nựng con, rồi cất lên giọng hát ru ầu ơ, được một lát thì đứa trẻ ngưng khóc, có lẽ lại chìm sâu vào giấc ngủ.

Dahlia đẩy cửa, bật công tắc, đèn sáng, cô quẳng chiếc túi xách xuống giường, tiến lại chỗ cửa sổ mở toang, một cơn gió lạnh thốc vào mặt, cô luôn thích cảm giác này. Nhắm mắt một hồi thật lâu, nín thở, vài ký ức chạy sượt qua đầu cô như một thước phim tua nhanh, không rõ rệt.

Khi ấy cô đang đứng trên tầng thứ 21 của một tòa nhà cao nhất nhì Hà Nội, đó đã từng là căn hộ của cô, một căn hộ cao cấp trong khu dự án nằm ở ven đô, phóng ánh mắt ra tầm xa có thể bao quát cả khoảng rộng của thành phố. Cô thường ngồi ở ban công – nơi kê một chiếc bàn trà, hai chiếc ghế bọc nhung êm ái; trên chiếc bàn tròn nhỏ, đặt một lẵng hoa khô; bên cạnh lẵng hoa là một chiếc giỏ đựng một chai rượu vang Pháp hảo hạng, mùi men rượu thơm nồng. Dahlia ngồi đó nhấm nháp rồi ngắm nhìn khung cảnh thành phố về đêm, rực sáng trong ánh đèn đủ màu sắc, phóng ánh mắt xuống dưới những con đường lắt léo, nhìn dòng xe cộ đang di chuyển, tạo nên những dải sáng uốn lượn, nhịp nhàng, những dải sáng như trong bức tranh của Van Gogh, rồi bỗng nhiên, chúng bị bóp méo thành những hình thù quái đản, tấn công tâm trí cô. Dahlia không muốn nghĩ nữa, cô mở mắt, vẫn trong hiện thực này, chẳng có căn hộ cao cấp, hoa khô, rượu vang Pháp hay gì cả.

Những hình khối trong tranh của Jacqueline vẫn ám ảnh trong tâm trí cô, câu chuyện về người mẹ mắc chứng bệnh tâm lý lạ lùng hay câu chuyện về đam mê và khát khao. Dahlia cười khẩy, “đam mê” và “khát khao”, giờ đây hai từ đó quá xa lạ với cô, thứ ánh sáng phù phiếm đã ám ảnh cô trong một thời gian dài.

Nhắm mắt một lần nữa, chúng chẳng hề buông tha, kẻ đeo bám dai dẳng, kẻ thù của Dahlia – ký ức. Cô không dám nhắc hai từ đó lên thành tiếng, bởi lẽ nó sẽ như mũi dao tấn công trực diện vào cô, cứa sâu vào trái tim đang rơm rớm máu, thứ máu không tanh tưởi, nhưng đen kịt. Chúng bắt đầu tấn công, khơi gợi lại mọi thứ.

Dahlia lại thấy mình đang đứng trong một không gian hoàn toàn khác, không phải căn hộ cao cấp, cũng không có mùi rượu vang. Một không gian hoàn toàn trắng xóa, ánh đèn pha rọi xuống khiến mọi thứ chói lòa, rực rỡ. Phía bên dưới, Dahlia nghe thấy tiếng hò reo của nhiều người, thứ ánh sáng dần dần doãng ra, cô bắt đầu nhìn rõ mọi thứ. Đông kịt người, định thần lại giây lát, cô thấy mình đang đứng trên sâu khấu, phía dưới là hàng ngàn khán giả đang hò reo, họ gào lên tên cô như những điệp khúc dài đằng đẵng, bất tận, họ lặp đi lặp lại từ “Dah-li-a” tới hàng trăm lần, hàng ngàn lần. Những gương mặt hiện rõ sự háo hức, khát khao.

Những mảnh nhỏ li ti đầy sắc màu rơi xuống như một cơn mưa, những băng rôn khẩu hiệu, nếu nhìn kỹ có thể thấy hình ảnh của cô ở trên đó. Khác xa so với con người bây giờ, một sự tương phản hoàn toàn, như thể đó là hai con người xa lạ, hai bản thể hoàn toàn khác nhau. Một Dahlia đang mỉm cười rạng rỡ với những hào quang tỏa ra từ tứ phía, và một Dahlia hốc hác, già nua đang che đi mọi khuyết điểm trên gương mặt bằng lớp hóa trang khéo léo. Dahlia chững lại trong vài giây, một nhiễu động âm thanh như khi đang dò chỉnh tần số radio, chói tai, những tiếng hò reo hay điệp khúc tên cô bỗng dưng bị bóp méo bởi một sức mạnh khủng khiếp. Dahlia vội thụp người xuống, một lát sau, mọi thứ đều chìm trong im lặng, chỉ có tiếng trở mình khe khẽ của màn đêm.

Dahlia bừng tỉnh, đâu còn sân khấu, đèn pha và khán giả. Hình ảnh một Dahlia mỉm cười trên băng rôn quảng cáo rạng rỡ trôi dạt về phía sau - quá khứ - với tốc độ khủng khiếp, chẳng còn gì. Mồ hôi ướt đẫm lưng áo, phía trước ngực và cả trên gương mặt. Những ký ức đã tấn công cô như cơn bão, nó sẵn sàng quét sạch mọi thứ trên đường đi của mình; và bỏ lại những hoang tàn của ngày cũ. Tất cả, giờ đây, chỉ còn là những tàn tích, không hơn.
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG VI

LẤP LÁNH GIỮA MÀN ĐÊM

Màn biểu diễn kết thúc trong tiếng vỗ tay rào rào, tán dương của thính giả trong khán phòng. Jiho, Ann và Lưu Ly mừng ra mặt, gần đây họ tới Les Jeunes để biểu diễn thường xuyên hơn, bởi lẽ người chủ quán đã để ý tới nhóm, nhưng chẳng có cuộc hẹn nào như lời Ann đã nói với Jiho lúc trước. Có lẽ gã đã quên hay chỉ là một lời hứa hẹn suông của những tay nhà giàu hợm hĩnh với thói quen “ném tiền qua cửa sổ”? Nhưng dẫu gì đó mới chỉ là những nhận thức có phần chủ quan của Ann mà thôi. Cô lặng im trộm nghĩ, trên sân khấu vài người tới lui, họ đang bày biện lại mọi thứ như thể để chuẩn bị cho một tiết mục đặc biệt khác.

Lưu Ly và Jiho đi ra, cả hai cười mỉm cười rạng rỡ; lần đầu tiên tới Les Jeunes, Lưu Ly cũng rạng rỡ như vậy - cô bé nói, chưa bao giờ được hát trên một sân khấu thực sự nào. Những ngày tháng rong chơi của tuổi trẻ chỉ là trên những cung đường lộng gió, những vùng đất hoang dại và đẹp đẽ, nhưng ít khi nào Lưu Ly cảm thấy vui, chút đượm buồn ánh lên trong đôi mắt long lanh, ngân ngấn nước. Chút yếu đuối bộc lộ ra như được khơi từ sâu thẳm tâm hồn, phần bản thể mà ai cũng che giấu, bởi lẽ ai cũng sẽ có những bí mật mà không hẳn là sẽ tìm được một dịp đặc biệt để sẻ chia, người mình tin tưởng để sẻ chia, và mong muốn được cảm thông.

“Sao cậu ngây người ra vậy Ann?” – Giọng nói của Jiho giúp Ann dứt ra khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, mỗi khi ấy lại khiến cô rơi vào trong một khoảng lặng, vô định nào đó.

Chút bối rối hiện rõ trên gương mặt khiến hai người ngạc nhiên. Ann bèn nói:

“Không có gì, chỉ là chút suy nghĩ vẩn vơ. Giờ mình về thôi!”

“Vội thế, ở lại một chút được không?” – Lưu Ly nói rồi tót lên chiếc ghế cạnh quầy bar, cười toe, như thể sẵn sàng cho một cuộc chơi dài.

“Jiho, chẳng phải cậu có hẹn gì sao?” – Ann hỏi.

Jiho ngập ngừng, chẳng có cuộc hẹn nào cả, đơn giản chỉ là cái cớ do Ann nghĩ ra mà thôi. Ann không muốn Lưu Ly uống thêm gì nữa, con bé còn quá trẻ, vả lại cũng chẳng tốt đẹp gì khi một cô gái 19 tuổi cứ ngửa cổ tu ừng ực thứ chất lỏng cay nồng hết ly này đến ly khác, dẫu cô biết Lưu Ly sinh ra trong một gia đình danh giá, được cha mẹ nuông chiều từ nhỏ.

“Đúng rồi, mình nên về thôi Lưu Ly.” – Jiho lên tiếng, ra dáng đàn anh đang chỉ bảo đứa em gái của mình.

Gương mặt của Lưu Ly bỗng buồn so, miệng mím chặt, còn đôi mắt long lanh nhìn về phía hai người, ra vẻ phụng phịu. Ann thở dài, nếu chỉ cần nhìn thêm một chút vào ánh mắt ấy thì hẳn nhiên cô sẽ bị hạ gục.

Nhưng đúng lúc này, trên sâu khấu đã được trang hoàng lại bằng một số dụng cụ, cả một ban nhạc đang đứng phía sau, một cây míc đã được đặt sẵn trên cái bục để vừa tầm với người hát. Tay MC nhanh chân bước ra sân khấu, anh ta bận một bộ vest màu đen với cravat Archives xanh họa tiết caro, gương mặt khá điển trai với mái tóc hớt nhẹ về phía sau lộ vầng trán vuông cao.

“Và... không để quý vị phải chờ thêm, sau đây là sự góp mặt của một vị khách mời đặc biệt của Les Jeunes – ca sĩ Dahlia.”

Ba từ “ca sĩ Dahlia” được anh ta xướng lên bằng chất giọng cao vút, đầy hào sảng. MC lui vào phía cánh gà bên phải nhường vị trí lại cho khách mời. Cô ca sĩ mang tên một loài hoa từ tốn bước ra, một cảm giác trộn lẫn giữa mơ hồ và thân thuộc vẩn vơ quanh tâm trí của Ann bảng lảng như khói sương chiều, trên mặt hồ rộng lớn, một cảm giác quen thuộc khẽ sượt qua đầu cô nhưng tạm thời chưa thể nhớ ra được.

Những bước chân nhẹ nhàng kéo theo chuyển động của tà váy dạ hội màu xanh vintage thướt tha, tựa như con sóng nhẹ nhàng liếm nhẹ trên bờ cát, dẫu nhẹ nhàng nhưng thật sự ấn tượng. Ann liếc nhanh sang phía bên cạnh, Jiho đứng ngây người, ánh mắt anh dán về phía sân khấu. Dahlia cúi chào khán giả dưới khán phòng, tiếng vỗ tay rộ lên, thậm chí còn có cả tiếng huýt sáo tỏ vẻ hưởng ứng.

Vài hình ảnh mơ hồ khẽ chạy qua tâm trí Ann như một thước phim được tua chậm, phát đi những tín hiệu mã morse, cú nháy đèn báo hiệu; nhưng tiếc thay chẳng lưu lại ấn tượng nào. Hoặc có thể mọi sự chú ý, giờ đây đã dành trọn cho cô gái đang đứng trên sân khấu khiến mọi ánh mắt đổ dồn vào thân hình dong dỏng cao. Mái tóc khá dài được thả bồng bềnh tự nhiên, những lọn tóc uốn nhẹ tựa sóng lượn, phần mái tóc được vén hết qua một bên để lộ một đôi tai nhỏ nhắn, phần 🥳 tai đeo thêm bông tai loại dài, có đính ngọc trai óng ánh. Phần tháp cổ cao, trắng nõn và thanh tú trông hết sức gợi cảm. Gương mặt xinh đẹp nhưng ánh mắt chẳng để lộ ra chút cảm xúc gây bối rối và tò mò cho người đối diện. Một cảm giác xa cách được dựng lên ngay sau đó, và Ann cho rằng, chính ánh mắt ấy đã tạo nên một cánh cửa ngăn cách, một ranh giới được ngăn cách giữa hai thế giới. Thế giới phía bên ngoài với những người xa lạ, còn thế giới bên trong ấy hẳn là biển cả, mênh mang và thăm thẳm chứa đựng những bí mật chẳng thể nào sẻ chia.

Cô gái bắt đầu hát, cả khán phòng như lặng im nín thở. Những ca từ bồng bềnh, trôi nổi như đám bèo lục bình trên dòng sông mùa hè vào những ngày yên ả, không giông gió. Rồi tới những đám mây lững thững, những họa tiết hình mây được in trên một chiếc rèm đang che phủ một căn phòng; và trong căn phòng ấy, người phụ nữ đang lặng lẽ ngồi bên trong một cái giường, ga trải giường nhăn nhúm nhiều chỗ và đã ngả màu cháo lòng, mùi ẩm mốc xộc thẳng lên cánh mũi, khó chịu. Rèm vẫn buông khiến không gian càng trở nên nóng nực, dẫu cho họa tiết trên chiếc rèm là những đám mây đang trôi nổi trên bầu trời tự do. Một nghịch lý ẩn chứa trong những ca từ ấy, sự vẫy vùng và khao khát tự do đang bị chính bản thân họ cầm tù. Chẳng hiểu sao, khi ấy Ann lại nghĩ vậy khi nghe chị ấy hát. Tiếng vỗ tay rộ lên, ầm ĩ hơn cả khi Dahlia bước ra, một vài người đã đứng dậy, trong đó có cả Jiho, trông anh phấn khích lạ thường.

Một tiếng sau, họ ra về, nhưng dư âm về Dahlia hẳn vẫn đang văng vẳng đâu đó, âm ỉ cháy trong tâm trí mỗi người, dù chưa ai nói với ai câu nào. Chầm chậm bước trên vỉa hè, đợt không khí lạnh đầu tiên đã tràn về thành phố khiến không khí trở nên lạnh hơn, phố đã lên đèn, hiu hắt. Ba chiếc bóng đổ dài thành vệt trên vỉa hè, Lưu Ly đã phải tháo cả giày cao gót đi chân đất. Họ dừng lại trước quảng trường lộng gió, phía bên dưới một trung tâm thương mại nằm ở phía tây thành phố, chẳng ai muốn ra về. Họ ngồi xuống hàng ghế bằng.

“Đó là Dahlia!” – Lưu Ly bất chợt lên tiếng phá vỡ bầu không khí dường như lặng im, bất tận.

“Ai cũng biết điều đó mà.” – Ann đáp lại, giọng dửng dưng.

“Không, ý em là chuyện khác cơ?”

“Chuyện gì thế?” – Jiho bèn hỏi; có lẽ anh là người có nhiều thắc mắc nhất lúc này, bởi lẽ Lưu Ly và Ann biết thừa họ đang đề cập tới chuyện gì.

“Đó là ca sĩ Dahlia.” – Lưu Ly nhắc lại một lần nữa bằng việc bổ sung thêm danh từ “ca sĩ” trong câu nói của mình, nhưng điều đó chỉ khiến Jiho cảm thấy càng ngạc nhiên hơn mà thôi.

“Anh không hiểu hai người đang nói tới chuyện gì.” – Jiho bèn thắc mắc ngay sau đó.

Cuối cùng Ann đành thuật lại ngắn gọn một số thông tin về Dahlia – những thông tin ngắn ngủi mà vài tờ báo đã thuật lại khoảng ba năm về trước. Thông tin trôi nổi trên internet, mà giờ đây nếu lục lại thì ắt hẳn mọi thứ vẫn y nguyên, nhân vật chính, nhân vật phụ, người liên đới và thậm chí cả nhân chứng. Chỉ là, có còn ai hứng thú với chuyện đó hay không? Chốn thị phi showbiz, có nằm mơ Ann cũng chẳng hiểu nổi những chuyện rùm beng trong đó.

“Chuyện là vậy, nhưng mọi thứ đã xảy ra quá lâu rồi, tới nỗi mình cũng chẳng thể nhớ. Có lẽ Lưu Ly biết rõ hơn phải không?” – Ann nói.

Lưu Ly ra vẻ trầm ngâm, chân bắt chéo, hai tay khoanh trước ngực như thể đang nghĩ về điều gì to tát lắm.

“Em cũng không biết nhiều nhưng một thời em đã rất hâm mộ chị ấy – Dahlia. Cái tên đó vẫn hằn sâu trong tâm trí em, như một kỷ niệm vậy.”

Giọng Lưu Ly buồn so như đang động chạm vào một ký ức buồn khiến cô bé chững lại một vài giây rồi mới tiếp tục nói.

“Khi chị ấy xảy ra chuyện, em còn không tin nổi vào tai mình. Khi đó, em cũng chỉ đơn giản nghĩ rằng, trong giới showbiz, có chuyện gì là không thể xảy ra cơ chứ, rồi báo chí, thật sự...”

Giọng cô bé nghẹn lại như muốn khóc, Lưu Ly hiếm khi để mình xúc động như vậy, chứng tỏ những ấn tượng về Dahlia trong lòng cô bé là có thật.

“Thật sự là em đã không tin, chỉ tới khi chị ấy biến mất, không xuất hiện trên sân khấu, lâu sau đó cũng chẳng có báo nào đưa tin nữa thì em mới tin là chị ấy đã biến mất thực sự, như làn khói.”

“Nhưng giờ chị ấy lại xuất hiện rồi.” - Jiho nói, giọng như an ủi.

“Em rất vui khi chị ấy xuất hiện, phải mất một hồi lâu em mới tin người trên sân khấu là chị ấy. Ôi cảm giác đó, em chẳng thể nào diễn tả nổi.”

Có thể thấy niềm hạnh phúc đang thực sự trào dâng trong khóe mắt của Lưu Ly. Như một người tri kỷ trong quá khứ, vào một ngày đột nhiên xuất hiện. Và Dahlia như người tri kỷ đó.

“Chị ấy hát hay thật. Chưa bao giờ mình được nghe giọng hát nội lực đến thế.” – Jiho nói, ánh mắt anh hướng về phía xa xăm như thể đang mường tượng lại quang cảnh lúc đó.

Ann cũng vậy, một cảm giác thân thuộc chạy nhanh về tâm trí cô. Đúng rồi, giọng ca đó, thời ấy và ở bất kỳ đâu trên radio, trong quán cà phê hay bất chợt phát lên trong một không gian hoàn toàn xa lạ, vẫn chẳng có gì thay đổi, duy chỉ có một chút tâm t.ư đang đè nặng lên đó mà tạm thời Ann chưa thể lý giải. Hình ảnh của Dahlia vẫn ám ảnh tâm trí cô cho tới khi trở về căn nhà nhỏ, chỉ một mình.

***​

Chiều thứ Bảy, Ann tới Les Jeunes sớm hơn thường lệ, một tiếng đồng hồ trước khi Jiho và Lưu Ly tới. Đức đã hẹn Ann, gã chủ quán giàu có với thói quen “ném tiền qua cửa sổ” như nhiều lời đồn đại mà cô không dám chắc rằng, cái nào đúng, cái nào sai? Ann dường như chẳng quan tâm tới chuyện đó, cuộc trò chuyện chớp nhoáng lần trước chưa đủ để cô hình dung về con người này.

Khi tới Les Jeunes thì đã thấy Đức đến, anh ngồi bên chiếc bàn đặt cạnh khung cửa sổ trông thẳng ra một góc đường Yec xanh lộn xộn với những hàng quán, biển hiệu, dòng xe cộ lặng lẽ di chuyển như những bóng đen âm thầm trong giờ cao điểm. Tháng Mười một, trời trở lạnh đột ngột.

Nhân viên phục vụ nam ra hiệu cho cô đi về phía Đức đang ngồi, anh ta chưa thấy cô, vì đang mải mê phóng ánh mắt về phía con đường, miệng lặng lẽ rít thuốc, từng làn khói mỏng mảnh tỏa ra khiến không khí trở nên mơ hồ hơn bao giờ.

Ann thận trọng tiến lại, vẻ như dò xét, khi ấy Đức quay lại mỉm cười như mọi lần nhìn thấy cô trong Les Jeunes, một nụ cười xa giao và hầu như chẳng bao giờ để lộ cảm xúc của bản thân với người đối diện. Ann gật đầu chào lại. Đức ra hiệu cho cô ngồi xuống ghế kế bên rồi lặng lẽ đẩy menu đồ uống sang phía Ann. Ann giả bộ xem rồi nhanh chóng gọi cho mình một ly ca cao nóng với hy vọng nó sẽ làm cho cô ấm người và bình tĩnh hơn; thú thực cô cảm thấy khá bối rối trong trường hợp này, dẫu biết đây chỉ là một cuộc trò chuyện thông thường, giữa những người yêu nhạc. Ann tin rằng, âm nhạc chính là thứ đã kết nối họ lại với nhau, như cái cách Jiho kết nối với Ann, hai người kết nối với Lưu Ly, và giờ đây cô đang đối mặt với Đức vậy; Ann dám chắc rằng, một lần nữa, âm nhạc sẽ là thứ kết nối giữa họ.

Nhân viên phục vụ nam đi vào sau khi đã nhận được lời yêu cầu. Đức chưa vội nói gì, anh tiếp tục rít thuốc, rồi nhấm nháp ly cà phê đen nóng đang bốc thứ hương thơm đặc trưng như từ cà phê rang xay nguyên chất.

“Em có thắc mắc gì khi anh hẹn em đột ngột thế này không?” – Đức bắt đầu lên tiếng tiện tay dụi dụi điếu thuốc đang cháy dở xuống chiếc gạt tàn bằng thủy tinh.

Chút ngạc nhiên thoáng qua gương mặt Ann, câu hỏi quá đường đột khiến cô chưa kịp suy nghĩ, hoặc chính cái nhìn đầy tự tin của Đức, xoáy ánh mắt của anh vào người đối diện khiến Ann trở nên như vậy.

Hít nhẹ một hơi, Ann lấy lại bình tĩnh, cô lắc đầu nói:

“Không hề, em cứ ngỡ là anh đã quên ngay sau cuộc nói chuyện chớp nhoáng đó.”

Câu trả lời dường như chẳng liên quan gì tới câu hỏi, có lẽ Đức đã mong chờ một câu trả lời đơn giản hơn là một cách nói khôn khéo khiến người đối diện có thất vọng đôi chút, nhưng khi ấy Đức chỉ lặng lẽ cười, anh chẳng nói, tay khẽ nâng ly cà phê lên miệng, nhấp một cái, mặt dãn ra vẻ như sảng khoái vô cùng.

“Anh xin lỗi, vì đã không hẹn em sớm hơn, em biết đấy lại là công việc.”

Đức nói thêm, những công việc chất lên như núi đã khiến cho quỹ thời gian trong một ngày của anh trở nên eo hẹp trong thời gian gần đây. Đức chèn thêm kha khá từ ngữ chuyên môn trong công việc làm ăn khiến Ann nghe chẳng hiểu gì cả, cô chỉ gật gù lấy lệ, rồi chợt nhận ra mình đang đi quá xa, Đức đột ngột ngừng lại.

“Không có gì, em rất vui vì anh đã hẹn em hôm nay, nhóm của em rất thích không gian này. Và em nghĩ mọi người đều như vậy, âm nhạc phải chăng là ‘đặc sản’ của Les Jeunes.” – Ann nói một tràng dài, cô hy vọng Đức sẽ không cảm thấy khó chịu khi nghe những lời lẽ thực sự sáo rỗng này.

Trước vẻ mặt ít biểu lộ cảm xúc cùng ánh nhìn trực diện như thể xuyên thấu tâm can người đối diện đã khiến cho tâm trí của Ann trở nên hỗn độn vô cùng, những từ ngữ như thể đang chuyển động loạn xạ tạm thời ngăn trở khả năng giao tiếp của chính cô. Nhưng ngược lại, Đức hoàn toàn không để ý, thậm chí anh còn tỏ ra vô cùng hứng thú trước câu nói của Ann.

“Đúng thế, âm nhạc là thứ đầu tiên anh nghĩ tới khi lập nên không gian này. Thứ công việc nhàm chán, chất ngất những giấy tờ và hợp đồng khiến tâm trí chính bản thân mình trở nên cứng nhắc, nhưng âm nhạc thì lại hoàn toàn khác.”

Đức hỏi thêm, Ann có biết đó là điều gì không? Sự đánh đố hiển hiện rõ trong ánh mắt cùng cái nhìn nghiêng của anh, sự thánh thức với đối phương chăng? Thú thực Ann thấy hơi khó chịu, vì dù gì cô cũng chẳng phải là đối tác làm ăn của anh, và hơn hết, không phải họ đang thực hiện một cuộc thương thảo mang giá trị vật chất.

“Sự kết nối.” – Ann đáp lại.

Đức bật cười, đắc ý, như thể anh sẵn sàng chờ đợi Ann nói rồi biểu lộ như vậy.

“Chính xác, sự kết nối, nhưng anh nghĩ nhiều hơn về những mối lương duyên, như giữa anh và Dahlia vậy.”

Cái tên Dahlia được nhắc tới như một sự tình cờ mà Ann dám chắc rằng câu chuyện của họ sẽ kéo dài thêm nữa. Người phục vụ đi ra, mang theo một ly ca cao nóng đột ngột cắt ngang câu chuyện. Ann gật đầu cảm ơn.

“Có phải anh đang muốn nhắc tới vị khách mời đặc biệt của Les Jeunes không?” – Ann bèn hỏi.

“Chính xác, là Dahlia, em biết cô ấy chứ?” – Đức hỏi lại.

Câu hỏi có phần thừa thãi nhưng Ann vẫn gật đầu xác nhận, chẳng có ai là không biết Dahlia cả, nữ ca sĩ đã từng nổi danh một thời, ánh hào quang vụt qua bầu trời rồi lịm tắt.

Sau đó, Đức bèn kể thêm một vài thông tin về cái mà anh tạm gọi là “mối lương duyên” giữa hai người, giữa anh và Dahlia. Không hẳn là một thứ tình bạn, bởi lẽ Dahlia là mẫu người đơn độc, cô ấy sẽ không chịu kết bạn nếu như đối phương không gây được thiện cảm, và hơn hết là sự an toàn, nhưng tại sao Đức lại thuyết phục được cô ấy, mối lương duyên được nối lại; và người hâm mộ lại được nghe giọng ca đầy nội lực của Dahlia. Những câu hỏi chất chứa bên trong lòng Ann như khiến mọi thứ đang trì xuống, nặng trịch, khiến cô thấy khó chịu và bứt rứt vô cùng.

“Em muốn hỏi là tại sao anh lại thuyết phục được Dahlia ư?” – Đức hỏi.

Ann gật đầu xác nhận một lần nữa.

Đức chưa vội trả lời, đoạn, anh xin phép hút thêm điếu thuốc nữa, rồi tiếp tục câu chuyện.

“Anh nghĩ là tiền?”

“Tiền ư?” – Ann ngạc nhiên hỏi lại, vẻ như cô đang phản ứng thái quá với câu trả lời này, nhưng rồi cô nghĩ lại, Đức là người thẳng thắn nên chẳng việc gì anh phải lẩn tránh một danh từ có phần nhạy cảm như vậy. Nhưng giả sử, có Dahlia ở đây và chị ấy nghe được câu chuyện này thì sẽ cảm thấy như thế nào? Một sự xúc phạm hay tổn thương chăng? Ann trộm nghĩ.

“Chính xác là vậy. Dahlia đã chủ động tìm tới anh, chính anh cũng ngạc nhiên cơ mà, nhưng anh nghĩ đó là một cơ hội.”

“Một cơ hội?”

“Cơ hội để anh hiểu cô ấy hơn.”

Hiểu? Ann chẳng biết từ ngữ đó trong hoàn cảnh này có ý nghĩa gì. Một sự đồng cảm chăng? Hay đơn giản chỉ là chút thương hại cho một tài năng đã bị vùi lấp bấy lâu nay, thứ hào quang đã tắt ngúm từ lâu và mấy ai còn nhớ những chuyện đó. Ann cho rằng mình đã suy nghĩ quá nhiều chăng? Thấy vậy, cô bèn uống một mụm nước để lấy lại sự bình tĩnh cần thiết.

“Anh muốn giúp Dahlia, đơn giản là chỉ muốn giúp cô ấy mà thôi.” – Đức bèn nói, giọng điệu khá chân thành, kín đáo.

“Nhưng tại sao anh lại nói với em những chuyện này, dù gì em cũng là người mới. Vả lại, em chẳng biết gì về chị ấy, ngoài...”

Ann ngập ngừng dừng lại; Đức biết cô định nói về chuyện gì sau đó.

Cuộc trò chuyện bỗng nhiên rơi vào im lặng; vài người đã tới Les Jeunes để thưởng thức đêm nhạc với sự góp mặt của Dahlia.

“Em muốn biết lý do phải không?”

Ann gật đầu.

“Là âm nhạc.” – Đức đáp gọn lỏn, bởi anh tin Ann đủ thông minh để nhận ra những ẩn ý sau câu nói của mình.

Nhưng ngược lại, Ann thực sự bối rối, vì cô chẳng biết nói gì.

“Em có gì ấn tượng với Dahlia không?”

“Em không rõ, nhưng có lẽ…” – Ann ngập ngừng.

Thấy vậy, Đức giơ một bàn tay lên như thể anh đã biết tỏng câu trả lời rồi.

“Em không cần vội đâu, anh nghĩ rằng em nên trò chuyện với chị ấy nhiều hơn. Anh có thể sắp xếp.”

Đức nhìn sâu vào trong mắt Ann một lần nữa.

***​

Ann đem câu chuyện giữa cô và Đức kể lại với Jiho; anh mừng rỡ ra mặt. Jiho nói rằng, đó là một cơ hội hiếm có để nói chuyện với Dahlia, và biết đâu sẽ còn những điều hay ho khác nữa. Nhưng trái ngược lạivới tâm trạng đầy vẻ hào hứng của Jiho, Ann chỉ biết suy nghĩ, những câu hỏi không có câu trả lời. Và hơn hết là một nỗi lo âu chẳng biết đến từ đâu, khiến tâm trạng cô chùng xuống, xám xịt hệt như bầu trời mùa đông Hà Nội.

Những ngày sau đó, hình ảnh của Dahlia cứ bám riết lấy tâm trí cô, ngay cả trong những giấc mơ, tuy nhiên chúng chỉ là những hình ảnh rời rạc, vụn vặt, chẳng thể nào chắp vá thành bức tranh hoàn chỉnh, nhưng đồng thời chính những cảm giác đó lại nuôi dưỡng khao khát được gặp Dahlia, đứng trước cánh cửa để vào một thế giới mà cô chắc chắn rằng, nó thực sự chứa đựng những điều thú vị.

“Là âm nhạc. Thứ kết nối giữa họ.” Câu nói của Đức văng vẳng trong tâm trí của cô. Phải chăng như một lời nhắc nhở, một chìa khóa vạn năng để bước vào thế giới đó? Có nằm mơ Ann cũng chẳng biết mình sẽ nói gì đây khi đối diện với chị ấy.

***​

Đức quyết định sắp xếp cho họ một buổi hẹn vào chiều Chủ nhật khoảng một tuần sau đó. Jiho sẽ đi cùng Ann, cô nghĩ rằng, sự có mặt của anh sẽ khiến cô có phần an tâm hơn. Dahlia tới trước cả hai người, cô ngồi đúng vị trí của Đức ngồi hôm nọ, mắt chăm chăm nhìn vào một cuốn sách tranh, thi thoảng đánh ánh mắt về phía đường Yec xanh bộn bề, ngổn ngang. Khi ấy, phố đã bắt đầu lên đèn.

Ann và Jiho lặng lẽ đến gần. Dahlia ngước lên nhìn chăm chăm khiến hai người bối rối, đoạn cô lẳng lặng bỏ cuốn sách tranh lên mặt bàn, ra hiệu cho hai người ngồi xuống phía đối diện. Người phục vụ có mặt ngay sau đó, họ nhanh chóng chọn đồ uống cho mình.

“Hai người là bạn của Đức?” – Dahlia hỏi.

Ann và Jiho cùng gật đầu xác nhận. Rồi họ bắt đầu giới thiệu tên.

“Chị là Dahlia.”

Dahlia nói rồi giơ tay ra bắt tay từng người. Đoạn, chị ngả người ra sau ghế, hai tay khoanh trước ngực, ánh mắt hướng về phía Ann và Jiho như thể đang dò xét.

Ann bắt đầu lên tiếng:

“Có lẽ chị đã nghe Đức nói chuyện về bọn em?”

“Một chút về chuyện đi hát, ở Les Jeunes.”

Ann mỉm cười lấy lệ, rồi cô bắt đầu nói:

“Thi thoảng chúng em cũng tới đây hát, nhưng gần đây mới có cơ hội được thấy chị.”

“Chẳng có gì, chỉ là công việc thôi.” – Dahlia đáp lại, giọng lạnh lùng.

Phía bên cạnh, Jiho tỏ ra ngạc nhiên nhưng anh chẳng nói gì. Còn Ann thì biết rằng, tốt nhất là cô nên tránh đề cập tới cuộc trò chuyện giữa cô và Đức lần nọ. Những cảnh báo của anh về Dahlia, nhưng giờ đây khi tiếp xúc trực tiếp với chị, cô biết rằng, đáng lẽ cuộc gặp gỡ này không nên diễn ra thì hơn, cô chẳng biết nói gì.

“Ý chị là chuyện đi hát?”

“Đúng thế, cũng giống như bọn em hay tất cả mọi chuyện đều là công việc thôi.”

Dahlia nói thêm, tốt nhất không nên lý tưởng hóa bất cứ chuyện gì, đôi khi chúng ta chẳng làm gì ngoài một mục đích - kiếm tiền. Ann không hiểu, rốt cuộc, cuộc gặp gỡ này sẽ đi tới đâu nên cô hết sức bối rối.

“Em thì không nghĩ thế.” – Jiho bèn lên tiếng ngay sau đó khiến Ann thấy lo lắng.

“Tại sao?” – Dahlia hỏi lại.

“Chị không nghĩ chuyện đi hát đôi khi chỉ là thỏa mãn mình hay sao? Cảm giác chị cần phải hát. Thế thôi!”

Ý Jiho nói là thỏa mãn cái tôi bên trong mỗi con người. Dahlia cười khẩy khiến Jiho thấy đôi phần khó chịu.

“Cái tôi ư?”

“Đúng thế.”

“Nhưng chị chưa bao giờ nghĩ vậy, có chăng chỉ là vì tiền thôi. Vì khi chủ động gọi điện cho Đức, chị chỉ nghĩ được như vậy.”

“Chúng em hiểu...” – Jiho bèn nói tiếp... – “nhưng em nghĩ, ắt hẳn có một khoảng thời gian chị có những suy nghĩ khác về chuyện đi hát.”

“Chị không hiểu?”

Dahlia thừa biết Jiho muốn nói tới chuyện gì nhưng chị ấy vẫn hỏi lại như vậy. Ann thì chỉ biết im lặng, có lẽ tốt hơn hết nên để Jiho nói, và cô cũng không muốn cắt ngang cuộc trò chuyện, dẫu biết rằng, có thể một trong số đó sẽ chạm tới giới hạn của Dahlia khiến cho chị tức giận.

“Đam mê chẳng hạn.” – Jiho nói.

Dahlia im lặng một hồi lâu rồi lắc đầu.

“Xa hoa và phù phiếm. Chẳng có cái gì được gọi là đam mê cả.”

“Nhưng chị sẽ không phủ nhận điều em vừa nói chứ?”

“Chị không biết, chị chẳng thể nghĩ gì vào lúc này.”

Jiho cảm thấy thất vọng, anh cúi mặt, đăm đăm nhìn vào chiếc bàn trước mặt.

“Chị có bao giờ cảm thấy hối tiếc không?” – Jiho hỏi lần nữa.

“Hối tiếc ư? Chị không hiểu em đang nói chuyện gì.”

Jiho nói, Dahlia thừa biết anh đang đề cập tới chuyện gì, và điều này đã khiến Dahlia thực sự tức giận.

“Chị nghĩ mình bận rồi, chị xin phép tụi em.” – Dahlia đột ngột đứng dậy.

Jiho cũng vậy, anh đứng dậy, mắt xoáy thẳng vào ánh mắt của Dahlia, lần đầu tiên Ann thấy Jiho xử sự một cách kỳ lạ như vậy.

“Ngay từ đầu chị đã không muốn có cuộc trò chuyện này rồi. Ann không thể nói những điều mà cô ấy đang nghĩ trong lòng, bởi Đức đã cảnh cáo. Nhưng em thì khác, em có thể đã chạm vào giới hạn của chị, nhưng lảng tránh không hẳn là chuyện đúng đắn, phải không?”

Jiho nói một tràng dài. Chút ngạc nhiên và bối rối hiển hiện trên gương mặt có phần hơi tai tái của Dahlia.

“Các em còn quá trẻ, và hơn hết đừng để mọi chuyện đi quá giới hạn. Nếu các em chưa sống đủ một cuộc đời như chị thì xin đừng phán xét. Chị xin lỗi!” – Dahlia nhanh chóng vơ lấy cuốn sách trên mặt bàn rồi cho nhanh vào trong túi xách, rồi chị đi thẳng về phía cánh cửa. Có lẽ chị ấy có chút nhạy cảm vì những gì Jiho vừa nói.

Jiho lặng im rồi hướng ánh nhìn sang phía Ann như muốn hỏi mình đã làm sai chuyện gì. Ann im lặng, chẳng có chuyện sai trái gì ở đây cả, bởi lẽ, một lần nữa cánh cửa mở vào trong thế giới ấy vẫn đóng kín, một lần nữa và mãi mãi. Có trời mới biết thứ gì đó, thứ chìa khóa vạn năng nào mới có thể mở được. Có lẽ Đức đã thực sự sai lầm khi nghĩ rằng, Ann có thể làm được chuyện này chăng? Hay anh ta đã quá tự tin nghĩ họ có thể làm được chuyện gì đó?
[/ISPOILER]
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG VII

THÁNG NĂM RỰC RỠ

Tâm trạng của Jiho chùng xuống sau cuộc trò chuyện với Dahlia. Ann cũng vậy, cô chẳng nói chẳng rằng gì sau đó. Ban đầu Jiho lo sợ, Ann sẽ trách móc anh vì đã làm hỏng chuyện. Đó không đơn giản chỉ là kỳ vọng Đức dành cho cô mà chính bản thân họ cũng muốn giúp Dahlia vượt qua giai đoạn khó khăn này. Dẫu chẳng phải bạn bè thân thích gì nhưng Jiho nghĩ, mọi chuyện biết đâu đều trở thành nhân duyên, anh cũng không dám tin vào thứ gọi là định mệnh. Đôi lúc anh đã tự nhủ, hãy mặc kệ mọi thứ, hãy để cho mọi thứ diễn ra tự nhiên theo cách vốn có của nó, nhưng suy cho cùng, nếu ai cũng cùng chung suy nghĩ như vậy thì họ sẽ chẳng khác gì những cỗ máy vô hồn đang tồn tại cả. Chỉ hy vọng Dahlia sẽ không để bụng chuyện anh đã lỗ mãng với chị hôm trước; nếu có dịp anh sẽ xin lỗi sau.

Tiếng ting ting vang lên, màn hình điện thoại rực sáng giữa không gian im lìm tăm tối kéo Jiho trở về với thực tại, chút hốt hoảng thoáng qua đầu, đôi lần anh vẫn cảm thấy ngỡ ngàng và xa lạ, dẫu tính tới thời điểm này anh đã ở Hà Nội được gần hai tháng trời rồi, thảng hoặc cái cảm giác xa lạ ấy lại bất chợt trở về trong tâm trí của anh. Đầu óc vẫn nặng trịch, đau như búa bổ nhưng Jiho cố gắng gượng dậy, với tay sang chiếc tủ đầu giường, vì không gian khá tối nên anh mò mẫm một hồi mới cầm được điện thoại.

Có hai hộp thư, một tin nhắn của Ann, một email của ba. Jiho ấn vào phần tin nhắn của Ann, trong nội dung có ghi địa điểm thu âm bài hát mới của họ. Bài hát nào? Jiho cố gắng nghĩ nhưng tạm thời tâm trí anh trống rỗng, vô định như một thứ ám thị sau mỗi khi tỉnh dậy, như thể anh đang hoàn toàn là một con người khác chứ không phải là chính mình, phải mất một hồi lâu sau mới có thể định hình được mọi thứ. Jiho chưa vội đọc email của ba, lâu rồi ông mới gửi, có lẽ vẫn chỉ dăm ba câu hỏi thăm thông thường hay những mẩu chuyện vụn vặt quanh con phố nhỏ nép mình sâu trong góc của khu Boksu-dong chật chội mà thôi.

Con mèo đen từ trong gian bếp chạy ra nhảy phắt lên giường, cái đầu đen trùi trũi dụi dụi vào chân Jiho ra vẻ nũng nĩu, đòi hỏi.

“Mày lại đói sao?”

Jiho cười nói, rồi lấy chân hẩy hẩy con mèo. Anh mau lẹ xuống giường, đôi chân trần rón rén bước đi trên nền nhà lạnh ngắt, mở tủ lấy bình sữa cùng hộp thức ăn dành riêng cho mèo, đổ mỗi thứ ra một đĩa riêng; đánh hơi thấy mùi thức ăn, con mèo đen lanh lẹ chạy sang ăn lấy ăn để. Đoạn, Jiho đun nước để pha cà phê, có lẽ một cốc cà phê nóng sẽ khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn vào lúc này. Thời tiết tháng Mười hai trở lạnh, những đợt không khí lạnh tăng cường khiến cho nhiệt độ giảm đột ngột. Có lẽ, giờ này ở Seoul tuyết đã phủ trắng khắp nơi, trong email lần trước Jiho có dặn ba nhớ mở đường ống nước kẻo lại bị đóng băng. Những năm gần đây ông có triệu chứng của bệnh đãng trí, nhất là khi lại sống lủi thủi một mình. Có lần Jiho nói, ba nên chuyển về quê sống cùng họ hàng nhà ngoại, nhưng ông nhất quyết không chịu đi, cứ bám riết lấy căn nhà nhỏ chật chội giữa Seoul đông đúc.

Mùi cà phê ngai ngái bốc lên khi anh đổ nước sôi vào trong cốc, từng lọn khói mỏng manh bay lên rồi thoáng chốc tan biến vào hư không, thứ dư âm để lại là sự dễ chịu, kích thích những tế bào thần kinh đang ì trệ.

Lẳng lặng ngồi xuống bàn, Jiho hướng ánh mắt về phía khung cửa sổ, những nhánh của cây bàng cổ thụ khẳng khiu vươn tới gần cửa sổ gian phòng, vài chiếc lá còn sót lại trên cây đã chuyển sang màu đỏ, chực chờ cơn gió vô tình tới cuốn đi.

Không gian trong ngõ lặng im như đối lập với không gian ồn ã bên ngoài kia, nếu như bước ra, hẳn là một thế giới khác lạ, đôi lúc khiến ta thực sự ngỡ ngàng, mỏi mệt. Trên mặt bàn, tập giấy chép nhạc vẫn đang nằm chỏng chơ, dang dở, còn phía dưới đất, vài tờ giấy bị vo tròn, nằm lăn lóc khắp sàn, vẫn chưa có bản nhạc nào được hoàn thành dù đã tới lịch thu. Những nốt nhạc dang dở như những mạch cảm xúc bị đứt đoạn, dẫu cho có cố gắng hàn gắn và chắp vá cũng chẳng thể nào thành hình, Jiho lặng nhìn xuống những khuông nhạc trống rỗng và bắt đầu cảm thấy chán nản thật sự.

Jiho bèn gục đầu xuống mặt bàn, ly cà phê nóng hổi dường như chỉ có tác dụng trong giây lát mà thôi, sự ngột ngạt đột nhiên choán lấy tâm trí Jiho khiến anh thấy tức ngực và khó thở.

Thấy vậy, bằng một động tác nhanh chóng và gần như được thực hiện trong vô thức, Jiho đột ngột đứng dậy, mở toang cánh cửa chính dẫn ra ngoài ban công nhỏ hẹp, cơn gió lạnh đột nhiên thốc vào gương mặt anh, ran rát. Cảm giác ấy ban đầu khá khó chịu, nhưng khi quen dần, Jiho lại cảm thấy thích thú. Cứ như thế, anh nhắm mắt, dang hai tay, từng cơn gió lạnh vẫn tiếp tục thốc vào gương mặt anh. Lạnh lẽo và vô tình.

Không gian xung quanh anh dường như đang thay đổi, sự thay đổi diễn ra một cách chậm rãi nhưng đủ để Jiho cảm nhận được. Mọi thứ dần trở nên thông thoáng, không gian như dãn nở, phình to ra bởi một sức mạnh khủng khiếp đang tác động lên nó. Jiho thấy mình đang đứng trên một tòa nhà cao tầng, thuộc khu hợp thể trung tâm thương mại và nhà hàng, có thể coi là sang trọng nhất Seoul. Jiho chẳng hiểu tại sao, thứ gì đã dẫn lối anh trở về với ký ức, lần đó. Những hình ảnh dần trở nên rõ rệt hơn trong tâm trí của anh, về một người con gái mà anh đã từng yêu. Mối tình đầu của anh, Jiyoung, một cái tên có hay chăng đủ sức gợi lại những kỷ niệm, về những năm tháng đã qua của tuổi trẻ, tình yêu và sự mất mát. Anh từng nhớ, có một nhà văn nào đó từng được gọi là nhà thám hiểm những ký ức, chỉ từ những cái tên, xa lạ. Có thể là tên gọi một con số sâu hun hút ở New Orleans, một quán cà phê cổ điển ở Paris. Có thể là một cái tên đọc đâu đó trên một tấm danh thiếp nằm chơ vơ trên mặt bàn, nằm lâu ngày trong một túi áo khoác, vào một ngày khi ta cần mặc, lần tay vào trong túi và bỗng nhiên tìm thấy.

Như giờ đây, khi những cơn gió thốc mạnh vào gương mặt, vào sâu tận tâm can Jiho lại thấy mình đang đứng trên một tòa nhà cao tầng, từ chỗ đó có thể nhìn thấy một phần của tháp truyền hình Namsan đang lẫn trong màn sương đêm huyền hoặc.

Phía bên dưới, Seoul hiện ra như một buổi vũ hội đêm hè của Csath Geza, những ngọn đèn lung linh như ngọn hải đăng đang trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương thăm thẳm, mênh mang. Nơi những con sóng khẽ liếm vào bờ cát mang theo những sinh vật phù du, về đêm chúng sẽ khiến cho cả một bờ biển trở nên rực sáng. Còn nơi đây, thành phố này, những sinh linh cô độc giữa đô thị rộng lớn đang ra sức gào thét, vô vọng. Nhưng nỗi cô độc chẳng ai hiểu thấu, nỗi cô độc nhân thế thấm đẫm tựa như trong những trang văn của Dazai Osamu, nhưng Jiho chẳng quan tâm khi Jiyoung đứng lặng lẽ bên cạnh anh và khóc. Những giọt nước mắt lăn tròn trên gò má ửng đỏ vì khí lạnh tháng Mười một ở Seoul, những tiếng nấc nghẹn ngào, nỗi niềm hối hận đang dâng trào trong lòng cô mà Jiho chẳng thể nào hiểu thấu. Hơn cả, anh chẳng thể làm gì, một chàng trai hai mươi tuổi thiếu quyết đoán trong những trường hợp cần thiết, khi ấy, Jiho đã tự nhận định bản thân mình như vậy.

Jiyoung nói họ sẽ không thể gặp nhau nữa, trong một thời gian dài, rất dài. Thời gian ấy có khiến cho mọi thứ sẽ bị xóa nhòa đi không, thứ khoảng cách đủ để mọi thứ sẽ dừng lại từ đấy. Jiho nhớ Jiyoung đã nói với anh như vậy, rồi cô tiếp tục sụt sùi, chưa bao giờ anh thấy cô khóc nhiều đến vậy, ấy thế mà, khi ấy, Jiho chỉ im lặng, nuốt khan, cổ họng anh nghẹn ứ lại và đắng ngắt. Anh cay đắng nhìn ra khoảng không gian mờ mịt ngoài kia mà chẳng thể tìm thấy thứ ánh sáng màu xanh hy vọng nào cả, dẫu có đứng đây gào thét thì cũng chẳng ai để ý.

Jiyoung sẽ theo chân gia đình sang Canada định cư, cô sẽ không trở lại Hàn Quốc nữa. Chỉ vậy thôi, một thông báo ngắn gọn, mơ hồ, giọng Jiyoung lạc đi theo tiếng gió hút từ những ngôi nhà cao thấp giữa trung tâm thủ đô Seoul. Jiho trộm nghĩ, nếu từ đây họ có ra sức gào thét thì cũng chẳng ai nghe thấy, hồi đáp lại họ; nhưng nếu gào thét đơn giản chỉ là một hành vi để tạm thời giải tỏa những bức bối trong họ thì cái việc “hồi đáp” ấy, sau cùng sẽ chẳng mang một ý nghĩa nào cụ thể.

Tiếng sụt sùi của Jiyoung kéo anh về với thực tại, nơi những cơn gió lạnh tiếp tục thét gào, quần thảo trong không gian u tối, vờn quanh những tòa nhà chọc trời của thành phố Seoul. Những ánh đèn mờ ảo chợt nhòa dần và dường như sẽ sẵn sàng biến mất chỉ sau vài giây nữa, bởi một thứ sức mạnh thần bí, siêu nhiên nào đó. Jiho vẫn đứng im như trời trồng, hai tay nắm chặt lấy lan can dường như đã cứng đờ. Trái tim anh cũng hóa đá theo đó, những hứa hẹn giờ trôi dạt vào đâu đó trong thinh lặng, tiềm thức. Người con gái bên cạnh anh, giờ đây, dường như đang dần trở nên xa lạ; và Jiho sợ rằng, chỉ cần một cử động, dẫu là nhỏ nhoi nhất thì cô ấy sẽ biến mất hoàn toàn, tan vào trong hư không.

“Về thôi!”

Đó là câu cuối cùng mà Jiho có thể nói, một nỗ lực không hơn, không kém. Cố gắng gỡ từng ngón tay cứng đờ đang dính chặt lấy thành lan can, Jiho định nắm lấy bàn tay của Jiyoung lôi cô đi, nhưng anh thoáng chần chừ, rồi ngừng lại. Jiyoung đã nín hẳn, gương mặt hao gầy phản chiếu với ánh sáng phát ra từ những tòa nhà khiến mọi thứ trở nên mơ hồ hơn bao giờ hết, Jiho chẳng thể cảm nhận được không gian mình đang đứng; và dường như mọi ký ức sau đó bị xóa nhòa đi một cách không thương tiếc, chỉ để lại những khoảng trắng. Mênh mang và vô định. Jiho chẳng thể nào nhớ được mọi chuyện nữa, ký ức như một lưỡi dao sắc ngọt khẽ cứa vào lòng anh, đớn đau, ứa máu.

Jiho quay trở lại căn phòng nhỏ của mình, con mèo đen sau khi ăn xong đã ngoan ngoãn nằm ngủ trên một góc giường, bụng phập phồng theo từng hơi thở, thảng hoặc đôi tai khẽ giật giật trong vô thức. Lặng lẽ tiến lại phía chiếc bàn một lần nữa, Jiho bèn ngồi xuống, tập giấy viết nhạc và cây viết chì vẫn đang nằm im lìm trên chiếc bàn.

Hít một hơi khe khẽ, Jiho cầm lấy cây viết chì, gõ nhẹ đầu bút xuống mặt bàn vài cái, rồi bắt đầu viết. Những ca từ nhảy múa trong đầu anh một cách kỳ diệu, như những phép màu. Jiho không dám chắc những gì từ ký ức, một lát cắt của quá khứ với vụn vỡ và thương tổn có được coi là phép màu hay không, nhưng anh nghĩ đã viết bằng cả trái tim mình.

***​

Jacqueline đã đến trước, lúc nào cũng vậy, chờ sẵn Dahlia ở Les Jeunes với một ly bourbon, đôi khi lại dùng thêm cả martini. Lơ đãng nhìn về phía đối diện quầy bar nơi có treo một bức tranh của danh họa Marc Chagall. “Les Amoureux” là tên của bức tranh, Jacqueline không biết chính xác ý nghĩa khi dịch ra tiếng Việt, nhưng có thể dịch nôm na là “Những người đang yêu”. Bà cũng không tưởng tượng ra chuyện Dahlia sẽ phản ứng như thế nào khi nghe cái tựa đó, nhưng thú thực bà vô cùng háo hức nếu như đem kể lại với cô, giống như một khao khát khác, đó là nhìn thấy nụ cười cùng vẻ mặt ngạc nhiên của cô vậy.

Dahlia bước vào, vội tiến lại quầy bar khi đã nhìn thấy Jacqueline. Có lẽ bà mải mê nhìn vào điệu luân vũ tình yêu của Chagall mà quên mất sự hiện diện của cô. Đôi khi tâm trí bà như lạc vào một chốn riêng biệt khác thường. Phải chăng người nghệ sĩ nào cũng mang trong mình một tâm thế như vậy? Cho tới khi Dahlia ngồi đối diện với Jacqueline thì bà mới quay về thực tại, ly martini vẫn đang uống dở nằm gọn trong lòng bàn tay của bà. Jacqueline nhìn Dahlia khẽ mỉm cười, thoáng bối rối hiển hiện trong ánh mắt màu xám sâu thẳm. Jacqueline có biết Dahlia thực sự thích ngắm nhìn đôi mắt ấy đến nhường nào!

“Bà làm gì mà nhìn chăm chú vậy Jac.” – Dahlia lên tiếng, kết thúc câu bằng từ “Jac” khiến bà cảm thấy có phần thân mật hơn lúc trước. Bởi lẽ lúc còn sống, mẹ cũng thường gọi bà bằng cái tên đó.

Lấy lại chút bình tĩnh bằng cách bỏ ly rượu lại mặt bàn, đan chặt hai tay vào nhau, Jacqueline đáp lời:

“Có lẽ là Chagall.”

“Chagall? Là ai?” – Dahlia ngạc nhiên hỏi lại, ánh mắt cô hiện rõ sự tò mò. Đúng rồi, Dahlia đã bao giờ nghe tới cái tên Chagall đâu. Đối với hội họa, Dahlia chỉ như một đứa trẻ háo hức mở cánh cửa để xem thế giới bên trong với những hình khối, sự pha trộn màu sắc phức tạp. Đôi khi, Jacqueline thường bông đùa theo cách đó.

“Tôi xin lỗi, vì chưa giới thiệu qua Chagall, một trong những họa sĩ mà tôi rất mến mộ. Ông là người Nga và sau này lấy quốc tịch Pháp.” – Jacqueline nói với giọng điệu pha chút tự hào, bởi lẽ bà đã từng có dịp trò chuyện với người cháu trai của ông ấy tại Paris nhân dịp kỷ niệm một trăm năm ngày mất của Chagall. Jacqueline định bụng sẽ đem chuyện đó kể lại với Dahlia nhưng bà cố kiềm chế, bởi lẽ bà sợ rằng, có thể sự cao hứng của mình sẽ khiến Dahlia cảm thấy khó hiểu.

Jacqueline ngừng lại đôi chút, nhấp thêm một mụm rượu; tiếc thay, tạm thời bà chẳng thể cảm nhận được hương vị của nó. Bà cố nuốt và cảm thấy đắng ngắt.

“Bức tranh đó tên là gì?” – Dahlia lại hỏi.

“Những người đang yêu.” – Jacqueline đáp gọn lỏn. Có thể thấy sự ngạc nhiên đã hiển hiện trong khóe mắt của Dahlia như thể cô vừa mở toang cách cửa đó ra, phía trước hẳn là một thế giới tuyệt đẹp nhưng rất xa lạ.

“Tên gốc tiếng Pháp là Les Amoureux, tôi không biết là mình có dịch sát nghĩa sang tiếng Việt hay không, nhưng thiết nghĩ có thể hiểu ý nghĩa của nó như thế. Cô có thấy màu sắc chủ đạo trong bức tranh không? Cả hình ảnh mặt trăng đang tỏa sáng dưới cái váy của người phụ nữ?”

Có lẽ mải mê chìm đắm trong thế giới của bức tranh mà Dahlia đã quên mọi thứ xung quanh. Ánh mắt cô dán vào bức tranh vẽ một người đàn ông và một người đàn bà đang ôm nhau thắm thiết, mãi tới khi có một tốp người đi mới khiến Dahlia sực tỉnh.

“Cô đã nhìn thấy gì?” – Jacqueline tò mò hỏi.

Dahlia mỉm cười, lắc đầu, chẳng thấy gì, chỉ là dường như có một sức mạnh nào đó đã thu hút cô theo cách hết sức mãnh liệt, còn lại, cô không hiểu ý nghĩa sâu xa mà Chagall muốn truyền tải trong tranh.

“Theo bà thì đó có được coi là một ma lực mà người nghệ sĩ đã tạo ra để thuyết phục người xem hay không?”

Dahlia nói thêm, thứ ma lực lúc đó sẽ trở thành vũ khí sắc bén của người nghệ sĩ khiến trái tim người thưởng thức có những rung cảm lạ thường.

Jacqueline bật cười khiến Dahlia bối rối, bởi lẽ cô cho rằng, mình đang nói những điều thực sự ấu trĩ, ngu ngốc.

“Tôi đã nói gì sai sao?” – Dahlia hỏi.

“Không, không hề. Tôi nghĩ đó thực sự là một góc nhìn rất thú vị. Mỗi một người đều có cách cảm nhận riêng mà.”

“Chagall đã lấy cảm hứng từ đâu vậy?” – Dahlia hỏi.

“Đó là Bella, người bạn gái suốt thời thơ ấu và đồng thời sau này trở thành người vợ đầu tiên của ông.” – Jacqueline đáp lời; bà còn cung cấp thêm một số thông tin, về chuyện người thân của Chagall đã gìn giữ tác phẩm này trong vòng năm mươi năm kể từ khi bức họa được hoàn tất vào năm 1929 cho tới khi được đem đi đấu giá trước công chúng Pháp.

“Thú vị thật! Tôi nghĩ sắp tới mình sẽ để tâm tới Chagall nhiều hơn.” – Dahlia cười nói.

Cuộc trò chuyện kết thúc khi Đức vào, chen ngang giữa hai người; về bức họa, chủ ý cũng là từ Đức. Jacqueline không hiểu dụng ý của anh ta khi đề nghị t.ư vấn một chút về hội họa. Ban đầu Jacqueline chỉ đơn giản nghĩ rằng, Đức cần một chút gì đó về màu sắc để trang trí cho Les Jeunes thêm phần sinh động, nhưng khi nhìn thấy sự chăm chú, tò mò của Dahlia thì bà lại nghĩ khác. Mục đích của anh ta khi treo bức tranh đó hẳn là muốn thu hút sự chú ý của Dahlia, dẫu nhỏ nhoi nhưng Jacqueline đã nhận ra. Chẳng hiểu thứ linh tính nào đã mách bảo chính bà rằng, Đức khác xa so với vẻ bề ngoài có đôi phần suồng sã, nhiệt tình và ga lăng của anh ta, khác xa so với những gã giàu có chẳng có gì ngoài tiền. Một con người rất khó nắm bắt.

“Hai người đã nói được những gì rồi.”

“Nhiều lắm, về martini và Chagall chẳng hạn. Anh biết Chagall chứ?” – Dahlia hỏi, giọng điệu có phần như trêu ngươi Đức.

Đức lắc đầu, chẳng biết một chút gì, rồi anh thông báo sắp tới phần biểu diễn của Dahlia, yêu cầu cô lui về phía hậu sân khấu để chuẩn bị. Đoạn, Đức gật đầu lịch sự chào Jacqueline rồi mau chóng lủi vào bên trong khán phòng.

***​

Màn biểu diễn kết thúc trong sự hưởng ứng nồng nhiệt của khán giả; như thường lệ, Dahlia trở lại phía quầy bar để tự thưởng cho mình một ly cocktail Caipirinha trứ danh của Brazil được pha chế rượu rum cachaça, thêm hỗn hợp chanh và chút đường. Jacqueline đã giới thiệu loại đồ uống này với cô. Theo lời bà, ban đầu người ta không sử dụng Caipirinha như một loại đồ uống có cồn thông thường, mà nó giống như một loại thuốc có công dụng điều trị bệnh cảm cúm; về sau này. người ta bỏ đi hai thành phần là tỏi và mật ong rồi cho thêm đường để giảm độ chua của chanh. Nghĩ về nguồn gốc của món thức uống trứ danh này, Dahlia chợt cảm thấy, bên cạnh Jacqueline, mình hệt như đứa trẻ được đưa đi thám hiểm những vùng đất xa lạ mà thú vị trên thế giới.

Dahlia tiến lại gần chiếc bàn, Jacqueline vẫn ngồi đó, bên cạnh đã có sẵn một ly Caipirinha; nhưng vẻ như Jacqueline không để tâm tới sự xuất hiện của cô mà mải mê suy tưởng điều gì đó, có lẽ lại là về Chagall chăng? Dahlia trộm nghĩ, rồi lanh lẹ ngồi xuống.

Lúc này, Jacqueline đã lôi từ trong chiếc giỏ mây quen thuộc ra một tập phác thảo dang dở những hình khối bằng chì than. Cô im lặng, có lẽ, Jac lại tìm kiếm cho mình một ý tưởng nào đó. Bàn tay trái cầm mẩu chì than be bé, nhịp nhàng lên xuống, trên bề mặt ngà ngà của trang giấy, những hình khối kỳ dị dần dần hiện rõ. Ánh đèn led kỳ ảo phản chiếu khiến cho chúng càng trở nên ma mị hơn, hệt như những giấc mơ quái đản.

Sân khấu thay đổi, một vài người lui tới, dàn trống được bày ra, kèm thêm một chiếc ghế dành cho nhạc công chơi ghi-ta. Một lần nữa, tay MC đỏm dáng với bộ vest màu trắng quen thuộc của Les Jeunes trở lại với sân khấu nhỏ.

“Và sau đây sẽ là phần trình diễn của nghệ sĩ trẻ Jiho cùng hai người bạn của anh, và đặc biệt hơn, ca khúc này do chính anh sáng tác.”

Một lời giới thiệu có phần khoa trương dễ khiến cho nhân vật chính cảm thấy đôi chút khó chịu. Từ phía trong cánh gà, một dáng người dong dỏng cao quen thuộc, từ tốn bước ra, theo sau anh là hai cô gái khá xinh xắn - một cô vóc người nhỏ nhắn, nét mặt như được pha trộn giữa hai nền văn hóa, người còn lại mái tóc thả tự nhiên, thân hình cân đối, kết hợp với bộ váy dạ hội màu hồng nhạt tạo nên một hình khối hoàn hảo vô cùng. Chàng trai có gương mặt ưa nhìn với sống mũi cao thẳng, mái tóc tỉa gọn gàng được vuốt nhẹ lên để lộ vầng trán có phần thanh tú. Ba người họ thu hút khán giả trong khán phòng từ những giây đều tiên khi bước ra.

Chàng trai đó, Dahlia vẫn nhớ cậu ta, người đã khiến cô bực tức bỏ đi vào dịp trước. Thực sự Dahlia chẳng nhớ nổi cuộc trò chuyện của họ đã diễn ra như thế nào; và vì nguyên do gì mà cô bực tức bỏ đi như vậy. Đôi khi, cô không thể điều chỉnh cảm xúc của mình, dễ nổi giận và có xu hướng xa lánh gần như mọi thứ. Nhắm mắt, cúi mặt xuống, lấy hai tay day day thật mạnh thái dương tới nỗi tấy đỏ lên, Dahlia không thể nghĩ nữa, bởi vì nếu nghĩ tiếp, cơn đau nửa đầu có thể sẽ ập tới bất cứ lúc nào và hạ gục cô ngay tức khắc.

Jacqueline đã ngừng bút sau khi phác thảo ra kha khá những hình khối đen đúa và quái dị trên mặt giấy, trông giống như giấc mơ đan xen lẫn nhau. Khẽ liếc nhìn sang Dahlia vẻ như lo lắng, bà định nói một điều gì đó, nhưng âm nhạc đã bắt đầu nổi lên. Cô gái nhỏ nhắn lướt nhẹ những ngón tay thon dài trên dây đàn, những âm thanh trong trẻo thoát ra tựa như tiếng suối, cùng lúc đó, chàng nghệ sĩ trẻ đã thả lỏng mình hơn, đung đưa theo giai điệu mào đầu, chút gì đó nhẹ nhàng mà khắc khoải tựa như những gợn sóng lăn tăn êm ả trong một buổi chiều mùa thu, hay mơn nhẹ trên cánh đồng cỏ may xa ngút mắt tận chân trời.

Vẫn chăm chú nhìn, Dahlia thấy dường như có một thứ linh cảm nào đó đã níu giữ đôi chân mình lại khi những giai điệu đầu tiên được cất lên trong khán phòng. Rồi cậu ta bắt đầu hát, một giọng ca không thật sự xuất sắc nhưng vẫn mang trong nó một phần nội lực, có điểm gì đó rất lạ, một vẻ đẹp riêng ở những quãng xuống thấp. Cả khán phòng lặng im, dẫu cho bên ngoài kia nhịp sống vẫn hối hả, nhưng trong không gian này, mọi thứ đang trở nên rất đỗi bình yên, lạ kỳ.

“Từ trên cao lộng gió, anh và em thấy thành phố

mênh mang trải dưới đôi chân mình.

Nơi đại lộ đâm mình về phía chân trời đỏ rực

Khi ấy, ta đã nói lời yêu nhau…”



Nhưng còn đâu những giây phút ấy

khi anh giam mình trong chiếc hộp sắt

chỉ còn những trống rỗng và giá lạnh

Theo tiếng trở mình, khe khẽ của màn đêm

buông mình trong giấc mơ thăm thẳm

mà chẳng bao giờ chạm đáy

Ta đã nói những gì về ước mơ

giờ chỉ còn trong mộng tưởng…



Chúng ta đã nói những gì

ngoài thương tổn, vụn vỡ

dưới bầu trời đêm đầy sao đang tỏa sáng lấp lánh

như trêu ngươi số phận mình

Chúng ta đã ví mình như chúng

nhưng cớ sao giờ đây mọi thứ đều tàn lụi

như vệt sáng quét ngang rồi vụt tắt



Chúng ta đã nói những gì…”



Lặng người đi trong giây lát, dường như Dahlia chẳng còn nhận ra không gian mình đang đứng, một ý nghĩ điên rồ thoáng vụt qua đầu khiến cô thắc mắc; rằng mình đang ở trong căn gác nhỏ chật hẹp nằm sâu trong ngõ thuộc khu tập thể Thành Công, hễ mùa hè mọi thứ đều trở nên bức bối và khó thở vô cùng cho dù quạt chạy vù vù cả ngày lẫn đêm. Rằng mình đang chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng trở khe khẽ của màn đêm, trong thinh lặng và vô tận.

Vài dư ảnh rời rạc trở về trong tâm trí như thước phim tài liệu tua nhanh, như một đoạn chuyển cảnh trong một bộ phim xa lạ, không đầu không cuối khiến người xem ngỡ ngàng. Một đốm lửa lập lòe, yếu ớt trong đêm tối, nhịp nhàng theo chuyển động của bàn tay, mùi khói thuốc đậm đặc phả ra càng khiến cho không gian trở nên nóng nực, mồ hôi chảy ròng ròng trên gương mặt, theo tháp cổ rỏ xuống ngực ướt đẫm cả lưng áo, chỉ một chuyển động nhỏ thôi cũng cảm thấy mùi mồ hôi mằn mặn, dinh dính nhớp nháp trên làn da, nghĩ đến mà khó chịu.

“Trời mùa hè mà cứ đóng cửa kín mít thì dễ phát bệnh lắm!” Một giọng nói mơ hồ vang lên trong thinh không đột ngột lọt vào tai Dahlia hệt như gió thoảng, là giọng của một người đàn bà, giọng nói khản đặc như người nghiện thuốc lá và nghiện rượu lâu ngày. Rồi cô nhận ra chẳng ai khác, đó là giọng của chính mình, như sâu thẳm từ tâm can, một bản thể khác, yếu ớt đang thoi thóp thở, cố thì thầm bên tai cô những điều đó, như thể thương hại.

Cảnh lại chuyển, lúc này, Dahlia không còn ở trong căn phòng ngột ngạt và bức bối ấy nữa. Cô đang đi rất nhanh, trên chiếc xe mui trần màu đỏ sang trọng đang lao vút về cuối đại lộ, đằng chân trời đang nhuốm màu đỏ rực, từng cơn gió thốc mạnh vào gương mặt gây nên cảm giác ran rát nhưng thích thú vô cùng.

Xe vẫn chạy, chạy mãi cho tới khi cô dừng lại ở một thành phố, với những ánh đèn kỳ ảo. Có người đã từng nói, đó là một thành phố không bao giờ ngủ, những ánh đèn sáng rực bên những bữa tiệc thâu đêm của giới thượng lưu. Xe đột ngột đỗ xịch trước một nhà hát, phía bên ngoài, hàng tá người đang đứng, những ống kính chĩa về phía cô, nhưng gương mặt háo hức xa lạ, những giọng nói lao xao vọng lại từ nhiều phía. Họ gào vào tai cô, họ giằng xé, nắm lấy tay cô như muốn lôi đi. Những âm thanh hỗn tạp, đảo điên và cuồng nộ khiến Dahlia thấy khó chịu vô cùng. “Đừng nói nữa.” Dahlia thét lớn nhưng âm thanh phát ra lọt thỏm giữa không gian mịt mùng, vô tận mà chẳng ai hồi đáp lại. Thân thể èo uột của cô dường như muốn đổ sụp xuống, ý nghĩ về cái chết xẹt qua như tia chớp. Đôi chân cô như không thể đứng vững được nữa, run lẩy bẩy rồi khụy xuống nền đất, ôm lấy hai tai như thể cầu xin chúng đừng động đến cô nữa.

“Dahlia. Dahlia…”
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG VIII

KÝ ỨC

“Cô sao vậy D?”

Một giọng nói trầm ấm, quen thuộc lôi Dahlia về thực tại. Tiếng vỗ tay rào rào vang vọng khắp khán phòng, một vài người thậm chí còn huýt sáo, tán thưởng.

Dahlia nhận ra mình không còn ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cô đang ngồi dưới sàn nhà, trông lố bịch vô cùng, nhưng may thay chẳng mấy ai để ý. Jacqueline vội vã đỡ cô đứng dậy, bà gọi một cốc nước lạnh cho cô để lấy lại bình tĩnh. Dahlia đỡ lấy cốc nước từ tay Jacqueline, khẽ nhấp một mụm, nhưng lạ thay, mọi thứ vẫn nặng trịch như cũ, kéo cô xuống một cái hố sâu thẳm, hun hút và xung quanh chẳng có gì ngoài bóng đêm, hay mùi của sự mục rữa đang từ từ xâm chiếm tâm trí.

Trên sân khấu, đèn đã tắt, những dụng cụ biểu diễn đã được đưa vào phía trong tự lúc nào chẳng hay. Một lần nữa, không gian lại chìm sâu trong sự lặng im vốn có. Những vị khách đang lần lượt ra về, cuối cùng chỉ còn cô và Jacqueline. Bà vẫn kiên nhẫn ngồi bên cạnh, ở độ tuổi ấy, ai cũng cần học cách kiên nhẫn, chờ đợi thứ gì đó mà ta nghĩ nó thực sự có ý nghĩa đối với mình. Thi thoảng Jacqueline đánh ánh mắt sang phía cô, hiện rõ sự lo lắng. Nhưng vẫn vậy, Jacqueline chẳng vội nói gì, có lẽ, Dahlia cần một chút im lặng để tĩnh tâm suy nghĩ chăng?

“Cô thấy mệt sao D? Để tôi đưa cô về?” – Cuối cùng Jacqueline đưa ra lời đề nghị.

“Tôi không sao, chỉ là một số chuyện cũ chợt ùa về.” – Dahlia đáp lời, dường như cô đang trốn tránh thứ gì đó được khơi gợi lại từ quá khứ.

Chỉ cần nhìn vào ánh mắt sâu thẳm ấy cũng đủ để Jacqueline hiểu, nhưng bà vẫn chọn cách im lặng; bởi lẽ chẳng ai muốn khơi gợi thứ gì đó dù là xấu xa, dù cho nó có đẹp đẽ tới nhường nào, khi mọi thứ đã trôi vào miền quá vãng. Người ta thường nói, sống vì hiện tại chứ không lấy việc bám víu vào quá khứ làm mục đích, làm định hướng sống. Jacqueline không chắc rằng Dahlia có đang cùng chung suy nghĩ như mình không, tất cả những gì bà muốn làm giờ đây, chỉ là làm sao để có thể giúp đỡ cô ấy mà thôi.

Chuyển ánh mắt về phía Dahlia như dò xét nhưng khốn nỗi chẳng có chút kẽ hở nào. Dahlia vẫn luôn như vậy, luôn đề phòng đối phương, dẫu trong bất cứ trường hợp nào, một tấm màn vô tình được dựng lên như một phản xạ tự nhiên dùng để bảo vệ chính bản thân vậy. Liệu đó có là nguyên nhân chính khiến mọi thứ trở nên xa cách hay không?

Jacqueline đã chứng kiến một phần của cuộc trò chuyện đó, chỉ là vô tình thôi. Lặng lẽ đứng một mình trong góc, bà quan sát mọi phản ứng của Dahlia, dường như cô sẵn sàng phản ứng với bất cứ chuyện gì khi đã chạm tới giới hạn của bản thân, nổi khùng lên và thực sự mất bình tĩnh với mọi thứ. Nhưng anh chàng kia, vẻ như đã nhìn thấu tâm can, hoặc chỉ một phần, đã khiến mọi chuyện có vẻ tồi tệ nhưng phần nào anh ta đã đạt được mục đích của mình khi bắt Dahlia phải suy nghĩ lại mọi điều. Rồi khi anh chàng thể hiện ca khúc ấy, đôi chỗ Jacqueline chẳng hiểu nổi những ý nghĩa, thông điệp nhưng rất có thể, nó đã tác động tới Dahlia, khiến một phần sâu thẳm nhất trong trái tim cô được đánh thức dậy. Có lẽ là chuyện tốt, Jacqueline thầm nghĩ.

“Cô có cần uống thêm chút gì không?” – Jacqueline cất tiếng hỏi, phá vỡ không khí lặng im trong quán.

Những vị khách cuối cùng cũng đã rời khỏi gian phòng tranh tối tranh sáng. Dahlia lắc đầu nói:

“Không cần, giờ tôi nên về nhà nghỉ ngơi.”

“Để tôi gọi taxi cho cô?”

“Phiền bà, vậy còn bà?” – Dahlia hỏi.

“Chưa biết được, có lẽ tôi sẽ ở lại với Chagall chăng?” – Jacqueline cười nói, nhướng mày về phía bức tranh của Chagall, treo ở một góc trong khán phòng.

“Hy vọng ông ta sẽ cho bà chút gì đó!” – Dahlia gượng cười nói.

“Cô cũng vậy!” – Jacqueline mỉm cười ẩn ý.

Dahlia ngạc nhiên.

“Cô có biết Chagall đã nói gì về Paris không?” – Jacqueline suy ngẫm trong giây lát rồi hỏi.

Dahlia lắc đầu, ngay cả cái tên Chagall cô cũng mới biết gần đây chứ nói gì tới cuộc đời của ông.

“Lumière, Couleur, La liberté, Le soleil, Joie de vivre.” – Jacqueline nói một tràng dài bằng tiếng Pháp mà Dahlia không tài nào hiểu nổi.

“Nó có nghĩa là gì?” - Dahlia bèn hỏi.

“Ánh sáng, màu sắc, tự do, mặt trời và niềm vui cuộc sống.”

Dahlia lặng thinh, ánh mắt trân trân dán vào khoảng không gian mờ ảo và vô định. Dường như thứ ánh sáng vàng đượm khiến mọi thứ trở nên u hoài hơn, thời gian như ngưng đọng khiến tâm trí Dahlia chẳng thể nghĩ được gì sáng suốt, cô chỉ mong giờ này có thể nằm trên chiếc giường nhỏ, trong căn phòng, đánh một giấc tới tận sáng, chẳng biết trời đất là gì.

Jacuqueline cũng chẳng tỏ vẻ nóng vội, bình tĩnh chờ đợi một câu trả lời từ cô, ánh mắt bà xuôi theo dòng ánh sáng vàng vọt từ phía bên ngoài con đường hiu quạnh, hắt thành những vạt sáng ma mị và huyền ảo sau cơn mưa nhỏ.

Những hình khối ma quái lại xuất hiện trong tâm trí, nhưng cánh tay bà giờ trở nên mỏi rời, những ngón tay không tuân theo sự điều khiển của tâm trí nữa. Chúng cứng đờ, còn tập phác thảo vẫn đang nằm dang dở trên mặt bàn cùng chiếc ly rỗng không. Jacqueline trộm nghĩ, có lẽ, giờ đây tâm trí của Dahlia cũng như vậy, như chiếc ly rỗng không.

“Tôi nghĩ mình nên về nhà ngay bây giờ.” – Dahlia lên tiếng, giọng như lạc đi một khoảng cách khá xa, âm vực trở nên mơ hồ hơn bao giờ.

Lặng lẽ cất bao thuốc vào trong chiếc túi nhỏ, cô tụt xuống khỏi chiếc ghế cao bên quầy bar.

“Để tôi gọi taxi cho cô nhé Dahlia?” – Lần thứ hai Jacqueline đưa ra lời đề nghị này.

Dahlia đồng ý ngay lập tức. Khoảng mười phút sau, chiếc xe taxi màu xanh nõn chuối đỗ xịch trước cửa. Trên thân xe có dán hình một cô diễn viên trẻ đẹp mới nổi gần đây, miệng cô ta tươi cười, tay cầm một thức uống đóng chai có in rõ lo go của nhà sản xuất.

Họ là những người cuối cùng rời khỏi Les Jeunes tối hôm nay.

“Tạm biệt, cảm ơn bà, Jac.” – Nói xong, Dahlia bèn chui vào trong. Chiếc xe nổ máy rồi lao vút về phía con đường tối thẫm, bỏ Jacqueline lại với ngổn ngang những nghĩ suy đang chất chồng ngổn ngang trong lòng.

***​

Xe vẫn chạy, vòng vèo qua những tuyến phố lớn nhỏ, Dahlia nghĩ rằng, có thể sẽ chợp mắt một lúc, những giấc ngủ ngắn đôi khi rất có lợi, nhưng mắt cô vẫn ráo hoảnh, đầu óc thì nặng trịch, giá như người lái xe có thể mở cửa kính ra thì hay biết mấy.

“Anh có thể mở một chút gì đó không?” – Một lát sau, Dahlia đề nghị; quãng đường về nhà còn khá xa và Dahlia chẳng thể nào chợp mắt được.

Người tài xế chẳng nói chẳng rằng, lấy tay nhấn vào một nút nào đó trên bảng điều khiển xe. Tiếng rè rè vang lên trong thoáng chốc, rồi dần được thay thế bằng một chương trình tâm sự đêm muộn hay gì đó. Có hai người đang trò chuyện, một người dẫn chương trình, người còn lại là khách mời, họ mới bắt đầu câu chuyện về những lầm lỡ đã qua. Vị khách mời nói, năm nay cô ấy đã ngoài ba mươi tuổi, hiện đang làm nhân viên văn phòng cho một công ty nhỏ lương lậu cũng chẳng nhiều, còn chồng cô hơn cô năm tuổi, làm nghề chạy xe tải đường dài, bận tối ngày, dăm bữa nửa tháng mới về nhà thăm vợ thăm con được một lần, được vài hôm thì lại phải đi. Họ có với nhau một đứa con bảy tuổi đang mắc chứng bệnh tự kỷ. Có lẽ những bậc phụ huynh có con mắc bệnh tự kỷ đều hiểu được tâm trạng ngay lúc này của cô. Diễn biến chính của câu chuyện đó là cô gái đã ngoại tình, nhưng sẽ không có gì nếu như chính bản thân cô không thú nhận với chồng mình. Đôi khi, trong cuộc sống, có những sự thật không cần phải nói ra. Cô gái cho biết thêm, chuyện ngoại tình dường như đến với cô chỉ là ngẫu nhiên, trong những ngày buồn chán lên mạng rồi chát chít, quen được một người đàn ông xa lạ, thấy nói chuyện hợp nhau, thế rồi họ hẹn nhau như thể chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ để giãi bày, để khỏa lấp đi những khoảng trống tạm bợ ở bên trong, chỉ vậy thôi. Nhưng cô gái đã nói sự thật, mà sự thật đôi khi sẽ khiến một người hoặc nhiều người phải trả giá, thậm chí cả cái chết. Ban đầu chồng cô tỏ vẻ cảm thông, coi đó là một giây phút bốc đồng, bởi lẽ những lầm lỗi đều có thể tha thứ nếu như họ đã thực sự tin tưởng lẫn nhau.

Cô gái bắt đầu khóc, giọng nghẹn ngào, nghe tiếng được tiếng mất. Cuộc chuyện trò bị gián đoạn một hồi, khoảng lặng im kéo dài như hàng tiếng đồng hồ đã trôi qua. Người MC dẫn chương trình không nói gì, có lẽ cũng bị cuốn theo câu chuyện đó. Phụ nữ thường hay cảm thông cho nhau trong những hoàn cảnh như vậy.

Xe vẫn chạy, vòng vèo qua phố lớn rồi phố nhỏ, hết ngóc ngánh này tới ngóc ngách khác mà Dahlia chẳng thể nào đếm nổi. Tới ngã t.ư đèn đỏ thì dừng lại, rồi lại chạy, hệt như quy trình bất biến của cuộc đời, không chuyển động thì mọi thứ coi như đã chết. Một cái chết từ từ, gặm nhấm, như vết chích côn trùng, một nhà văn đã từng nói như thế, thoạt tiên ta chẳng cảm thấy gì ngoài việc nhói đau một cái, rồi ta sẽ quên đi ngay sau đó. Nhưng vào một ngày, khi gợi lại câu chuyện, như cô gái kia, thì mọi thứ hẳn là sẽ rất khác, một cái nhìn rất khác từ chồng cô ta, thứ cảm giác ngờ vực sẽ lớn dần trong đó tạo thành những vách ngăn, những bức màn, dẫu mỏng manh nhưng nếu đưa đôi bàn tay ra phía trước, quờ quạng, thì ta vẫn cảm nhận được, rõ mồn một, và càng lúc càng trở nên đau nhói, dữ dội hơn.

Mắt chợt nhòe đi, Dahlia không thể nghe nổi phần sau của cuộc trò chuyện giữa họ; và chẳng biết liệu có giải pháp nào hay ho hơn chăng? Liệu có sự giải thoát, tháo gỡ trong câu chuyện của cặp vợ chồng trẻ. Sự mỏi mệt tạm thời thiêu rụi tâm trí thành đống tro tàn, không hơn; và chỉ chực chờ cơn gió tới, vô tình thổi bay chẳng biết về phương trời nào.

Xe dừng lại trước khu tập thể khi đã mười giờ hơn, càng về khuya trời càng lạnh. Gió rít qua những con ngõ sâu hun hút tạo nên những thanh âm vô cùng ghê rợn. Dahlia se mình trong tà áo mỏng, lạnh thấu người, thất thểu đi về phía cầu thang tối om chẳng thể nhìn thấy gì, bóng điện cầu thang cả tuần nay vẫn chưa sửa mặc dù có người đã thông báo với ban quản lý khu nhà. Dò dẫm từng bước một, cố gắng vịn tay theo lan can đã rỉ sét rất nhiều, cuối cùng Dahlia cũng về tới căn phòng nhỏ.

Cô mở cửa, bật đèn, thứ ánh sáng vàng đục lan tỏa khắp. Gian phòng nhỏ đơn sơ, nhàm chán hiện ra trước mặt như mọi khi. Dahlia kiểm tra điện thoại di động, có một tin nhắn của Jacqueline từ mười phút trước, cô chưa vội nhắn lại, thả mình xuống chiếc giường bé nhỏ, mắt thao láo nhìn trên trần nhà đã bong tróc nhiều chỗ để lộ cả vữa, xi măng và cát trộn lẫn vào với nhau.

Có lẽ, cô đã trải qua một ngày kỳ lạ. Đôi khi, sự ngẫu nhiên đến trong đời khiến cho ta có cảm giác bối rối; và khi ấy, đa phần phản ứng đầu tiên của mỗi người là trốn tránh, phủ nhận sạch trơn, coi mọi thứ như chưa hề tồn tại. Nhưng sau cùng, đó cũng chỉ là một cái cớ mà thôi, không hơn.

Gió ngoài trời thổi mạnh khiến chốt cửa bung rời ra, tiếng cánh cửa va đập vào bức tường như thể tấm kính chắn đã vỡ, tan tành, những mảnh kính vương vãi xuống nền đất. Dahlia vội nhỏm dậy, gió lạnh thốc vào phòng khiến rèm cửa bay phần phật trong không trung. Dahlia chạy lại kiểm tra, kéo cánh cửa và đóng kín. Đoạn, ngồi phịch xuống giường, cô thở dốc. Rồi lặng lẽ nhìn quanh căn phòng nhỏ trống trải, đồ đạc chẳng nhiều nhặn gì. Ngày đầu tiên khi chuyển về đây, người chị họ đã thực sự hoảng hốt với căn phòng này, ánh mắt của chị ấy hiện rõ sự lo lắng dành cho Dahlia, rồi từ đây, cô sẽ sống ra sao trong điều kiện thực sự thiếu thốn này. Căn hộ cao cấp nằm trong hợp thể khu trung tâm thương mại giải trí bậc nhất Hà Nội đã được giao bán lại, số tiền ấy được dùng để trả nốt chỗ nợ nần còn lại. Paul cũng không ý kiến gì, anh ta đã biến mất hơn một tuần trước khi có chuyện xảy ra. Dahlia chẳng còn gì sau khi bán căn nhà đó, mọi thứ tiêu tan thành tro bụi mà giờ đây, nếu như nghĩ lại cũng chẳng có nổi một hình dung rõ ràng – tất cả chỉ còn là những phù phiếm xa hoa mà thôi.

“Em sẽ ổn mà.” Nhìn sâu vào mắt người chị họ, Dahlia đã nói như vậy, nhưng chẳng thể nào xoa dịu nỗi lo lắng đang chất chồng thành núi ở trong lòng. Dẫu chỉ là chị em họ, nhưng Nguyệt Nga hiểu Dahlia hơn bất cứ ai trên cõi đời này, chỉ là chị ấy không thể giúp gì hơn mà thôi. Bởi lẽ ai cũng có một cuộc sống của riêng mình, Nguyệt Nga cũng vậy, chị có chồng làm nghề lái xe đường dài, hiện nuôi hai đứa con trai đang tuổi ăn tuổi hơn, dù là họ hàng nhưng có giúp thì cũng chỉ giúp được nhiêu đó thôi.

Dahlia dường như bất động khi mảnh ký ức chạy ngang qua đầu cô như một mũi tên, như vết cứa khiến vết thương chưa lành chỉ chực chờ ứa máu. Rồi viễn cảnh tương lai chẳng thể nào khủng khiếp hơn hiện tại. Cô lắc đầu, hòng xua đi những ý nghĩ tiêu cực ấy. Đoạn, cô đứng dậy đi về phía căn bếp, mở tủ lạnh và lấy một chai nước, vặn nắp, ngửa cổ tu một hơi thật dài. Dahlia chưa nghĩ tới giấc ngủ ngay bây giờ, bởi lẽ cô biết chắc rằng, khi chìm sâu vào trong giấc ngủ, khi sự mỏi mệt thiêu rụi tâm trí và thân thể cô thì những cơn ác mộng lại ập tới, hệt như con quái vật lẩn trốn trong màn đêm mờ mịt sẵn sàng lao ra và sẵn sàng giương vuốt tấn công.

Quét ánh mắt quanh căn phòng một lần nữa, Dahlia phát hiện ra bên góc tường của căn nhà, lỉnh kỉnh những cuốn sách cũ kỹ mà cô đã từng sưu tầm hồi còn học đại học, chủ yếu là tiểu thuyết của Fyodor Dostoyevsky. Ba cô cùng từng mê mẩm Dostoyevsky đến nhường nào. Mỗi khi nhớ đến ba, những dư ảnh dịu dàng lại trở về trong cô, chút ấm áp khẽ sượt qua trái tim đang rỉ máu cũng khiến cô mỉm cười hạnh phúc trong thoáng chốc. Ba chưa bao giờ phản đối chuyện theo đuổi đam mê của Dahlia, ngược lại, ông còn ủng hộ cô, mặc cho những lời đay nghiến cay nghiệt của dì. Mẹ mất năm Dahlia mười một tuổi, ba đi thêm bước nữa với một người phụ nữ trẻ đẹp ở làng bên. Khi lấy ba, dì mới chỉ ngoài hai mươi, là con nhà gia giáo, nhưng ngay từ giây phút đầu tiên chạm mặt Dahlia, ác cảm dường đã nảy sinh. Chưa bao giờ Dahlia thực sự biết nguyên do là gì, dẫu cho cô chưa bao giờ căm ghét dì vì những điều mà bà ấy từng làm. Một vài lần, hay mãi về sau này khi đã rời xa họ, không còn chung sống, bước đi trên con đường riêng, Dahlia nghĩ rằng, sự ác cảm, những lời lẽ đay nghiến, rốt cuộc cũng chỉ xuất phát từ sự yêu thương mà thôi, một sự yêu thương khác biệt, không thể định nghĩa nổi. Sự yêu thương của dì dành cho ba, sự yêu thương của ba dành cho cô. Nhưng tại sao, cuối cùng mọi thứ lại trở nên như vậy?

Năm hai mươi mốt tuổi, Dahlia rời khỏi nhà lên thành phố để học về âm nhạc. Ba không ngăn cản, cũng chẳng khuyên nhủ gì, có lẽ quá nhiều thứ với tên gọi “trách nhiệm” đã đè lên vai ông, khi đứa con chung của ông và dì ra đời. Thời điểm đó, Dahlia nghĩ, đây sẽ là cơ hội để cô rời xa họ, có thể là mãi mãi. Cô không biết quyết định của mình có thực sự đúng đắn hay không? Những khi để tâm trí “sảy chân” vào một quãng vô định, như quãng trắng trên một bản nhạc là cô lại tự vấn lương tâm. Rằng mình làm điều đó đúng hay sai? Rằng quyết định đó có gây thương tổn cho ba không? Ba đã bao giờ thực sự hiểu những gì cô mong muốn? Hàng tá những câu hỏi chất chứa như những nỗi niềm thầm kín, thứ bí mật riêng biệt, mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ Dahlia dám chia sẻ với ai, kể cả người hiểu cô nhất là chị họ Nguyệt Nga hay bây giờ là Jacqueline.

Dahlia ngừng lại, với tay lấy vài cuốn sách đang nằm chỏng chơ phủ bụi trong góc phòng. Cô quyết sắp xếp lại mọi thứ, như xếp dần những hoài niệm trong ngăn kéo ký ức, chưa bao giờ cô lại để tâm tới chuyện đó như lúc này, chưa bao giờ nó có một ý nghĩa nào xác định với cô.

Bỗng nhiên, giữa lỉnh kỉnh những cuốn sách cũ sờn, Dahlia phát hiện ra một chiếc túi hình tròn bằng da đã xước xát, bạc màu, nhiều chỗ lớp da ấy đã bị bong tróc. Lặng lẽ kéo khóa, cô phát hiện bên trong là những chiếc đĩa CD đủ loại, vài album của Bee Gees, Wham và album “Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band” của The Beatles, mặt bên trên đĩa có ghi dòng chữ nguệch ngoạc “Dành tặng con gái yêu của ba nhân dịp sinh nhật lần thứ 15”. Là của ba, dòng chữ xiên xẹo quen thuộc ấy, Dahlia như lặng người đi, cô di chuyển về phía chiếc đèn bàn, mân mê chiếc đĩa ấy như một thứ kỷ vật quan trọng nhất về ba, như dư ảnh còn sót lại về một người đàn ông mà cô yêu quý nhất, có lẽ cô sẽ chẳng thể dành cho ai một thứ tình cảm nào đặc biệt, theo cái cách mà Dahlia dành cho ông, mãi mãi.

Dahlia di chuyển về phía chiếc bàn gần cửa sổ, nơi đặt một chiếc máy chạy đĩa CD hãng Sony của Nhật, một ai đó đã từng dành tặng nó cho Dahlia trong một dịp kỷ niệm mà tạm thời không thể nào nghĩ ra. Có thể đó là một người hâm mộ cô, một người đàn ông với sở thích hoài cổ luôn sưu tầm những món quà đặc biệt. Miết bàn tay thon thả trên chiếc máy đã xước xát nhiều chỗ, cô cắm điện, mở máy rồi tra đĩa vào. Mọi động tác được Dahlia thực hiện một cách thuần thục, rồi những giai điệu của The Beatles bật lên, vang vọng khắp gian phòng. Bốn người đàn ông huyền thoại ấy đã hát về sự tự do, về khát khao, cháy bỏng. Và họ cũng vậy, ba người trẻ tuổi đó.

Một lần nữa, Dahlia thả mình xuống chiếc giường, nhắm mắt. Đột nhiên, cô thấy thân thể đang lơ lửng, thoáng hoảng hốt nhưng nhanh chóng định thần lại xem, mình có đang ở trong hiện thực nữa hay không? Nhưng chẳng hề gì, dẫu cho giờ đây ranh giới giữa hiện thực và hư ảo bị xóa nhòa thì Dahlia cũng chẳng bận tâm nữa. Cứ thế, cứ thế, cô bồng bềnh trôi theo những giai điệu của The Beatles, của anh chàng trẻ tuổi đã hát ở Les Jeunes hôm nay. Cô trôi mãi cho tới khi đáp xuống một nơi thật rộng lớn, thoạt tiên trông giống như một ngọn đồi và cô đang đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống. Nhưng thứ ánh sáng từ đằng xa hắt lại khiến cô lấy tay che, một chuyển động đột ngột, như nhiễu đoạn âm thanh chói tai, theo phản xạ, Dahlia lấy đôi tay bịt hai tai lại.

Cô đứng dậy, ánh sáng từ đằng xa, không còn hắt lại nữa, theo đó những âm thanh như từ xa vọng về. Thoạt tiên chỉ là những phản âm từ một chốn vô định nào đó, rồi chúng lớn dần, lớn dần, những âm thanh hỗn tạp va đập trong tâm trí cô. Nhận định lại không gian mình đang đứng, không phải là đỉnh đồi và Dahlia đang đứng trên cao rồi nhìn xuống, chính xác hơn, cô đang đứng trên một sân khấu lớn; phía trên đầu, những chiếc đèn pha đang rọi chiếu tứ phía. Còn bên dưới, một biển người đang hò reo tên cô, Dahlia, Dahlia, Dahlia. Điệp khúc được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Những đôi mắt ánh lên niềm khát khao khôn tả, nhưng khốn nỗi Dahlia chỉ đứng như trời trồng, đôi chân bất động như ghim chặt vào mặt sàn bóng loáng còn đôi tay thì cũng cứng đờ. Cô cố gắng mở miệng, nhưng thứ âm thanh phát ra từ miệng cô chỉ là những tiếng rít kinh khủng, chẳng hơn.

Dahlia bỗng sực tỉnh và thấy mình đang nằm co ro trên giường, ga trải giường co cụm lại một chỗ nhăn nhúm, khắp người ướt đẫm mồ hôi. Nhạc đã tắt, cả gian phòng chìm trong bóng đêm yên lặng. Thăm thẳm và vô tận. Thảng hoặc có một tiếng động nho nhỏ vang vọng từ không gian ngoài kia như tiếng ngái ngủ trở mình của con sông khi triều về, như tiếng gió rít về từ những cánh đồng hoang lạnh, hoặc từ một nơi xa xăm không xác định nào đó.

Đâu còn The Beatles, đâu còn ánh đèn pha chói lọi, đâu sân khấu lộng lẫy với rèn nhung và kim tuyến, chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi mà thôi. Đâu còn gì.

***​

Dahlia hẹn Đức nhưng không phải ở Les Jeunes như mọi khi, cô hẹn anh ở Ki-ốt 185 nằm trên đường Quán Thánh, một quán cà phê kiểu cổ, khá là yên tĩnh. Dahlia tới trước, chút dư âm tàn cuộc của đêm qua vẫn đâu đó phảng phất trong tâm trí khiến cô không thể ngừng suy nghĩ. Lặng lẽ chọn ngồi ở một chỗ trên tầng hai, từ đây nhìn xuống lòng đường, chiều tan tầm xe cộ qua lại như mắc cửi.

Dahlia lặng lẽ nhìn và tự nhủ, đã bao lâu rồi cô không được chứng kiến cảnh tượng quen thuộc này. Có lẽ, vào một ngày, cô sợ rằng mình sẽ quên đi mọi thứ, như chứng bệnh đãng trí ở người già vậy. Bỗng dưng Dahlia sực nhớ câu chuyện mà Jacqueline đã từng nói về Chagall, đúng hơn là chuyện ông đã từng nói về Paris. “Ánh sáng, màu sắc, tự do, mặt trời và niềm vui cuộc sống.” Cô ngờ ngợ trong lòng, không biết với hội họa, những từ ngữ đó có thực sự mang một ý nghĩa lớn lao và quan trọng nào không; nhưng sau cùng, khi sống trên đời này, chúng ta vẫn cần những thứ đó. Jacqueline nói thêm, niềm vui sống, có lẽ thường bắt nguồn từ những điều nhỏ nhoi, thường nhật trong cuộc sống.

“Em làm sao mà ngẩn người ra vậy Dahlia?” – Giọng của Đức khiến Dahlia giật mình, quay người lại thì thấy anh đang đứng trước mặt, miệng mỉm cười.

Đức ngồi xuống, phong cách của anh hôm nay hơi bụi bặm - áo phông đen, bên ngoài khoác áo da màu xanh, chân đi một đôi giày thể thao màu trắng, cặp kính đen như thường lệ được đeo ngược ra sau.

“Không sao, em đang suy nghĩ linh tinh thôi.” – Dahlia trả lời.

“Vì anh thấy hơi lạ thôi, khác với em mọi ngày.”

Dahlia cười trừ, rồi họ mau chóng gọi đồ uống.

“Em hẹn anh ra đây để nói chuyện gì quan trọng sao, vì trong tin nhắn anh cảm thấy như có chuyện gì rất gấp.” – Đức nhìn cô tỏ vẻ thắc mắc.

Dahlia lắc đầu, có lẽ là hiểu lầm rồi vì cô chẳng có dụng ý gì cả, có thể hiểu đây là một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên thôi, và cô cần người trò chuyện.

“Không có gì, em xin lỗi, vì cũng chẳng có chuyện gì to tát, chỉ là…” - Thoáng ngập ngừng hiện rõ trên gương mặt của Dahlia… - “Chỉ là em cần người để nói chuyện thôi. Anh bận gì hay sao?”

“Không hề, anh sẵn sàng chờ những tin nhắn và cuộc gọi của em bất cứ lúc nào.” – Đức bông đùa khiến Dahlia cảm thấy ngại ngùng vô cùng.

Rồi anh nói thêm.

“Vốn dĩ em tới Les Jeunes thường xuyên, nhưng chẳng mấy khi chúng ta có thể trò chuyện lâu với nhau. Đúng không?”

Dahlia gật đầu.

Lúc này, người phục vụ đã bưng đồ uống ra, hai tách cà phê ấm nóng sẽ tốt cho một ngày lạnh giá.

Dahlia khẽ nhấp một mụm để lấy lại bình tĩnh. Đối diện mình, Đức vẫn giữ được phong thái điềm tĩnh như vốn có. Ở con người này, ngay cả khi bạn nhìn sâu vào trong ánh mắt cương nghị ấy, cố gắng khai thác một chút gì từ đó thì kết quả cũng đều công cốc, chỉ để lại những hoài nghi, sự ngờ vực như khi ta đứng giữa ranh giới một bên là sự thật, một bên chỉ là sự phù phiếm, hời hợt. Đức là một người khá giỏi trong việc che giấu cảm xúc của cá nhân, ít khi anh biểu lộ với ai, kể cả khi bị khiêu khích ở mức độ nào. Có lẽ, đó phải chăng là một trong những đặc tính hiếm có ở những người có đầu óc kinh doanh nhanh nhạy như Đức, người đã có bao năm kinh nghiệm chiến đấu trên thương trường để đạt được thành công như ngày hôm nay.

“Em có điều gì để nói chăng?” – Đức nhìn Dahlia và nói, một cái nhìn trực diện khiến cô thấy vài phần bối rối.

Dahlia gật đầu.

“Đúng là em hẹn anh không chỉ để nói chuyện phiếm như mọi lần đâu.”

“Anh biết.” – Đức đáp lại với giọng điệu hết sức tự tin.

“Anh có xem hết buổi biểu diễn tối qua ở Les Jeunes không?”

“Anh có.”

“Tiết mục cuối?”

Đức gật đầu.

“Anh thấy thế nào?”

Im lặng, Đức đan hai tay vào nhau để trên mặt bàn, đánh ánh mắt xuống phía dưới lòng đường đang trở nên tối thẫm, dị kỳ. Phố phường đã dần vãn người, ánh đèn hiu hắt vương vãi trên vỉa hè tạo nên một không gian bẩn thỉu và hoài niệm.

“Tiềm năng, anh chỉ nghĩ được hai từ đó thôi. Anh không thể đánh giá gì nhiều về chuyên môn, và cũng không rõ người ta định nghĩa hai từ tiềm năng như thế nào. Nhưng khi nghe cậu ta cất tiếng hát, giai điệu ấy đã khiến anh nghĩ vậy.”

Lần này tới lượt Dahlia im lặng, miệng cô khô khốc, nếu nuốt khan thì mọi thứ sẽ trở nên đắng ngắt. Không buồn bận tâm tới bộ dạng của mình khi đó nữa, bởi lẽ chẳng thứ gì có thể che giấu mãi mãi trong lòng, trừ phi khi ấy ta đã quá chán nản với mọi thứ. Nhưng giờ đây, cô cho là mình chưa giống với một người đang cảm thấy chán nản với mọi thứ.

“Em cần một cuộc hẹn nữa.” – Cuối cùng Dahlia cũng nói ra mục đích của mình.

Đức khẽ nở một nụ cười trên môi vẻ như mãn nguyện, như thể anh đã nhìn thấu được tâm ý của Dahlia.

“Được thôi, cho anh một cái hẹn nhé! Rồi anh sẽ sắp xếp.”
 

Nhom4.0

Phàm Nhân
Ngọc
198.892,56
Tu vi
0,00
CHƯƠNG IX

BAN NHẠC THE TOWN

“Chị ấy chủ động gặp tụi mình. Em không tin nổi vào vào tai mình nữa. Có thật vậy không Ann?”

Lưu Ly dường như không thể giấu nổi sự sung sướng và phấn khích đã hiện rõ trên gương mặt, thậm chí con bé con đứng dậy, chồm người qua chiếc bàn tròn sang hẳn phía Ann ngồi, còn bên cạnh Jiho cũng đang tủm tỉm cười vì hành động đó.

Ann gật đầu như để xác nhận thêm một lần nữa.

“Đúng thế! Sáng nay anh quản lý Les Jeunes đã gọi điện cho chị và nói về chuyện đó, cũng không có gì to tát, chỉ là một buổi trò chuyện thân mật mà thôi.”

“Ai bảo không to tát gì chứ. Hay quá! Thế là em có cơ hội gặp thần tượng của mình rồi.” – Lưu Ly nói, giọng điệu cô bé chưa bao giờ hào hứng như thế, vẻ hạnh phúc hiện rõ trên gương mặt xinh đẹp.

“Có gì thì mình sẽ báo cho hai người sau nhé! Hôm nay mình nghỉ ở đây thôi!” – Ann nói rồi cất tập giấy chép nhạc vào trong chiếc cặp, những giai điệu hẵng còn dang dở, chưa hoàn thành.

“Hẹn gặp lại anh chị sau nhé!” – Lưu Ly nói rồi mau chóng đi ra ngoài, chiếc taxi màu đỏ đã chực chờ sẵn ở đó. Chỉ còn lại Ann và Jiho.

Được gặp Dahlia, đáng nhẽ trong lòng Ann phải cảm thấy vui hơn ai hết, nhưng chẳng hiểu sao Ann lại thấy lo lắng nhiều hơn; có lẽ dư âm của cuộc chuyện trò bữa nọ vẫn đeo đẳng tâm trí Ann, khiến cô không sao dứt ra được. Dù gì đã có quá nhiều chuyện xảy ra với Dahlia, và thực chất họ chỉ như những người dưng vô tình lướt qua nhau mà thôi, chẳng có một mối ràng buộc nào được thiết lập từ trước cả. Ann nghĩ, giữa họ vẫn có những rào cản mà cô chẳng thể nào diễn tả bằng mớ ngôn ngữ đang trở nên hỗn độn thật sự trong đầu mình, chẳng một từ ngữ chính xác nào có thể diễn tả nổi vào lúc này. Dahlia đã trải qua quá nhiều chuyện, và chị ấy cần có thời gian để có thể cân bằng lại nhiều thứ. Trực giác mách bảo Ann rằng, chị ấy thuộc tuýp người mạnh mẽ và không dễ gì bị những thứ khó khăn đó hạ gục một cách nhanh chóng, nhưng dù gì họ cũng chỉ là những người phụ nữ yếu đuối mà thôi. Mẹ từng nói rằng, sâu thẳm trong trái tim người phụ nữ dẫu có mạnh mẽ tới đâu vẫn có một phần nào đó yếu mềm, rất dễ bị xúc động. Ai cũng vậy mà thôi, Ann trộm nghĩ trong lòng, không hiểu tại sao vào thởi điểm này cô lại có những suy nghĩ tiêu cực như vậy.

“Cậu làm sao mà ngây người ra vậy Ann?” – Giọng nói của Jiho khiến Ann dứt ra khỏi mớ suy nghĩ hỗn độn.

Thoáng bối rối lướt qua trên gương mặt thiếu ngủ mấy ngày nay, Ann bèn nói:

“Không! Không có gì, chỉ là mình đang suy nghĩ về vài chuyện mà thôi.”

“Chuyện gì vậy? Có thể nói cho mình biết không?” – Jiho nhìn sang phía cô tò mò. Anh luôn có cái nhìn trực diện khiến người khác ngượng ngùng, nhưng trong ánh mắt anh luôn ánh lên sự thành thực mà chính sự thành thực đó khiến Ann cảm thấy an tâm nhường nào khi có thể chia sẻ mọi thứ với anh. Một sự đồng cảm nào đó đã kết nối giữa hai người, kể từ cái ấn tượng đầu tiên cũng thế.

Ann im lặng, không nói. Jiho tò mò rồi rốt cuộc cũng đoán ra chuyện mà Ann đang bận tâm. Ann là người dễ để lộ cảm xúc của mình ra bên ngoài.

“Là chuyện về Dahlia sao?” – Jiho nói, giọng điệu vẻ như dò xét.

Ann gật đầu nhưng lại không nói gì, khẽ thở dài rồi ngồi trở lại ghế trong quán cà phê bên dưới trung tâm thương mại. Ngày cuối tuần, quảng trường phía trước mặt đông đúc hơn thường lệ. Những đôi tình nhân tranh thủ chụp ảnh, cười nói bên nhau tình tứ, còn những đứa trẻ thì đang trượt patin dưới sự giám sát của bố mẹ chúng…

Thấy Ann như thế, Jiho nói tiếp:

“Cậu vẫn còn lo lắng về chuyện hôm nọ sao? Mình xin lỗi, lỗi là ở mình.”

Ann lắc đầu, đáp lời:

“Không, không phải chuyện đó đâu Jiho. Chuyện đã qua rồi, vả lại Dahlia chẳng để ý đâu mà, không thì chị ấy đã không hẹn gặp nói chuyện với bọn mình.”

“Nhưng tại sao cậu lại cảm thấy không thoải mái? Khuôn mặt cậu ghi rõ điều đó?”

“Mình cũng không biết nữa, chỉ là, mình có một dự cảm gì đó…”

“Dự cảm?” – Jiho tròn mắt ngạc nhiên hỏi lại như thể anh không hiểu nghĩa của hai từ “dự cảm” vậy.

“Có lẽ mình suy nghĩ thái quá thôi. Không có gì, chúng mình mau về thôi. Nay mình còn phải đi sang thăm mẹ mình nữa.”

“Cho mình đi cùng được không?”

“Để khi khác đi.” – Ann từ chối ngay lời đề nghị của Jiho khiến anh thấy cụt hứng, nhưng chẳng nói gì thêm. Đôi lúc Ann rất cứng đầu, nếu đã không muốn thì chẳng ai có thể ngăn cản được cô ấy. Hơn nữa, có lẽ giờ Ann cũng cần tĩnh tâm để suy xét thấu đáo mọi chuyện, vì là người cầu toàn nên cô ấy luôn muốn mọi thứ phải thật sự chắc chắn. Jiho thiết nghĩ, suy cho cùng những thứ đó cũng chỉ xuất phát từ lòng tốt vô điều kiện của Ann mà thôi, cô luôn luôn muốn giúp đỡ mọi người bằng mọi cách và hơn cả chẳng bao giờ nghĩ cho bản thân mình trước. Thế nên, Jiho luôn nhượng bộ khi tâm trạng của Ann không vui, đợi cô suy nghĩ lại thì mọi chuyện sẽ lại đâu vào đấy cả thôi.

***​

Ann vẫn mang tâm trạng nặng nề của mình khi đã yên vị trên chiếc xe buýt tồi tàn đang từ từ chuyển hướng về khu vực ngoại thành. Phía bên dưới Jiho vẫn đứng đó vẫy tay tạm biệt, cho tới khi chiếc xe buýt khuất hẳn qua ngã t.ư phía những tòa nhà cao tầng thì khi ấy Ann biết Jiho mới ra về. Khờ thật! Ann tự nhủ trong lòng nhưng chẳng hiểu sao những hành động khờ khạo nho nhỏ ấy lại khiến cô mỉm cười, và trong lòng an yên tới lạ thường.

Cô chẳng nhớ mình đã chia tay mối tình cũ cách đây bao lâu, nhớ mang máng thì chừng ba, bốn năm gì đó, hồi cấp III thứ tình yêu kẹo bông trong sáng vẫn nằm đó trong ngăn kéo ký ức với dư âm ngọt ngào, là lạ. Nhưng giờ đây, khi đã thực sự bước vào ngưỡng cửa của cuộc đời, đối mặt với chuyện bắt buộc thành người trưởng thành, rồi đi đôi với cả hai chữ trách nhiệm khiến cho đôi lúc, cô chẳng thể nghĩ được gì. Những mối quan hệ đôi khi là cơ hội, nhưng đôi khi lại khiến chúng ta càng trở nên mỏi mệt vì phải suy nghĩ quá nhiều, suy nghĩ làm sao để có thể cân bằng được mọi chuyện. Ai cũng phải trải qua giai đoạn này mà, dẫu có muốn hay là không?

Tạm thời gác lại những suy nghĩ bề bộn trong đầu, Ann liếc nhìn ra bên ngoài, chiếc xe vẫn băng băng trên con đường rời khỏi phố thị ồn ã, bụi bặm và bon chen. Phía bên đường, những bức tường màu xám nặng nề, khô khốc và lạnh lẽo của phố thị dần dần được thay thế bởi màu xanh của những hàng cây bạch đàn, rồi tới những ruộng lúa mênh mang thẳng cánh cò bay. Mấy năm trở lại đây, nhất là khoảng thời gian mười năm đầu của thế kỷ XXI, quá trình đô thị hóa ở Hà Nội diễn ra vô cùng mạnh mẽ, khi khu vực các huyện ngoại thành dần dần bị ảnh hưởng của quá trình này, với kết quả là những nhà máy, khu công nghiệp mọc lên như nấm sau mưa. Nên có lẽ chỉ nay mai thôi, những màu xanh tươi mát này lại một lần nữa lại bị xâm chiếm bởi thứ màu xám xịt u ám và nặng nề kia, của cái người ta gọi là đô thị hóa. Những người trẻ hiện tại đang sống trong thời kỳ đầu của xu thế toàn cầu hóa, vậy nên hãy hành động, chúng tôi cần các bạn phải hành động, ngay bây giờ. Ann chợt nhớ tới câu nói của một gã trẻ măng nào đó đã từng nói trong buổi diễn thuyết của hắn cho hàng ngàn những người trẻ đang kiếm tìm những cơ hội, nhưng rồi cuộc đời khiến người ta chẳng thể lường trước được những gì mình đang có. Vài tháng sau buổi diễn thuyết hoành tráng ấy, người ta tìm thấy thi thể của anh ta ở nhà riêng, báo chí đã làm rùm beng vụ việc đó cho tới khi người ta kết luận anh ta tự sát, cho tới khi người ta quên đi, quên đi những bài học, triết lý mà anh ta đã nói, thứ đọng lại trong tâm trí hiện giờ của những người còn sống chỉ là chuyện anh ta đã dại dột tự cướp đi sinh mạng của mình mà thôi. Rồi có người sẽ nói, anh ta quá dại dột, bồng bột, anh ta chẳng là gì khi đi rao giảng những bài học cho mọi người để rồi chính bản thân anh ta lại không thể tự giải quyết được vấn đề của mình. Tất cả những lời lẽ đó, sau cùng, chỉ là sự thương hại mà thôi. Không hơn, cuộc sống là vậy đó, sẽ chẳng ai nhớ tới công lao của bạn khi hình ảnh cuối cùng của cuộc đời chỉ là bên cạnh những viên thuốc ngủ hay bồn tắm đầy máu.

Ann không buồn nghĩ nữa, đó là chuyện hiển nhiên của xã hội, có nghĩ cũng chẳng giải quyết được gì mà chỉ khiến đầu óc của cô nặng trình trịch mà thôi. Khẽ tựa đầu vào khung cửa kính, Ann thiếp đi trong giây lát. Một giấc mơ, bất chợt, lặng lẽ trở về xâm chiếm tâm trí cô. Một mảnh ký ức xa xăm thì đúng hơn.

Trong không gian phố thị, một con ngõ nằm sâu hun hút trong khu dân cư ngổn ngang, những tàn tích từ thời kỳ thập niên tám mươi. Không gian ấy như được tráng lên bởi một lớp màu bàng bạc, thoạt tiên chúng tựa như một bức ảnh được chụp đen trắng cho tới khi mọi thứ rõ dần. Ann đang đứng trong khu phố, góc bên kia ngay trước một ngôi nhà quen thuộc là một cây bàng nhỏ xíu. Đúng nhà của cô rồi, nhưng giờ đây cây bàng đã trở nên cao lớn. Cô tự hỏi tại sao mình lại mơ tới khung cảnh này. Chưa kịp định hình gì trong đầu, bỗng nhiên từ phía bên trong những căn nhà cũ kỹ, vài đứa trẻ chạy ra, cả trai lẫn gái. Chúng đang cười đùa, rồi đột nhiên cô nhận ra một đứa bé với mái tóc nâu xoăn tự nhiên, đôi mắt xanh sâu thẳm. Chính là hình ảnh thu nhỏ của cô. Lũ trẻ dừng lại, chúng tập trung ánh mắt vào cô, rồi một trong số chúng hỏi, tại sao mắt cậu có màu xanh? Tại sao cậu không giống bọn mình? Cô bé ngơ ngác không hiểu gì. Bỗng nhiên, một đứa chạy tới đẩy cô bé ngã ngửa rồi hét lên “Đồ quái dị!”.

Ann đột ngột sực tỉnh, đầu óc choáng váng vô cùng, xe vẫn đang bon bon chạy trên đường.

Xe chạy thêm chừng mười phút nữa thì tới một thị trấn nhỏ cách trung tâm thành phố khoảng ba mươi cây số. Căn nhà nhỏ nằm nép mình cuối con phố chính ngay bên cạnh nhà văn hóa, phía trước cửa là hai cây bằng lăng đã trụi lá, giờ trơ lại những cành khẳng khiu như những cánh tay chĩa thẳng lên bầu trời xám xịt, u ám. Ann lẳng lặng đi vào trong nhà, tay xách theo túi hoa quả, kèm thêm một ít trà để biếu dì, dì đặc biệt thích loại trà búp Thái Nguyên, nhờ một người quen mà cô đặt mua được vài cân.

“Dì ơi!” – Ann lên tiếng vì thấy trong nhà vắng tanh chẳng có ai.

“Dì ở sau nhà này con, vào đi. Dì đang bận việc chút.” – Dì nói vọng ra.

Ann đặt đồ lên chiếc bàn giữa nhà rồi ra phía sau, nơi căn bếp ám mùi khói đặc trưng được đốt từ rơm rạ ngoài đồng. Dù trong nhà đã có bếp gas nhưng dì bảo không quen dùng, chỉ thi thoảng đun nấu bằng bếp gas thôi, cái chính vẫn dùng bếp củi. Dì bảo rằng, ngày bà ngoại còn sống tất tần tật những gì mà bà dạy đều từ cái bếp củi này mà ra, giờ bỏ không dùng nữa tự dưng dì lại thấy nhớ nhớ.

Lúc đi vào Ann đang thấy dì cặm cụi đun nấu thứ gì đó thơm phưng phức trong bếp.

“Dì đang làm gì đấy!”

“Dì đang hầm canh xương, biết con thích nên dì làm đấy.” – Dì nói với giọng hào hứng hệt như một đứa trẻ khoe thành tích.

“Con cảm ơn dì, mà mẹ con đâu dì?”

“Mẹ con bảo đau đầu nên đang nằm ngủ ở buồng trong kia kìa. Để dì đánh thức mẹ con dậy nhé!”

“Thôi, dì để mẹ con ngủ đi. Con phụ dì nhé!”

“Con trông hộ dì, dì sang nhà bà Cao bên kia đường, xin bà ít quả bồ kết về đun nước gội đầu cho mẹ con. Nghe bảo gội nước lá thì sẽ đỡ đau đầu hơn. Đợi dì về, mẹ con thức dậy thì mình ăn cơm chiều nhé!”

“Vâng ạ!”

Dì cười rồi lanh lẹ đi sang phía bên kia đường, dáng người nhỏ bé, thấp đậm giống y như bà ngoại. Đôi khi dì thường nói vui rằng, tại dì giống ngoại quá nên ngoại mới chẳng thích dì, bằng chứng là bà ngoại thích mẹ con hơn. Ann hỏi dì tại sao? Nhưng những khi ấy, dì chỉ cười mà thôi.

Ann ở lại ăn cơm với mẹ và dì buổi tối rồi lại tất tả quay trở về Hà Nội, vì ngày mai ở trường có buổi giao lưu văn nghệ giữa các câu lạc bộ ghi-ta. Từ ngày đi hát, công việc ở câu lạc bộ Ann chuyển hết cho cho Thành Vinh, và cô cũng chỉ sinh hoạt được một vài buổi ngẫu nhiên mà thôi. Jiho cũng vậy, anh nói cần tập trung vào việc học tiếng Việt, vì gần đây anh cũng bắt đầu sáng tác ca khúc. Anh nói một nghệ sỹ đa zi năng thì ngoài chuyện hát cũng cần phải biết sáng tác nữa. Ann ủng hộ quyết định của anh.

Ăn tối xong, mẹ kêu đau đầu rồi lẳng lặng đi vào trong buồng nằm nghỉ. Dì bảo rằng, có lúc mẹ hay tỏ ra như vậy, giống như kiểu hờn dỗi của trẻ con nên dì chẳng phàn nàn gì, chỉ mong mọi thứ trong thời gian tới sẽ tốt lên phần nào mà thôi.

“Con bận nhiều chuyện quá, nên chỉ thi thoảng về đây thăm mẹ được thôi. Giá như con có thể sắp xếp được được nhiều thời gian hơn.” – Ann thú nhận với dì.

Dì mỉm cười đáp lại:

“Con cứ tự do bay nhảy đi, thời đại nào rồi mà còn bó buộc vào mấy cái chuyện không đâu. Con đừng áy náy nhé, dì chẳng phiền gì đâu. Thậm chí ngược lại dì còn cảm thấy vui là đằng khác, vì có mẹ con ở đây dì thấy đỡ trống trải hơn ngày trước biết bao nhiêu.”

“Con cảm ơn dì nhiều.” – Ann nói rồi lặng lẽ ôm tạm biệt dì.

Chuyến xe buýt cuối ngày đưa cô trở lại với cuộc sống đô hội ồn ã, với hàng tá những công việc bộn bề, ngổn ngang trước mặt. Bởi lẽ cuộc đời như những chuyến xe đi trên một đoạn đường dài, và cũng chẳng ai biết cung đường đó sẽ dẫn ta tới đâu, hay tới những vùng đất nào, chuyện của ta là cứ thế dấn bước về phía trước.

***​

Dahlia đứng tần ngần một hồi lâu, ngỡ như cô đã quên biệt đi không gian mình đang đứng. Đôi khi ở một mình thường đem lại cho cô cảm giác đó. Dẫu lạ lùng nhưng rốt cuộc lại chẳng lý giải nổi. Nhớ có lần, đi taxi, lúc chiếc xe dừng lại trước ngã t.ư đèn đỏ trên đường An Dương Vương, chẳng hiểu sao một hình ảnh thu hút cô đến lạ lùng. Ấy là khi Dahlia cứ nhìn chằm chằm vào một tấm biển quảng cáo lớn treo chình ình giữa ngã t.ư đèn đỏ. Trên tấm biển chụp hình một cô gái đang nở nụ cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng muốt, thẳng đều tăm tắp, còn mái tóc bồng bềnh xõa tự nhiên như đang tung bay trước gió. Trên tay cô gái cầm lọ mỹ phẩm của một hãng mỹ phẩm nổi tiếng của nước ngoài, phía bên dưới in lớn dòng chữ slogan của thương hiệu. Một cảm giác quen thuộc hiển hiện trong tâm trí Dahlia khi ấy. Cô nhớ mang máng rằng, đã từng gặp cô gái trên tấm biển quảng cáo ở đâu đó, mà tạm thời chẳng thể nào nhớ ra. Mớ hỗn độn bùng nhùng, có quá nhiều gương mặt trong mớ hỗn độn ấy, những con người qua lại, lướt qua nhau, nở nụ cười xã giao, cái bắt tay, những lời chúc tụng...

“Dahlia!” – Giọng nói quen thuộc của Jacqueline vang lên, rõ mồn một khiến Dahlia dứt ra khỏi dòng hồi tưởng miên man tựa như cơn thác lũ.

“Bà... bà tới rồi! Khi nào vậy?” – Dahlia hỏi, vẻ mặt bối rối vô cùng.

“Cũng được một lúc rồi, nhưng tôi chưa vội lên tiếng.”

“Vì sao thế?”

“Tôi thấy cô chăm chú quá, ý tôi là bức tranh này. Cô đã nhìn chằm chằm.” – Jacqueline nói đồng thời hướng ánh mắt lên phía bức tranh khổ lớn treo ngay ngắn trên bức tường, người ta đã dành riêng một khoảng rộng để có thể treo bức tranh này.

Dahlia cảm thấy xấu hổ vô cùng vì cô chẳng để tâm vào bức tranh trước mặt mình, cô đang mê mải nghĩ về chuyện cô gái mỉm cười rạng rỡ trên tấm biển quảng cáo, rồi mớ hình ảnh của ký ức, hỗn độn xô tới như con sóng đang xô trên bờ cát, như con sóng đang táp mạnh vào những vánh đá dựng đứng, đen ngòm. Giờ cô mới để ý bức tranh treo trên tường, một chiếc bàn với bình nước, và hình như có thêm cả những con cá nếu như Dahlia không nhầm.

“Lại là Chagall sao?” – Dahlia tỏ vẻ thắc mắc.

Jacqueline khẽ cười, bà bảo rằng, thế giới hội họa đâu chỉ có Chagall, mặc dù có thể coi ông là một trong những người đặc biệt nhất.

“Không! Lần này là Louis Marcoussis.”

“Louis Marcoussis?”

“Ông là họa sĩ người Pháp, nhưng gốc Ba Lan, ông đã có một thời gian ngắn học tại thủ đô Warsaw.”

“Tại sao ai cũng muốn tới Paris vậy?”

“Có lẽ vì một cụm từ mà người ta thường hay nhắc tới - Cái nôi của nghệ thuật.”

Sau đó, Jacqueline cung cấp thêm cho Dahlia biết về Louis Marcoussis, cũng như những họa sĩ cùng thời với ông, những người mà ông chịu ảnh hưởng.

“Bức tranh này tên gì?” – Dahlia chỉ lên bức tranh đối diện.

“Still life with fish.” – Jacqueline trả lời.

“Thật kỳ lạ!”

“Cô có nhìn thấy những con cá ở trên mặt bàn không?” – Jacqueline hỏi.

Dahlia gật đầu, rồi cô thắc mắc.

“Họ đang chuẩn bị một bữa tối sao. Vậy hình ảnh phía bên ngoài khung cửa sổ là vầng mặt trời hay chỉ là mắt của một con cá khổng lồ?”

Lần này thì Jacqueline cười lớn khiến Dahlia ngượng chín mặt, chưa bao giờ cô có cảm giác mình trở nên ấu trĩ như vậy, nhất là những lúc đứng trước mặt Jacqueline, khi ấy, cô chỉ như đứa trẻ lên năm và thắc mắc trước tất cả mọi thứ. Sau đó, họ không nói gì thêm về Louis Marcoussis nữa. Họ quyết định ngồi uống cà phê trong khu dịch vụ của phòng triển lãm. Bầu trời tháng Mười một vẫn âm u như thường lệ, những đám mây xám xịt nặng trĩu, u buồn.

“Dạo gần đây cô có chuyện gì sao D?” – Jacqueline cất tiếng phá vỡ không gian im lặng mà họ tạo ra trước đó. Có lẽ bà thấy Dahlia đang nhìn chằm chằm về phía con đường nơi xe cộ đang nườm nượp qua lại như mắc cửi vào giờ cao điểm.

“Một chút chuyện, bà còn nhớ nhóm bạn trẻ mà chúng ta đã gặp lần trước không?”

“Anh chàng người Hàn Quốc và hai cô bạn của anh ta.”

“Đúng thế, tôi sẽ có một buổi hẹn với họ.”

“Họ muốn gặp cô sao?”

“Không! Ngược lại, tôi đã nhờ Đức sắp xếp một buổi hẹn giữa chúng tôi.”

Jacqueline ngạc nhiên, có lẽ chưa bao giờ, kể từ lúc quen Dahlia bà thấy cô chủ động như vậy.

“Tôi cũng chẳng biết tại sao mình lại quyết định như thế, chỉ là...” – Dahlia ngập ngừng, những từ ngữ bay loạn xạ trong tâm trí cô không thể sắp xếp nổi.

Jacqueline dường như đoán được ý định của cô nên bà bèn tiếp lời:

“Đôi khi chúng ta cần nghe theo sự mách bảo của trái tim. Nó thường đúng trong một số trường hợp, chẳng hạn như khi ta đang yêu.”

Dahlia mỉm cười, nhưng một lát sau mặt cô lại buồn so.

“Bà có biết gì về quá khứ của tôi không Jac?”

Jacqueline ngạc nhiên khi Dahlia lại hỏi bà như vậy, nhưng bà chưa vội nói, lặng lẽ rút từ trong chiếc giỏ mấy ra bao thuốc lá như thường lệ. Jacqueline bật lửa, châm, rồi rít một hơi thật sâu như thể để lấy lại sự điềm tĩnh.

“Tôi có nghe, bởi lẽ khi cô xuất hiện ở Les Jeunes, rồi khi thấy phản ứng của những người ở đó. Tôi quan sát thấy ánh mắt của họ, như thể họ đang gặp lại ai đó quen thuộc. Nên tôi nghĩ rằng, có thể, nhiều người cho rằng, cô là cố nhân của họ.”

“Cố nhân?” – Dahlia hỏi lại.

Jacqueline gật đầu.

“Hệt như cảm giác lần đầu tiên tôi gặp lại cháu ngoại của Chagall chẳng hạn. Một cảm giác rất thân thuộc, không thể diễn tả thành lời. Cũng giống như những người kia. Tôi đoán được là do quan sát họ.”

Dahlia im lặng hồi lâu, còn Jacqueline thì vẫn tiếp tục rít thuốc. Chiều về, không khí dường như trở lạnh hơn.

“Cô có hay nghĩ nhiều về quá khứ không D?”

Dahlia gật đầu. Jacqueline nói tiếp.

“Quá khứ rất quan trọng, đôi khi ta chấp nhận việc nương vào đó mà sống, nhưng nó không phải là tất cả.”

“Nhưng tôi e là...” – Dahlia ngập ngừng nói chẳng nên lời, có thứ gì đó mắc nghẹn trong cổ họng cô. Hay chăng cô không muốn nói điều mình đang nghĩ trong lòng. Thấy vậy, Jacqueline bèn lên tiếng lần nữa, như thể bà đã nhìn thấu tâm can cô vậy!

“Nỗi sợ ư!?”

Dahlia gật đầu, một nỗi sợ mơ hồ dâng đầy lên trong ánh mắt của cô nhưng chẳng ai hiểu nỗi sợ đó là gì? Và nó tới từ đâu?

“Ai cũng có một nỗi sợ của bản thân, hay chăng đúng hơn là một kẻ thù. Nhưng người ta thường hay nói một câu, kẻ thù lớn nhất, nỗi sợ lớn nhất chính là bản thân mình chứ chẳng phải ai khác cả.”

***​

Dahlia không thôi nghĩ về những gì mà Jacqueline đã nói với mình ban chiều, những điều đó ám ảnh tâm trí cô ngay cả khi đã về căn nhà trống vắng. Dẫu mọi thứ giờ đây đã ổn hơn đợt trước, ga trải giường đã được thay mới tinh, thơm mùi nước xả vải ở tiệm giặt đầu ngõ. Rèm cửa cũng đã được thay, thậm chí Dahlia còn đặt thêm một chiếc giá sách treo ngay ngắn trên tường, vài cuốn sách dày cộm mà Jacqueline tặng gần như đã choán trọn diện tích của giá. Nhưng chẳng hiểu sao, tất cả, vẫn thật trống vắng.

Nỗi sợ ư? Có quá nhiều nỗi sợ hãi xảy đến với Dahlia. Quá khứ như được ngăn cách bởi một lớp màn mỏng manh mà chỉ cần một tác động nhỏ thôi cũng đủ để khiến mọi thứ sụp đổ. Và theo đó là những nỗi đau, mất mát, nỗi sợ hãi bủa vây lấy con người của Dahlia, như những bàn tay gớm ghiếc chúng mau chóng thộp lấy cổ cô, bóp chặt tới nỗi đôi mắt cô mờ nhòa, dần dần tất cả chìm trong ghê rợn của bóng đêm. Rồi chỉ vài giây nữa thôi, Dahlia sẽ chẳng còn cảm thấy đau đớn nữa. Hay chăng cô đã quen với nó rồi, trở thành một phần trong cuộc sống của cô. Hẳn đó là nỗi sợ hãi lớn nhất. Khi nghĩ về những người trẻ kia, một cảm giác e ngại vẫn sống dậy trong người Dahlia, chỉ một chuyển động nhỏ nhưng cũng đủ để cô cảm nhận được, rằng chúng vẫn tồn tại. Mọi thứ chưa bao giờ biến mất, chúng vẫn ở đó, chỉ cần nhắm mắt lại, suy nghĩ rồi mọi thứ trở về, rõ mồn một. Nhưng khi nhớ về ánh mắt của Jacqueline, những câu nói chân thành. Hay nghĩ về những người trẻ tuổi đó, Dahlia như thấy chính bản thân mình, thứ gì đó lấp lánh nhưng đã bị bụi thời gian phủ lên một lớp đủ dày để che giấu đi mọi thứ. Và Dahlia có sẵn sàng để thổi bay chúng đi hay không? Hơn hết cuộc sống là ta không thôi kiếm tìm những hy vọng.

***​

Từng lằn roi tiếp tục giáng xuống đôi bàn tay nhỏ bé đã đỏ tấy lên, đau đớn; nhưng vẻ như người đàn ông cao lớn vẫn chưa có ý định dừng lại. Vài lần chiếc roi đánh trúng những phím đàn dương cầm đen trắng tạo nên những âm thanh chói tai, mà nếu như người ngoài nghe thấy thì cũng ít nhiều đoán được tâm trạng của người đang chơi. Nhưng không ai chơi đàn trong lúc đó cả, bản nhạc vẫn nằm chơ vơ trên mặt đàn với những nốt nhạc lên xuống đầy phức tạp.

Khi ấy, người đàn ông cao lớn đã dừng lại, khuôn mặt đỏ gay của ông ta vẫn hiện rõ những hằn học bực tức xô lại trên những nếp nhăn trên vầng trán rộng. Mái tóc đã đôi chỗ lấm chấm bạc. Phía trước mặt, đứa bé trai đang đứng giơ đôi bàn tay đã tấy đỏ, khuôn mặt cậu bé đầm đìa nước mắt, nhưng lạ thay, miệng vẫn mím chặt không dám thốt một lời nào. Thế rồi chẳng nói chẳng rằng gì, người đàn ông cao lớn đi về phía khung cửa tràn đầy thứ ánh sáng trắng xóa đến chói mắt. Ông ta đi mãi cho tới khi cả dáng hình cao lớn đó bị thứ ánh sáng ấy xâm chiếm, xâm chiếm lấy cả không gian trong phòng, cậu bé đang khóc cùng cây đàn dương cầm, bản nhạc... Sau rốt mọi thứ đều chìm đắm trong sự lặng im, trắng toát.

Thi thoảng giấc mơ quen thuộc ấy lại tới với Đức mỗi khi anh nhấm nháp một ly rượu mạnh, rồi chẳng biết thế nào lại ngủ quên trên ghế xô pha. Những dư ảnh vẫn đọng lại tâm trí anh một cách rõ rệt, hệt như mọi thứ mới chỉ xảy ra vào ngày hôm qua thôi; và anh vẫn còn là cậu bé bảy tuổi đó, với đôi bàn tay đỏ tấy sau khi đã không hoàn thành những nốt nhạc hoàn chỉnh. Rồi anh lại cười khẩy, lặng lẽ bước đi trên căn phòng khách rộng rãi, tiện nghi. Với không gian mở, từ đó có thể nhìn thấy cả một khoảng không mênh mang, rộng lớn của thành phố huyền ảo khi đêm về.

Đức bước gần về phía khung cửa sổ, rồi phóng ánh mắt ra tầm xa, nghĩ ngợi. Hẳn đâu đó trong những tòa nhà xám xịt kia, người đàn ông cao lớn ấy đang ngồi co ro trên chiếc giường làm bằng sắt đã hoen rỉ. Trên người chỉ mặc độc một chiếc áo len đã cũ kỹ nhàu nát, ông ta cứ ngồi thế mặc cho tâm trí trôi dạt về một nơi rất xa, để rồi khi trở lại, ý thức được thì mọi thứ chẳng còn gì ngoài bóng đêm, sự cô độc. Thật đáng đời, đôi lúc Đức đã hằn học nghĩ như thế, một cảm giác thỏa mãn khó tả dâng đẩy lên trong tâm trí anh.

“Rồi mày sẽ chẳng làm nên trò trống gì cả.” Câu nói ấy, đâu đó, vẫn văng vẳng trong tâm trí của anh. Đâu đó vẫn trở về mỗi khi anh gặp khó khăn, hay thậm chí vô thức trong những cơn mộng mị.

Để rồi xem, Đức cười khẩy lần nữa, rồi lẳng lặng tiến về phía chiếc bàn giấy nơi đặt quyển lịch bàn, dấu mực đỏ khoanh tròn và ở phía bên cạnh ghi chú thêm dòng chữ nguệch ngoạc “The Town.”
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top