Mình mới xem qua chương 1 thôi nhưng thấy khá khả quan. Nhưng xin phép góp ý về từ ngữ, vì mình cũng có đọc về sử Việt và ngôn ngữ học
Đầu tiên là thời Trần không có từ "miền ngược - xuôi". Khi đó, người xuôi gọi bản thân là Kinh (ám chỉ sống ở quanh kinh đô), còn họ gọi người miền ngược là Trại.
Nên các vương gia nhà Trần đa phần sẽ tự xưng mình là người Kinh, gọi đối phương bằng tên tiểu quốc của họ nếu kính trọng (ví dụ "người Nhẫm Bà La"), gọi là "người Trại" nếu hơi khinh thường, gọi là "mán" nếu khinh miệt ra mặt.
Tương tự với việc Giác Mật tự gọi mình là "người dân tộc chúng tôi" thì cũng bất hợp lí. Cách gọi "người dân tộc" là nói tắt của "người dân tộc thiểu số", là một cách gọi mà chỉ người Kinh mới dùng, vì người Kinh là đa số. Người Mán sẽ tự xưng theo tên bộ lạc. Và chắc chắn họ không tự nhận mình là "người Trại", vì chỉ có người Kinh không hiểu gì về các tộc người Trại mới gộp chung họ là Trại (giống bọn Hoa Hạ bên Tàu gọi hết cư dân ở mạn Đông Nam là Bách Việt, cứ ông nào nói tiếng lạ hoắc thì bị gọi là Việt, dù thực ra tên dân tộc của họ không phải vậy).
Tuy nhiên mình vẫn nhận định là bạn viết khá cuốn hút. Sẽ theo dõi tiếp
Đầu tiên là thời Trần không có từ "miền ngược - xuôi". Khi đó, người xuôi gọi bản thân là Kinh (ám chỉ sống ở quanh kinh đô), còn họ gọi người miền ngược là Trại.
Khâm định Việt sử bình luận:Bính Thìn, năm thứ 6 (1256). (Tống, năm Bảo Hựu thứ 4).
Tháng 2, [...] nay mới chia ra kinh và trại: Từ Thanh Hóa trở vào trong gọi là trại; từ Thanh Hóa trở ra ngoài gọi là kinh
Nhẫm Bà La là một tiểu quốc của người dân tộc thiểu số thời nhà Trần, bị đánh dẹp năm 1277. Chữ Bà La ám chỉ Mandala - cách tổ chức chính trị của các dân tộc văn hóa Ấn Độ, hoặc đạo Bà-la-môn tức Ấn Độ giáo. Nhẫm Bà La hẳn là một dân tộc theo văn hóa Champa vì họ sống ở địa phận tỉnh Quảng Bình, nơi lúc đó nhà Trần mới kiểm soát trên danh nghĩa, chứ chưa đặt quan lại đến tận cấp xã.
Khâm định Việt sử bình luận:Đinh Sửu, năm thứ 5 (1277). (Tống, năm Cảnh Viên thứ 2; Nguyên, năm Chí Nguyên thứ 14).
Tháng 2, mùa xuân. Nhà vua tự làm tướng đi đánh Nhẫm Bà la, bắt được bộ đảng của bọn ấy hơn ngàn người rồi trở về.
Lời chua - Nhẫm Bà la: Động của người Mán. Sách Thanh Nhất thống chí chép là Ổn Bà la, thuộc một lộ trong phủ Bố Chính.
Bố Chính: Xưa là châu Bố Chính; đời Hán là đất huyện Thọ Lãnh thuộc quận Nhật Nam; đời Tống là châu Bố Chính thuộc Chiêm Thành; nhà Lý vẫn để tên như thế; thuộc Minh đổi là châu Trấn Bình; nhà Lê chia làm hai châu Nội Bố Chính và Ngoại Bố Chính. Bây giờ là đất ba huyện Bình Chính, Minh Chính và Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình.
Tương tự với việc Giác Mật tự gọi mình là "người dân tộc chúng tôi" thì cũng bất hợp lí. Cách gọi "người dân tộc" là nói tắt của "người dân tộc thiểu số", là một cách gọi mà chỉ người Kinh mới dùng, vì người Kinh là đa số. Người Mán sẽ tự xưng theo tên bộ lạc. Và chắc chắn họ không tự nhận mình là "người Trại", vì chỉ có người Kinh không hiểu gì về các tộc người Trại mới gộp chung họ là Trại (giống bọn Hoa Hạ bên Tàu gọi hết cư dân ở mạn Đông Nam là Bách Việt, cứ ông nào nói tiếng lạ hoắc thì bị gọi là Việt, dù thực ra tên dân tộc của họ không phải vậy).
Tuy nhiên mình vẫn nhận định là bạn viết khá cuốn hút. Sẽ theo dõi tiếp