[Sáng Tác] [Lịch sử] Thần Chiến triều Trần (Viết lại từ đầu) - Việt Võ

Bạn thấy truyện "Thần Chiến triều Trần" thế nào?

  • 1) Siêu phẩm

    Votes: 1 11,1%
  • 2) Hay đấy

    Votes: 6 66,7%
  • 3) Tàm tạm

    Votes: 1 11,1%
  • 4) Cách hành văn, xây dựng cốt truyện, nhân vật chưa hấp dẫn

    Votes: 0 0,0%
  • 5) Quá nhiều lỗi cơ bản

    Votes: 1 11,1%

  • Total voters
    9

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Đại La là vòng tường đất bao bọc ngoài cùng Thăng Long với hai mươi cổng phân bổ tại bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Vào đến bên trong Hoàng Thành thì số lượng cổng chỉ còn bốn gồm Diệu Đức ở phía Bắc, Tường Phù ở phía Đông, Đại Hưng ở phía Nam và Quảng Phúc ở phía Tây (1). Còn Cấm Thành, khu vực trong cùng là nơi ở của đức vua thì có đúng một cổng duy nhất để ra vào là Dương Minh Môn.

Hoàng Thành tuy diện tích khá lớn nhưng cổng Quảng Phúc vốn rất gần Dương Minh Môn, con Đông A Xích Thố chỉ sải vó dăm ba bước là Nhật Duật đã ở trên cầu Đoạn Nguyệt. Qua cầu, Duật ghìm cương con ngựa chỉ cho nó phi nước kiệu. Dương Minh Môn trong chốc lát đã hiện ra sừng sững trước mặt chàng.

Cổng Dương Minh thời Trần chính là Ngũ Phượng Lâu thời Lý đóng vai trò cổng chính nam của Cấm Thành, lối ra vào duy nhất giữa Cấm Thành và Hoàng Thành. Cổng Dương Minh có kiến trúc dạng môn các. Bên dưới là môn gồm có Dương Minh ở giữa, Nhật Tân ở bên trái, Vân Hội bên phải. Bên trên là gác được gọi là gác Triều Thiên. Cổng Dương Minh ở giữa luôn đóng im ỉm, chỉ dành cho đức vua và thượng hoàng. Cổng Nhật Tân bên trái dành cho văn võ bá quan trong triều. Cổng Vân Hội bên phải dành cho sứ giả và quan lại nước ngoài.

Nhật Duật đến dưới cổng Dương Minh thì thấy cờ xí rợp khoảng sân trước mặt. Trên gác Triều Thiên đèn đuốc sáng trưng. Quân Túc Vệ dàn hàng mấy đội, đứng chật cả một khu vực lớn. Đằng sau các đội Túc Vệ, Nhật Duật còn thấy thấp thoáng bóng cờ có thêu ba chữ vàng “Thánh Dực Quân”.

"Như vậy là cả quân Thánh Dực cũng được điều động rồi", Chiêu Văn Vương thầm nghĩ. Thánh Dực Quân hay còn gọi là Thiên Tử Quân là đạo quân tinh nhuệ chuyên lo việc bảo vệ đức vua và thượng hoàng. Đạo quân này gồm toàn những người xuất thân đặc biệt như dân không ruộng đất, trộm cướp, tù nhân, người tứ cố vô thân, được triều đình tập hợp lại, huấn luyện và trang bị chính quy. Vì đạo quân này gồm toàn những người không gia đình, không bạn bè, được triều đình ban cho cuộc sống mới nên đặc biệt trung thành với nhà vua và có tinh thần cảm tử cũng như độ tinh nhuệ số một phương Nam. Nhắc đến Thánh Dực Quân thì ngay cả các vị tướng quân hàng đầu như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải cũng phải nể trọng.

Nhật Duật xuống ngựa, tiến lại gần toán quân Túc Vệ đang canh gác trước cửa Dương Minh nói:

- Chiêu Văn Vương xin vào yết kiến đức quan gia có việc gấp!

Thấy người mới tới là vị vương gia quyền cao chức trọng, tên đội trưởng đám lính gác liền vội vã bước ra thưa:

- Đức ông, xin người thứ lỗi. Hiện tại đang có lệnh giới nghiêm, hạn chế tối đa ra vào Cấm Thành.

Nhật Duật nghe vậy liền rút từ trong người tấm lệnh bài vương gia, đưa cho viên đội trưởng xem:

- Ta có việc quân khẩn cấp cần báo cáo.

Tên đội trưởng lưỡng lự đôi chút, rồi đáp:

- Được, vậy để tôi dẫn đức ông vào. Ngựa của đức ông xin để lại bên ngoài, tôi sẽ cử người trông.

Nhật Duật gật đầu, quy định trong Cấm Thành từ trước đến nay trừ đức quan gia và thượng hoàng thì tất cả đều không được phép cưỡi ngựa. Tên đội trưởng liền lệnh cho gã lính gần đấy tiến lại, đỡ dây cương Đông A Xích Thố từ tay Nhật Duật. Con ngựa thấy thế hí lên một tràng, hai vó trước nhảy chồm lên. Mấy tên lính đứng xung quanh và cả tên đội trưởng thấy con ngựa hung dữ và dũng mãnh như vậy đều sợ xanh cả mặt.

- Ngoan nào, ngươi đi theo bọn họ. Chờ khi ta xong việc sẽ trở ra đón!

Nhật Duật vừa nói vừa vuốt ve con Hồng Mao. Con ngựa dường như hiểu lời chàng, không chồm lên nữa mà để yên cho tên lính dắt đi. Viên đội trưởng thấy con ngựa ngoan ngoãn trở lại thì yên tâm, vội vã đi trước dẫn đường. Gã đưa Nhật Duật băng qua đám lính Túc Vệ, tiến về phía cửa Nhật Tân.

Gần đến cổng thành, Chiêu Văn Vương nhìn sang phía đội quân Thánh Dực đang đứng im lìm canh gác trước Dương Minh Môn. Quân Thánh Dực người nào người nấy thân thể cao lớn, mình mang giáp vàng, tay phải cầm giáo, tay trái cầm khiên, hai bên hông dắt theo một đôi gươm ngắn. Bọn họ đầu đều cạo trọc, giữa trán thích ba chữ “Thiên Tử Quân”. Số lượng của họ chỉ khoảng hơn trăm người nhưng lại có khí thế áp đảo cả nghìn lính Túc Vệ.

“Quả là tinh binh, một có thể địch trăm. Nghe đồn quân Thánh Dực còn được học phép thuật trong quán Thái Thanh, chẳng biết thực hư thế nào?” Nhật Duật vừa nghĩ vừa rảo chân bước vào phía trong.

* * * * *

Qua cổng Dương Minh là đến một khoảng sân rộng lát đá xanh. Cuối sân có bậc đá đầu rồng dẫn lên khu điện các hoa lệ. Khu điện các này chính là Tập Hiền Điện và Minh Linh Các, nơi vua Trần thiết yến tiệc.

- Đức ông, xin mời người đi lối này!

Viên đội trưởng nói đoạn chỉ vào lối đi bên trái.

- Chúng ta sang phía điện Thọ Quang sao?

Nhật Duật hỏi lại, viên đội trưởng không đáp chỉ lẳng lặng gật đầu. Nhật Duật thấy vậy không nói gì thêm. Bình thường các vương hầu, quan lại có việc gấp cần gặp vua Thiệu Bảo (2) thì đều đi thẳng qua Tập Hiền Điện, tiến vào Long Trì phía trong. Lần này Nhật Duật lại được dẫn ra phía điện Thọ Quang, chàng đoán là do lệnh giới nghiêm mới ban.

Điện Thọ Quang nằm bên trái điện Tập Hiền, được dùng làm nơi nghị luận quân sự và võ thuật, tính chất tương tự điện Giảng Võ dưới thời Lý. Viên đội trưởng sau khi dẫn Nhật Duật vào đây thì mời chàng ngồi trên chiếc ghế lót da hổ, sau đó vội vã chạy đi.

Nhật Duật chờ một lúc lâu vẫn không thấy động tĩnh gì. Chàng bắt đầu đi ra, đi vào tỏ vẻ sốt ruột. Đúng khi đấy có toán quan hành khiển (3) lật đật chạy vào. Đi đầu toán hành khiển là một ông già với búi tóc bạc trắng nhưng động tác vẫn còn cực kỳ nhanh nhẹn.

- Phạm Ứng Mộng bái kiến đức ông!

Nhật Duật ngay lập tức nhận ra người hoạn quan già. Phạm Ứng Mộng làm hoạn quan từ thời Trần Thái Tông vua cha của Nhật Duật, giờ đến đời Thiệu Bảo là cháu nội của Thái Tông cũng được tính là lão thần ba đời vua. Chàng nhanh chóng lại gần đỡ lão dậy, nói:

- Đại hành khiển không cần hành lễ, người đừng làm tôi áy náy. Đã lâu không gặp, đại hành khiển vẫn khỏe chứ?

Phạm Ứng Mộng biết Nhật Duật từ hồi bé. Khi xưa lão hoạn quan thường hay chăm lo cho chàng. Mấy năm gần đây Nhật Duật được điều lên trấn ải biên cương nên ít gặp lão, giờ hàn huyên thấy có đôi chút bùi ngùi.

Lão hoạn quan già cười vui vẻ, nói:

- Tôi vẫn khỏe, đức ông trông rắn rỏi lắm!

- Đại hành khiển, tôi muốn gặp đức quan gia và đức thượng hoàng có chuyện khẩn cần báo cáo.

Lão hoạn quan nghe thấy thế thì trầm t.ư, đáp:

- Hiện giờ đức quan gia và đức thượng hoàng đang bàn chuyện với thái sư. Đức ông có thể chờ một lát được không?

Nhật Duật lắc đầu, thái độ càng thêm khẩn trương:

- Vậy càng hay. Chuyện mà tôi muốn báo cáo là việc có liên quan đến sảnh Phi Y.

Phạm Ứng Mộng nghe nhắc đến sảnh Phi Y thì nét mặt chợt trầm hẳn xuống. Cần biết vào thời Trần việc quản lý đất nước được chia cho ba sảnh thượng thư tương đương với lục bộ thời sau. Nhưng ngoài ba sảnh thượng thư chính ra, nhà Trần còn một sảnh khác cực kỳ bí mật gọi là Phi Y. Phi Y có nghĩa là không quần áo, không trang phục, một cách chơi chữ của họ Trần. Nhưng ngoài ra Phi Y còn mang nghĩa những điều cơ bản nhất, không bị che dấu bởi bất kỳ thứ gì. Sảnh Phi Y là nơi tập trung hoàng thân quốc thích, thực hiện những nhiệm vụ bí mật của họ Trần. Ngay cả Phạm Ứng Mộng cũng không hề biết sảnh Phi Y thực hiện những việc gì và bao gồm những ai. Lão chỉ biết là chuyện có liên quan đến sảnh Phi Y thì không thể chậm trễ.

- Vậy mời đức ông đi theo tôi!

Phạm Ứng Mộng không nói thêm lời thừa. Lão xua tay cho bọn hành khiển khác lui ra rồi tự mình dẫn đường cho Chiêu Văn Vương.

Phạm Ứng Mộng năm nay đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn rất nhanh nhẹn. Lão dắt Nhật Duật đi qua hành lang của điện Thọ Quang, xuyên qua gác Minh Hà, vòng vèo phía sau Nguyệt Lâu của sân Long Trì. Hành lang nối tiếp hành lang, lầu gác xen lẫn lầu gác, thêm vào đó là các tấm bình phong, cây cảnh bố trí theo trận đồ Bát Quái. Nhật Duật tập trung tinh thần, thử nhớ lại quang cảnh và lối đi nhưng đột nhiên chàng thấy huyền lực trong người trở nên loạn xạ, phải cố lắm mới giữ ổn định được. Duật sực tỉnh, ngoài trận đồ Bát Quái thì nơi này chắc chắn được yểm thêm cả bùa của quán Thái Thanh. Đây rất có thể là tác phẩm của Đạo Thậm sư tổ.

- Đức ông, đã đến nơi. Xin người đứng đây chờ tôi một lát!

Phạm Ứng Mộng nói với Nhật Duật rồi tiến về phía hai hàng quân Thánh Dực đang đứng gác im lìm trước cổng một khu nhà trông kín đáo, bốn bề bao bọc bởi cây xanh và tường rào. Lão hoạn quan già trao đổi nhỏ to với tên đội trưởng toán lính một lúc. Tên này sau khi nghe lão hoạn quan nói xong thì không ừ, không hữ lấy nửa lời, chỉ ra hiệu cho Ứng Mộng đợi. Sau đó gã hé cổng ra khoảng nhỏ chỉ vừa đủ một thân người rồi bước vào trong. Thấy viên đội trưởng đi qua cổng, bọn lính canh liền đóng chặt lại. Chờ độ tàn nửa nén hương, viên đội trưởng đi ra gật đầu với Ứng Mộng. Đại hành khiển nét mặt mừng rỡ, vội vàng chạy lại báo với Nhật Duật:

- Đức quan gia có lệnh cho mời đức ông vào.

- Đại hành khiển, cảm ơn người!

Nhật Duật chào lão hoạn quan rồi bước qua hai hàng lính Thánh Dực uy nghiêm, đẩy cánh cổng gỗ tiến vào bên trong.

* * * * *

* Chú thích:

(1) Diệu Đức hiện giờ là cửa Bắc, Tường Phù là cửa Đông, Đại Hưng là cửa Nam còn cổng Quảng Phúc đã không còn dấu tích.

(2) Thiệu Bảo: tức niên hiệu của vua Trần Khâm từ năm 1279 - 1285. Vua Trần Khâm thường được biết tới với tên miếu hiệu là Trần Nhân Tông.

(3) Hành khiển: là chức quan dành cho hoạn quan thời Lý, Trần, chuyên lo việc hành chính trong cung.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Đằng trước khu nhà là một khoảnh sân rộng lát gạch đỏ. Duật nhanh chóng băng qua sân, bước vào trong căn nhà ba gian với hàng cột phía trước để trơn mộc mạc chứ không chạm trổ rồng phượng cầu kỳ như những nơi khác trong Cấm Thành. Bên trong khá nhỏ, chỉ kê độc hai hàng ghế lót da hổ đối diện nhau. Trên những chếc ghế đó hoàn toàn trống trơn không có người ngồi. Đúng khi Chiêu Văn Vương đang nghi hoặc nhìn quanh thì bất chợt có giọng nói trầm trầm và dứt khoát vang lên từ góc tường bên tay tả gian nhà:

- Vào đây đi!

Nhật Duật nghe thấy thế thì lòng chợt bùi ngùi. “Mấy năm rồi không gặp, đức thượng hoàng chắc vẫn khỏe nên lời nói mới sang sảng như vậy”.

Thượng hoàng Trần Hoảng là anh ruột của Trần Nhật Duật, con trai thứ hai của vua Thái Tông (1), còn Nhật Duật là con thứ sáu. Tuy Duật kém thượng hoàng gần hai mươi tuổi nhưng sau khi lên ngôi vua, thượng hoàng rất quan tâm, chăm sóc chàng. Đối với Duật, thượng hoàng không chỉ là đức bề trên mà thực sự là người anh tận tâm và đáng kính.

Chiêu Văn Vương đi lại góc nhà, lần mò một lúc thì tìm ra được cánh cửa gỗ bí mật. Chàng mở cửa, bước vào trong. Đằng sau cánh cửa lại là gian nhà khác rộng rãi hơn nhiều. Ngay khi tiến vào, Nhật Duật liền chạm trán bốn người lính Thánh Dực đang đứng gác nghiêm trang. Bốn người lính này mang mặt nạ dát vàng nhưng vẫn để lộ ra khoảng trán xăm chữ “Thiên Tử Quân”. Vóc dáng và trang phục của bọn họ cũng oai vệ hơn hẳn so với lính Thánh Dực thường. Lúc đi ngang qua, Nhật Duật còn cảm nhận được huyền lực tỏa ra từ người bọn họ. “Thánh Dực Tứ Tướng xem ra đều biết phép thuật, quả là danh bất hư truyền”, Chiêu Văn Vương nghĩ thầm rồi tiếp tục tiến tới.

Ở chính giữa gian nhà rộng có hơn chục chiếc ghế to xếp thành hình bán nguyệt. Hiện tại đang có bốn người ngồi trên ghế nhìn thẳng ra phía cửa. Còn một người mày rậm, cằm vuông, vóc dáng như rồng như hổ, trên mình khoác giáp bạc thì lặng lẽ đứng hầu sau lưng bốn người trên.

Ngồi ngoài cùng bên tay tả là một thanh niên chạc hai mươi, my thanh, mục tú, khoác áo hoàng bào. Thanh niên trông thoáng qua thì đầy vẻ thư sinh nhưng vầng trán cao và đôi mắt sáng tạo ra cảm giác đây là con người thông minh, quyết đoán. Thanh niên khoác áo hoàng bào chính là đức vua Thiệu Bảo. Bên cạnh vua là một trung niên mặt vuông chữ điền, nét mặt cương nghị đầy vẻ nghiêm khắc. Ông là Thượng hoàng Trần Hoảng, bố ruột của nhà vua và anh trai của Nhật Duật. Ngồi kế bên thượng hoàng là trung niên hao hao giống ông. Trung niên mình mặc áo giao lĩnh vàng, ngồi cạnh hai vua mà bên hông vẫn dắt theo gươm báu. Ánh mắt trung niên sắc lẹm nhưng nụ cười lại rất hiền từ. Trung niên hiệu là Chiêu Minh Vương, tên thật Trần Quang Khải, đảm đương chức vụ thái sư đầu triều hiện giờ. Cuối cùng bên tay hữu có một lão đạo sĩ già mặc bộ áo xanh bạc màu, chân đi hài cỏ. Đạo sĩ đầu tóc bạc phơ nhưng da dẻ vẫn hồng hào tươi nhuận. Đôi mắt lão lúc nào cũng lim dim khiến không ai có thể đoán ra trong đầu đang suy nghĩ gì. Đạo sĩ không rõ họ, chỉ biết tên Thậm nên hay được gọi là Đạo Thậm, là sư tổ quán Thái Thanh. Nhật Duật đã từng gặp lão mấy lần.

- Trần Nhật Duật xin bái kiến đức quan gia, đức thượng hoàng, thái sư và Thái Thanh sư tổ.

Thượng hoàng và Thái sư Quang Khải thấy em mình từ khi ra trấn thủ Tây Bắc thì cường tráng hơn, thân thể nhanh nhẹn, ánh mắt tinh minh có thần, đôi khi còn như phát ra tia chớp thì nhất loạt đều mỉm cười hài lòng. Sư tổ Đạo Thậm ngồi im trên ghế, không tỏ động thái gì. Riêng vua Thiệu Bảo là người mừng rỡ hơn cả, nhanh chóng đứng dậy bước tới đỡ Chiêu Văn Vương dậy. Nhà vua và Nhật Duật tại triều chính thì là phận quân thần, trong dòng họ là quan hệ chú cháu nhưng hai người tuổi gần suýt soát nhau, lúc nhỏ cùng lớn lên trong Hoàng Thành nên thường hay đá cầu, luyện võ chung. Do vậy cả hai đặc biệt thân thiết như bạn bè đồng trang lứa. Trước khi Nhật Duật lên trấn thủ Tây Bắc, chính vua Thiệu Bảo đã tặng cho chàng tràng hạt đồng đen Tống Thiết Phật Châu để hộ thân.

- Chú về đây thật hay quá. Ta rất nhớ chú!

Nhật Duật thấy tình cảm chân thành của nhà vua thì cảm động, nói:

- Đức quan gia ngày càng cường tráng, anh minh. Thần trấn giữ biên cương cũng thấy yên lòng.

Vua Thiệu Bảo lắc đầu thở dài:

- Tình hình đang lúc rối ren, chú là người thông thạo tiếng và tập tục của người Man, ngoài chú không ai có thể trấn ải trên Tây Bắc tốt hơn không thì ta đã bàn với thượng hoàng giữ chú lại triều. Hôm trước có bọn Bố Bà Ma Các sứ giả Chiêm Thành sang cống voi trắng mà dâng thư với luận đàm mấy ngày cả triều không ai hiểu tường hết ý. Nếu có chú có phải mọi việc đơn giản không?

Nhật Duật cười, đáp:

- Đức quan gia quá coi trọng thần rồi!

Chiêu Văn Vương từ nhỏ vốn đã thông minh hơn người. Chàng không những làu thông kinh sử, võ nghệ cao cường mà còn nổi tiếng bởi khả năng ngoại ngữ và giao tiếp đặc biệt. Mới hơn hai mươi tuổi mà hầu như các tiếng dân tộc của Đại Việt, Nhật Duật đều nói được hết. Ngoài ra chàng còn nói tốt tiếng phương Bắc, tiếng Chiêm Thành nên sớm trở thành nhà ngoại giao có tiếng trong triều. Trước kia sứ giả các nước sau khi vào yết kiến vua Trần đều tạt qua phủ Chiêu Văn chơi. Hiện tại trong phủ Chiêu Văn vẫn có dăm ba người nhạc công Chiêm Thành lưu lại.

- Thưa đức quan gia, bọn Bố Bà Ma Các còn ở sứ quán không? Nếu có thời gian thần sẽ qua thăm hỏi.

Vua Thiệu Bảo gật đầu, nói:

- Vẫn còn. Nay quân Thát Đát lại chuẩn bị xâm lược bờ cõi nước ta. Việc đàm phán, liên kết với Chiêm Thành cũng rất quan trọng.

Nhật Duật đáp:

- Thần hiểu!

Thượng hoàng bất chợt cất lời, cắt ngang câu chuyện của hai chú cháu:

- Chiêu Văn Vương ngươi lần này bỏ quân về kinh thành, nếu không có việc thực sự hệ trọng thì tội không nhỏ đâu.

Tình cảm của thượng hoàng với người em thứ sáu tuy rất tốt nhưng ông cũng là người công bằng vô t.ư, thưởng phạt nghiêm minh. Nhật Duật nghe thượng hoàng nói vậy liền đưa mắt nhìn sang phía sư tổ quán Thái Thanh. Đạo Thậm vẫn ngồi im lìm không nhúc nhích. Thượng hoàng thấy cái nhìn đấy của chàng thì khẽ gật đầu. Nhật Duật hiểu ý, vội vã tâu:

- Bẩm đức quan gia, bẩm đức thượng hoàng, thần về đây gấp vì có việc cần báo cáo cho sảnh Phi Y. Số là thần tình cờ biết được tin tức về Gươm Rồng. Nghe nói đây là thứ vũ khí thần kỳ mà Bố Rồng Lạc Long Quân cho truyền xuống để bảo vệ phương Nam mỗi khi có loạn lạc.

- Gươm Rồng ư? – Vua Thiệu Bảo, thượng hoàng và thái sư quay sang nhìn nhau ngơ ngác.

Sư tổ Đạo Thậm nãy giờ vẫn im lặng bất chợt lên tiếng:

- Gươm Rồng là thứ vũ khí được tạo thành từ một mảnh của gươm Phi Long, thứ thần binh Bố Rồng luôn mang theo bên mình. Nghe đồn Gươm Rồng có nhiều phép thuật kỳ diệu. Tại phương Nam khi xưa còn lưu truyền tin tức rằng ai lấy được Gươm Rồng tức là được Bố Rồng chọn, có t.ư cách làm chủ cả vùng đất này.

Thượng hoàng nghe sư tổ quán Thái Thanh nói vậy thì nhăn mày:

- Như vậy tức là ai có Gươm Rồng trong tay thì sẽ trở thành vua của Đại Việt sao?

Nhật Duật nghe thế biết thượng hoàng có ý lo lắng cho ngôi cửu ngũ(2). Chàng vội vã đáp:

- Bẩm đức thượng hoàng, không hẳn vậy. Theo như lời đức thánh Tản Viên thì Gươm Rồng được truyền xuống mục đích chính là để giúp cho phương Nam thoát khỏi cơn loạn lạc. Còn chủ nhân của Gươm Rồng cũng không bắt buộc phải là vua của toàn Đại Việt.

- Ngươi đã gặp đức thánh Tản Viên sao? – Cả thượng hoàng và thái sư đều ngạc nhiên, đồng thanh hỏi.

Nhật Duật thở dài, kể lại hết toàn bộ mọi chuyện. Bắt đầu từ khi chàng bị người của phủ Cao Sơn bắt đi tìm Bạc Luông rồi đến việc đánh nhau với hổ tinh, tìm thấy Hộp Rồng rồi lại bị Hắc Hổ cướp mất, cho đến cả chuyện chàng và Vi Mai được Đạo Tổ Chử Đổng Tử cứu, tình cờ tham dự vào cuộc họp của Tứ Bất Tử trên đảo thánh.

Đạo Thậm nghe xong câu chuyện thì đứng bật dậy, nói:

- Thưa đức thượng hoàng, đức quan gia và thái sư, tôi vừa nói cho mọi người về Thượng Cổ Tứ Yêu, giờ hóa ra kẻ địch còn lôi kéo được thêm Hắc Hổ từ Ngũ Hổ Thần. Xem ra bọn chúng rất ghê gớm chứ không phải vừa.

- Thượng Cổ Tứ Yêu ư? - Nhật Duật thấy vậy thì tò mò hỏi lại. Chàng chưa bao giờ nghe qua bốn từ này.

- Phải. - Đạo Thậm nghiêm giọng đáp. - Sự việc trên bến Tây Dương chắc đức ông Chiêu Văn cũng đã chứng kiến rồi. Cái vòng tròn xác trắng đó là kết quả của Vũ Điệu Hút Máu. Một điệu múa đẹp đẽ mà cũng tàn ác bậc nhất thời thượng cổ. Điệu múa của một trong Thượng Cổ Tứ Yêu là Hồ.

- Hồ? Tức là cáo tinh sao? - Nhật Duật kêu lên kinh hãi.

Đạo Thậm gật đầu:

- Đúng vậy, chính là cáo tinh. Thượng Cổ Tứ Yêu gồm bốn yêu quái thời thượng cổ là Hồ, Kê, Mộc, Ngư(3). Thời xưa khắp phương Nam đâu đâu cũng là yêu quái nhưng Hồ, Kê, Mộc, Ngư có pháp thuật cao cường và tàn ác nhất. Khi đó dân chúng phương Nam dưới sự lãnh đạo của vua Hùng liên miên chịu tai họa do yêu quái gây ra, liền không ngừng lập đàn hướng ra phía biển Đông cầu khóc Bố Rồng. Sau bốn chín ngày cầu khẩn liên tục, Bố Rồng động lòng từ Bát Hải xa xôi trở về phương Nam, cầm gươm Phi Long vi hành một vòng diệt hết Tứ Yêu triệt họa cho dân.

- Thưa sư tổ, nói vậy tức là Thượng Cổ Tứ Yêu đều đã bị Bố Rồng giết chết. Tại sao giờ lại xuất hiện Vũ Điệu Hút Máu?

Đạo Thậm lắc đầu, giải thích:

- Thực ra Bố Rồng không giết Thượng Cổ Tứ Yêu mà chỉ phong ấn bọn chúng lại. Thượng Cổ Tứ Yêu hấp thụ linh khí từ thời Thượng Cổ, trải qua hàng ngàn năm tu luyện nên không thể bị diệt trừ dễ dàng. Bố Rồng chỉ có thể phong ấn bọn chúng, chờ qua tháng năm từ từ làm triệt tiêu hết yêu khí.

Nhật Duật nghe thế thì rất lo lắng, nói:

- Thưa sư tổ, ý của người là có kẻ đã giải phong ấn được cho Thượng Cổ Tứ Yêu rồi ư?

Đạo Thậm lắc đầu, đáp:

- Chuyện này bần đạo không chắc lắm. Nhưng Vũ Điệu Hút Máu đã xuất hiện, hơn nữa bọn đồ tử, đồ tôn của tôi vừa báo cáo mực nước ở hồ râm Đàm(4) cách nay mấy hôm đột ngột tụt hẳn xuống. Hồ râm Đàm có nghĩa là đầm xác cáo. Đây chính là nơi khi xưa Bố Rồng phong ấn Hồ.

Đạo Thậm vừa dứt lời, trong gian nhà kín đáo bỗng nhiên nổi gió. Cơn xào xạc mang theo cả mùi ẩm của đất, mùi ướt của lá. Khi mọi người còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì sư tổ quán Thái Thanh bất ngờ kêu lên:

- Có yêu quái!

Ông ta nói đoạn rời khỏi chỗ ngồi, chạy như bay ra ngoài. Nhật Duật không chút chậm trễ vội vã bám theo sau.

* * * * *

* Chú thích:

(1) Trần Hoảng: miếu hiệu là Trần Thánh Tông, vị vua thứ hai đời Trần, cũng là con thứ hai của Trần Thái Tông. Con đầu của Thái Tông là Trần Quốc Khang, vốn là con của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Thái Tông. Khi xưa Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường người vợ đang mang thai là Thuận Thiên công chúa cho người em là vua Thái Tông. Do vậy dù trên danh nghĩa là con cả, Trần Quốc Khang không được trao ngôi vua mà ngôi này được dành cho người con trai thứ hai của Thái Tông là Trần Hoảng.

(2) Ngôi cửu ngũ: Tức chỉ ngôi vua. Hào cửu ngũ trong quẻ Càn của kinh Dịch có tượng con rồng bay trên trời, tức là tượng vị vua. Do đó ngôi vua gọi là ngôi Cửu ngũ.

(3) Thượng Cổ Tứ Yêu: Hồ, Kê, Mộc, Ngư có nghĩa là bốn yêu quái từ thời Thượng Cổ gồm cáo tinh, gà tinh, cây tinh và cá tinh.

(4) Hồ râm Đàm: tức hồ Tây ngày nay.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Bạc Nương trầm mình xuống hồ. Một cái hồ kỳ lạ. Hồ được lát gỗ xung quanh và còn đặt trong phòng kín. “Lúc nãy bà lão kia nói đây là cái gì nhỉ? À, là phòng tắm! Người dưới xuôi thật buồn cười, sao họ không ra suối tắm luôn cho tiện mà lại đào hồ trong nhà thế này?”.

Cô gái nhỏ chìm hẳn người xuống. Làn nước ấm vỗ về thân thể khiến nàng thấy khoan khoái vô cùng. “Kể ra cũng thích thật đấy, mà ấm áp thế này làm buồn ngủ quá. Trước giờ tắm cảm giác sướng nhất là sạch, bây giờ mới biết là còn có thể thoải mái thế này. Buồn ngủ quá cơ! Bố dặn lúc nào cũng phải tỉnh táo, đề phòng mọi thứ. Nhưng sao mà ta thấy mệt thế? Làm thế nào để tỉnh táo được đây?”.

Khuôn mặt Bạc Luông hiện ra, thân quen nhưng cũng rất mơ hồ. “Con cần phải biết rằng cuộc sống vốn rất khó khăn. Cuộc sống của một thầy phép lại càng khó khăn hơn nữa. Con cần phải tỉnh táo và lạnh lùng, nên nhớ nếu chưa tin ai thì đừng để người ta biết mình có phép thuật. Đừng thân thiết với bất cứ ai, lại càng không để có tình cảm với bất kỳ người nào. Tình cảm là mọi nguồn gốc của khổ đau. Ngay cả ta nếu mất, con cũng phải nhanh chóng quên, đừng đau buồn. Hãy luôn nhớ, cuộc sống của con mới là thứ quan trọng nhất!”.

Khuôn mặt của Bạc Luông mờ dần, mờ dần, hóa thành một quầng trắng. “Mây, Mây ơi, Mây! Bố nói gì nhỉ, không được thân thiết với bất cứ ai, không để có tình cảm với bất kỳ người nào. Nhưng Mây không phải là người. Bố lúc nào cũng cấm đoán, bắt ta phải thế này thế kia, nhưng ông lại không ôm ta, không thủ thỉ với ta, không vỗ về ta, không cho ta gục đầu vào lòng. Mây lại khác. Từ khi biết Mây, ta cảm thấy vui hơn, ta có chỗ tâm sự, ta được nói, được khóc, được cười. Mây ơi! Giờ Mây ở đâu? Ta nhớ Mây quá! TA NHỚ MÂY QUÁ!”.

Bạc Nương cảm nhận rõ ràng từng dòng nước mắt tuôn đẫm hai bên má. “Tại sao ta lại ở đây? Tại sao ta vẫn phải sống? Giờ ta đi về đâu? Giờ ta nên làm gì? Không ai an ủi, không ai vỗ về, giờ cũng không có ai hướng dẫn, chỉ bảo. Bố đã mất rồi, Mây cũng đi luôn. Ta… ta thật… ta thật sao nhỉ? Đúng rồi CÔ ĐƠN! Ta thật cô đơn! Bố đã nói con phải cô đơn và hãy cố gắng càng cô đơn càng tốt. Nhưng ta không muốn thế này! Ta thực sự không muốn! Ta không thích cô đơn!”.

Bạc Nương khóc nức nở, nàng không còn cảm nhận được hai hàng nước mắt tuôn rơi nữa nhưng nàng vẫn biết mình đang khóc ghê lắm. Khóc như chưa bao giờ được khóc, nàng đang khóc bằng tâm hồn.

Bỗng nhiên một mùi ẩm ướt đột ngột tràn vào phòng, như mùi của đám lá mục, lại giống mùi đất dậy lên sau cơn mưa to. Mùi hơi lạnh, hơi se sắt nhưng lại nhẹ nhàng, thoang thoảng. Bạc Nương ngửi thấy mùi đấy thì bình tĩnh lại thôi không khóc nữa. Chỉ trong chốc lát mùi lạ đã tràn ngập căn phòng tắm.

* * * * *

Bà hầu già cầm bộ quần áo vừa bước vào đã như hóa đá. Cơ thể Bạc Nương trắng hồng như ngọc, mịn màng không chút tì vết. Trông nàng đẹp đẽ, cao sang giống Hằng Nga trên trời.

- Bà… bà làm sao thế? - Bạc Nương nhìn bà ta tò mò hỏi.

Bà già hít vào một hơi, tạm bình tĩnh lại được rồi nói:

- Tiểu thư… tiểu thư đẹp quá! Bình sinh kẻ hầu ở phủ Chiêu Văn này các cô ả đào, rồi vũ công nghiêng nước, nghiêng thành thấy qua rất nhiều. Có điều không ai đẹp được bằng một phần của tiểu thư.

Bạc Nương nghe thấy bà hầu cứ một điều “tiểu thư”, hai điều “tiểu thư” thì lẽ lưỡi, nói:

- Ta tên Bạc Nương, tiểu thư cái gì? Bà mang đồ cho ta đấy à?

Bà lão nghe thế sực tỉnh, đáp:

- Trong phủ quần áo nữ chả có mấy, may mà đợt trước có vài bộ của các vũ công Chiêm Thành để quên. Tôi thấy vừa người tiểu thư nên mang cho tiểu thư đây.

- Cảm ơn bà! - Bạc Nương nói đoạn đón lấy bộ trang phục từ tay bà hầu.

Bà lão quay người đi, tim đập thình thình. “Kinh khủng thật, ta là một bà già mà còn cảm thấy thế này. Thêm mấy năm nữa tiểu thư này nhất định làm khuynh đảo đất nước. Đức ông của chúng ta quả thật có con mắt tinh đời”.

* * * * *

- Tiểu thư đang đi tham quan quanh phủ à? Để tôi dẫn tiểu thư đi! - Lão Phúc cất tiếng đột ngột làm Bạc Nương giật mình.

- Ta… ta đang đi tìm… mùi!

- Mùi ư? Mùi gì thế? - Lão bộc già ngơ ngác hỏi lại.

Bạc Nương lắc đầu chả biết phải giải thích với lão thế nào.

- A tôi biết rồi, hay là mùi từ nhà bếp. Tiểu thư đói rồi chứ gì, để tôi bảo người dọn cơm. - Lão Phúc cười tít mắt. “Hóa ra là kiến bò bụng đây mà, cái này thì lão Phúc ta xử lý dễ dàng”.

- Không phải!

Bạc Nương lắc đầu đáp rồi chỉ vào một lối đi bên ngách:

- Mùi khác cơ, từ hướng này!

- À, đấy là hướng ra phía khu vườn sau nhà. Trời đang mưa mà tiểu thư vẫn muốn đi vãn cảnh ư?

Bạc Nương gật đầu dù nàng chả hiểu đi vãn cảnh là gì.

- Được, vậy mời tiểu thư theo tôi. - Lão bộc già với lấy cái ô rơm để đầu hành lang, lật đật đi trước dẫn đường.

Phía sau phủ Chiêu Văn là một khu vườn rộng rãi. Phủ đã vốn rất lớn mà khu vườn phải chiếm đến hơn nửa diện tích. Trong vườn trồng nhiều cây cối, có cả các tảng đá to giả làm núi non. Cuối vườn là một chiếc hồ nhỏ có tường rào bao quanh ngăn cách với hồ lớn Liên Thủy ở bên ngoài. Bên bờ hồ có thủy đình(1) làm nơi ngồi chơi ngắm cảnh hoặc gảy đàn, uống trà. Trên bờ hồ đối diện thủy đình nơi sát với tường rào có một cây cổ thụ to. Cây xanh rì, không rõ bao nhiêu tuổi. Từng tán lá dài của cây thướt tha như bộ tóc xanh khổng lồ che phủ khoảng lớn mặt hồ.

- Kia là cây gì mà đẹp thế? - Bạc Nương đứng trên thủy đình, chỉ cây xanh mà hỏi lão Phúc.

Lão Phúc nghe nàng hỏi thế thì cười, đáp:

- À, cô là người miền ngược nên không biết hả? Đây là cây liễu. Cây này hay được trồng ven hồ. Tại Thăng Long trồng nhiều liễu lắm, dọc suốt hồ râm Đàm và hồ Lục Thủy(2) trồng toàn là liễu thôi. Mà khoan, cây liễu thuộc ngũ quỷ(3) vốn không ai trồng trong nhà. Phủ chúng ta cũng có trồng liễu bao giờ đâu nhỉ?

Mùi ẩm ướt bất ngờ bốc lên ngào ngạt, sương ở đâu hiện ra trắng xóa mặt hồ. Lão Phúc chợt thấy đầu óc mụ mị, người lảo đảo rồi ngã đánh huỵch xuống nền đá xám. Bạc Nương không để tâm tới lão bộc già, chỉ hướng tầm mắt ra xa, nhìn xuyên qua làn sương trắng trên mặt hồ. Nàng mỉm cười, cất tiếng nói to:

- Ngươi cũng đang rất cô đơn, có phải không?

Cây cổ thụ trên bờ hồ đối diện rung rinh cành lá, gió nổi lên xào xạc.

* * * * *

- Bà là ai?

- Ta là mẹ của con, con gái ạ! Con hãy dựa vào người ta, ngủ đi nào con ngoan!

- Bà là mẹ thật ư? Mẹ hóa ra là như thế này à? Ấm áp thật đấy, ấm áp như Mây vậy!

- Đúng thế, ta là mẹ con đây. Con ngủ ngoan nào. Ầu ơ…

- Mẹ, mẹ ơi!!!

- Con ngoan hãy ngủ đi, hãy chìm vào giấc mơ để quên đi nỗi cô đơn. Ta sẽ nâng niu, thương yêu, che chở cho con.

- Bà thật là dịu dàng, thật là ấm áp. Nếu có một người mẹ như bà thật, ta hẳn sẽ sung sướng lắm.

- Con nói gì vậy, ta chính là mẹ của con mà!

- Ta cũng mong như vậy nhưng mẹ ta mất đã lâu rồi. Bà đã từng mất con, có phải không? Bà cũng đáng thương như ta.

- CON NÓI CÁI GÌ VẬY? TA KHÔNG MẤT CON. CON LÀ CON CỦA TA MÀ!

- Bà cô đơn rất lâu rồi. Còn cô đơn hơn cả ta cơ, cô đơn hàng ngàn năm. Thật tội nghiệp!

- Không, không, ta không cô đơn. Con của ta, trả con cho ta! Ngươi là con của ta mà. Con ơi, lại đây với ta! Ngủ đi con, ngủ đi nào!

- Bà rất dịu dàng, bà rất ấm áp, nhưng lại rất cô đơn. Con của bà đã không còn nữa nhưng từ giờ bà có thể ở bên ta.

- Ngươi, ngươi… con nhóc kia, ngươi là ai?

* * * * *

Bạc Nương mở mắt ra. Sương đã tan mất, mưa vẫn còn lất phất, thay vào vị trí cây cổ thụ đối diện bên hồ là một người đàn bà đẹp. Dáng bà dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tao, mái tóc xõa dài xanh đậm không khác gì tán cây rủ bóng mặt hồ. Người đàn bà trông thấy Bạc Nương thì đột nhiên rít lên căm phẫn như tiếng quỷ đói kêu gào dưới đáy Địa Ngục.

Chỉ thấy nhoáng lên một cái, người đàn bà đã đứng bên này thủy đình. Khuôn mặt bà ta hiện rõ, không phải mặt người phụ nữ mà là bộ mặt của con quỷ cái khát máu đang lúc tức giận. Những lọn tóc xanh như hàng ngàn cánh tay yêu quái vươn ra, cuốn chặt lấy Bạc Nương nâng lên cao:

- Con nhãi ranh nhà ngươi dám trêu đùa ta! Ngươi phải chết!!!

Bạc Nương đối diện với nữ quỷ vẫn bình thản, từ tốn nói:

- Bà.. bà thật đáng thương. Con bà mất đã lâu lắm rồi… có phải không? Cô đơn hàng ngàn năm chắc không dễ dàng gì?

Nữ quỷ nghe thế thì càng rít lên hung tợn:

- Ngươi… ngươi nói gì? Ta sẽ giết ngươi, sau đó hút cạn linh hồn ngươi!

- Bà đừng làm thế… không nên làm thế. Mẹ… mẹ ơi…!

Bạc Nương nói rồi bất chấp khuôn mặt vô cùng đáng sợ của nữ quỷ ôm bà ta vào lòng.

- Mẹ… từ giờ bà làm mẹ ta nhé! Có gì ta sẽ tâm sự… thủ thỉ với bà. Bà hãy bảo vệ ta, che chở ta và… vỗ về ta, an ủi ta nữa…

- Ngươi, ngươi… - Nữ quỷ đã không còn rít, âm thanh bớt hung dữ hơn.

- Từ giờ bà và ta ở bên nhau, chúng ta sẽ không còn sợ… sợ cô đơn nữa!

Nữ quỷ lặng thinh không nói gì. Hình ảnh xa xưa hiện ra mờ ảo trong tâm trí.

* * * * *

* Chú thích:

(1) Thủy đình: Là một dạng kiến trúc được xây ven hồ để ngắm cảnh, hoặc có thể xây ở giữa hồ dùng làm nơi múa rối nước.

(2) Hồ Lục Thủy: Tức hồ Gươm hiện nay.

(3) Ngũ quỷ: Là một khái niệm trong phong thủy chỉ về những điều xấu. Nếu nói về thực vật thì ngũ quỷ chỉ năm loài cây không nên trồng trong nhà gồm có liễu, hòe, si, đa và gạo.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Vào thời Hùng Vương thứ mười hai, yêu quái ở phương Nam rất nhiều, hoành hành ngang ngược. Hùng Vương và dân tộc Lạc Việt được thừa kế trực tiếp dòng máu rồng, tiên nên trong nước có nhiều người giỏi pháp thuật, đánh dẹp được hết yêu ma, bảo vệ yên bình cho bờ cõi nước Văn Lang(1).

Khi ấy, giáp biên giới với Văn Lang về phía Nam có nước Hồ Tôn, dân nơi đấy ngày đêm khốn khổ vì nạn yêu quái. Vua nước ấy thấy nước Văn Lang nhiều thầy phép tài giỏi lại là trực hệ của loài giống rồng tiên mới cho rằng người tộc Lạc Việt có dòng máu quý, quyết định cử sứ giả sang cầu thân cho hoàng tử Hồ Tôn. Khi đi, sứ giả Hồ Tôn mang theo rất nhiều trân châu, bảo vật làm sính lễ.

Đoàn người nước Hồ Tôn đi mất cả tháng trời ròng rã mới đến Phong Châu, kinh đô của Văn Lang. Vua Hùng là người rất hiếu khách, đem đại lễ thịnh soạn ra tiếp đón đoàn. Yến tiệc chán chê, sứ Hồ Tôn dâng biếu trân châu, bảo vật, lấy cớ kết thân tình bằng hữu. Hùng Vương nghe thế thì vui vẻ nhận hết. Khi ấy, sứ Hồ Tôn mới kể mục đích chính là sang cầu thân, nài nỉ Hùng Vương đáp ứng. Vua Hùng lúc đầu không chịu, nhưng bảo vật đã nhận rồi, lại thấy cuộc sống của dân Hồ Tôn bị yêu quái hành hạ đúng là đau khổ, mới đành động lòng đồng ý. Khi đó, người cháu gái của vua cũng đã vào tuổi cập kê, liền quyết định gả nàng sang nước Hồ Tôn.

Sứ giả Hồ Tôn nghe Hùng Vương đồng ý thì vui mừng khôn xiết, đứng dậy reo hò. Ngay trong hôm ấy đoàn sứ Hồ Tôn xin phép Hùng Vương cho đón dâu, nhanh chóng quay trở về nước. Khi đoàn sứ Hồ Tôn về đến quê hương, vua Hồ Tôn thân chinh ra đón rồi lập tức lên kế hoạch tổ chức đám cưới cho hoàng tử. Đám cưới giữa hoàng tử Hồ Tôn và mỵ nương(2) Văn Lang được tổ chức linh đình, dân Hồ Tôn ăn mừng cả tháng trời không nghỉ. Mỵ nương sống xa xứ thì rất nhớ nhà nhưng cuộc sống ban đầu cũng dễ chịu nên nàng không cảm thấy buồn phiền lắm. Trong khi đó cả nước Hồ Tôn đều ngày đêm trông ngóng mỵ nương có tin vui để họ có được hậu duệ của giống rồng, tiên.

Cuối cùng niềm mong chờ cũng đã đến, mỵ nương hoài thai. Toàn bộ nước Hồ Tôn lại được dịp nhảy múa ăn mừng. Mỵ nương mang thai chín tháng mười ngày đến kỳ sinh nở. Tất cả già, trẻ, lớn, bé tại Hồ Tôn đều mong chờ sinh linh mới ra đời. Tốt nhất là một hoàng tử, không thì là một công chúa cũng không đến nỗi nào.

Ai ngờ đứa trẻ mỵ nương sinh ra không phải hoàng tử, cũng không phải công chúa mà là một quái thai. Quái thai không ra hình người, dặt dẹo được hai hôm thì chết. Cả nước Hồ Tôn khi đấy náo loạn. Đoàn sứ sang Văn Lang khi xưa mới nhớ ra ban đầu Hùng Vương không muốn gả người sang Hồ Tôn. Thế là dân Hồ Tôn quay ra nghi ngờ Hùng Vương lừa dối, không gả dòng dõi rồng, tiên thật. Đúng lúc ấy, hoàng tử Hồ Tôn lại đột ngột bị bệnh qua đời. Vua Hồ Tôn thấy vậy liền nổi cơn giận lôi đình.

Vua hạ lệnh bắt trói mỵ nương, mang đi cho quân lính Hồ Tôn làm nhục. Sau đó bọn chúng tống mỵ nương vào nhà giam, hàng ngày chỉ cho cơm thừa, canh cạn.

Dần dà, người ta cũng quên luôn nàng. Hai năm trôi qua, vào ngày giỗ của hoàng tử, vua Hồ Tôn đột nhiên nhớ tới mỵ nương. Ông ta cho mở cửa phòng giam để xem nàng sống hay chết.

Khi binh lính mở cửa, trước mặt vua Hồ Tôn hiện ra cảnh tượng lạ lùng. Mỵ nương vẫn sống khỏe mạnh, tinh thần tươi tắn, trên tay nàng còn bế một đứa trẻ kháu khỉnh. Thì ra sau khi bị đám lính làm nhục, mỵ nương lại hoài thai. Chín tháng sau sinh ra một bé trai bụ bẫm. Mỵ nương tuy ở trong ngục tối cực kỳ đau khổ nhưng sau khi sinh con, tình yêu của người mẹ trỗi dậy. Nàng cắn răng chịu đựng, chăm bẵm cho đứa bé từng chút một. Tình yêu thương của người mẹ thật kỳ lạ, tuy ở trong chỗ tối tăm mà đứa bé vẫn lớn lên khỏe mạnh, càng ngày càng lém lỉnh. Mỵ nương xa quê hương, đất nước, lại bị tống vào ngục không ai quan tâm, chăm sóc. Mỵ nương vốn rất cô đơn, lạnh lẽo. Tuy thế từ khi đứa con chào đời, nàng đã tìm thấy động lực tinh thần duy nhất, chỗ dựa duy nhất, niềm tin duy nhất, lý do duy nhất để tiếp tục tồn tại.

Vua Hồ Tôn trông thấy mỵ nương vẫn khỏe mạnh, tinh thần thậm chí còn tốt hơn trước. Vua nhìn sang đứa bé lanh lợi, động lòng nghĩ đến con mình. Càng nghĩ đến hoàng tử, nỗi giận dữ của vua càng lớn lên. Cuối cùng không thể kiềm chế được, vua Hồ Tôn để cơn giận dữ chiếm đoạt cơ thể, hạ một mệnh lệnh không thể tha thứ. Đó là bảo đám lính bắt đứa trẻ vứt cho đàn chó xé xác.

Chứng kiến cảnh con mình bị giết hại, mỵ nương nổi điên. Nàng gào lớn như quỷ, bất chấp tất cả lao vào đám lính cào cấu chúng. Đám lính nhanh chóng đẩy nàng trở lại ngục tối, khóa trái cửa. Mỵ nương gào thét ba ngày ba đêm trong ngục, đến ngày thứ t.ư thì kiệt sức mà chết. Khi vua Hồ Tôn cho mở cửa ngục ra, mỵ nương đã chết ngồi. Mái tóc nàng xõa dài sang hai bên, hai bàn tay rách bươm vì cào tường đá, mắt nàng đẫm máu. Trông bộ dạng nàng còn đáng sợ hơn nữ quỷ.

Vua Hồ Tôn thấy thế thì kinh hồn tởm vía, hạ lệnh cho chặt thi thể mỵ nương ra từng mảnh nhỏ đem vứt khắp nơi cho thú rừng ăn. Bốn mươi chín ngày sau đêm mỵ nương mất, lính gác trong cung đột nhiên nghe thấy vua Hồ Tôn kêu gào thảm thiết. Lúc chúng chạy đến nơi thì vua đã băng hà, mắt trợn ngược.

Linh hồn mỵ nương sau khi giết vua Hồ Tôn trả thù vẫn nặng ân oán, không thể đầu thai được, trải qua vài năm dần hóa thành nữ quỷ. Nữ quỷ oán hận dân Hồ Tôn đã tước đi đứa con của nàng nên tác oai, tác quái, bắt cóc trẻ con Hồ Tôn mà hút linh hồn. Trải qua hơn trăm năm, nước Hồ Tôn bị diệt vong, nữ quỷ tìm lên phía Bắc về lại địa bàn nước Văn Lang quê hương. Tại đây nữ quỷ gặp thêm bốn đồng bọn, tạo thành nhóm Ngũ Quỷ cùng nhau đi gây họa bốn phương.

Nước Văn Lang càng về đời sau dòng máu rồng tiên càng nhạt dần, pháp thuật ngày càng suy giảm. Đến đời Hùng Vương thứ mười sáu thì yêu quái hoành hành dữ dội, đời sống dân Văn Lang cực kỳ điêu đứng. Lúc đấy, toàn bộ nước Văn Lang do Hùng Vương đứng đầu quyết định lập đàn cầu khẩn, thỉnh Bố Rồng từ Bát Hải xa xôi về cứu con cứu cháu.

Lạc Long Quân nghe lời thỉnh cầu, đem theo gươm Phi Long trở về. Yêu quái phương Nam nhanh chóng bị quét sạch. Ngũ Quỷ không nằm ngoài số phận của lũ yêu quái cũng bị Bố Rồng tìm giết. Tuy nhiên, do oán hận của Ngũ Quỷ quá nặng nên chúng không thể bị tiêu diệt mà chỉ bị phong ấn lại. Lạc Long Quân tùy theo tính chất pháp thuật của Ngũ Quỷ mà phong ấn chúng vào từng loài thực vật khác nhau. Nữ quỷ mỵ nương khi xưa bị phong ấn vào một cây liễu.

Trải qua thêm hơn nghìn năm, cây liễu đứng nhìn vận đổi sao dời, chứng kiến Thăng Long từ một làng Long Đỗ nhỏ bé trở thành kinh thành đô hội của cả đất nước Đại Việt. Nữ quỷ cứ tưởng mình mãi mãi làm cây liễu như vậy thì đột nhiên phong ấn được gỡ bỏ.

* * * * *

Đạo Thậm lạnh lùng nhìn nữ quỷ trước mặt. Dưới chân lão, quân Thánh Dực nằm lăn lóc. Nữ quỷ dáng dong dỏng cao, tóc xõa tung che gần kín người. Xung quanh nữ quỷ, lá bay, gió thổi, mưa rơi cuốn lại thành cơn lốc nhỏ.

- Yêu quái chớ lộng hành! - Đạo Thậm cất tiếng, không to, không nhỏ, rõ ràng từng từ một. Nói chưa hết câu lão đã rút từ trong ống tay áo ra một thanh gươm gỗ.

- Càn Khôn Thâu Nhiếp Kiếm(3)! - Đạo Thậm hô lớn rồi xoay nhẹ gươm, vạch trong không khí một vòng tròn Âm Dương. - Sơ Cửu Càn, Tiềm Long Vật Dụng(4)!

Chiêu thức đầu tiên của Càn Khôn Kiếm Pháp phóng ra không quá mạnh mẽ, không quá tốc độ nhưng lại bao phủ hết toàn bộ không gian xung quanh. Trong cái bình thường, đơn giản lại ẩn chứa hiểm họa khôn lường. Càn Khôn Kiếm Pháp dựa trên hai quẻ Càn(5) và Khôn(6) của Kinh Dịch. Đây là bộ kiếm pháp cơ bản của quán Thái Thanh, bất kỳ đồ đệ nào trong quán đều biết. Tuy thế, để thực sự phát huy tối đa uy lực của bộ kiếm pháp này thì chắc chỉ có mình Thái Thanh sư tổ.

- Trấn! - Đạo Thậm lạnh lùng nói.

Một chiếc lồng khí khổng lồ từ trên cao chụp xuống đầu nữ quỷ. Nữ quỷ vẫn bình thản như không. Khi chiếc lồng chụp xuống gần đến nơi, nữ quỷ đột nhiên rít lên chói tai. Lá, mưa, gió quay càng lúc càng nhanh, tạo thành một cơn lốc xoáy đánh thẳng vào lồng khí. Chỉ nghe tiếng nổ đanh gọn trên không, chiêu đầu tiên của Càn Khôn Kiếm Pháp đã bị tiếng thét của nữ quỷ hóa giải hoàn toàn. Đạo Thậm thấy chiêu thức của mình bị phá vẫn điềm nhiên như không, cất tiếng quát:

- Khá khen yêu quái nhà ngươi cũng có chút đạo hạnh. Xem ra ta phải thực sự ra tay rồi!

Đạo Thậm nói xong liền rút ra một lá bùa vàng từ ống tay áo. Lão tung bùa lên không, lá bùa lượn quanh một vòng rồi quay lại dính chặt vào lưỡi gươm gỗ.

- Hóa Long! - Đạo Thậm hô lớn, lá bùa trên lưỡi gươm bốc cháy ngùn ngụt. Không khí đột nhiên nóng bỏng, cô đặc lại.

Nhật Duật đứng gần đấy mặc dù đã vận huyền lực bảo vệ toàn thân mà vẫn thấy ngộp thở.

- Cửu Nhị Càn, Hiện Long Tại Điền(7)!

Đạo Thậm vung gươm gỗ lên, từ dưới đất khí bỗng bốc lên ầm ầm tụ lại thành hình rồng. Rồng khí to dần ra, không khác gì rồng thật. Con rồng bất chợt quẫy đuôi, đạp chân, bay quanh sân ép cho mọi người ngạt thở.

- Xuất! - Đạo Thậm hô lớn.

Chiêu thứ hai của Càn Khôn Kiếm Pháp vốn uy lực không khác mấy so với chiêu đầu nhưng vì Đạo Thậm đã dùng thêm bùa chú biến ra rồng khí nên giờ đây chiêu này thật sự có khả năng bạt núi ngăn sông.

- Lão sư tổ, người định đánh sập cả sảnh Phi Y ư? - Nhật Duật thấy thế thì lo lắng hét to. Con rồng khí đang gây ra một trận bão lớn, quả thật có thể khiến cho cả khu nhà đổ sụp bất kỳ lúc nào.

- Đức ông yên tâm, khí của tôi là vô vi(8), thuận với tự nhiên. Các người chỉ cần không phải kẻ địch thì không lo bị nó làm tổn hại.

Đạo Thậm nói mà động tác không hề chậm lại, gươm giơ lên chỉ thẳng hướng nữ quỷ. Rồng khí cuộn mình, quẫy đuôi, nhằm nữ quỷ lao tới. Gió rít lên chói tai thay cho tiếng rồng ngâm.

Nữ quỷ thấy tình thế trước mặt thì không thể thản nhiên được nữa. Thị gào lên một tiếng, mái tóc dài xõa tung ra, bay ngợp trời tạo thành đám mây xanh khổng lồ. Con rồng khí càng quẫy càng lớn, càng quẫy càng mạnh, khi áp sát nữ quỷ thì miệng nó đã to hơn nửa người thị. Con rồng gầm lên, há miệng đớp lấy nữ quỷ. Mái tóc nữ quỷ chụm lại, tạo thành chiếc khiên xanh chống lại đòn tấn công của con rồng.

* * * * *

* Chú thích:

(1) Văn Lang: Tức tên nước Đại Việt thời các Hùng Vương trị vì.

(2) Mỵ nương: Tức công chúa theo cách gọi của người Lạc Việt xưa.

(3) Càn Khôn Thâu Nhiếp Kiếm: là bộ kiếm pháp cơ bản của quán Thái Thanh mô phỏng theo quẻ Thuần Càn và Thuần Khôn trong Kinh Dịch, đại ý bao trọn đất trời trong một bộ kiếm.

(4) Tiềm Long Vật Dụng: là hào sở cửu (đầu tiên) của quẻ Thuần Càn, có nghĩa rồng còn ẩn náu, chưa đem tài ra dùng được;

(5) Quẻ Càn: trong Kinh Dịch tượng trưng cho trời;

(6) Quẻ Khôn: trong Kinh Dịch tượng trưng cho đất;

(7) Hiện Long Tại Điền: là hào cửu nhị (thứ hai) của quẻ Thuần Càn, có ý nghĩa rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.

(8) Vô vi: Là một từ của Đạo Giáo, hiểu nôm na có nghĩa là thuận với trời đất.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Một tiếng nổ đinh tai vang lên. Cây cối đổ rạp, cả khu nhà rung rinh lên từng chặp, ngói trên mái nhà có vài chỗ bị tốc rơi rải rác xuống sân. Đám quân Thánh Dực vừa lê lết túm tụm được một chỗ thì lại bị luồng khí tràn ra từ vụ nổ xô vào ngã dúi dụi. Nhật Duật phải dồn huyền lực xuống chân mới đứng vững, nhưng bụi cát mù mịt bốc lên làm chàng phải mất một lúc mới quan sát được cục diện chiến trường.

Lúc này rồng khí đã lượn vòng bay lên cao, nữ quỷ cũng lùi lại vài thước. Mái tóc xanh dài của thị đã bị đánh rụng quá nửa.

Đạo Thậm có vẻ như muốn chấm dứt cuộc chiến nhanh chóng. Lão giơ gươm lên khua thành vòng tròn rồi nhắm thẳng nữ quỷ chỉ tới. Rồng khí gầm rú nhận lệnh đoạn quay mình lao xuống. Nữ quỷ thấy thế đến của rồng khí dũng mãnh thì không dám coi thường, vội vã tập trung tinh thần.

Nói thì chậm chứ lúc đấy rất nhanh, rồng khí vốn không mất bao nhiêu thời gian từ trên cao nhào xuống, tấn công thẳng mặt nữ quỷ. Nữ quỷ rít lên ghê rợn, mắt đỏ rực. Bỗng nhiên khắp không gian tràn ngập tiếng trẻ con khóc, cười, gọi nhau í ới.

Con rồng khí lao xuống gần tới người nữ quỷ thì bị một tấm lưới vô hình chặn đứng. Hóa ra những tiếng khóc, cười kia là do một lũ quỷ con gây ra. Lũ này thấy rồng khí đánh tới liền hợp nhau lại, biến thành tấm lưới vô hình kể trên để ngăn cản. Rồng khí không cảnh giác nên bị mắc vào lưới. Nó vội vàng quẫy đạp điên cuồng hòng thoát ra. Nữ quỷ thấy vậy liền quát lên the thé. Bọn quỷ con nghe tiếng quát vội thay nhau gào to, tạo thành đợt âm thanh ầm ĩ làm náo loạn cả góc trời. Tiếng gào rít càng lớn thì rồng khí quẫy đạp càng mạnh. Rồi đột nhiên tất cả biến thành một tiếng thét lớn xuyên thẳng lên cao. Nhật Duật vội vã vận hết huyền lực vào bảo vệ đôi tai. Dưới đất bọn quân Thánh Dực càng lăn lộn kêu la.

- RÉÉÉCCC. ẦMMM…..

Rồng khí tan tác thành từng sợi mỏng, biến mất vào hư vô. Đạo Thậm không ngờ tình huống lại chuyển biến như vậy, mặt liền biến sắc. Linh hồn lũ quỷ con sau khi phá hủy rồng khí thì cười đùa ầm ĩ, quay về bám xung quanh mình nữ quỷ. Nữ quỷ đứng im lìm, ném cái nhìn chết chóc về phía sư tổ quán Thái Thanh.

Đúng lúc Đạo Thậm đang vận công, chuẩn bị cho trận sống mái tiếp theo thì giọng con gái trong trẻo chợt cất lên:

- Bà mau cho ta xuống đi, đùa nghịch thế là đủ rồi!

Nhật Duật nghe thấy thì giật mình, sao mà giống giọng Bạc Nương thế. Nữ quỷ cất tiếng, giọng lại rất thanh cao, quý phái trái ngược hẳn với vẻ ngoài đầy đe dọa:

- Để tôi dạy lão đạo sĩ già kia một bài học đã!

Giọng con gái lấy làm bực mình, đáp:

- Ta đã bảo bà là đi tìm… đi tìm anh thôi. Tự nhiên bà lại… đánh với lão già kia làm gì? Anh bây giờ tìm được rồi, bà mau để ta xuống nào!

Nữ quỷ nghe giọng con gái nói thế thì không tranh cãi thêm, vội vã lắc lắc mái tóc. Tán xanh trên đầu nữ quỷ xõa ra, tung bay theo gió rồi dày lên nhanh chóng. Tóc được gió cuốn đi, cuộn lại thành một cái bọc. Sau khi bọc tóc to lên thì rơi hẳn xuống khỏi đầu của nữ quỷ. Nữ quỷ thấy cái bọc rơi vội vàng đưa tay đỡ lấy, nhẹ nhàng đặt xuống rồi thổi phù. Tóc bên ngoài bọc bị cái thổi của nữ quỷ làm bay đi hết, lộ ra bên trong bọc là thân hình của một cô gái nhỏ. Trông thấy cô gái, Nhật Duật kêu lên kinh ngạc:

- Bạc Nương, sao em lại ở đây? Mà sao em lại đi với nữ quỷ?

Bạc Nương trông thấy Nhật Duật thì mừng rỡ nói:

- Anh… em đang đi tìm người đấy!… Mà đây là Liễu, không phải nữ quỷ đâu!

Nhật Duật nghe nàng nói thế thì lại càng ngạc nhiên, hỏi:

- Liễu ư? Sao em quen bà ta?

Bạc Nương lè lưỡi, đáp:

- Liễu… xuất hiện trong nhà anh. Em phát hiện ra Liễu, thấy… bà ta rất giống Mây. Từ khi Mây bỏ đi em rất cô… cô đơn, may mà bây giờ có Liễu rồi!

Nhật Duật nghe Bạc Nương nói thế tự nhiên thấy dựng tóc gáy. Xem ra cô gái nhỏ bản lĩnh rất ghê gớm, đã ra tay thu phục được nữ quỷ kinh khủng kia rồi. Đạo Thậm thấy Chiêu Văn Vương nói chuyện qua lại với cô gái đi cùng nữ quỷ thì lông mày quăn tít lên, không biết phải xử trí thế nào.

Liễu lúc này đã bước lại gần Bạc Nương, nhìn cô gái nhỏ một cách trìu mến. Nhật Duật thấy bà ta không còn phô ra cái vẻ ghê gớm lúc trước thì thở dài, khuyên nhủ Đạo Thậm yên tâm không cần phải đề phòng nữa. Sư tổ Thái Thanh nghe thế thì thu thanh gươm gỗ lại, một trường đánh nhau cuối cùng cũng chấm dứt.

Đúng lúc đấy không gian bỗng tối sầm, trời đất như sụp đổ. Trên không trung gió thét, mưa gào, sấm nổ, sét chớp ầm ĩ. Từ phía Bắc đột nhiên mọc lên một cột sáng khổng lồ chọc thủng nền trời đen thẫm. Từ trong cột sáng loáng thoáng như có tiếng rồng gào. Đạo Thậm trông thấy cột sáng thì mặt mũi tái mét, thốt lên:

- Có chuyện xảy ra ở quán Trấn Vũ rồi!

Nên biết Tứ Trấn Thăng Long gồm có Trấn Đông Bạch Mã, Trấn Tây Voi Phục, Trấn Nam Kim Liên và Trấn Bắc Trấn Vũ. Trong khi ba trấn còn lại là đền thì riêng Trấn Bắc lại là quán. Quán Trấn Vũ về bản chất là một quán của Đạo Giáo, vị thần thờ trong quán chính là Huyền Thiên Trấn Vũ, thần phương Bắc của Đạo Giáo. Bản thân quán Thái Thanh cũng có mối liên hệ mật thiết với quán Trấn Vũ. Hiện tại quán Trấn Vũ đang do các đệ tử Thái Thanh chăm nom. Vì thế khi nhìn thấy cột sáng xuất hiện, Đạo Thậm vô cùng lo lắng cho Trấn Bắc Thăng Long. Sư tổ Thái Thanh quay sang Nhật Duật trầm trọng nói:

- Quán Trấn Vũ xảy ra chuyện rồi! Chiêu Văn Vương, người báo cáo lại cho đức quan gia và đức thượng hoàng. Tôi phải ra đấy xem thế nào!

Nói xong cũng không chờ Nhật Duật trả lời, Đạo Thậm tung một lá bùa lên không hóa ra con cò khổng lồ. Con cò xà xuống, chân dài đưa ra quắp lấy hai vai của sư tổ Thái Thanh rồi vỗ cánh bay lên cao nhằm hướng Bắc mà tới.

* * * * *

- Chuyện gì đang xảy ra vậy? Thái Thanh sư tổ đi đâu rồi?

Người cất tiếng là vua Thiệu Bảo. Đứng hai bên nhà vua là Thượng hoàng Trần Hoảng và Thái sư Quang Khải. Cả ba người đều vừa từ trong sảnh Phi Y đi ra. Thánh Dực Tứ Tướng cùng viên tướng mang giáp bạc lúc nào cũng bám sát theo sau lưng bọn họ không rời. Nhật Duật nghe đức vua hỏi thì cúi người bẩm báo:

- Thưa đức quan gia, trên trời xuất hiện cột sáng lạ hình như có liên quan tới quán Trấn Vũ. Sư tổ đã đi điều tra rồi!

- Vậy còn yêu quái?

- Thưa, yêu quái đã bị hàng phục. Xin đức quan gia và đức thượng hoàng yên tâm!

Nhật Duật vừa nói dứt câu thì đột nhiên từ trong ngực chàng một luồng cát vàng bay tràn ra ngoài. Luồng cát bay lên cao, xoáy tròn tạo thành cơn lốc nhỏ, rồi từ trong luồng cát phát ra tiếng xì xào không dứt. Nhật Duật nhìn thấy luồng cát thì nhớ ra chuyện Ngô Soạn dặn chàng lúc trước. Duật vội nhờ bọn quân Thánh Dực đốt cho bó đuốc. Sau khi đuốc được đốt lên, chàng dí cả bó vào giữa luồng cát. Lửa bùng cháy dữ dội rồi giảm dần. Khi ngọn lửa nguội đi thì hiện ra một khuôn mặt đầy râu ria do luồng cát biến hóa thành.

- Chiêu Văn Vương, tình thế cực kỳ khẩn cấp! Ngươi có thấy cột sáng trên trời không, đấy chính là thần khí thoát ra từ long mạch của quán Trấn Vũ. Có vẻ như long mạch của quán đang bị người khác xâm hại. Ngươi đang ở đâu mau tới quán Trấn Vũ ngay, ta và Mai đang trên đường đến đấy. Nếu để chậm long mạch bị phá hủy thì nguy mất!

Lửa lại bùng lên thật to rồi tắt ngấm. Khuôn mặt râu ria cũng biến mất theo ngọn lửa. Luồng cát bay lên cao rồi trở về chui tọt vào trong ngực Nhật Duật. Thượng hoàng Trần Hoảng trông thấy cảnh đấy thì lên tiếng:

- Người vừa rồi là ai vậy?

Nhật Duật kính cẩn đáp:

- Bẩm, ông ta là Ngô Soạn, phán sự của núi Tản Viên.

Thượng hoàng gật đầu, đoạn lại nói:

- Tình hình xem ra rất nghiêm trọng, Tứ Trấn là nơi bảo vệ tâm linh cho toàn bộ Thăng Long. Nếu Tứ Trấn mà bị phá hoại thì e Thăng Long loạn mất. Chiêu Văn Vương mau nghe lệnh!

Nhật Duật vội vàng hành lễ. Thượng hoàng nói tiếp:

- Hiện tình thế rất rối ren, Chiêu Văn Vương có cơ duyên lĩnh hội được phép thuật cao siêu từ núi Tản Viên. Nay ta đại diện cho sảnh Phi Y giao cho Chiêu Văn Vương nhiệm vụ tuyệt mật là điều tra và đoạt lấy Gươm Rồng. Chỉ cần sự việc có liên quan đến Gươm Rồng thì Chiêu Văn Vương phải coi là ưu tiên hàng đầu. Chiêu Văn Quân tại Tây Bắc sẽ tạm thời giao cho phó tướng nơi đấy quản lý. Ta sẽ cho người biên thư thông báo. Còn nữa, đây là Đông A Kim Bài, ngươi cầm lấy mà hành sự. Từ giờ ngươi được phép tùy ý hành động trước, báo cáo sau.

Thượng hoàng nói đoạn rút từ trong áo ra một tấm lệnh bài bằng vàng, bên trên có khắc hai chữ “Đông A” đưa cho Nhật Duật. Nét khắc trên lệnh bài sống động khiến cho hai chữ như biến thành một đôi rồng nhỏ bay lượn. Nhật Duật quỳ xuống hành lễ rồi kính cẩn nhận lệnh bài, đút vào trong người. Vua Thiệu Bảo cũng tiến lại chỗ Chiêu Văn Vương, lấy từ trong ngực áo ra một cuộn giấy vàng đưa cho chàng:

- Chiếu lệnh này đang dự thảo, vì nhiệm vụ của chú có thể không ở một chỗ cố định nên ưu tiên đưa cho trước. Nội dung của chiếu lệnh đại khái là tổ chức Hội nghị vương hầu bách quan tại bến Bình Than vào rằm tháng một(1) năm nay. Hội nghị họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và trấn giữ các nơi hiểm yếu đề phòng trường hợp giặc Thát Đát tràn sang xâm lược.

Nhật Duật vái lạy rồi nhận thêm chiếu lệnh từ tay nhà vua. Sau đó Chiêu Văn Vương đứng dậy cất tiếng cáo từ mọi người. Thượng hoàng và nhà vua dặn dò chàng thêm vài câu, nhưng vì sự tình đang khẩn cấp nên cũng không tâm sự nhiều. Nhật Duật vái chào hai vua và thái sư, rồi đang định quay người rời đi thì nhớ ra một chuyện. Chàng liền tìm trong người rút ra chiếc lá tre. Duật đưa lá lên miệng thổi. Một loạt các tiếng phì phò kỳ lạ phát ra như tiếng ngựa thở sau quãng đường dài phi nước đại. Tiếng phì phò vừa dứt thì có tràng dài cộc cộc ầm ầm chợt nổi lên kèm theo cả tiếng ngựa hí. Rồi lại nghe tiếng gió ào ào thổi tới, một thân đỏ rực dũng mãnh chợt lao qua bức tường gạch xuất hiện trước mặt mọi người.

Con ngựa mới tới thấy Nhật Duật thì hí lên mừng rỡ, không ngừng đưa cái đầu to lớn cùng chiếc bờm đỏ rực dụi qua dụi lại vào người chàng. Nhật Duật vuốt ve con ngựa rồi cất tiếng khen:

- Ngươi giỏi thật đấy, vượt qua được cả trận đồ Bát Quái của Thái Thanh sư tổ!

Đoạn chàng quay sang phía hai vua, tâu:

- Bẩm, sự tình ở quán Trấn Vũ khẩn cấp, Nhật Duật xin phép dược dùng ngựa ngay trong Cấm Thành.

Vua Thiệu Bảo gật đầu, đáp:

- Chú được tùy nghi hành động!

Chiêu Văn Vương hành lễ từ biệt rồi dắt ngựa lại gần chỗ Bạc Nương, bảo nàng đi ngựa cùng chàng. Bạc Nương vui vẻ chạy lại, Nhật Duật đỡ nàng lên ngựa rồi quay sang nói với Liễu:

- Bà bay theo bọn tôi nhé!

Liễu không đáp lại, chỉ lẳng lặng gật đầu. Nhật Duật thấy vậy thì yên tâm, nhảy lên lưng Đông A Xích Thố. Con ngựa hí dài một tiếng, lấy đà nhảy qua bức tường cao cả trượng, nhằm hướng Bắc phi tới.

* * * * *

* Chú thích:

(1) Tháng một: Theo âm lịch các tháng được gọi tên là tháng một, chạp, giêng, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười. Tháng một tức là tháng thứ mười một âm theo cách gọi ngày nay.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Từ cửa Diệu Đức của Hoàng Thành đi về phía hồ râm Đàm bất chợt xuất hiện một bóng ngựa oai phong, toàn thân đỏ rực, phi rầm rập trên con đường đất đã sớm nhão nhoét vì mấy trận mưa lớn dai dẳng.

Ngồi trên lưng ngựa là một đôi nam nữ quần áo lụa là. Nam thì nét mặt tuấn tú, ánh mắt sắc bén như chớp giật. Nữ thì tuy trông qua còn non nớt nhưng đã sớm có vẻ mỹ lệ khác thường. Tuy nhiên đôi nam nữ đẹp đẽ và cả con ngựa đỏ rực đều không thể lạ lùng bằng cái thân hình thướt tha đang lướt như bay bên cạnh. Thân hình đó nhìn thoáng qua thì giống như dáng vẻ của một người đàn bà. Nhưng những lọn tóc xanh che gần kín hết khuôn mặt, cùng với kiểu di chuyển kỳ quái khi chân không hề chạm đất mà vẫn bắt kịp tốc độ kinh hồn của con chiến mã, khiến người khác dễ dàng liên tưởng tới một hồn ma bóng quế hơn.

Cũng may cơn mưa và cả màn đêm tối mù đã bao trùm lên toàn bộ thành Thăng Long, nên không mấy người chứng kiến được sự việc lạ kỳ kia, để mà hốt hoảng cũng như thêu dệt thêm một huyền thoại ma quỷ nữa về chốn kinh kỳ.

Người đàn bà đang bay chợt quay sang phía con ngựa đỏ, nói với đôi nam nữ bằng cái giọng cao sang nhưng đều đều không cảm xúc:

- Như vậy là Hồ đã ra tay rồi!

Người đàn ông đang điều khiển con ngựa, chính là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, nghe như vậy thì lo lắng hỏi lại:

- Có phải bà nói tới Hồ trong Thượng Cổ Tứ Yêu không?

Người đàn bà đang bay, tức là Liễu gật đầu đáp:

- Chính là hắn! Hồ bị phong ấn tại hồ râm Đàm còn quán Trấn Vũ ở ngay trước mặt chủ yếu để canh giữ hắn. Ngoài Bố Rồng ra thì kẻ mà Hồ hận nhất là thần Trấn Vũ. Lần này được thả ra, hắn liền nhận phần phá long mạch của Trấn Bắc Thăng Long. Hồ là một kẻ không dễ đối phó, các ngươi định thế nào?

- Thăng Long Tứ Trấn là thành trì tâm linh bảo vệ kinh đô, bằng mọi cách tôi phải ngăn ngừa việc Tứ Trấn bị phá hoại!

Liễu lắc mái tóc xanh, đáp:

- Tất cả đều được bố trí hết rồi! Vốn ta phải đối phó với Trấn Tây Linh Lang nhưng khi ta tới Trấn Tây, Linh Lang đã bỏ đi đâu mất. Trấn Nam thì là Ngư, Trấn Đông là Kê. Chỉ nội trong ngày hôm nay Tứ Trấn sẽ bị phá hủy, các ngươi không cản được đâu!

Nhật Duật không phải loại người chưa đánh đã hàng. Chàng vẫn quyết tâm đáp:

- Còn nước còn tát, trước hết phải hỗ trợ Trấn Bắc đã!

Liễu thở dài, nói:

- Các ngươi không biết mình đang đương đầu với thế lực nào đâu!

- Vậy bà mau nói cho tôi biết đi!

Khuôn mặt Liễu đột nhiên trở nên hoang mang, bà ngập ngừng một lúc rồi mới trả lời:

- Chính bản thân ta cũng không biết tường tận. Ta đang chìm trong giấc ngủ sâu ngàn năm thì bị đánh thức. Kẻ đánh thức ta…

Liễu khẽ rùng mình, sao đó mới tiếp tục:

- Bà ta rất kỳ lạ… Bà ta che dấu rất khéo léo nhưng ta vẫn mơ hồ cảm thấy thần lực của bà ta cực kỳ mạnh mẽ. Ta gặp rất ít kẻ có thần lực mạnh tới vậy. Chắc bà ta chỉ thua kẻ đã phong ấn ta khi xưa, Bố Rồng Lạc Long Quân.

Nhật Duật nghe thế thì hốt hoảng kêu lên:

- Bà nói sao? Kẻ giải phong ấn cho bà có thần lực chỉ thua mỗi Bố Rồng thôi sao?

Liễu gật đầu, đáp:

- Đúng vậy. Ngươi nghĩ mà xem, phong ấn của Bố Rồng nào có đơn giản. Vậy mà bà ta vẫn gỡ bỏ một cách dễ dàng. So với các yêu quái khác tại phương Nam thì bà ta rõ ràng hơn một bậc.

Nhật Duật càng nghe càng thấy lạnh người. “Kẻ địch có thực lực hùng mạnh tới mức dễ dàng hóa giải phong ấn của Bố Rồng. Phen này thì phương Nam nguy mất. Không biết ngay cả Tứ Bất Tử có thể ngăn chặn kẻ này hay không?”.

- Bà ta… rốt cục bà ta là thần thánh phương nào? Bà có manh mối gì không? – Nhật Duật gặng hỏi tiếp.

Liễu chỉ lẳng lặng lắc đầu, lát sau mới nói thêm kẻ giải phong ấn tự xưng là “Lam phu nhân”. Bà ta thường ở trong sứ quán quân Thát Đát, tất cả bọn quỷ được Lam phu nhân đánh thức đều phải vào trong đó nhận nhiệm vụ. Nhật Duật thấy vậy càng thêm lo lắng. Nếu kẻ giải phong ấn là người của Đại Nguyên (1) thì sự tình rất trầm trọng. Chàng quyết định phải tìm hiểu thêm thông tin từ Liễu:

- Như lời bà nói lúc trước thì có vẻ như Thượng Cổ Tứ Yêu đã được giải phong ấn hết rồi, đúng không? Và ngoài Thượng Cổ Tứ Yêu ra, còn yêu quái nào được thả ra nữa không?

Liễu suy nghĩ rồi trả lời:

- Thượng Cổ Tứ Yêu chưa được giải phong ấn hết đâu. Tuy Hồ, Kê, Ngư đều đã được giải phóng nhưng Mộc thì chỉ có ta và Hòe.

Nhật Duật ngạc nhiên hỏi lại:

- Hóa ra bà cũng là một trong Thượng Cổ Tứ Yêu?

- Cũng không hẳn vậy, Mộc trong Thượng Cổ Tứ Yêu là Ngũ Quỷ gồm có Liễu, Hòe, Si, Đa và Gạo. Thực ra chúng ta là một bọn năm con quỷ có tài phép cao cường nhưng vì lấy tên theo năm loài cây nên người đời mới gọi nhầm chúng ta thành Mộc.

Nhật Duật chợt nghĩ tới một chuyện, quyết định phải làm cho rõ ràng:

- Bà… tại sao bà lại không theo Lam phu nhân nữa? Chả phải bà ta là ân nhân của bà sao?

Liễu nghe thế thì mắt vằn tia đỏ, nổi giận đùng đùng:

- Tuy bọn ta là quỷ nhưng vẫn có niềm kiêu hãnh riêng. Cho dù Lam phu nhân đã thả ta ra nhưng ta không muốn tuân lệnh bất kỳ ai. Bà ta thậm chí còn bắt ép ta phải lập Linh Hồn Lệnh.

- Linh Hồn Lệnh ư?

- Đúng vậy, Linh Hồn Lệnh là một lời nguyền gắn chặt vào linh hồn của kẻ mang lệnh, buộc kẻ đó phải làm theo những yêu cầu của người lập lệnh. Nếu kẻ mang lệnh có ý định phản bội hoặc không nghe lời người lập lệnh, Linh Hồn Lệnh liền nổ tung, đốt cháy hoàn toàn linh hồn của kẻ mang lệnh khiến cho kẻ đó chỉ còn là cái xác rỗng.

- Vậy bà làm sao thoát được khỏi Linh Hồn Lệnh?

- Điều đó thì phải hỏi cô gái nhỏ ngồi trước mặt ngươi.

Nhật Duật nghe Liễu nói thế thì ngạc nhiên nhìn Bạc Nương. Cô gái nhỏ cười tủm tỉm, rồi kể lại toàn bộ câu chuyện. Hóa ra sau khi nàng gặp được Liễu tại phủ Chiêu Văn, trong người bà có xuất hiện một đốm đỏ kỳ lạ. Đốm đỏ đó cứ bùng lên, bắt ép Liễu phải làm theo mệnh lệnh đã được định sẵn, nếu không nó sẽ đốt cháy linh hồn. Bạc Nương mãi mới tìm được một người giống với Mây để bầu bạn, nay lại bị đốm đỏ quấy rầy thì rất bực tức. Nàng cũng không biết mình làm cách gì, chỉ nhớ là có quát lên với đốm đỏ là “đồ đáng ghét, mau biến mất đi”, rồi thì đốm đỏ biến hẳn luôn thật.

Linh Hồn Lệnh đối với Liễu, một trong những con quỷ tồn tại từ thời Thượng Cổ là thứ xiềng xích vô cùng kinh khủng. Ấy vậy mà qua lời Bạc Nương thì chỉ như đám tơ chỉ rối lên lúc thêu thùa may vá, khẽ dựt cái là đứt phừn phựt.

Chiêu Văn Vương hết nhìn vẻ mặt tuy lạnh lùng nhưng vẫn thấp thoáng nét hoảng sợ của Liễu khi nhắc tới Linh Hồn Lệnh, rồi lại chuyển ánh mắt qua Bạc Nương, chỉ thấy nàng vẫn tủm tỉm cười, không coi những chuyện ghê gớm mình vừa kể có tí kỳ lạ nào. Nhật Duật thở dài, rồi nói:

- Em làm dễ dàng vậy sao? Xem ra Phán sự Ngô Soạn nói không sai. Em rất lợi hại đó!

Liễu nghe thế liền chen vào:

- Tất nhiên rồi, Mẹ Tiên tái sinh sao có thể không lợi hại được?

- Mẹ Tiên tái sinh ư?

- Ngươi không biết sao? Xa xưa nước Văn Lang có một truyền thuyết rằng Mẹ Tiên Âu Cơ cứ vài trăm năm lại đầu thai một lần. Cô gái nhỏ của chúng ta có thể chính là vậy!

Nhật Duật gật gù đồng tình. Quả thật chỉ có thể là Mẹ Tiên tái sinh thì mới có khả năng làm được những việc kể trên. Xem ra cô em gái nuôi mà chàng vừa nhận rất có thể sẽ trở thành một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy. Tuy biết tài phép Bạc Nương lợi hại, nhưng Duật không thấy xa cách hơn tí nào, vẫn xoa đầu nàng đầy thân thiết. Bạc Nương chỉ lè lưỡi rồi cười hì hì, coi những việc to lớn mà Chiêu Văn Vương và Liễu vừa trao đổi chẳng liên quan tới mình. Thấy cô gái nhỏ tỏ vẻ vô t.ư, không ý thức được tầm quan trọng của bản thân, Duật đành quay sang Liễu dặn dò:

- Có việc gì bà nhớ để mắt đến cô ấy!

Liễu không đáp mà chỉ lẳng lặng gật đầu. Đông A Xích Thố tốc độ mau lẹ, sau khi con ngựa phi qua cửa Diệu Đức một lúc thì quán Trấn Vũ đã hiện ra trước mặt mọi người.

* * * * *

Cột sáng vẫn hiện lên rõ nét không hề có dấu hiệu suy giảm. Bầu trời tối đen như mực. Mưa ngừng rơi, gió ngừng thổi, sấm sét ngừng đánh. Tất cả là một màn đen đáng sợ. Quán Trấn Vũ đứng cô độc trên bờ hồ râm Đàm trông trơ trọi và nhỏ bé giữa mặt nước rộng lớn và màn đêm mù mịt phía sau.

Đột nhiên có tiếng nổ lớn vang lên giữa không trung. Gạch đá, cát bụi bay lên tung tóe, cùng với đó là một giọng cười đầy kỳ quái, nam không ra nam, nữ chả ra nữ:

- Ha ha ha… Lão già kia, mau lên đây. Ta với ngươi ra ngoài này đánh nhau một trận cho sảng khoái!

Phía xa trên đầu Nhật Duật hiện ra thân hình thanh tao, chính là gã Thạch Sơn đã chạm trán tại làng Mộc Miên hôm trước. Thạch Sơn vẫn mặc nguyên bộ đồ cũ nhưng quần áo rách tả tơi, mặt mũi, chân tay bám đầy bụi đất. Khóe miệng gã rướm máu chứng tỏ bị thương không nhẹ.

- Ha ha ha….

Thạch Sơn cười lên một tràng dài làm mọi người đều thấy sởn gai ốc. Điệu bộ của gã hôm nay trông cũng ẻo lả khác thường thay thế nét tiêu dao anh tuấn hôm trước:

- Nào, mau lên đi đừng để ta phải chờ!

- Yêu quái, chớ ngông cuồng!

Tiếp theo tiếng hô là một thân hình cao gầy, khắc khổ bay lên. Người vừa xuất hiện chính là Đạo Thậm, sư tổ quán Thái Thanh.

* * * * *

* Chú thích:

- (1) Đại Nguyên: Là quốc hiệu của Mông Cổ thời bấy giờ.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
- Cửu Ngũ Càn, Phi Long Tại Thiên(1)!

Con rồng khí xuất phát từ đầu gươm gỗ, gầm lên hung dữ rồi lao thẳng vào người Thạch Sơn.

- Hay lắm lão già kia, huyền thuật đạo sĩ của ngươi thật không tệ! - Thạch Sơn nói đoạn cười lên khanh khách.

Tiếng cười gã lên cao dần, cuối cùng hóa thành tiếng vút sắc nhọn như ngọn giáo đâm vào tai người khác. Cùng với tiếng cười, cả người Thạch Sơn bất chợt trở nên mờ ảo.

Con rồng như mũi tên khổng lồ bắn tới, lạ lùng thay lại xuyên qua người Thạch Sơn nhẹ nhàng giống đá chìm hồ nước. Rồng khí tấn công trúng mục tiêu mà không thấy va chạm gì thì ngơ ngác quay tròn trên không.

Thạch Sơn bất ngờ hiện ra ngay phía trên Đạo Thậm:

- Lão già, đỡ chiêu!

Hai bàn tay Thạch Sơn thò ra hóa thành đôi vuốt sắc to, nhắm đầu sư tổ Thái Thanh bổ xuống.

- Yêu quái chớ đắc thắng!

Đạo Thậm không hề hốt hoảng, khua gươm gỗ lên che đầu. Những tưởng gươm gỗ sẽ dễ dàng bị vuốt sắc bóp nát, ngờ đâu hàng loạt tiếng chan chát vang lên, gươm gỗ đã gạt được hết mấy đòn của Thạch Sơn.

- Đỡ này!

Đạo Thậm đột ngột chuyển từ thủ sang công, phóng ra mấy gươm đâm lên trên. Thạnh Sơn thân pháp cũng rất mau lẹ, nhanh chóng tránh được hết. Con rồng khí thì sau khi Đạo Thậm dùng gươm gỗ để chiến đấu đã từ từ biến mất. Thạch Sơn tránh đòn xong liền bay cách ra một quãng, nheo mắt nhìn vũ khí của sư tổ Thái Thanh, nói:

- Khá lắm, không ngờ cây gỗ mục trên tay ngươi lại là một thanh gươm báu!

Đạo Thậm nghe đối phương khen thanh gươm thì chỉ cười khẩy mà không thèm trả lời.

- Nếu ta không lầm thì thanh gươm này làm từ gỗ cây Chiên Đàn ngàn năm tuổi mới có được độ rắn chắc không gì sánh nổi như vậy! – Thạch Sơn vẫn bay lơ lửng trên không, đưa đôi vuốt sắc lên miệng vừa liếm vừa nói.

Đạo Thậm nghe thế thì đáp:

- Đây là thanh Xương Cuồng Mộc Kiếm(2) do khi xưa ta hạ cây Chiên Đàn thành tinh rồi luyện thành.

Thạch Sơn gật đầu:

- Thảo nào, đúng là thần binh. Thêm thanh gươm này thì ta có hứng thú chơi đùa với ngươi chút nữa!

Đạo Thậm cười lạnh một tiếng:

- Sau lần này ta lại có thêm đôi vuốt cáo!

Thạch Sơn cười lên khanh khách, đáp trả:

- Lão có bản lĩnh thì cứ thử xem!

Nói đoạn Thạch Sơn bay cả người lên cao. Gã càng bay càng nhanh, càng nhanh càng mờ, loáng một cái đã bay từ trái sang phải, từ Đông sang Tây, hình bóng ngập đầy trời.

- Nghìn Vạn Bóng Hình!

Thạch Sơn đã ngừng bay. Nhưng bên Đông cũng có Thạch Sơn, bên Tây cũng có Thạch Sơn, trên cũng Thạch Sơn mà dưới cũng là Thạch Sơn. Hàng trăm Thạch Sơn lơ lửng chật kín bầu trời. Cả bọn Thạch Sơn cất tiếng cười cùng lúc, giọng the thé lên cao trở thành tiếng ù ù như hàng vạn con ong khổng lồ thi nhau vỗ cánh.

- Vuốt Sắc Xé Xác! - Mấy trăm Thạch Sơn hô lớn, khí thế bạt núi ngăn sông, cùng nhau lao thẳng về phía Đạo Thậm.

- Yêu quái đã bị thương mà vẫn còn ghê gớm thật. Ta đành phải sử dụng chiêu độc với ngươi vậy! - Đạo Thậm thu gươm về trước ngực, tay trái bắt quyết, mắt nhắm nghiền, mặt đầy vẻ căng thẳng.

- Vô Vi Kiếm Pháp chiêu thứ nhất, Gió Thổi Mưa Đập!

Đạo Thậm đâm gươm ra, động tác cực kỳ chậm rãi. Nếu trăm Thạch Sơn lao tới như sấm rung chớp giật thì chiêu Đạo Thậm đâm ra lại như bà già xâu kim. Ấy vậy mà đám Thạch Sơn chưa lao đến nơi, gươm của Đạo Thậm đã đâm xong trước. Một gươm vừa xong, liền khiến gió nổi vù vù, mưa bay nước cuốn, biến thành cơn lốc khổng lồ. Mấy trăm Thạch Sơn bị cuốn vào cơn lốc, nhanh chóng bị xé nát để lại những tràng gào rú lạnh người. Cuối cùng tất cả ảo ảnh đều tan hết, chỉ còn lại một Thạch Sơn duy nhất. Thanh gươm từ từ đâm tới chạm vào Thạch Sơn cuối cùng.

- Tách Thân Chuyển Hồn! - Thạch Sơn gào lớn vừa lúc gươm chạm vào áo ngoài của gã.

Một tiếng “bụp” vang lên, máu bắn tung tóe khắp trời. Bọn Nhật Duật nhanh chóng núp sau bức tường đổ gần đấy để tránh máu bắn phải. Đạo Thậm thu gươm về, thở hồng hộc. Chiêu này của lão tuy thành công nhưng huyền lực sử dụng cho chiêu thức rất nhiều. Đạo Thậm vốn không đủ khả năng để đánh ra nhưng cứ cố gắng quá nên đã trọng thương. Thạch Sơn xuất hiện trở lại ở đằng xa, trông gã mờ nhạt xa xăm như hồn ma. Mặt gã trắng buốt, máu từ miệng chảy xuống làm ướt đẫm vạt áo trước ngực.

- Ha ha ha… - Thạch Sơn lại cất lên một tràng cười dài, trông dáng vẻ vô cùng điên loạn.

- Yêu nghiệt, tuy ngươi kịp phân thân tránh đòn nhưng bị thương không nhẹ đâu. Mau bó tay chịu trói đi! - Đạo Thậm cất tiếng quát, tuy nhiên hơi thở đã trở nên nặng nhọc chứng tỏ tình thế không khá hơn Thạch Sơn là mấy.

- Ha ha ha…

Đáp lại lời của sư tổ Thái Thanh chỉ là tràng cười dài của Thạch Sơn. Gã vẫn cười điên cuồng, cười mãi không dứt, càng cười càng rùng rợn. Cuối cùng khi Thạch Sơn ngừng cười, cả người gã đã dính bê bết máu, đôi con mắt thì rực đỏ. Trông gã như một kẻ vừa bò lên từ ao máu.

- Ngươi làm ta thật sự nổi điên rồi. Bây giờ thì đừng trách ta độc ác. Mấy kẻ đang thập thò dưới kia thật không may phải chịu chung số phận với ngươi!

Thạch Sơn nói đoạn dang rộng hai tay ra, hô lớn:

- Các ngươi cùng nhảy với ta nào! Vũ Điệu Hút Máu!

Lời hô của Thạch Sơn vừa dứt, Nhật Duật đột nhiên thấy tất cả mọi thứ đều bị xóa nhòa. Quán Trấn Vũ, Đạo Thậm, Bạc Nương, Liễu, Đông A Xích Thố và thậm chí cả Thạch Sơn, tất thảy đều biến mất trong một cái chớp mắt. Trước mặt Chiêu Văn Vương giờ đây chỉ là một màn đỏ rực.

Rồi đột nhiên có tiếng gió ở đâu vang tới nghe vi vu như tiếng hát. Đúng rồi, mà đúng là tiếng hát thật. Tiếng hát ngày một gần, một rõ. Nhật Duật không nghe ra được lời bài hát, chỉ biết tiếng hát rất mượt mà, êm đềm, giai điệu thì thanh thoát, nhẹ nhàng. Đột nhiên tiếng hát chuyển tông, mạnh mẽ hơn, sôi động hơn, Chiêu Văn Vương thấy bản thân đang tự nhảy múa theo tiếng hát. Tiếng hát lại lên cao hơn nữa, Nhật Duật thấy tim mình đập càng lúc càng nhanh. Các mạch máu trong cơ thể chàng như hòa nhịp cùng tiếng hát.

Tiếng hát trở nên dồn dập, cơ thể Nhật Duật không khống chế được bị cuốn theo tiếng hát. Chiêu Văn Vương bắt đầy nhảy, rồi chàng cứ nhảy mãi, nhảy mãi với tâm trạng cực kỳ vui tươi, sảng khoái. Nhật Duật thấy mình có thể tiếp tục nhảy không ngừng nghỉ cho đến khi kiệt sức mà chết. Tiếng hát càng lúc càng dữ dội hơn. Nhật Duật đang nhảy đến độ mê say, nhảy đến mức điên dại thì đột nhiên nghe thấy như có tiếng thì thào bên tai. Tiếng thì thào tuy rất nhỏ nhưng làm tốc độ nhảy múa của chàng chậm lại. Sau đó Duật lại mơ hồ nghe tiếng người gọi, tiếng người mỗi lúc một gần rồi trở thành tiếng quát lớn:

- BÚT PHIÊU VẼ ƯNG!

Đi kèm tiếng quát là một tiếng “QUÁC” chói tai. Màn đỏ biến mất, đêm đen đột ngột quay trở lại.

Chiêu Văn Vương ngồi phịch xuống đất, thân thể rã rời. Chàng chưa bao giờ thấy kiệt sức như vậy. Lúc ngồi xuống, Nhật Duật mới phát hiện ra máu đã thấm ướt ngực chàng từ bao giờ. Chợt có tiếng bước chân lại gần, Duật liền ngẩng đầu nhìn lên. Trước mặt chàng hiện ra khuôn mặt xinh đẹp đầy vẻ lo âu.

- Vương không sao chứ? - Vi Mai, chính là Mai đang hỏi.

Duật biết mình rất không ổn nhưng chàng vẫn lắc đầu. Vi Mai thấy thế bảo:

- Vương mau sử dụng Địa Linh Thần hồi phục lại đi, chàng vừa bị hút không ít máu đâu. Cứ để Thạch Sơn cho bọn tôi đối phó!

Nhật Duật nhìn lên bầu trời thì thấy Ngô Soạn cùng một đàn chim ưng và Liễu đang tấn công Thạch Sơn tới tấp. Thạch Sơn sử dụng đôi móng vuốt khổng lồ vừa chạy vừa đánh trả.

- Điệu múa rút cạn máu của người khác, tên Thạch Sơn này rất có thể chính là kẻ đã gây ra thảm kịch tại bến Tây Dương. May cho vương và lão đạo sĩ già là Bạc Nương kịp thời dùng huyền thuật để bảo vệ và bọn tôi đến đúng lúc, không thì đã có thêm hai cái xác khô rồi. Phán sự bảo long mạch phải được giữ vững bằng mọi giá. Vương nhanh chóng hồi phục rồi vào trong quán xem thế nào.

Nhật Duật gật đầu, nói:

- Nàng nhớ cẩn thận đấy! Tên Thạch Sơn này là Hồ, một trong Thượng Cổ Tứ Yêu!

- Hồ? Là cáo tinh ư? - Vi Mai hỏi lại giọng ngạc nhiên. - Thảo nào gã ghê gớm như vậy. Tôi biết rồi, vương mau trị thương đi!

Vi Mai nói xong liền chạy ra dưới chỗ trận chiến. Nàng tung gươm lên không biến hóa thành con rắn xanh bay thẳng lên trên hỗ trợ cho Ngô Soạn và Liễu. Về phần Nhật Duật thì chàng ngồi xếp bằng xuống đất rồi nhắm mắt tập trung, sử dụng Địa Linh Thần trị thương. Chàng vốn chỉ bị mất máu chứ nội tạng bên trong chưa tổn hại, lại thêm Địa Linh Thần gần nguồn long mạch nên khí linh cộng hưởng rất mạnh mẽ, Nhật Duật vận dụng Nghịch Chuyển Khí huy động Địa Linh Thần chạy khắp người một lượt là đã cảm thấy cơ thể khoan khoái, tràn đầy sinh lực.

Khi Chiêu Văn Vương mở mắt ra, thì thấy Bạc Nương đang ngồi ngắm chàng từ lúc nào.

- Anh khỏe lại rồi! – Cô gái nhỏ vui mừng kêu to.

Nhật Duật mỉm cười với cô, nói:

- Cảm ơn em, không có em thì ta đã thành xác khô!

Bạc Nương cười, đáp:

- Anh… anh làm em lo quá. Mặc dù em đã cố gắng bảo vệ màu trắng trong người anh nhưng tên mặt trắng kia lợi hại lắm… cứ làm màu trắng đấy nhảy nhót mãi không thôi. May mà mọi người đến kịp!

Nhật Duật cảm động đáp:

- Lần này em đã cứu ta một mạng!

Đạo Thậm đang đứng gần đấy bỗng cất tiếng:

- Chiêu Văn Vương, nếu đức ông đã khỏe rồi thì mau theo tôi vào cứu thần Trấn Vũ nhanh kẻo không kịp!

Sư tổ Thái Thanh nói đoạn xoay người chạy vào trong quán. Nhật Duật đứng dậy nắm tay Bạc Nương chạy theo lão ta.

Quán Trấn Vũ vốn được xây dựng khang trang, nhà Trần sùng bái Đạo Giáo nên khi lên ngôi lại càng gắng sức tu sửa. Quán có tường cao bao quanh, trong sân lát đá, giữa sân có một chiếc lư khổng lồ hương khói quanh năm. Hai bên sân quán có hàng cây to tỏa bóng mát che toàn bộ công trình. Tuy nhiên khi ba người bọn Nhật Duật chạy vào bên trong thì chỉ thấy tường rơi, ngói đổ, lư hương nứt vỡ, cây cối bật gốc, nào còn vẻ tĩnh lặng, uy nghiêm như mọi khi. Bọn họ nhanh chóng băng qua khoảng sân ngổn ngang đất đá, qua điện chính vào đến hậu điện.

Đằng sau hậu điện lại có một khoảng sân lớn, cột sáng xuất phát từ nơi này. Án trước cột sáng là bức tượng khổng lồ bằng đồng đen, xung quanh bức tượng tỏa ra các luồng sáng xanh lam bảo vệ. Ngay trước mặt bức tượng có một tấm gương bát quái(3) đang bay lơ lửng, phát ra ánh sáng chói mắt liên tục tấn công luồng sáng xanh lam trên tượng đồng.

Ngoài tấm gương bát quái ra thì vây xung quanh tượng đồng còn có một lũ quỷ đông đảo đứng chật cả sân. Bọn quỷ mắt xanh, nanh đỏ, mình mặc áo giáp, tay xách theo gươm hoặc giáo. Đứng đầu lũ quỷ là một quỷ tướng. Quỷ tướng thân hình cao lớn, mặt bẹt, nanh sắc, đang chỉ huy bọn binh lính không ngừng vung gươm, giáo lên bổ xuống tượng đồng để hỗ trợ cho tấm gương bát quái.

Đạo Thậm trông thấy cảnh đấy thì không mất thời gian chào hỏi nhiều, dù vừa bị nội thương không nhẹ nhưng lão vẫn vung gươm Xương Cuồng tấn công lũ quỷ tới tấp. Nhật Duật đứng chắn phía trước Bạc Nương, sử dụng Địa Lôi Phục chưởng pháp đánh từ Đông sang Tây. Lũ quỷ bị tấn công bất ngờ thì ngay lập tức nhốn nháo.

* * * * *

* Chú thích:

- (1) Cửu Ngũ Càn: là hào thứ năm trong quẻ Thuần Càn của Kinh Dịch. Quẻ này đầy đủ là “Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân” có nghĩa rồng bay trên trời, ra mắt đại nhân thì lợi.

- (2) Xương Cuồng Mộc Kiếm: Tức là thanh gươm gỗ có tên Xương Cuồng. Trong Lĩnh Nam Chích Quái có ghi chép sự tích về thần Xương Cuồng do một cây Chiên Đàn thành tinh hóa thành.

- (3) Gương bát quái: là tấm gương có vẽ hình bát quái dùng để hàng yêu phục ma. Trước cửa các nhà thường đều có treo gương này để ngăn ngừa ma quỷ.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Quỷ tướng thấy mấy kẻ lạ tự dưng ở đâu ra phá đám việc của hắn thì rất tức giận, gầm lên “ồ ồ” mấy tiếng, đoạn nhấc thanh đao lớn hàng trăm cân bổ xuống đầu Đạo Thậm. Thậm bình thường phép thuật cao siêu, thanh đao lớn và quỷ tướng lão vốn không để vào mắt. Nhưng lần này sau trận kịch chiến với Thạch Sơn, lão đã bị thương nặng. Đạo Thậm không dám đón đỡ trực diện thanh đao, lão chật vật né đòn rồi vung gươm Xương Cuồng lên tấn công vào các điểm yếu trên người quỷ tướng.

- Sư tổ, xin tránh ra!

Nghe Nhật Duật hét to, Đạo Thậm không chút chần chừ lập tức nhảy sang một bên.

- Đôn Phục Lôi Kích!

Một tiếng nổ lớn vang lên, sấm sét xuất hiện chói lòa khoảng sân. Quỷ tướng trúng tia sét vào người bay ra xa vài trượng đập đầu vào gốc cây chết tốt. Thanh đao trong tay y rơi loảng xoảng xuống nền đá lạnh. Bọn quỷ binh thấy tên tướng bị hạ gục một cách dễ dàng thì trở nên náo loạn. Đạo Thậm khua gươm giết thêm mấy tên nữa, chúng vội vàng bỏ chạy trối chết.

Sau khi lũ quỹ bị đuổi đi hết, Đạo Thậm hạ gươm xuống thở hồng hộc. Bên cạnh lão, Nhật Duật cũng chẳng khá hơn. Chàng tuy đã hồi phục sức lực nhưng mất máu quá nhiều, lại cố gắng dùng chiêu Đôn Phục Lôi Kích, sử dụng lượng lớn sấm sét nên trong cơ thể các luồng khí trở thành hỗn loạn. Duật nhổ ra một ngụm máu mới thấy đỡ hơn.

- Anh không sao chứ? - Bạc Nương níu tay chàng hỏi.

Chiêu Văn Vương trông thấy thái độ quan tâm của cô thì cảm thấy ấm áp. Chàng lắc đầu, đáp:

- Ta không sao, chuyện nhỏ thôi!

Đoạn chàng quay sang Đạo Thậm hỏi:

- Thưa sư tổ, thần Trấn Vũ hóa ra là bức tượng này sao?

Đạo Thậm gật đầu, đáp:

- Thần Trấn Vũ vốn là phân thân của thần Huyền Vũ(1) nhập vào tượng đồng đen để trấn giữ long mạch phía Bắc cho thành Thăng Long. Thần Trấn Vũ cũng có nhiệm vụ canh gác Hồ bị phong ấn dưới hồ râm Đàm nữa.

Nhật Duật chỉ vào tấm gương bát quái đang chiếu những tia sáng lên bức tượng đồng, hỏi tiếp:

- Sư tổ, tấm gương kia đang làm gì vậy?

Đạo Thậm cau mày, đáp:

- Tôi cũng không rõ. Khi tôi vừa đến đã thấy tấm gương rồi. Có thể nó là một loại dụng cụ phong ấn dùng để làm suy giảm sức mạnh của thần Trấn Vũ, như vậy Hồ mới có thể dễ dàng đánh bại vị thần này được.

- Vậy chúng ta cứ phá vỡ tấm gương là thần Trấn Vũ sẽ phục hồi được ư?

Đạo Thậm gật đầu:

- Tôi cũng không có biện pháp nào khả dĩ hơn, cứ đập tan tấm gương rồi sẽ biết!

Đúng khi mọi người đang định ra tay, thì từ phía cổng chính của quán chợt truyền tới một giọng lạnh lẽo:

- Các ngươi đừng manh động!

Giọng nói vừa cất lên làm không khí như đặc quánh lại, cái buốt giá ở đâu tràn tới bao phủ toàn bộ đạo quán. Nhật Duật cảm giác từng mạch máu như bị đông cứng, ngay cả hơi thở cũng thấy nặng nhọc. Phía sau lưng Đạo Thậm, một người phụ nữ mặc áo choàng đen, mang mạng bịt kín mặt đứng lặng lẽ từ lúc nào. Đạo Thậm quay người lại nhìn thấy người phụ nữ thì nặng nề hỏi:

- Ngươi là ai?

Tấm mạng đen khẽ lay động, vẫn giọng lạnh lẽo lúc nãy trả lời:

- Lam phu nhân!

Đạo Thậm thở ra một hơi, nói:

- Ngươi đứng đằng sau tất cả chuyện này. Đúng không?

Người phụ nữ bình thản trả lời:

- Kẻ sắp chết không cần nhiều chuyện!

Đạo Thậm nghe thế thì giơ thanh Xương Cuồng chắn ngang trước ngực, quát lớn:

- Ông đây trừ yêu diệt quái cả trăm năm nay. Số lượng yêu quái bị ta diệt không một nghìn thì cũng chín trăm. Dù ngươi có yêu lực cao cường thế nào, ta cũng không coi vào đâu!

Lam phu nhân nghe thế thì lạnh nhạt trả lời:

- Đáng tiếc cho ngươi, ta không phải yêu mà cũng chẳng phải quái!

Đạo Thậm tay bắt quyết, gươm chỉ thẳng người Lam phu nhân:

- Ngươi dù là thần thánh phương nào ta cũng không cần quan tâm. Chỉ cần đến phương Nam làm loạn thì phải bước qua xác Đạo Thậm này.

- Chuyện đấy dễ thôi! - Lam phu nhân nói dứt lời liền phẩy tay.

Chỉ thấy nhoáng lên một cái, cả người Đạo Thậm bay về sau ghim chặt lên bức tường gạch của quán Trấn Vũ. Sư tổ quán Thái Thanh mắt trợn trừng, người xanh ngoét, chết cứng tại trận. Nhật Duật nhìn trân trối một lúc mới nhận ra Đạo Thậm đã bị giết. Chàng căm phẫn hét lớn:

- Sư tổ!

Nhật Duật vừa hét vừa điên cuồng sử dụng Địa Lôi Phục Chưởng Pháp tấn công. Lam phu nhân thấy vậy thì cười nhẹ, nói:

- Lại thêm một kẻ ngu ngốc nữa. Xem ra hôm nay ta phải đại khai sát giới(2) rồi! Bão Tuyết Nổi Giận!

Toàn bộ không gian đột nhiên như hóa đá. Nhật Duật thấy thân thể cử động vô cùng khó nhọc, Địa Linh Thần vẫn chảy cuồn cuộn trong kinh mạch nhưng chàng không nhấc tay giơ chân ra chiêu được. Dường như các cơ, các khớp trên thân thể chàng đều đã bị đông cứng hết. Bên cạnh Nhật Duật, Bạc Nương hơi thở nặng nề, mặt mày tái mét.

Gió lạnh thổi ào ào như tiếng gầm rú của một con ác thú. Trên trời tự nhiên xuất hiện hàng vạn đốm trắng rơi lả tả xuống dưới. Nhật Duật tuy chưa từng đi sứ lên phương Bắc, nhưng đã được nghe mấy tên hàng binh nhà Tống kể nhiều, hàng vạn đốm trắng xuất hiện trên bầu trời như thế này chỉ có thể là tuyết. Mà đúng là tuyết thật. Tuyết xuất hiện giữa kinh thành Thăng Long, trên vùng đất phương Nam chưa bao giờ bị băng giá. Gió thổi càng lúc càng mạnh hơn, tuyết rơi dồn dập như mưa rào đầu hạ. Nhật Duật biết là tuyết rất lạnh, nhưng những bông tuyết đang rơi đây chắc chắn phải lạnh hơn nhiều so với tuyết thường. Cứ mỗi đốm tuyết chạm vào người là một lần chàng cảm thấy rét run.

Chỉ nghe “huỵch” một tiếng, Bạc Nương đã ngã xuống sân. Nhật Duật lấy hết sức bình sinh cử động cơ thể, ngồi xuống ôm nàng vào lòng. Trong vòng tay chàng, thân thể Bạc Nương lạnh toát.

- Không, em gái. Cố lên nào!

Nhật Duật ôm chặt lấy Bạc Nương, vận Nghịch Chuyển Khí lên mức tối đa. Địa Linh Thần trong người chàng bắt đầu phát huy công dụng, chạy suốt kỳ kinh bát mạch(3). Nhật Duật đặt tay lên huyệt Phế Du(4) của nàng truyền Địa Linh Thần sang. Bạc Nương rên lên một tiếng, người ấm dần lên.

Mưa tuyết trên đầu hai người đã trở thành cơn bão lớn. Nhật Duật ôm Bạc Nương chặt hơn, liên tục truyền huyền lực sang người nàng. Bão càng lúc càng to, Nhật Duật thấy Địa Linh Thần dần cạn kiệt, không biết hai người có thể cầm cự được đến bao giờ.

Đột nhiên từ huyệt Phế Du của Bạc Nương truyền về một nguồn sinh lực tươi mát. Luồng sinh lực đấy nhập vào trong cơ thể của Nhật Duật, cộng hưởng với Địa Linh Thần làm thần khí này đang sắp cạn kiệt lại tự động sản sinh ra.

Bão tuyết vẫn dầy xéo ngày một hung bạo trên đầu hai kẻ khốn khổ.

* * * * *

Kẻ mới bước vào mặc bộ trang phục màu xanh lục từ đầu đến chân, cả khăn buộc tóc lẫn đôi giầy của gã cũng màu xanh lục. Nếu gã cao thêm một chút thì trông lêu khêu như cây tre xanh vậy. Mà nhắc đến tre xanh, trên tay phải của gã cũng đang xoay tròn một cây sáo tre. Khuôn mặt kẻ mới đến không có gì nổi bật trừ đôi mắt. Đôi mắt gã linh hoạt, trông vừa thông minh, vừa láu cá.

Kẻ áo lục nheo mắt nhìn chằm chằm vào hai thanh niên đang bị vùi dập trong cơn bão tuyết. Lam phu nhân không quay lại, cất giọng lạnh lùng hỏi gã:

- Hòe, công việc các nơi thế nào rồi?

- Thưa phu nhân, Tam Trấn còn lại đã xử lý xong. Trấn Tây vốn Linh Lang bỏ đi từ trước nên thu xếp rất nhanh. Trấn Đông giao cho Kê mọi thứ rất tốt, Long Đỗ đã bị hút linh hồn. Trấn Nam rốt cục thì tên ngốc Ngư suýt làm hỏng việc, may mà tôi đến kịp. Tuy nhiên hiện giờ có sự tình phát sinh, Hắc Hổ bị Không Tăng đánh trọng thương. Hộp Rồng cũng bị lão sư già cướp mất.

Lam phu nhân nghe xong không nói gì tuy nhiên Hòe cảm thấy nhiệt độ xung quanh giảm xuống một cách rõ rệt.

- Thu Hồn Nhập Liễn! - Lam phu nhân lạnh lùng cất tiếng.

Tấm gương bát quái xoay vòng trên không, chiếu ra những tia sáng chói mắt nhằm thẳng vào người bức tượng đồng đen đang chìm giữa cơn bão tuyết. Vòng sáng xanh bao phủ xung quanh tượng đồng bị tia sáng từ gương đánh cho tắt lụi. Đúng khi vòng sáng xanh biến mất, một tiếng rồng gào chợt cất lên thảm thiết. Cột sáng sau lưng tượng đồng chuyển dần sang màu đỏ. Lát sau tiếng rồng nhỏ dần rồi tắt hẳn, cột sáng cũng hoàn toàn biến mất. Từ trong người tượng đồng bay ra một quả cầu ánh sáng. Quả cầu vừa xuất hiện liền bị hút luôn vào trong gương bát quái. Lam phu nhân phẩy tay áo, thu gương lại. Hòe thấy thế thì cười khành khạch, nói:

- Như vậy Thăng Long Tứ Trấn giờ đã bị phong ấn hoàn toàn. Việc Không Tăng, người định thế nào?

Lam phu nhân không đáp mà hỏi lại Hòe:

- Hồ đâu rồi?

Hòe nhún vai, trả lời:

- Hồ trọng thương lại lên cơn điên, đã chạy đi mất dạng!

Lam phu nhân nghe thế thì cau mày, nói:

- Đi cũng tốt, kẻ nửa điên nửa tỉnh vốn không thể dùng được. Ngươi cùng Ngư về sứ quán canh gác, rồi bảo Kê mau chóng lên đường đến phủ Cao Sơn. Ta đi trước!

Lam phu nhân nói đoạn ném tấm gương bát quái về phía Hòe. Gã áo lục chụp lấy tấm gương rồi hỏi lại:

- Sao lại đến phủ Cao Sơn, Không Tăng chạy về đấy ư?

Lam phu nhân tức giận rít lên:

- Tên Không Tăng khốn kiếp dám lừa ta. Hắn giả vờ đồng ý với đề nghị của ta giúp phục hưng nhà Lý, để đổi lấy việc bỏ mặc các long mạch tại Tứ Trấn Thăng Long. Ai ngờ nhân lúc chúng ta bận rộn việc phong ấn, hắn lại đánh lén sứ quán cướp lấy Hộp Rồng. Có điều hắn đánh giá ta hơi thấp, hắn mưu tính những gì ta đều biết rõ. Lần này ta phải đích thân đi bắt hắn để trị tội.

Lam phu nhân nói xong cũng không thấy di chuyển gì, thân hình đột nhiên biến mất rồi hiện ra ở cửa trước hậu điện. Lại thấy nhoáng lên một cái, bà ta đã hoàn toàn đi khuất. Hòe đút gương bát quái vào người, nhìn hai kẻ tội nghiệp đang bị cơn bão tuyết giày xéo giữa sân rồi phất tay. Một luồng sáng màu lục từ phía gã phóng ra bao bọc lấy thân thể hai kẻ thanh niên.

- Ta đi làm cho xong việc đã, sống sót hay không đành hy vọng vào cơ duyên và huyền lực bản thân các ngươi thôi!

Nói dứt lời bóng lục chớp lên, Hòe nhảy qua bờ tường mất dạng.

* * * * *

* Chú thích:

- (1) Huyền Vũ: là một trong Tứ Tượng và là vị thần phương Bắc của Đạo Giáo. Tượng trưng của ông là hình ảnh rùa cõng rắn. (Các vị thần trấn giữ bốn phương của Đạo giáo bao gồm Thanh Long phương Đông, Bạch Hổ phương Tây, Huyền Vũ phương Bắc và Chu Tước phương Nam). Hiện nay tại đền Quán Thánh đầu đường Thanh Niên, Hà Nội vẫn còn bức tượng đồng đen của thần Trấn Vũ.

- (2) Đại khai sát giới: có nghĩa là chém giết thẳng tay.

- (3) Kỳ kinh bát mạch: là tám đường lớn chứa chân khí trong cơ thể con người bao gồm các mạch là Xung, Đới, Đốc, Nhâm, Âm Kiêu, Dương Kiêu, Âm Duy và Dương Duy.

- (4) Huyệt Phế Du: là huyệt quan trọng nằm sau lưng, tác động đến tim, phổi của con người.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Nhật Duật lúc đầu còn thấy lạnh, sau mất dần cảm giác. Toàn thân chàng tê dại, không những xác thịt mà cả trí óc. Địa Linh Thần vẫn tuôn chảy ầm ầm trong kỳ kinh bát mạch, nhưng cơ thể của Nhật Duật dường như đã hóa thành đá. Chàng dần chìm vào cơn hôn mê.

Chiêu Văn Vương cảm thấy thân thể mình đang trôi bồng bềnh như tảng bèo trên sông nước. Xung quanh chàng tràn ngập một màn trắng xóa. Người Nhật Duật cứ trôi đi, trôi mãi giống cành cây khô bị cơn nước lũ cuốn ra nơi cửa bể. Rồi đột nhiên, chàng cảm thấy rét run cầm cập. Duật liền nhướng mắt nhìn lên, thì thấy trước mặt hiện ra một ngọn núi màu trắng đục. Từ ngọn núi hơi lạnh tỏa ra thấu xương. Hơi lạnh đó không dồn dập, ồn ã như gió bấc mùa đông, mà len lỏi vào người một cách nhẹ nhàng, êm ái. Chỉ khi đã vào bên trong rồi nó mới phát tác, thổi bùng lên từng đợt giá buốt làm tê tái từng thớ da, thớ thịt.

Chiêu Văn Vương vẫn tiếp tục trôi lững lờ lại chỗ núi trắng. Trôi mãi, trôi mãi mà ngọn núi trắng không gần hơn bao nhiêu. Cơ thể chàng miệt mài nhằm hướng ngọn núi mà đến. Núi trắng to dần, ban đầu chỉ bé như cái bát úp, rồi thì bằng cái lồng bàn, mãi một lúc sau mới to bằng cối đá xay gạo. Nhật Duật trôi thêm một hồi lâu nữa, cuối cùng cũng tiến lại gần ngọn núi hơn.

Tuy nhiên khi đến gần, núi trắng lại biến thành núi đỏ. Từ miệng núi đỏ phun ra hàng loạt những ngụm lửa rực rỡ, nóng bỏng. Núi lửa phun càng lúc càng mạnh, những ngụm lửa tràn ngập khắp nơi. Có vài ngụm lửa lan đến gần chỗ Duật làm chàng cảm thấy người ấm hơn. Cơ thể chàng cũng không trôi đi nữa mà dừng lại ở chỗ ngay dưới chân núi lửa.

Cả người đang tê dại vì lạnh và rét nay được núi lửa sưởi ấm làm Nhật Duật thấy thoải mái hơn nhiều. Đột nhiên, chàng lại ngửi thấy mùi khét kèm theo tiếng ù ù như tiếng gió thổi lùa vào trong khe núi. Tiếng gió vừa ngớt, lại như có tiếng người nói lao xao vang lên. Rồi tòa núi lửa và cả không gian đỏ rực đột ngột biến mất chỉ để lại một màn đen kịt.

Chiêu Văn Vương chợt nhận ra mình vừa tỉnh dậy từ cơn mê. Chàng vội vàng thử mở mắt nhưng chỉ thấy đau rát nơi phía trên gò má. Nhật Duật thấy thế liền cựa mình, nhưng thân thể cứng đờ như khúc gỗ, không thể cử động được dù chỉ là một ngón tay.

Đúng khi đó, Nhật Duật lại nghe tiếng gõ cồm cộp. Tiếng gõ vừa dừng thì tiếng gió lùa lại nổi lên. Lần này chàng cảm thấy bỏng rát trước ngực, mùi khét do tóc và lông mày cháy xộc thẳng vào mũi. Nhật Duật hắt hơi một tiếng, thấy cơ thể mềm đi đôi chút. Chàng lại thử mở mắt và lần này đã thành công.

Một thân hình đỏ rực chồm tới trước, kèm theo đó là tràng hí vang ầm ĩ. Đông A Xích Thố thấy chủ nhân tỉnh dậy thì chồm lên ra chiều phấn khích, làm cho gã lập dị lạ hoắc lạ huơ diện bộ đồ xanh lục từ đầu đến chân đứng bên cạnh phải nắm bờm hãm lại.

Chiêu Văn Vương cố nhấc chân, nhấc tay nhưng không nổi. Chàng đưa mắt nhìn xuống mới nhận ra thân thể mình đang bị giam trong một khối đá mỏng trong suốt.

- Từ từ thôi, đừng cử động mạnh vội! Ngươi trước hết hãy vận huyền lực đả thông kinh mạch, rồi sau đó mới dùng nội lực để làm tan băng từ bên trong! – Gã mặc đồ màu lục cất tiếng. Liễu đứng bên cạnh gã ta nở ra nụ cười gượng gạo an ủi chàng

- Bạc Nương… Bạc Nương đâu rồi? – Nhật Duật cố hết sức mở miệng hỏi Liễu. Chàng nghe giọng mình thều thào và khàn đặc như người vừa trải qua cơn ho lao dữ dội.

Liễu nghe chàng nói thế thì đáp:

- Mẹ Tiên Bé không sao! Nàng chỉ bị kiệt sức nên ngất đi thôi, bọn ta đã cho nàng nghỉ ngơi rồi. Ngươi mau tập trung lo hồi phục đi!

- Mẹ Tiên Bé ư?

Liễu gật đầu:

- Đúng vậy, Bạc Nương là Mẹ Tiên tái sinh. Vì thế chúng ta quyết định gọi nàng là Mẹ Tiên Bé!

Liễu vừa nói dứt câu, gã áo lục đã quay qua Đông A Xích Thố hất hàm bảo:

- Ngựa Hồng Mao, tiếp tục đi!

Đông A Xích Thố nhảy chồm lên, từ miệng nó phả ra dòng lửa đỏ rực bắn thẳng vào người Nhật Duật. Một lúc sau, Duật cảm nhận được khối đá trong suốt bọc xung quanh cơ thể tan đi gần hết. Khi trên người Chiêu Văn Vương chỉ còn lại lớp đá mỏng, gã áo lục vỗ lên người con ngựa, bảo:

- Như thế được rồi!

Đông A Xích Thô liền ngừng phun lửa, gã áo lục cầm cây sáo tre đâm liên hồi lên người Nhật Duật. Lớp đá mỏng còn lại văng tung tóe, cả người Duật ngã nhào ra phía trước, thoát khỏi khối đá. Gã áo lục vội vàng giơ tay đỡ rồi đặt chàng ngồi xuống.

- Tốt lắm!

Gã ta gật gù đoạn đưa cho chàng một viên thuốc màu nâu, nói:

- Ngươi uống thuốc này đi rồi dùng huyền lực phân tán khắp cơ thể. May mà ngươi được Dưỡng của Mẹ Tiên Bé bảo vệ, lại thêm huyền lực bản thân không tệ nên không bị ảnh hưởng nhiều. Luyện công một chút là sẽ phục hồi lại thôi. Ta đi xem người khác đây!

Gã áo lục nói xong quay qua Đông A Xích Thố, bảo:

- Ngựa Hồng Mao, chủ ngươi không sao rồi! Mau cùng ta đi cứu người tiếp nào!

Con ngựa hí dài một tiếng rồi đưa đôi mắt to tròn nhìn Nhật Duật. Gã áo lục thấy thế thì cười:

- Ngươi mau bảo ngựa Hồng Mao theo ta đi cứu mọi người. Thái Dương Hỏa(1) của ngựa Hồng Mao có thể làm tan Nguyên Thủy Băng của Lam phu nhân. Ngươi quả thật đã có được một con ngựa tốt!

Nhật Duật hơi ngập ngừng nhưng rồi cũng khẽ gật đầu với Đông A Xích Thố. Con ngựa cọ bờm vào người chàng rồi quay đầu đi theo gã áo lục. Liễu nhìn sang Nhật Duật, giục:

- Ngươi mau hồi phục huyền lực đi! Có nhiều việc phải làm lắm!

- Gã vừa rồi là ai vậy? Trước khi bị giam trong khối đá, tôi thấy gã đấy trò chuyện với Lam phu nhân. – Nhật Duật quyết định hỏi cho rõ mọi chuyện.

Liễu nghe thế thì đáp:

- Hắn là Hòe! Hắn cùng với ta là hai kẻ trong Ngũ Quỷ đã được Lam phu nhân giải phong ấn!

Nhật Duật cau mày, hỏi lại:

- Hắn có tin được không?

Liễu đáp trả ngắn gọn:

- Ngươi có tin ta không?

Nhật Duật lắc đầu, nói:

- Tôi không biết! Bà đang cùng với Vi Mai và Ngô Soạn đánh nhau với Hồ, nhưng tại sao lại không bị Lam phu nhân tấn công?

- Trước khi Lam phu nhân đến, Hòe đã bảo ta lánh đi. Ngũ Quỷ chúng ta tâm ý tương thông nên nếu khoảng cách không quá xa thì việc liên lạc là rất đơn giản và kín đáo.

Nhật Duật thở dài rồi lặng lẽ gật đầu, đôi khi sự tin tưởng lại hoàn toàn dựa trên cảm xúc. Liễu thấy chàng vẫn còn lấn cấn, liền nói thêm:

- Ngươi có biết trước khi Bố Rồng phong ấn Ngũ Quỷ đã nói với chúng ta những gì không?

Nhật Duật lắc đầu:

- Làm sao mà tôi biết được!

- Bố Rồng bảo rằng cho chúng ta thêm một cơ hội. Nếu sau này chúng ta may mắn được giải phong ấn và gặp được Mẹ Tiên tái sinh, thì vẫn có thể thoát ra khỏi cảnh trầm luân trong kiếp quỷ.

Chiêu Văn Vương khuôn mặt giãn ra hơn một chút, xem ra mọi thứ đều có nguyên nhân của nó. Liễu lại cất tiếng khuyên chàng nên tập trung vào hồi phục sức lực, trước khi suy nghĩ về những việc khác. Bà ta nói dứt lời liền quay đi, bay tới chỗ gã áo lục và con ngựa đỏ.

* * * * *

Khi Nhật Duật mở mắt, trời đã sáng. Toàn thân chàng đầm đìa mồ hôi nhưng tinh thần lại thấy vô cùng sảng khoái. Địa Linh Thần nói ra cũng thật kỳ diệu, càng vận dụng nhiều càng sản sinh dồi dào khiến cơ thể tràn trề sức lực. Nhật Duật đứng dậy, thấy cả người nhẹ nhõm. Thính giác và thị giác của chàng chợt trở nên nhạy bén lạ thường.

- Hòe ơi! Vi Mai và Phán sự Ngô Soạn có sao không? – Nhật Duật không cần quay đầu về sau, tự tin hỏi.

Hòe ngạc nhiên. Trước giờ gã vẫn tự phụ khinh công của mình cao siêu, đến đến đi đi như cơn gió đùa cành tre. Ngoại trừ Lam phu nhân thì việc người khác nhận ra Hòe tới gần là điều rất hiếm. Ấy vậy mà tên người phàm có một ít thần lực lại có thể phát hiện. Hòe cũng bình tĩnh rất nhanh, thản nhiên trả lời:

- Không có gì đáng ngại! Cả hai vốn đều bị Lam phu nhân đóng băng cơ thể, bình thường thì rất khó chữa trị. Nhưng chúng ta có Mẹ Tiên Bé thì lại là chuyện khác. Nàng đã chữa xong cho Vi Mai rồi, hiện giờ đang phục hồi cho Ngô Soạn.

Nhật Duật nghe vậy thì gật đầu, đáp:

- Tôi cũng khỏe rồi. Chúng ta cùng ra xem phán sự thế nào.

Hòe không nói gì, quay lưng bước đi. Chiêu Văn Vương đứng dậy lặng lẽ theo sau gã.

Mặt trời hiện lên rạng rỡ bên bờ hồ râm Đàm. Ánh nắng chiếu xuống mặt nước biến thành một đám màu sắc sặc sỡ như váy áo lũ đàn bà khi đi trẩy hội. Tiết trời trong lành, mát mẻ, trên cành cây còn vang tới đôi ba tiếng chim hót vô t.ư như không hề hay biết nơi đây đêm qua vừa xảy ra một tràng chiến đấu ác liệt. Nhật Duật nhìn xuống hồ, thấy nước đã rút đi nhiều làm lộ ra con đường đất nhỏ chia hồ râm Đàm thành hai phần. Trên con đường đất có rất nhiều cá tôm vương vãi như bằng chứng cho việc nơi đây vốn là một bộ phận của hồ nước trước kia.

Trên bờ hồ, Liễu đang truyền huyền lực cho Vi Mai. Người Mai tái đi vì lạnh nhưng sắc mặt đã có chút hồng hào. Nhật Duật thở phào nhẹ nhõm, tính mạng nàng như vậy là không còn bị đe dọa.

Cách đó một quãng không xa, Bạc Nương đang nhìn chằm chằm vào một khối nước đá to gấp đôi người nàng. Nhật Duật và Hòe tiến lại gần chỗ Bạc Nương. Khi tới nơi, Chiêu Văn Vương mới nhận ra trong khối nước đá có một người mắt mũi trợn trừng, râu tóc dựng ngược, không phải ai khác chính là Ngô Soạn. Bạc Nương dán chặt mắt vào vị phán sự núi Tản, sắc mặt rất căng thẳng.

- Phán sự cũng bị hóa thành đá ư? Liệu Bạc Nương có thể cứu được ông không? – Nhật Duật quay sang Hòe lo âu hỏi.

Đệ Nhị Quỷ gật đầu, đáp:

- Ngô Soạn đã bị trúng chiêu “Tâm Hồn Cô Độc” của Lam phu nhân, khiến toàn thân hóa đá. Chiêu này không đánh vào thân thể mà tấn công trực tiếp tới linh hồn. Do vậy linh hồn càng mạnh mẽ thì càng bị hóa đá nặng nề. Ngay cả Thái Dương hỏa của ngựa Hồng Mao cũng không hóa giải được. Nhưng may mà chúng ta vẫn còn có Mẹ Tiên Bé, Dưỡng của nàng ta hoàn toàn đủ khả năng phục hồi cho Ngô Soạn!

Nhật Duật nghe thế thì thở phào một hơi. Rồi chợt nhớ ra một chuyện, chàng vội vã hỏi Hòe tiếp:

- Thế còn sư tổ Đạo Thậm ra sao? Ông ấy bị Lam phu nhân dùng phép thuật ghim cứng thân mình ở trong quán, không biết sống chết thế nào?

Hòe nghe nhắc đến Đạo Thậm thì cười khinh bỉ, đáp:

- Lão già đó còn chưa chết. Tuy đòn của Lam phu nhân là chí mạng, nhưng chỉ làm cho lão trọng thương. Đạo Thậm lúc nào cũng ngậm trong mồm một viên Cải Tử Hoàn Sinh, ngoài ra còn tu thêm một môn công phu đặc biệt gọi là Trá Tử Công(2). Trường hợp lão bị thương quá nặng mà bất tỉnh, thì môn công phu này tự phát huy tác dụng, làm giả cái chết, khiến kẻ địch tưởng lão đã mất mạng mà bỏ qua. Sau một thời gian, viên Cải Tử Hoàn Sinh trôi từ mồm lão vào bụng phát huy tác dụng, thương thế hồi phục thì lão có thể tự tỉnh lại, bỏ đi nơi khác dưỡng sức.

Nhật Duật thấy lòng nhẹ nhõm hẳn đi:

- Vậy là sư tổ không sao?

Hòe cười khành khạch, đáp:

- Lão vẫn bị thương nặng, có điều đã kịp khôi phục lại một phần sức lực rồi đi trước.

Hòe vừa nói dứt lời thì đột nhiên cả người Bạc Nương phát ra ánh sáng chói lòa. Ánh sáng đó lan tới, phủ trùm lên tảng đá chứa Ngô Soạn bên trong. Ánh sáng càng lúc càng chói hơn, Nhật Duật lẫn Hòe đều phải nheo mắt lại một lúc. Sau đó ánh sáng dịu dần đi, đến khi Duật mở mắt ra thì thấy tảng đá đã biến mất, chỉ còn lại Ngô Soạn ướt như chuột lột. Ngô Soạn ho rũ rượi một tràng, mãi sau mới cất tiếng được, giọng khản đặc:

- Khục… Bạc Nương… cảm ơn cô….Khục…Ngô Soạn ta… nợ cô một mạng.

Bạc Nương cười cười, nói:

- Lão già… à ngươi đừng bận tâm làm gì, có gì…

Chưa nói dứt câu Bạc Nương đã ngã xuống, Ngô Soạn thấy vậy vội vàng đưa tay ra đỡ lấy nàng. Nhật Duật và Hòe liền hốt hoảng chạy lại. Hòe xem mạch cho Bạc Nương, đoạn nói:

- Mẹ Tiên Bé chỉ vì gắng sức quá độ nên tạm thời bị ngất thôi. Nghỉ ngơi một lát sẽ khỏi, không sao đâu!

Nhật Duật gật đầu. Ngô Soạn thì thở phào, nói:

- Nếu cần truyền huyền lực hay hỗ trợ, ngươi cứ bảo. Vì sức khỏe của Bạc Nương ta sẽ không tiếc gì.

Liễu từ phía sau chen vào, gạt hết mấy người bọn họ ra, quát:

- Bọn đàn ông thối tha các ngươi tránh hết đi! Để Mẹ Tiên Bé đấy ta chăm sóc!

Nói đoạn bà ta giật Bạc Nương từ tay Ngô Soạn rồi bế cô gái nhỏ lên tay âu yếm như mẹ bồng con. Nhật Duật thấy Liễu chăm sóc cho Bạc Nương thì cũng yên tâm phần nào. Sau khi Liễu bế Bạc Nương đi rồi, Hòe liền gọi Nhật Duật và Ngô Soạn tới để bàn bạc:

- Chúng ta cần một chỗ kín đáo để phục hồi công lực, sau đó bàn tính kế cướp lại linh hồn của các vị thần Tứ Trấn Thăng Long bị phong ấn vào các tấm gương bát quái. Xem nào, tôi đã có linh hồn của Trấn Bắc đây rồi. Trấn Tây Linh Lang bỏ đi nơi nào không biết, giờ còn Trấn Nam và Trấn Đông nữa thôi.

Nhật Duật nghe thế thì ngạc nhiên hỏi lại:

- Chỉ cần cướp lại linh hồn của các vị thần đó là có thể hồi phục được long mạch sao?

Hòe lắc đầu, đáp:

- Long mạch là khí thiêng tích tụ của đất trời hàng nghìn năm nên khi bị phá hoại không thể hồi phục ngay được. Chúng ta cướp lại linh hồn của các thần là để giúp họ khôi phục thần thể, hỗ trợ chúng ta chiến đấu với Lam phu nhân và đoàn quân yêu quái.

Ngô Soạn lên tiếng cắt ngang:

- Khôi phục thần thể không dễ đâu, cần mất rất nhiều công sức và thời gian. Tuy nhiên nếu chúng ta có thể giải phóng linh hồn cho ba vị thần thì bọn họ có thể tìm người phù hợp để nhập vào, và ban cho người đó phép thuật để chiến đấu.

Hòe gật đầu, nói:

- Hiện giờ linh hồn của ba vị đang bị phong ấn vào trong ba tấm gương bát quái, được gọi là các gương Thâu Hồn. Muốn giải phóng cho bọn họ thì cần phải tìm ra mấy tấm gương này, sau đó sử dụng thứ vũ khí đặc biệt cất giấu trong sứ quán để phá gương.

Nhật Duật nghe vậy thì đề xuất:

- Đã vậy mọi người theo tôi về phủ Chiêu Văn. Kế hoạch giải thoát cho Tam Trấn cụ thể thế nào, chúng ta phải bàn tính kỹ lưỡng!

Ngô Soạn và Hòe tất nhiền đều đồng ý. Các tia nắng ban trưa vô t.ư ùa tới, nhảy nhót đùa giỡn trên đầu, trên vai bọn họ.

* * * * *

* Chú thích:

- (1) Thái Dương Hỏa: có nghĩa là lửa mặt trời.

- (2) Trá Tử Công: có nghĩa là công phủ giả chết.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Vũ Phiên

Phàm Nhân
Ngọc
5.776,88
Tu vi
0,00
Sau khi dặn dò bọn nô bộc sửa soạn cơm nước và phòng nghỉ ngơi cho mọi người, Nhật Duật quay lại gian giữa khu nhà chính phủ Chiêu Văn, vừa kịp chứng kiến màn chất vấn của Vi Mai đối với Hòe.

- Ông nói sao? Con mụ mặc đồ đen chỉ huy nhóm yêu quái đang trên đường đến phủ Cao Sơn thật à?

Hòe gật đầu, rồi nhiệt tình trả lời nàng thầy phép trẻ:

- Đúng vậy, Không Tăng đã cướp Hộp Rồng rồi chạy tới phủ Cao Sơn. Hộp Rồng thực ra không quan trọng trong kế hoạch của Lam phu nhân nhưng việc Không Tăng lừa bà ta, có mưu tính khác khiến Lam phu nhân không thể ngồi yên. Kẻ mà Lam phu nhân không khống chế được, bà ta luôn muốn tự tay giết chết.

Vi Mai nghe thế thì vỡ lẽ:

- Thảo nào khi tôi và phán sự đến chùa Báo Thiên thì không thấy đức Không Tăng đâu. Chúng tôi cứ tưởng ông ấy bị kẻ địch hãm hại, hóa ra đức Không Tăng lại chạy lên Phiên Tây Lung. Nhưng ông ấy tìm đến phủ Cao Sơn làm gì? Đức Không Tăng và Cao Sơn có liên hệ gì đâu?

Hòe nhún vai tỏ ra không mấy bận tâm:

- Việc đấy thì ta không rõ. Chắc Lam phu nhân biết nhưng bà ta không nói.

Hai người đang nói tới đây thì Ngô Soạn bất chợt chen vào. Vì chuyện Không Tăng mà vị phán sự núi Tản Viên đã phải suy nghĩ cả hai ngày nay, giờ tìm được dịp để trút nỗi niềm thì sao có thể bỏ lỡ:

- Việc này thực sự rất kỳ lạ! Đức Không Tăng vốn được giao trách nhiệm bảo vệ Thăng Long thế mà ngài lại phủi tay, để kệ Lam phu nhân lộng hành. Mục đích chính của đức Không Tăng hóa ra lại là Hộp Rồng. Việc đức Đệ Tứ(1) chạy lên Phiên Tây Lung cũng rất khó hiểu. Nếu Hộp Rồng quan trọng hơn cả long mạch tại Thăng Long thì ngài phải mang về núi Tản chứ chạy lên Phiên Tây Lung làm gì? Hơn nữa hiện giờ đức Đạo Tổ đang ở phủ Cao Sơn. Đức Đệ Tứ luôn có xích mích với đức Đệ Tam(2), lên đấy chạm mặt nhau chẳng hiểu có xảy ra chuyện hay không?

Ngô Soạn vừa nói vừa lắc đầu lia lịa. Xem ra với kiến thức bao năm làm thần mà ông cũng không hiểu nổi hành động của một trong Tứ Bất Tử. Nhật Duật thấy mọi người mất thời gian bàn luận về sự đã rồi thì đành phải lên tiếng kéo câu chuyện trở lại việc chính:

- Về việc đức Không Tăng thì chưa rõ, nhưng ngài là một trong Tứ Bất Tử nên chắc không làm gì hại cho phương Nam. Còn Lam phu nhân mới là kẻ chúng ta cần phải tìm hiểu. Hòe, ông biết được những gì về Lam phu nhân? Bà ta thực sự là ai? Và đầu não của đoàn sứ Đại Nguyên lần này ngoài Lam phu nhân ra còn có những kẻ nào khác?

Hòe tỏ vẻ trầm ngâm, xoay đi xoay lại cây sáo trong lòng bàn tay, lát sau mới từ tốn trả lời:

- Đầu não của quân Thát Đát gồm những ai thì tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng kẻ giải phong ấn cho Thượng Cổ Tứ Yêu chính là Lam phu nhân. Và ngoài Tứ Yêu ra, dưới trướng bà ta còn rất nhiều các yêu quái lợi hại khác nữa. Còn thái độ của người Thát với Lam phu nhân thì vô cùng kính cẩn. Ngay cả Sài Thung, kẻ đứng đầu đoàn sứ lần này mà khi nói chuyện cũng không dám nhìn thẳng mặt bà ta. Như vậy đủ thấy Lam phu nhân có vị trị rất quan trọng. Còn về xuất thân của Lam phu nhân ư? Các người có biết trong đoàn sứ Đại Nguyên sang đây có tới mấy trăm mỹ nữ cải trang trà trộn vào để làm gì không?

Nghe Hòe nói vậy, mọi người đều nhìn nhau nghi hoặc.

- Chẳng lẽ là kế mỹ nhân ư? – Nhật Duật lên tiếng đầu tiên.

Hòe lắc đầu, đáp:

- Không phải, mỹ nhân kế(3) thì chỉ cần vài người, cùng lắm là mấy chục người thật đẹp. Cần gì đến mấy trăm người cho dễ bị phát hiện.

- Thế thì để làm gì?

Hòe thở dài, đáp với giọng ghê sợ:

- Để làm thức ăn cho Lam phu nhân đó!

Nghe Hòe nói tới đây, mọi người có mặt đều tỏ vẻ kinh hãi vô cùng.

- Vậy bà ta… bà ta ăn thịt người sao? Thật kinh tởm!

Hòe lắc đầu, nói:

- Không phải ăn thịt mà là dùng để hút máu. Muốn duy trì tuổi thanh xuân và sắc đẹp, cứ cách đôi ba ngày Lam phu nhân lại phải uống cạn máu của một thiếu nữ đang độ xuân thì.

Ngô Soạn nghe Hòe nói vậy thì tức giận vểnh cả râu, quát lớn:

- Quái vật, đúng thật là một con quái vật độc ác!

Hòe tiếp tục lắc đầu, đáp:

- Lam phu nhân không phải quái vật. Mọi người chắc ít biết về Cõi Quỷ nên không rõ, việc dùng máu của loài khác để duy trì sắc đẹp là chuyện rất bình thường của giống La Sát.

- La Sát ư? – Nghe gã áo lục nói vậy, những người còn lại đều đồng thanh kêu lên kinh ngạc.

Hòe lẳng lặng gật đầu, nói tiếp:

- Đúng vậy, Lam phu nhân chính là La Sát. Trong Cõi Quỷ, La Sát và Dạ Xoa được coi là hai giống loài thượng đẳng, địa vị khác hẳn các loài quỷ bình thường. Không như giống Dạ Xoa hay thích sống tập thể và tạo thành các đội quân đông đảo, La Sát lại sống đơn độc. Nhưng vì tính tình lạnh lùng, thích giết chóc, phép thuật hùng mạnh và nhất là sở thích uống máu nạn nhân để duy trì tuổi thanh xuân, mà La Sát là loài bị kinh sợ nhất Cõi Quỷ. Và Lam phu nhân không phải La Sát thường đâu, bà ta tên thật là Lam Bà, là nữ hoàng của loài La Sát.

Nghe Hòe nói tới đấy, Ngô Soạn như chợt nhớ ra chuyện gì, hốt hoảng kêu lên:

- Ngươi nói sao? Bà ta tên là Lam Bà ư? Có phải… có phải là Lam Bà trong Thập Tam Quỷ Vương(4) không?

- Ông cũng biết về Thập Tam Quỷ Vương ư? Phải, Lam phu nhân chính là La Sát Hậu Lam Bà của Thập Tam Quỷ Vương.

Ngô Soạn cảm thấy hoảng sợ thực sự. “Thập Tam Quỷ Vương” là ác danh vô cùng nổi tiếng không những chỉ ở Cõi Quỷ, mà còn lan xa khắp sáu cõi luân hồi.

Về danh nghĩa thì Tu La cai quản Cõi Quỷ, nhưng bọn họ thường bận chiến tranh với Cõi Trời mà ít ngó ngàng tới Cõi Quỷ. Do vậy tại Cõi Quỷ trong mấy trăm năm gần đây có nổi lên một nhóm những con quỷ hùng mạnh nhất cùng chia nhau cai trị toàn cõi, được gọi là Thập Tam Quỷ Vương. Những con quỷ này, không những có sức mạnh vô cùng, có thể sánh với Tu La hoặc Chư Thiên, mà dưới tay bọn chúng còn có những đội quân quỷ đông đảo, sẵn sàng chiến đấu đến chết để phục vụ chủ nhân.

“Thì ra Lam phu nhân là một quỷ vương trong nhóm này, thảo nào bà ta lại mạnh tới vậy. Vì nếu chỉ là quỷ thường ở Cõi Quỷ thì khi lên Cõi Người bọn chúng đều bị hạn chế phép thuật đi nhiều. Nhưng phép thuật của Lam phu nhân vẫn vô cùng kinh khủng, làm ta cứ tưởng bà ta là yêu quái từ thời Thượng Cổ. Thật không ngờ hóa ra lại là La Sát Hậu”. Ngô Soạn vừa lo lắng nghĩ, vừa giải thích cho những người còn lại ý nghĩa của “Thập Tam Quỷ Vương”. Tới tận lúc này, phán sự núi Tản Viên vẫn không thể tin nổi một quỷ vương ghê gớm lại có thể xuất hiện ở phương Nam.

- Nhưng nếu Lam phu nhân là một trong các quỷ vương cai trị Cõi Quỷ thì tại sao bà ta lại chịu tới Cõi Người để giúp đỡ nhà Nguyên? Điều này hết sức vô lý! – Nhật Duật lên tiếng phản bác. Chiêu Văn Vương vẫn không muốn tin vào việc một chúa quỷ, vua của các loài yêu quái, có khả năng đang trợ giúp kẻ thù.

Hòe thở dài, nói:

- Chiêu Văn Vương, ngươi có biết lý do tại sao quân Thát Đát trong vòng gần một trăm năm qua đánh Đông dẹp Tây, không quốc gia nào là không xâm chiếm, không thành trì nào là không san phẳng được không?

Nhật Duật nghe gã áo lục hỏi vậy liền đáp ngay:

- Là do bọn họ binh hùng tướng mạnh. Người Thát Đát rất giỏi võ nghệ, ngay từ nhỏ đã được huấn luyện cưỡi ngựa, bắn cung. Kỵ binh của họ thực sự rất đáng sợ, không quân đội nào có thể sánh bằng.

Hòe lắc đầu:

- Đấy chỉ là bề nổi thôi, sự thực là đằng sau quân Thát có kẻ khác trợ giúp.

- Kẻ khác trợ giúp ư? Ý ông là sao?

- Ta không biết tường tận nhưng có nghe đồn rằng Thành Cát t.ư Hãn, người thống nhất các bộ lạc trên thảo nguyên, đồng thời là ông tổ của người Thát Đát có khả năng đặc biệt mời được các đội quân quỷ tới Cõi Người để chiến đấu chống lại kẻ thù.

- Ông nói sao? Mời các đội quân quỷ ư?

- Đúng vậy, nhờ có các đội quân quỷ, Thành Cát t.ư Hãn đã đánh từ Đông sang Tây tạo ra một quốc gia khổng lồ. Sau này khi Thành Cát t.ư Hãn mất đi, các đội quân quỷ vẫn ở lại trợ giúp người Thát Đát lập nên nước Mông Cổ trước đây và Đại Nguyên bây giờ. Ngay như trong chiến tranh giữa Đại Việt và Mông Cổ vào năm Nguyên Phong thứ bảy, quân đội triều đình cũng bị đội quân quỷ của người Thát Đát tàn sát tại Bình Lệ Nguyên. Việc này Chiêu Văn Vương có thể không rõ vì còn nhỏ, chứ thượng hoàng hiện nay và một số tướng lĩnh lâu năm chắc chắn vẫn nhớ rõ. Có điều bọn họ không dám nói ra mà thôi!

- Việc này, việc này là thật sao?

Nhật Duật kêu lên ngạc nhiên rồi đưa mắt sang nhìn Ngô Soạn như muốn tìm kiếm một sự kiểm chứng. Dù sao phán sự núi Tản sống đã lâu, những sự kiện của cuộc chiến hơn hai mươi năm về trước chắc chắn ông ta biết rõ. Đáp lại cái nhìn của Nhật Duật là cái gật đầu khẳng định cùng câu nói chắc nịch:

- Lời này của Hòe là thật đó! Năm đấy quân đội phương Nam thất bại liên tiếp trước sức mạnh kinh khủng của đội quân quỷ.

- Thế thì tại sao chúng ta lại có thể lật ngược tình thế, giành thắng lợi vẻ vang?

- Đấy là nhờ có Thăng Long Tứ Trấn! Sau khi quân triều đình rút về Thăng Long thì Tứ Trấn quyết định ra tay hỗ trợ bọn họ chống lại đội quân yêu quái. Nhưng hiện giờ Tứ Trấn bị phong ấn mất rồi. Chúng ta thiếu đi sức mạnh của Tứ Trấn, còn quân địch có thêm một quỷ vương giúp sức. Tình hình thật chẳng lấy gì làm khả quan! - Ngô Soạn ngao ngán trả lời.

Ông ta vừa nói tới đây, thì liền bị Hòe ngắt lời:

- Thực ra mới chỉ Tam Trấn bị phong ấn thôi, còn thần Linh Lang đã bỏ đi từ trước. Nhưng ngay cả đối với Tam Trấn, chúng ta vẫn có thể giải phong ấn bằng cách phá vỡ các gương Thâu Hồn đang giam giữ bọn họ. Thực tế Tam Trấn không hề yếu, chỉ vì Lam phu nhân có các tấm gương Thâu Hồn là khắc tinh của bọn họ nên Tam Trấn mới bị phong ấn dễ dàng như vậy. Giờ đây nếu chúng ta đột nhập được vào sứ quán, phá vỡ gương Thâu Hồn, giải phóng cho Tam Trấn thì một quỷ vương cũng không phải là đáng ngại.

Ngô Soạn nghe Hòe nói vậy thì ngạc nhiên nhìn gã áo lục từ đầu đến chân:

- Ngươi nói hay lắm, quả là một kế hoạch tuyệt vời! Có điều ta không hiểu nhà ngươi cũng là một con quỷ, tại sao lại giúp đỡ bọn ta chống Cõi Quỷ nhiệt tình thế?

Hòe nhìn thẳng vào mắt Ngô Soạn, thẳng thắn nói:

- Ông biết thừa rồi còn hỏi làm gì? Tuy tôi và Liễu là quỷ nhưng là những con quỷ sinh ra ở Cõi Người chứ không thuộc về Cõi Quỷ. Chúng tôi vốn khi xưa là con người, nay thấy Cõi Người bị thôn tính thì đau lòng lắm chứ. Hơn nữa ông cũng biết, bọn quỷ ở Cõi Quỷ vốn rất khinh thường lũ quỷ trên Cõi Người như bọn tôi. Nếu Cõi Quỷ chiếm hết Cõi Người thì chúng tôi cũng không được sống yên với bọn chúng.

Ngô Soạn gật đầu thừa nhận. Quả thật bọn quỷ luôn có sự phân biệt đẳng cấp rất ghê gớm. Hiện tại do cần sử dụng nên Lam phu nhân có thể ngọt nhạt với Đệ Nhị Quỷ, chứ khi đạt được mục đích rồi thì cả Hòe lẫn Liễu đều có thể bị loại bỏ thẳng tay.

- Thôi thời gian không còn nhiều, trước mắt để tăng cường lực lượng chúng ta phải tìm bằng được các gương Thâu Hồn cất giấu tại khu sứ quán để giải phong ấn cho Tam Trấn. Sau đó mới lên đỉnh Phiên Tây Lung giúp phủ Cao Sơn.

Vi Mai nghe Hòe nói vậy thì quay lưng bước thẳng ra cửa. Nàng vừa đi vừa kiên quyết đáp trả:

- Các người đi mà giải phóng Tam Trấn. Phủ Cao Sơn đang lâm nguy, tôi phải quay về đây!

Hòe vội vã lên tiếng can ngăn:

- Cô chớ vội vàng! Hiện tại trên Phiên Tây Lung đã có Không Tăng và Đạo Tổ, Lam phu nhân có muốn làm loạn cũng không dễ. Hơn nữa đây là cuộc đấu giữa thần với thần. Cô đã thấy sức mạnh của Lam phu nhân rồi đấy, chỉ phẩy tay một cái là tất cả chúng ta ở đây đều có thể bị biến thành đá hết. Muốn chống chọi lại bà ta chỉ có cách giải phóng Tam Trấn rồi tìm thêm cả Linh Lang để sử dụng sức mạnh của Tứ Trấn cùng lúc mới trấn áp được.

Vi Mai cau mày, đáp:

- Trấn Tây Linh Lang chả phải đã bỏ đi mất tích sao? Làm sao chúng ta tìm được?

Hòe thở dài, nói:

- Không tìm được cũng phải tìm. Thăng Long Tứ Trấn lần này bị tấn công đột ngột không kịp tiếp ứng cho nhau nên mới dễ dàng bị đánh bại. Nếu bọn họ hợp lực lại thì sức mạnh không nhỏ đâu. Ngoài Tứ Bất Tử ra thì Tứ Trấn cũng là chỗ dựa rất lớn đấy!

- Kế hoạch tập hợp Tứ Trấn của các người xa vời lắm. Quân địch đang tiến tới trước cửa Cao Sơn rồi. Tôi dù có phải bỏ mạng cũng quyết quay về!

Vi Mai bước thẳng ra phía cổng chính không thèm ngoái đầu nhìn lại. Nhật Duật thấy thế vội chạy theo:

- Chờ tôi đã!

Vi Mai tưởng Duật ngăn, liền quay lại nói:

- Nếu triều đình bị lâm nguy thì vương có ung dung đi cứu Tam Trấn được không? Phủ Cao Sơn là nhà của tôi, vương đừng cản trở!

- Tôi hiểu. Tôi không ngăn cản nàng, chỉ là muốn tiễn nàng một đoạn.

Mai nghe thế thì không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ cùng Nhật Duật sóng đôi đi ra phía cổng. Khi ra đến nơi, Chiêu Văn Vương đưa lá Triệu Tập lên thổi một hơi. Đông A Xích Thố nghe tiếng liền dẫn theo con ngựa Hồng Mao của Vi Mai hí vang chạy lại. Duật đỡ Mai lên ngựa rồi nhảy lên lưng con Hồng Mao của chàng.

- Nàng đi lần này chẳng biết khi nào gặp lại, để tôi tiễn ra khỏi thành.

Vi Mai cũng không từ chối. Lúc này bọn người hầu đã mở toang cổng, hai người thúc vào hông ngựa phi ra khỏi phủ Chiêu Văn.

* * * * *

* Chú thích:

- (1) Đệ Tứ: Tức Đệ Tứ Bất Tử Không Tăng Nguyễn Minh Không.

- (2) Đệ Tam: Tức Đệ Tam Bất Tử Đạo Tổ Chử Đồng Tử. Đức thánh Tản Viên thì là Đệ Nhất Bất Tử, Phù Đổng Thiên Vương là Đệ Nhị.

- (3) Mỹ nhân kế: Kế sách dùng gái đẹp để lung lạc hoặc làm gián điệp quấy phá quân địch.

- (4) Thập Tam Quỷ Vương: Tức là Mười Ba Chúa Quỷ.

(Để tri ân tác giả, mời các bạn vào facebook gõ "Thần Chiến triều Trần" và like fanpage của truyện. Xin chân thành cảm ơn!)
Link thảo luận truyện: [Thảo Luận] - Thần Chiến triều Trần - Truyện tiên hiệp lịch sử thuần Việt
Link audio: trên kênh Youtube của Bạch Ngọc Sách
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top