Côn Luân của Phượng Ca lấy rất nhiều bài thơ Đường hay, nhất là trong màn đấu kiếm của Sở Tiên Lưu và Lương Tiêu.
Trích 1 bài Sở Tiên Lưu ngâm, chính là bài Đại Lâm đào hoa tự của Bạch Cư Dị.
人間四月芳菲盡,
山寺桃花始盛開。
長恨春歸無覓處,
不知轉入此中來.
Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,
Sơn tự đào hoa thuỷ thịnh khai.
Trường hận xuân quy vô mịch xứ,
Bất tri chuyển nhập thử trung lai.
Tháng t.ư hương sắc phai tàn hết
Chùa núi đào hoa mới nở đầy
Còn giận xuân đi không dấu vết
Đâu ngờ xuân đến nở nơi đây.
Trong truyện Ngã Chân Thị Đại Minh Tinh Nhé,bài thơ 木蘭詞
Mộc Lan thi (còn có tên là Mộc Lan từ) là bài quân ca nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nội dung bài thơ đơn giản, không có những chi tiết ly kỳ, không có những éo le làm xao xuyến lòng người. Bài thơ kể về câu chuyện một người thiếu nữ thay cha tòng quân. Nhà không có con trai lớn để nhập ngũ, cha già thì đã cao tuổi, người thiếu nữ ấy liền ăn mặc giả nam nhi để tòng quân thay cha. Nàng ở trong quân ngũ mười hai năm, lập được nhiều chiến công. Khi trở về triều đình, nhà vua muốn ban thưởng chức tước, nàng đều không nhận, chỉ xin ngựa tốt để trở về quê nhà. Về đến nhà, nàng lại mặc trang phục nữ nhi, trang điểm soi gương, trở lại với cuộc sống bình thường như trước khi nhập ngũ.
Trong kho tàng dân ca nhạc phủ phong phú của dân tộc Trung Quốc, Mộc Lan thi và Khổng tước đông nam phi (đời Đông Hán) được đánh giá là hai bài dân ca hay vào bậc nhất. Nhưng hai tác phẩm này hoàn toàn khác nhau. Nếu Khổng tước đông nam phi là bài tình ca diễm lệ bi thảm mang theo tình điệu của người phương nam, thì Mộc Lan thi là bài quân ca hùng tráng khảng khái thể hiện khí chất của người phương bắc.
Mộc Lan thi là dân ca của thời kỳ Bắc triều. Vào thời kỳ ấy, đất nước Trung Quốc chia đôi, miền Nam trải qua các triều đại Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, gọi chung là Nam triều; còn miền bắc bị các dân tộc thuộc nền văn minh du mục như Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Yết chia nhau chiếm cứ, về sau thống nhất vào nhà nước Bắc Nguỵ do họ Thát Bạt người Tiên Ty lập ra. Do đó, khí chất của người dân du mục đã thấm vào trong nền văn hoá Trung Quốc, tạo nên vẻ mãnh liệt, cương cường, bi tráng trong dân ca Bắc triều thời kỳ này, đối lập với sự diễm lệ, uyển chuyển, mềm mại của dân ca Nam triều đương thời.
Bản Mộc Lan thi còn lưu truyền ngày nay là bản đã qua nhuận sắc của các thi nhân đời Đường, tuy nhiên vẻ hào hùng đẹp đẽ nguyên thuỷ vẫn còn được thể hiện rõ ràng.
Mộc Lan từ
Tức tức phục tức tức,
Mộc Lan đương hộ chức,
Bất văn cơ trữ thanh,
Duy văn nữ thán tức.
Vấn nữ hà sở t.ư,
Vấn nữ hà sở ức.
Nữ diệc vô sở t.ư,
Nữ diệc vô sở ức.
Tạc dạ kiến quân thiếp,
Khả hãn đại điểm binh;
Quân thư thập nhị quyển,
Quyển quyển hữu gia danh.
A gia vô đại nhi,
Mộc Lan vô trưởng huynh,
Nguyện vi thị yên mã,
Tòng thử thế gia chinh.
Đông thị mãi tuấn mã,
Tây thị mãi yên tiên,
Nam thị mãi bí đầu,
Bắc thị mãi trường tiên.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hoàng hà biên,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Hoàng hà lưu thuỷ thanh tiễn tiễn.
Đán từ gia nương khứ,
Mộ túc Hắc sơn đầu,
Bất văn gia nương hoán nữ thanh,
Đãn văn Yên sơn Hồ kỵ thanh thu thu.
Vạn lý phó nhung cơ,
Quan sơn độ nhược phi,
Sóc khí truyền kim thác,
Hàn quang chiếu thiết y.
Tướng quân bách chiến tử,
Tráng sĩ thập niên quy.
Quy lai kiến thiên tử,
Thiên tử toạ minh đường,
Sách huân thập nhị chuyển,
Thưởng tứ bách thiên cường.
Khả hãn vấn sở dục,
"Mộc Lan bất dụng thượng thư lang,
Nguyện tá minh đà thiên lý túc,
Tống nhi hoàn cố hương."
Gia nương văn nữ lai,
Xuất quách tương phù tương;
A tỷ văn muội lai,
Đương hộ lý hồng trang;
Tiểu đệ văn tỷ lai,
Ma đao hoắc hoắc hướng trư dương.
Khai ngã đông các môn,
Toạ ngã tây các sàng;
Thoát ngã chiến thì bào,
Trước ngã cựu thì thường;
Đương song lý vân mấn,
Đối kính thiếp hoa hoàng.
Xuất môn khán hoả bạn,
Hoả bạn giai kinh hoàng:
Đồng hành thập nhị niên,
Bất tri Mộc Lan thị nữ lang!
Hùng thố cước phác sóc,
Thư thố nhãn mê ly,
Lưỡng thố bàng địa tẩu,
An năng biện ngã thị hùng thư?
Thẫn thờ lại thẫn thờ
Mộc Lan đang dệt lụa
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe tiếng than thở
Có phải nàng đang mong
Có phải nàng đang nhớ
Nàng chẳng có gì mong
Nàng chẳng có gì nhớ
Đêm qua chiếu ngà vua
Triều đình tuyển quân ngũ
Mười hai quyển sổ quân
Sổ nào cũng tên bố
Nhà sinh gái đầu lòng
Nàng không có anh cả
Đành ngựa gươm xông pha
Thay cha nơi khói lửa
Chợ đông mua ngựa khoẻ
Chợ tây mua yên đai
Chợ nam mua bàn đạp
Chợ bắc mua roi dài
Sớm từ biệt mẹ già
Chiều ngủ trọ sông Hoàng
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang
Sớm từ biệt cha mẹ
Chiều ngủ sườn non Yên
Không nghe cha mẹ gọi con gái
Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm
Muôn dặm quân dong duổi
Sông núi cách nước mây
Gió bấc động giáo mác
Trăng lạnh áo bào dày
mười năm đánh trăm trận
Tướng quân về nơi đây
Trở về vào điện ngọc
Dâng lời chúc đức vua
Công lao mười lần gấp
Ban thưởng khó ai so
Nhà vua hỏi nguyện vọng
Mộc Lan không muốn làm thượng thư
Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm
Phi về thăm làng xưa
Cha mẹ nghe gái về
Ra đón tận đầu làng
Em gái nghe chị về
Áo hồng bay đỏ đường
Em trai nghe chị về
Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn
Gác đông lại mở cửa
Gác tây lại kê giường
Cởi ngay bộ chiến giáp
Mặc luôn quần áo thường
Trước cửa trải mái tóc
Tô mày đứng trước gương
Ra cửa chào bạn lính
Bạn lính thấy kinh hoàng
Mười hai năm cùng đội
Không biết Mộc Lan gái cải trang
Thỏ cái chân bấy bớt
Thỏ đực mắt mơ mơ
Hai thỏ chung đường chạy
Gái trai tạm đổi không ai ngờ.
Chương 57 truyện Ngã Chân Thị Đại Minh Tinh Thuỷ điệu ca đầu:Tết trung thu năm Hy Ninh thứ 9 đời Tống Thần Tông (tức năm Bính Thìn 1076), Tô Thức uống rượu vui đến sáng, nhớ đến em là Tử Do (tức Tô Triệt), làm bài từ này.
Ngoài ra thì cô Đặng Lệ Quân có một bài hát phổ nhạc từ bài thơ này là bài Chỉ mong người dài lâu cũng rất hay
Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ,
Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian.
Chuyển chu các,
Đê ỷ hộ,
Chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp,
Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên
Trăng sáng có từ bao giờ,
Cầm chén rượu hỏi trời xanh.
Không biết là cung điện trên trời,
Đêm nay là năm nào?
Ta muốn cưỡi gió đi,
Lại sợ trên lầu quỳnh điện ngọc,
Nơi cao rét không chịu nổi.
Đứng lên múa, bóng trăng theo người,
Gì vui hơn ở dưới cõi đời.
Soi khắp gác tía,
Ta tà xuống cửa che màn gấm,
Soi cả đến người có bầu tâm sự không ngủ.
Trăng giận gì người,
Tại sao cứ tròn trong những giờ ly biệt.
Người có lúc buồn, vui, tan, hợp,
Trăng có đêm tối, sáng, tròn, khuyết,
Việc này xưa nay khó bề trọn vẹn.
Những mong người lâu dài,
Ngàn dặm cùng chung vẻ đẹp của trăng.
Bản dịch thơ:Nguồn: Tuyển tập từ Trung Hoa - Nhật Bản, Nguyễn Chí Viễn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1996
Trăng sáng bao giờ có?
Nâng chén hỏi trời cao
Chẳng hay trên đây cung khuyết
Đêm đó nhằm năm nao?
Rắp định cưỡi mây lên đến
Chỉ sợ lầu quỳnh điện ngọc
Cao ngất lạnh lùng sao?
Đứng múa vời thanh ảnh
Trần thế khác chi đâu.
Xoay gác đỏ
Luồn song lụa
Rọi tìm nhau
Chẳng nên cừu hận
Sao lại nhằm tỏ lúc xa nhau
Người có buồn, vui, ly, hợp
Trăng có tỏ, mờ, tròn, khuyết
Tự cổ vẹn toàn đâu
Chỉ nguyện người trường cửu
Ngàn dặm dưới trăng thâu.
Bách Thánh Lâm Trung Bồ Đề Tử,
Thương Sinh Vị Định Hoang Cổ Lập.
Bạch Cốt Vị Hóa Chẩm Thị Phật?
Tái Tương Thiết Bổng Loạn Sơn Hà
Giữa rừng chư thánh, có Bồ Đề .
Vì người thiết định, chế Cổ Hoang.
Xương trắng không độ sao là Phật ?
Lại đem thiết bổng, loạn núi sông !
Ly Tử dịch thơ
Đồng Tước đài phú
Tòng minh hậu dĩ hì du hề,
Đăng tằng đài, dĩ ngu tình.
Kiến thái phủ chi quảng khai hề.
Quan Thánh đức chi sở dinh
Kiến cao môn chi tha nga hề,
Phù song khuyết hồ Thái thanh.
Lập trung thiên chi hoa quan hề,
Liên phi các hồ Tây Thành.
Lâm Chương thuỷ chi trường lưu hề,
Vọng viên quả chi t.ư vinh.
Lập song đài ư tả hữu hề,
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phụng.
Liên nhị kiều ư đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống.
Phủ hoàng đô chi hoành lệ hề,
Khám vân hà chi phù động.
Hán quần tài chi lai tuỵ hề.
Hiệp phi hùng chi cát mộng.
Ngưỡng xuân phong chi hoà mục hề.
Thính bách điểu chi bi minh.
Vân thiên tuyên kỳ ký lập hề,
Gia nguyện đắc hồ song sinh.
Dương nhân hoá vu vũ trụ hề,
Tận túc cung vu thượng kinh.
Duy hoàn, văn chi duy thịnh hề,
Khởi túc phương hồ thánh minh.
Hưu hỹ! Mỹ hỹ!
Huệ trạch viễn dương.
Dực tá ngã hoàng gia hề.
Ninh bỉ tứ phương.
Đồng thiên địa chi quy lượng hề.
Tề nhật nguyệt chi huy quang.
Vĩnh quý tôn nhi vô cực hề.
Đẳng quân thọ ư đông hoàng.
Ngự long kỳ dĩ ngao du hề
Hồi loan giá nhi chu chương.
t.ư hoá cập hồ tứ hải hề,
Gia vật phụ nhi dân khang.
Nguyện t.ư đài chi vĩnh cô hề,
Lạc chung cổ nhi vị hương!
Noi đức sáng thánh quân rực rỡ,
Lên lầu đài hớn hở lòng xuân.
Xem công Thái Thú chăn dân,
Đức cao vời đã thấm nhuần nơi nơi.
Dựng lên giữa lừng trời xanh ngắt,
Đài nguy nga bát ngát không trung.
Mỹ quan nào kém non Bồng,
Gác cao, tây vực nhìn thông nẻo đoài.
Dòng Chương Thuỷ chảy dài trong suốt,
Tưới nhuần vườn cây tốt quả tươi...
Hai bên tả hữu hai đài:
Ngọc Long, Kim Phượng sáng ngời ánh dương.
Bắc hai cầu tây đông nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Ngồi cao nhìn xuống cõi trần,
Đế đô mây ráng xoay vần nổi trôi...
Mừng rỡ thấy anh tài qui tụ,
Ứng mộng hùng chuyện cũ Văn Vương.
Gió xuân đầm ấm đưa hương,
Muôn chim đua hót du dương hài hoà.
Cao đẹp tựa trời mây muôn thủa,
Phúc nhà may chất chứa dài lâu.
Khắp cùng vũ trụ nhiệm mầu,
Đề cao nhân hoá, kính chầu thượng kinh.
Noi Tề, Tấn nghĩ mình hưng thịnh,
Phò thánh minh cùng sánh công lao.
Xinh tươi bền vững biết bao!
Ơn sâu nước ngấm, đức cao xa đồn.
Phò tá đấng Chí Tôn gìn giữ
Xây thái bình thịnh trị bốn phương.
Phép trời khuôn đất đo lường.
Ánh trăng cùng với ánh dương điều hoà.
Tôn quý ấy truyền xa mãi mãi,
Thọ vô cùng, thọ với chúa Xuân!
Ngự long kỳ buổi an nhàn,
Hoặc khi vội vã, xe loan trở về.
Ơn giáo hoá tràn trề bốn biển
Vui mầng thay vật kiện dân khang!
Đài nầy đứng mãi hiên ngang,
Điểm tô kim cổ, son vàng thắm tươi...
Hoàn cảnh: Ở trong đạo quán, một vị lão đạo đang giảng giải cho đệ tử mình. Lão đạo từng nói qua, có rất nhiều người tu hành trong thiên hạ dùng kiếm làm pháp bảo, nhưng chỉ đơn thuần lấy kiếm làm thủ đoạn đối địch, chuyên tu các loại kiếm thuật, còn chuyên tâm tế kiếm thì lại vô cùng ít ỏi.
Ngay lúc đó, lão đạo ngẩng đầu nhìn trời, như nhớ lại gì đó mà niệm lên vài câu thơ:
Thất luyện kinh không thiên địa tĩnh,
Phong vân biến sắc Càn khôn thanh.
Hư thực thần tiêu linh tính dựng,
Sơn điên phất kiếm thanh tụ khinh.
Đông Hy (BNS) dịch thơ:
Hào quang khuấy đảo, trời yên ắng
Phong vân thay sắc, lặng càn khôn
Kiếm linh hư ảo thất hồn,
Áo xanh kiếm phất đỉnh non ngút trời.
Một bài rất nỗi tiếng của Gia Cát Lương trong Tam Quốc Diễn Nghĩa: 無題 - Vô đề
大夢誰先覺,
平生我自知。
草堂春睡足,
窗外日遲遲。
Đại mộng thuỳ tiên giác,
Bình sinh ngã tự tri.
Thảo đường xuân thuỵ túc,
Song ngoại nhật trì trì.
Trong giấc mộng lớn, ai là người tỉnh trước?
Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
Đang yên giấc ngủ xuân trong ngôi nhà tranh,
Bên ngoài cửa sổ mặt trời (ngày tháng) cứ chậm rãi trôi qua.
Mơ màng ai tỉnh trước,
Bình sinh ta biết ta.
Thềm tranh giấc xuân đẫy,
Ngoài song bóng xế tà.
Bài thơ này được La Quán Trung chép trong "Tam quốc diễn nghĩa" là của Gia Cát Lượng, khi ba anh em Lưu Bị cùng đoàn tuỳ tùng vừa tới trước gò Ngoạ Long, thấy xa xa có mấy người đang cày ruộng bên suờn núi, miệng hát nghêu ngao. 蒼天如圓蓋 - Thương thiên như viên cái
Thương thiên như viên cái,
Lục địa như kỳ cục.
Thế nhân hắc bạch phân,
Vãng lai tranh vinh nhục.
Bần giả tự an an,
Phú giả tự lạc lạc.
Nam Dương hữu ẩn thổ,
Cao miên ngoạ bất túc.
Trời tròn như lọng che,
Đất xoay như cuộc cờ,
Tuồng đời đen trắng lẫn,
Tranh nhau vinh với nhục.
Kẻ vinh mặt vênh váo,
Người nhục thân chen chúc,
Người ẩn sĩ Nam Dương,
Nằm ngủ không nháy mắt.
Lương Phủ ngâm 梁父吟, còn viết là 梁甫吟. Lương Phủ là một ngọn núi nhỏ ở chân núi Thái Sơn. Bài thơ này thực là của Gia Cát Lượng hay là một bài ca dao đời Hán, đến nay khó còn điều kiện khảo chứng.
Thời Xuân Thu, Án Bình Trọng 晏平仲 phò Tề Cảnh Công, làm đến chức tướng quốc, là một người tài nhưng hơi hẹp lượng. Nước Tề thời đó có ba dũng sĩ là Điền Khai Cương 田開疆, Cổ Dã Tử 古冶子 và Công Tôn Tiếp 公孫接. Án Tử đưa ra hai trái đào và nói với ba người là ai có công thì hãy lấy mà ăn. Công Tôn Tiếp nói: "Ta là người chỉ một quyền đánh chết lợn rừng, hổ, xứng đáng ăn đào". Điền Khai Cương nói: "Ta đã từng dùng phục binh đuổi địch, công lao đó cũng xứng đáng ăn đào". Cổ Dã Tử nói: "Ta theo vua đến sông Hoàng Hà, có con rùa lớn xuất hiện bắt mất ngựa của vua, ta giết rùa, một tay kéo đuôi ngựa mang về cho vua, con rùa đó chính là Hà Bá thần sông Hoàng Hà". Hai người Công Tôn Tiếp, Điền Khai Cương thấy công mình không bằng Cổ Dã Tử mà lại đòi ăn đào nên tự thẹn với lòng tự vẫn mà chết. Cổ Dã Tử thấy hai người kia đã chết mà mình vẫn sống thì là bất nhân, sỉ nhục người ta đề lấy danh tiếng là bất nghĩa, nên cũng tự vẫn chết theo. 梁父吟 - Lương Phủ ngâm
Bộ xuất Tề thành môn,
Dao vọng đãng âm lý.
Lý trung hữu tam phần,
Luỹ luỹ chính tương tự.
Vấn thị thuỳ gia trủng,
Điền Cương, Cổ Dã Tử.
Lực năng bài Nam sơn,
Văn năng tuyệt địa lý.
Nhất triêu bị sàm ngôn,
Nhị đào sát tam sĩ.
Thuỳ năng vi thử mưu,
Quốc tướng Tề Án Tử.
Đi bộ ra ngoài cổng thành nước Tề,
Từ xa nhìn về một ngôi làng mơ ảo nơi xa xa.
Ở trong làng có ba ngôi mộ,
Giống nhau tựa như xếp chồng lên nhau.
Hỏi là mộ của ai vậy ?
(Trả lời) Là mộ của những người Điền Khai Cương, Cổ Dã Tử (và Công Tôn Tiếp).
Tài võ của họ có thể lật đổ núi Nam,
Tài văn của họ có thể xoay chuyển đất trời.
Nhưng một sớm bị lời sàm ngôn,
Hai trái đào đã giết chết ba dũng sĩ.
Ai là người có thể nghĩ ra mưu kế đó?
Là tướng quốc nước Tề: Án Bình Trọng.
Ra khỏi cửa thành Tề đi bộ
Dõi nhìn làng lấp ló xa mờ
Giữa làng trơ trọi ba mồ
Giống nhau tưởng đã đắp gò chồng lên
Hỏi: nằm đó tuổi tên ai nhỉ ?
Điền, Cổ, Cương, đích thị ba ngài
Núi Nam lật đổ, hùng tài
Văn chương âu cũng chuyển xoay đất trời
Một khoảnh khắc nghe lời nói dại
Hai trái đào giết hại cả ba
Mưu thâm kế hiểm ai mà ?
Án Tề tướng quốc thì ra là người
This site uses cookies to help personalise content, tailor your experience and to keep you logged in if you register.
By continuing to use this site, you are consenting to our use of cookies.