Giống Rồng - Nguyễn Khai Quốc

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ mười :

Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .

Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .

Đỗ Sĩ Giao ở lại châu Phong suốt ba tháng mà không thấy phía châu Phong có động tĩnh, Dương Thanh liền cho gọi Sĩ Giao trở về Trường Châu. Sĩ Giao gửi một lá thư để Dương Thanh yên dạ, cho Bá Nam thêm thời gian. Quân tình đã chuẩn bị chu đáo, các tướng lĩnh tại các châu huyện đều đã sẵn sàng chờ tin của Sĩ Giao mang quân đánh trận lớn nhất từ lúc Dương Thanh cầm binh trở lại chiếm châu Trường.

Dương Thanh sai Phạm Đan cầm thủy quân ba nghìn người đóng trại ở lưu vực phía đông sông Đáy. Số thuyền chiến lên đến trăm hai mươi chiếc lớn nhỏ. Phạm Đan phải chia nửa số quân đi đến sông Xích Đằng, chiếm lại vùng đất chài lưới, buôn bán tích lũy thêm lương thảo.

Chí Liệt cầm quân tiên phong trấn giữ thành Đỗ Động, cho quân lính đắp thành cao ba trượng, dựng hàng rào cọc tre cao hai thước bên cạnh hào nước sâu bao quanh thành Đỗ Động. Triệu Cường, Dương Diện Gã Quỷ đóng quân tại chân núi Tản, dựng một lũy nhỏ phía trước thành huyện Thái Bình do thành cũ đã bị tàn phá nặng nề. Hai đạo quân tạo thế gọng không cho địch đi từ phía đông tới. Quân lính châu Phong cũng vì thế mà không lấn thêm đất của họ Dương.

Các tướng Lý Toàn, Ma Cao Dực, Mã Tước, Đặng Hoài trấn giữ đất các khê động Man Hoàng, binh lương tiếp tế chu cấp không thiếu một binh tốt, một hạt lương thảo. Nga Tú Du Thủy Lý Toàn được phân trọng trách vận chuyển quân lương từ Man Hoàng tới châu Trường, hễ cần có điều động, Dương Thanh lại tin tưởng giao cho Lý Toàn lên kế hoạch điều binh, cấp lương chưa bao giờ chậm trễ.

Trường Châu cứ điểm Dương Thanh cho Phụng Quán trấn giữ mặt biển thông thương với đám thuyền buôn nước ngoài, hay có cướp biển, ngoại bang tới tranh chấp. Phía đông bắc giáp Võ An Châu và huyện Chu Diên. Dân chúng ở chỗ đó không ưa sự bành trướng của các thế lực khác ảnh hưởng đến quyền lợi của họ tại Tống Bình nên chưa bao giờ chịu khuất phục Dương Thanh, kể cả khi Dương Thanh đã từng có thời gian nắm trị sở đô hộ.

Dương Thanh giữ tám nghìn quân bao gồm cả lính kỵ tám trăm, bản bộ năm nghìn cùng thủy binh đóng từ cửa Đại An vào đến vùng hạ lưu sông Đáy, sông Hoàng Giang, và bãi đầm Vân Long.

Bấy giờ, triều đình Nhà Đường đương lúc rối ren, hoạn quan lộng hành, các quan đại thần Vương Thủ Trừng, Lý Phùng Cát, Bùi Độ,… bè phái trong triều, giết chóc không kể xiết. Vua Đường Kính Tông Lý Đam hoang râm vô độ, ưa chơi bời, thích đá cầu, đánh vật nên sức khỏe sa sút không có tâm sức mà trị triều đình phương bắc. Các quan lại ở các châu quận xa xôi ra sức lộng hành, vơ vét, đàn áp nhân dân.

Lý Nguyên Gia bắt đầu cảm thấy những áp lực từ phía người Giao Chỉ. Cái uy của thiên triều đã không còn ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân xứ Lĩnh Nam. Lý Nguyên Gia chỉ còn biết lắc đầu ngán ngẩm, lao vào vui thú hoan lạc ở Tống Bình.
Các tướng lĩnh dưới trướng Nguyên Gia đều tỏ vẻ không bằng lòng với nhau, với chính vị quan đô hộ nên không ít lần xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ khiến Nguyên Gia đau đầu.

Những lúc như vậy, Nguyên Gia lại tìm đến gái đẹp, rượu ngon vùng Tống Bình mà làm nhẹ bớt đi những u não muộn phiền. Từ Hãn Xương sau khi dùng lời lẽ vỗ về châu Phong đã ung dung an lòng, ngày lên công đường, tối về lầu quán vui thú với đám kỹ nữ phấn son trong thành huyện mà không hề hay biết Kiều Chung Đạt đã đổi ý muốn gói Tống Bình vào túi riêng.

Sau bảy bảy bốn mươi chín ngày cúng cơm cho con trai, Chung Đạt nuôi chí báo thù bèn đem lời tấu lên tới Vương Thăng Triều. Thăng Triều nghe tin lấy làm giận lắm mới cho gọi Chung Đạt lên. Triều chỉ nhẹ nhàng mà nói với Chung Đạt:

- Chung Đạt với ta tình như thủ túc đã biết bao nhiêu năm nay. Vậy mà lại để cho kẻ ngoài mượn cớ để ta gây hấn với Tống Bình. Gương Dương Thanh vẫn còn đó, chẳng phải là để cho thiên hạ cười chê. Người châu Phong trọng nghĩa khí, khảng khái, đường đường chính chính có điều gì mà lo ngại. Chỉ là có kẻ rắp tâm rèm pha khiến Chung Đạt lay lòng. Xin chớ vì những thứ đó mà hất đổ hết thảy những công lao mà ta và Chung Đạt đã gây dựng.

Chung Đạt nghe Thăng Triều nói mà tỏ ý muộn phiền, muốn từ nay Chung Đạt không bàn đến chuyện trả thù. Hai ngày sau, với giọng điệu thống thiết, Chung Đạt giãi bày với Thăng Triều:

“Hạ quan xin bẩm Vương thứ sử. Ta vẫn thường gọi ông là Thăng Triều, cái tên mà gắn bó với hai ta suốt bao nhiêu năm tháng. Vậy nên ta cứ gọi ông là Thăng Triều cho thuận tai. So về tuổi tôi hơn ông bốn tuổi. Nay đã ngũ thập cái tuổi mà tri thiên mệnh, thấu hết lẽ sự đời, lẽ phải điều hay. Tôi với ông lập đất tổ cha anh mà dựng nghiệp, gặp đất vượng mà công danh lừng lẫy. Há chẳng có điều gì lấy làm phiền muộn.

Nhưng xót thay, dòng sông chỉ chảy mãi một dòng về biển lớn. Tổ ta ở đất này vẫn còn khóc lệ hằng đêm, cháu con bị người ta trà đạp chèn ép, hỏi cha ông có lấy làm yên lòng.

Hay cứ mỗi độ xuân về, hoa trên núi ấy lại kém sắc, nước ở khe suối kia mà thêm nhiều. Liệu có phải chăng nỗi lòng của đất mẹ cứ đổ dồn theo thác lũ đổ về biển lớn mênh mông.

Thăng Triều hãy nghĩ mà xem, từng giọt máu của nòi giống tiên rồng đã thấm xuống đất nam ta chỉ mong cây cối sinh sôi màu mỡ, ruộng đồng xanh tốt trĩu bông. Ấy vậy mà có kẻ nỡ lòng nào đạp lên vai dân nam ta mà đứng, ngồi trên đầu những kẻ lũi lầm. Đun máu nóng trong chảo mồ hôi, trên ngọn lửa hung ác bắt dân ta lên rừng xuống biển kiểm sản vật, dị thú, chim muông. Xương dân ta cho báo cọp gặm xé, máu thịt dân ta làm mồi cho bọn lang sói.

Ta noi gương những người đi trước, Trưng Vương, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Vương Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng giữ bờ cõi non sông mà tổ tiên ta gây dựng bao đời nay. Cứu dân khỏi lầm than đói khổ, kéo dân ra khỏi vũng bùn đỏ máu.

Nhà Đường kia đã quẫn cùng, xứ Giao Châu ta chúng không thể gánh nổi. Đất Phong châu binh hùng, lương mạnh, lại thêm những kẻ anh hùng đang sẵn sàng theo ta mà dấy binh khởi nghĩa đấy chẳng phải là điều đáng nên mừng. Mọi sự đều đã như sắp đặt cho chúng ta từ trước. Còn khi nào mới thỏa chí anh hùng mà cái thời niên thiếu hai chúng ta cùng ước mong.

Chén rượu cay đã nồng lại còn chát, dòng hồng huyết chưa nhỏ đã đỏ sông. Bằng tâm can xin Thăng Triều hiểu rõ, triệu ba quân đứng dậy, quyết mang cả Lĩnh Nam thuộc về ta, cõi nam ta sẽ quy về một mối. Dẫu có chết cũng không hối hận điều gì.”

Thăng Triều đêm không ngon giấc nghĩ đến những lời của Chung Đạt mà trằn trọc, sáng sớm tinh mơ đã cưỡi ngựa mũ giáp chỉnh tề tới Mê Linh gặp Đạt nhân lễ thất tuần con trai Đạt.

Vượt ngã ba Tam tỉu, gặp một chàng trai trẻ, đầu vấn khăn xếp bạc màu, áo nâu gụ đang ung dung thưởng ngoạn ánh bình minh. Chàng cầm chiếc quạt đề bài thơ, ngâm nga trên con đò lênh đênh, chòng chành theo sóng vỗ đôi bờ sông Cái:

“Cồn cao nước trắng ngập đồng

Vũng lầy cùng quẫn giống rồng bùn đen

Trông lên rạng rỡ ánh đèn

Cúi nhìn leo lắt giữa nền mờ sương

Cánh én vội vã qua đường

Sải ưng thong thả muôn phương vẫy vùng

Phong Châu thỏa chí anh hùng

An Nam một cõi lẫy lừng thiên thu.”

Cảnh vật tĩnh lặng, ngàn cơn sóng dữ như lắng lại nghe tiếng chàng trai thư sinh nhỏ nhắn đứng trên chiếc đò nhỏ giữa mênh mang mây trời, sông nước. Vương Thăng Triều búi cao mái tóc, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt xa trông gọi vang:

- Kẻ sĩ hiên ngang giữa mây trời non nước kia, phải chăng là thần tiên giáng thế.

Sĩ Giao quay lại nheo mắt nhìn về phía tả ngạn sông Cái, bóng người cao lớn, nét mặt vuông vức, mặc giáp trụ màu đồng, ánh bạc lấp lánh dưới ban mai. Thương dài, duỗi thẳng uy nghi trên lưng Tuyết Mã như thần tướng trong truyền thuyết. Sĩ Giao vội vã quay trở vào bãi đất ven sông, từ tốn buông lời chào Vương thứ sử:

- Vãn bối cúi chào đại tướng quân. Dáng đứng hiên ngang của bậc thần tướng, bộ giáp phục hào nhoáng, ánh thương sáng lòa trong tia nắng buổi bình minh. Oai vũ vô cùng. Chẳng hay đại tướng có việc gì qua sông từ buổi sớm tinh mơ.

Thăng Triều vỗ ngực, đu cương ngựa hý vang, giọng nói trầm ấm, như rền trong tai:

- Kẻ dũng chỉ được cái vẻ bề ngoài. Nhìn tiên sinh ta cứ ngỡ lạc vào chốn tiên thần. Chẳng hay tiên sinh là người từ đâu tới, giữa tinh mơ sấm đánh bên tai những lời của bậc anh hùng.

Sĩ Giao cúi thấp người, bái kiến, mặt mừng rỡ hồ hởi:

- Vãn sinh là kẻ nho đọc sách, ngày đi rong ruổi bán thuốc cứu đời. Hiện đang tá túc nhờ chỗ của Chung Đạt đại nhân. Canh giấc không tròn nên cưỡi ngựa tới đất Tam tỉu giang thấy cảnh vật thiên địa, cây nước như tranh vẽ mà nổi hứng ngâm bài thơ. Nếu có điều chi khiến tướng quân chê cười xin bỏ quá cho.

Vương Thăng Triều nhảy xuống ngựa, ôm lấy bờ vai mảnh khảnh của chàng, đập mạnh liên hồi. Giọng nói trầm trầm, vang vang, Thăng Triều hỏi Sĩ Giao:

- Nhà anh tên họ thế nào. Nghe giọng anh hẳn không phải người ở đất châu ta.

Sĩ Giao phong thái đĩnh đạc, đường hoàng, giọng nói ôn tồn bẩm với Thăng Triều:

- Kẻ nho họ Đỗ tên Sĩ Giao, người huyện Yên Thành, châu Lục. Tổ tiên họ Đỗ gốc ở Ái Châu.

Lời nói Sĩ Giao khiến Thăng Triều ngờ ngợ, Thăng Triều lắng lại một chút rồi quay ra hỏi:

- Nhà anh chính là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Tiếng tăm lừng lẫy Giao Châu, dâng kế lấy Tống Bình, giết chết Tượng Cổ tàn bạo, xông pha trận mạc cả trăm trận đánh, quân lính triều đình hễ nghe tiếng Bá Nam quân sư mà kinh hãi muôn phần.

- Đại nhân đã quá khen, phận làm tôi cho tướng chủ mà được tiếng thơm lây. Vãn sinh tới đất châu Phong đã hai mùa xuân hạ, gặp được tướng quân chỗ này thật là vinh hạnh.

Thăng Triều hồ hởi gọi mời:

- Ta đương có việc tới Mê Linh, chỗ của Kiều Chung Đạt. Anh có định quay lại đó hay không?

Sĩ Giao không chút chần chừ, nhận lời đi cùng Thăng Triều tới phủ của họ Kiều. Đoạn đường ngắn ngủi không thể cho hai người giãi bày hết những câu chuyện. Đi tới đoạn Hát Môn, Sĩ Giao xin cáo đi đường khác.

Ở Mê Linh, Kiều Chung Đạt nghe tin Thăng Triều đích thân tới tìm liền sai người tiếp đón linh đình, mổ trâu giết gà để dâng bữa mới thứ sử.

Đám vũ nữ áo yếm nuột nà, tay chân thoăn thoắt, ánh mắt đong đưa, voan áo buông lơi trong tiếng đàn tiếng kép của điệu nhạc dân gian. Rượu cả trăm chum xếp dài giữa hai hàng quân lính giương cung nỏ, giáo gươm theo quân lệnh uy vang.

Tiệc đến quá trưa, mặt đỏ gắt như mặt trời mới sáng, Thăng Triều cầm ly rượu hỏi ý Chung Đạt giữa văn võ dự tiệc:

- Phó thứ sử Kiều Chung có nam tử là Tiềm, mới bị quân Tống Bình lấy cớ phản nghịch mà giết đi. Ta nghe mà đau xót thay cho ông. Xót thay, xót thay.

Như trúng tâm can họ Kiều, Chung Đạt gạt nước mắt mà giọng rung rung:

- Kẻ làm con chưa trọn hiếu đạo, lại gây ra tội lớn tày trời với rắn hổ. Dẫu có thương xót mà cũng chẳng thể làm gì hơn.

Thăng Triều hẹm giọng, liếc mắt nhìn Toán Hoa Tài. Toán Hoa Tài giật mình ấp úng cúi gằm mặt xuống bàn. Thấy Toán Hoa Tài sợ sệt, Vương Thăng Triều nhìn sang Lý Do Độc. Đêm trước được lệnh triệu tới, Do Độc thúc ngựa tới Mê Linh cũng góp mặt ở tiệc rượu, đứng ra trước đám văn võ trong tiệc, nói lời tỏ ra trách móc Chung Đạt:

"Đấy là cái gương cho những kẻ khác ngồi đây. Làm mệnh quan triều đình, chữ trung hiếu làm đầu. Nay nam tử Kiều Chung không nghe lời cha dạy đó là bất hiếu. Chỉ trích quan trên, nói lời vu khống khiến lòng dân biến loạn đó là tội bất trung. Đó không phải t.ư cách của bậc tôn trưởng, càng không xứng với cái trung nghĩa mà người châu Phong ta vẫn tôn thờ.

Dù gì thì hắn cũng là con trai của bậc quan thứ sử châu Phong làm ra tội thì đáng phải nhận hình phạt. Quan đô hộ rộng lượng thứ tội cho mà đi đường mải mê uống rượu với đám phu xe mà thân chìm dưới Tô Lịch giang.Thân là phó thứ sử châu Phong để cho con cái ra như vậy, mong Kiều đại nhân làm gương cho kẻ khác. Không phải một lẽ t.ư thù cá nhân mà rước họa cho dân chúng Phong Châu năm huyện cùng với hơn bốn mươi cơ mi thuộc vào."

Sĩ Giao ngồi phía sau họ Kiều phe phẩy quạt mo, ngậm ly rượu cười khểnh. Đám quan lại bàn tán xi xào, Chung Đạt thẳng lưng, tay lau đi dòng nước mắt, ánh mắt hằn học nhìn về phía Do Độc mà không thể buông một lời. Thăng Triều ngà ngà say, quắc mắt nhìn về phía chỗ Sĩ Giao, thấy Giao cười mà cất lời dò hỏi:

- Anh chàng ngồi nấp chỗ góc phải phía xa kia là binh nho thế nào? Sao lại ngồi chỗ đó cười khểnh vọng vào mắt ta.

Sĩ Giao toan cất lời, Chung Đạt gạt đi, bẩm với Thăng Triều:

- Bẩm Vương đại nhân. Anh ta là thầy thuốc họ Đỗ, tới đây để trị bệnh cho tôi và người nhà. Là vị môn khách của t.ư gia.

Thăng Triều nổi cơn giận, quát mắng:

- Chung Đạt đau xót rơi nước mắt. Lý tướng quân lấy lời an ủi. Cớ sao anh lại cười khểnh. Chẳng hay muốn chém đầu.

Sĩ Giao vờ như không biết họ Vương, chắp tay bái lậy rồi đi ra trước tiệc giọng nói lè nhè như gã say rượu:

- Cúi chào thứ sử châu Phong cùng các vị quan tướng. Tiểu nhân là Đỗ Giao, người Lục Châu huyện Yên Thành. Ngày nhỏ ham đọc sách nho nên người làng gọi là Sĩ Giao.

Lý Do Độc cúi chào Sĩ Giao, đám người châu Phong rì rầm. Toán Hoa Tài trước mặt Thăng Triều, Chung Đạt nói lớn:

- Ra là Bá Nam quân sư của Dương Thanh. Ta nghe nói từ khi Quế Trọng Vũ chiếm lại Tống Bình, nhà ngươi cùng tên Chí Liệt cứ ở đất Chu Diên. Sau lại bị quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ đánh dẹp, tướng Tồn Thành châu Ái bị Đoàn Uyển gọi về. Thân kẻ làm anh mà để cho huynh đệ dứt bỏ mà về. Chí Liệt cùng ngươi không có đất trú thân, không có tướng giỏi bên cạnh nên mới chạy tới Vũ Bình lục lạy đám Man Hoàng chiếm thành Đỗ Động. Nếu không phải phải đám Man Hoàng chiếm được Trường Châu không thì Chí Liệt gã đó cũng chết dưới binh đao Tống Bình từ lâu. Nay lại tới châu Phong có mưu đồ chiếm đất hay sao.

Sĩ Giao chỉ tay vào mặt Toán Hoa Tài mà trách lời:

"Là Toán Hoa Tài tướng quân phải chăng. Toán tướng quân thân làm tướng quân cũng biết rõ, thắng thua là lẽ thường của nhà binh. Chủ Dương Thanh tôi uy trấn giết chết bọn tàn ác, châu Phong cũng vì thế mà được bớt đi phần sưu thuế nặng nề hàng năm phải cống tiến.

Dương tướng chủ lại nghĩ đến đất tổ tông ở châu Phong mà tăng thêm tướng giỏi Do Độc, Trình Kỷ, Đàm Thức,… viện binh mã lên đến cả vạn quân tới châu Phong này. Bởi thế mà châu Phong hùng mạnh hơn khi trước bị chèn ép bởi chính quyền đô hộ Đường triều.

Sau đó họ Quế dùng tiền bạc, chức tước mà dụ dỗ đám tiểu nhân dưới trướng, chủ tướng tôi mới bị đám kẻ dưới vì mưu cầu lợi kỷ mà bán chủ cho giặc, bậc trượng nghĩa như Châu Phong há chăng lại đứng ngoài cuộc nhìn kẻ ngoại bang tiếp tục đè đầu cưỡi cổ dân nam ta. Thật thấy hổ thẹn thay.

Em tôi Tồn Thành làm tướng đánh nhiều trận giúp Chí Liệt chiếm lại cả vùng đất rộng lớn phía đồng bằng châu thổ. Hổ dữ chẳng bỏ được con, Đoàn Uyển dụng mưu hèn mà triệu tập em ta trở về châu Ái. Bị giam lỏng ở châu Ái, nhìn cảnh dân nam bị những bàn tay bẩn thỉu nối dài của chính quyền phương bắc chèn ép, Tồn Thành thấy mà phiền lòng bỏ quan về làm lão nông.

Còn về phía thiếu chủ Chí Liệt anh dũng ngoan cường chống lại đám cường bạo phủ đô hộ mà xông pha trận mạc, vì dân nam, vì cháu con nòi rồng mà đâu tiếc tấm thân. Bọn ta dẫu có bại trận, chết ngoài sa trường ấy cũng là cái tâm hướng tới chúng dân, ghét bỏ đám ngoại bang đè nén dân ta bấy lâu. Chứ đâu như châu Phong trượng nghĩa mà chỉ no cái bụng của mình mà không có chút thương cảm cho con dân đang bị giày xéo ngoài kia."

Có tay cầm ly rượu hất xuống đất, mặt bủng, râu mềm, giọng nói chua chát:

- Xưa Sĩ Vương lấy đức trị mà yên được đất nam ta, từ bấy giờ dân ta đều an lạc. Đám người nổi dậy như bọn Lý Phật Tử, Phùng An nổi dậy chống lại quân triều đình, cũng chỉ lấy cái cớ là vì chúng dân nhưng đều vì cái t.ư lợi nên chuốc lấy cái thất bại, sinh linh mấy phen lao đao trong đạn mù khói lửa. Đám người Dương Thanh cũng vì cái t.ư lợi nên mới nhận cái kết cục như thế.

Sĩ Giao rót ly rượu đầy, uống một hơi thật cạn rồi đập ly đi, lời nói sắc tựa dao:

"Là kẻ nho Hoàng La Phú năm trước ở hội châu Phong đi trêu ghẹo đám con gái bị đám thanh niên đánh cho hộc máu mũi máu mồm, quỳ lạy bọn chúng nên mới chạy được về đất Mê Linh này, giao du với công tử Tiềm, nổi tiếng ba hoa nên được gọi là Ba Hoa Phú có phải chăng?

Ông nội Phú là phu ở Giang Nam trong đợt đi tuyển chọn gái dâng cho triều đình họ Lý thông râm với con tiện nhân họ Đào bị quan trên bắt được đem hoạn để thị uy. Nhờ có chút bạc lẻ mà chạy trốn về đất châu Phong lánh lạn. Đến đời Phú là thứ ba, cũng thật hợp với danh hiệu của nhà ngươi đó.

Đất Văn Lang bờ cõi từ dãy Ngũ Lĩnh hướng nam, đông hướng tới biến lớn là của nòi giống bọn ta, của những người con mà người Hoa Hạ các ngươi cho là giống man di, xứ thuộc của bắc triều nên mới có những viên quan lại như Sĩ Nhiếp. Kẻ không ra gì thì nhiều vô kể, còn những kẻ khác dẫu là có đức trị thì vẫn dùng cái khéo léo để bóc lột đám dân nam bọn ta.

Những cái tên mà nho hủ nhà ngươi kể ra, đám người đó có khác chi đám cường hào, bạo ngược với dân. Lý Phật Tử vì lòng ghen ghét đố kỵ với Triệu Vương, lấy tấm chân tình của Nhã Lang mà mưu tước đoạt binh quyền Việt Vương. Phùng An hại anh, hại cháu quẫn tiết mà hàng quân Đường, dẫn địch giết chết cháu mình. Đó là những kẻ có lòng dạ tiểu nhân, không đáng để bàn tới.

Dương chủ tướng giết kẻ tham tàn, không phải kẻ bạo ngược, càng không lấy dân chúng để làm lá chắn, lấy tình thân đem bán rẻ cho giặc, lấy sức quân ta mà giết hại dân ta. Nhà ngươi hãy uốn lưỡi ba lần rồi hãy buông lời."

La Phú đưa tay lên miệng mà sờ. Có mũi tên phóng ra từ phía cánh gà, mũi tên xé toang vạt áo Sĩ Giao, cắm chặt lên cột gỗ trước điện. Sĩ Giao không lấy làm nao núng, lấy tay giựt mạnh mũi tên bẻ gãy làm đôi, đuôi tên có chữ Hỏa. Một vị tướng, đôi chân thanh thoát như ngựa khỏe miền Vân Nam, mái tóc xẻ đôi vừng trán, bước ra giọng nói mỉa mai:

- Là Bá Nam quân sư Đỗ Sĩ Giao, kẻ trốn chạy ở dạ tiệc Tống Bình năm xưa. Suýt mất mạng ở bến Hắc Cảng, được Dương tướng quân khi ấy là nha môn tướng cứu giúp mà nên được sự nghiệp hiển hách. Sĩ Giao quân sư nói thật hay, như đục màng nhĩ của đám nho văn bấy lâu chỉ biết uống rượu, bàn những lời tục tĩu. Tiên sinh cho tại hạ hỏi một câu. Nếu Dương Thanh toàn tâm toàn ý với đám dân chúng Giao Châu, há sao lại khiến bọn chúng dân Tống Bình căm ghét bấy lâu. Những lần Chí Liệt đánh tới vùng phụ cận Tống Bình đều bị dân chúng Tống Bình bỏ trống làng mạc không có ý giữ đám quân của Chí Liệt.

Đỗ Sĩ Giao cầm mũi tên vừa bẻ gãy ném xuống đất, chân giậm giậm, lại lấy bầu rượu dốc vào mũi tên ấy như đang dập lửa. Sĩ Giao nhìn lên bầu trời mà cười lớn:

"Một kẻ như Hỏa Cước Tốc thân là quân tướng Tống Bình một thời khói lửa xông pha, đầu hàng quân triều đình. Theo quân triều đình đi bắt cướp ở châu Phong lại bị em ta Sĩ Hoàng xỉ nhục ở lều quán đất sông Tam tỉu. Vậy mà vẫn được thứ sử châu Phong cho làm đến chức Bổ đầu một huyện vùng biên ải. Quả thật châu Phong thiếu thốn nhân tài tới độ ấy sao. Trong khi đó, Chí Liệt thiếu chủ ba lần viết thư xin nhập quân châu Phong, đều bị Vương thứ sử chối từ. Há chẳng phải bỏ đao sắc lấy dao cùn hay sao.

Chủ tướng Dương Thanh như ta đã nói, bị đám người vì t.ư lợi cá nhân mà bán tình thân, trung nghĩa cho giặc đổi lấy tiền tài, chức tước. Giặc lại dụng kế đánh trống bỏ dùi khiến dân Tống Bình hiểu sai lệch đi chủ đích của đám ác bá họ Quế kia. Chính bọn gian tặc đó đã t.ư thông với họ Quế, tung tin bôi xấu Dương tướng chủ với người dân trong thành Tống Bình, khi tướng chủ không còn nữa thì sát hại dân lành dưới danh nghĩa chủ tướng ta. Vì lẽ đó mà dân Tống Bình còn e ngại với Chí Liệt thiếu chủ.

Nay mọi sự đã hai năm rõ mười, há vì lẽ chi mà Hỏa Cước Tốc vẫn tin vào lời bịa đặt của đám giặc ấy. Thật hổ thẹn thay, buồn lòng lắm thay."

Đám văn võ nhìn Sĩ Giao mà khinh miệt, có ý đuổi Sĩ Giao ra khỏi bữa tiệc của họ Kiều. Chung Đạt ngồi dưới ánh nắng chói chang, mặt mày đỏ như gấc, đứng dậy vỗ về Sĩ Giao:

- Đỗ Lang y. Anh say quá rồi. Anh còn chưa chịu về chỗ ngồi. Chớ nói thêm lời không hay khiến Vương thứ sử tức giận mà tiệc tàn.

Vương Thăng Triều giơ tay gọi hỏi Sĩ Giao:

- Vậy theo anh. Châu Phong ta sẽ phải làm gì mới đáng với bậc tiền nhân.

Bá Nam cười lớn:

- Dẫu có ai làm chủ đất nam khiến con dân nòi giống tiên rồng được an vui, no đủ, nghe theo bậc minh chủ há chẳng phải tốt hơn sao.

Sĩ Giao bái lạy Thăng Triều, cúi mình thật thấp, ánh mắt nhìn Thăng Triều thăm dò. Thăng Triều thấy vậy, liền tặng ly rượu, sai kẻ hầu mang cho Sĩ Giao. Sĩ Giao niệm tình nhận lấy ly rượu, rồi hả hê mượn gió đang thổi phấp phới cờ xí mà bàn:

- Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dẫu dân nam ta càng cố nín nhịn thì đám quan lại ở Tống Bình đâu có muốn như vậy. Những án lớn, huyện lệnh châu Lục tự ý giết chết cả một xóm chài, sai người quét sạch mấm mồng đất Yên Hưng. Bọn châu Ái đục nước béo cò, dắt dân đen vào vũng bùn đen tối. Đất Tống Bình bao nhiêu năm vẫn vậy, quan lớn quan bé đều bụng kễnh nằm nghiêng, soi xét nỗi khổ của đám dân đen bằng xích xiềng, roi vọt… Đấy là bình lặng, an vui, no đủ hay sao.

Thăng Triều lấy hai tay vỗ mạnh xuống bàn, mặt mày nghiêm nghị:

- Lời anh nói chẳng thể trách hờn. Một điều vì dân nam, hai điều vì đất nam. Vậy anh có bao giờ nghĩ rằng chiến tranh chỉ khiến dân lầm than đói khổ hơn chăng.

Sĩ Giao bình thản đáp lời:

"Kẻ lấy bạo tàn để đàn áp bạo tàn chỉ có suy vong, trước giờ luôn là như vậy. Chỉ là cái nhân đức của những kẻ đi trước chưa thể phủ khắp được đất Nam ta. Nay tại hạ thấy đất châu Phong có đủ mọi thiên cơ để dụng nhân đức mà hiệu triệu lòng dân.

Ngày qua, ta xem thiên tượng có vì sao sáng ở phía tây bắc, chuyển ngôi về đông nam đến đoạn cửa sông Cái đổ vào Thiên Đức thì sáng rực lên. Tại hạ xem sách luận ra thì nó ứng với đất người châu Phong. Nếu không phải lúc này thì chắc có lẽ dân nam sẽ mãi chẳng thể ngước thẳng đầu lên mà nhìn mặt mũi cha ông."

Vương Thăng Triều nghe tới đoạn đó thì bị cảm nắng phải sai người dìu vào phía sau lễ đường. Toán Hoa Tài đi theo phò giúp cùng đó là lời hỏi bàn:

- Chẳng hay ý của chủ tướng thế nào?

Thăng Triều ngồi ngậm tách trà rồi lấy tay xoa vào đôi vầng thái dương hằn lên gân xanh, thở dài:

- Giá như Thăng Hùng còn tỉnh táo để giúp ta việc này. Xưa nó vẫn thường vãn cảnh núi Hy Cương mà về khuyên giải ta cho lập đền miếu thờ rồng tiên, làm sao cho hợp lẽ trên dưới, trước sau. Chỉ tiếc là…

Lý Do Độc đi tới bẩm với Thăng Triều:

- Bẩm đại nhân. Sĩ Giao ngày trước có mối thân tình với tiểu tướng. Xin đại nhân cho phép tiểu tướng được mời huynh ấy về trại.

Thăng Triều miết hai bên trán, mặt buồn ngắt gật đầu nói với Do Độc:

- Được. Miễn sao nhà ngươi lo lắng việc quân tình không được bỏ bê, luôn sẵn sàng cảnh giác. Có ngươi cầm binh đất Lâm Tây nên ta cũng yên lòng. Chẳng hay ý của nhà ngươi thế nào. Nhà ngươi hãy dò xem Sĩ Giao đó tâm dạ thế nào rồi bẩm báo lại cho ta.

Bỗng nhiên gió lớn nổi lên, bầu trời sầm tối vần vũ bện những lớp mây trên bầu trời thành hình rồng uốn lượn, nuốt mặt trời vào trong. Chỉ trong thời khắc, mặt trời ló rạng từ phía miệng Rồng Mây. Giọng nói của chàng nho sĩ họ Đỗ văng vẳng bên tai:

"Người châu Phong nghĩa khí ngút trời tựa những đỉnh núi ở phía sau đất Lâm Tây. Đất linh thiêng phụng dưỡng những anh hùng từ thuở khai thiên lập địa. Phía sau lưng thành Bạch Hạc là Núi Hy Cương nơi tổ Hùng Vương lập đất ấy là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc tạo thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.

Từ núi ấy nhìn ra con nước Tam tỉu, thành Bạch Hạc, phía trước ngã ba Tam tỉu có hàng chục quả đồi thấp như đàn rùa tứ linh bò từ ao lớn lên tụ lại chỗ đất linh thiêng. Phía sau, mảnh đất Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp thư. Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục oai phong giữa đất trời. Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) sừng sững như vị tướng quân anh dũng đang cầm chiếc nỏ bắn ra cả nghìn mũi tên coi giữ cõi bờ nước Nam.

Cạnh đó Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là chín mươi chín con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô Phong Châu xưa của bậc tiền nhân dựng nước.

Không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương thơm. Khí cảnh đất ấy phụng dưỡng tứ linh, hạc trắng phủ khắp, sung vượng vô cùng, ắt sẽ sinh ra bậc minh chủ dắt dân Nam ta qua cảnh lầm than đói khổ.

Tính rộng ra, từ trước có bậc nữ hùng Trưng Vương cho tới tận bây giờ đất ấy mới hào quang rực rỡ như thế. Há chẳng phải điềm báo về bậc tôn trưởng đất ấy sẽ thành chủ thống nhất đất nam ta."

Lời nói thao thao của Đỗ Sĩ Giao trước toàn thể văn võ châu Phong như rót thêm dầu vào chỗ lửa đang cháy liu diu. Chung Đạt đi ra phía sau lễ đường thăm hỏi bệnh tình của Thăng Triều. Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt :

- Chung Đạt thấy ta là người như thế nào trong thiên hạ.

Chung Đạt thẳng thắn đáp ngay :

"Đất Tống Bình như cái rốn của rồng thiêng. Dải đất châu thổ trù phú đến mạn đông bắc giáp biển lớn ấy là đuôi rồng. Nay Phong Châu uy danh từ bấy lâu, nhân lúc Đường Kính Tông nối tiếp Mục Tông ham vui, lại bị bọn hoạn quan lũng loạn trong triều. Chẳng sớm thì muộn cũng bị lũ quan hoạn đó trừ khử do Kính Tông không khéo cư xử với bọn ấy. Triều đình vì thế mà sẽ lơi là đất Giao Chỉ.

Lý Nguyên Hỷ là tôi tướng của đám Lý Phùng Cát đang bị các bè phái của tể tướng đương triều Bùi Độ, Vương Thủ Trừng chèn ép. Lúc này lòng dân còn đang loạn, đất Trường Châu và phía tây Tống Bình đã bị Man Hoàng chiếm đánh. Châu Phong không dùng sức mạnh, nghĩa dũng mà chiếm lấy trị sở thì e là kẻ khác đi trước ta một bước mà chiếm lấy. Châu Phong khi ấy sẽ lại lệ thuộc lớp lớp tầng tầng bóc lột, sẽ chẳng phải là điều tốt đẹp cho chúng dân."

Thăng Triều nhìn một lượt ba người cận hầu. Ánh mắt người nào cũng hiện rõ ngọn lửa chiến đấu sục sôi. Do Độc gật đầu tỏ ý muốn Thăng Triều thuận ý ngỏ của Chung Đạt. Toán Hoa Tài bàn với Thăng Triều giữ Sĩ Giao ở lại đất châu Phong. Quân lính của Chí Liệt sẽ do Toán Hoa Tài toàn quyền điều động đề phòng bất trắc. Thăng Triều như gột bỏ đi những muộn phiền, bước ra trước lễ đường bố cáo với toàn văn võ, lời nói chắc nịch :

"Đường triều thối nát. Quan lại miền biên xa ra sức nhũng nhiễu dân lành. Châu Phong ta theo lệ từ trước vẫn thuộc về sự quản thúc của quan sứ ở Tống Bình. Nhiều năm nay ta đã nhẫn nhịn nhún nhường mà chúng không hề có ý dung tha cho dân ta, mỗi ngày thuế sưu nộp càng nhiều hơn. Sức dân, binh lực mà bị sa sút đi trông thấy.

Nay thuận theo thiên ý, lòng dân, ta quyết định ngày mai ở thành Bạch Hạc sẽ huy động toàn quân. Ba ngày sau sẽ xuất binh dẹp bỏ đám bạo tàn ở Tống Bình. Quyết mang lại an vui, no ấm cho người dân đất Nam ta. Ý ta đã quyết, mọi sự sẽ theo sự sắp xếp theo ý ta và Chung Đạt. Kẻ nào chống lệnh chém không dung thứ."

Đám văn nho bấy giờ kẻ nào kẻ ấy tỏ vẻ không vui, bàn tán những lời không hay. Thăng Triều cầm kiếm chém gãy đôi chiếc bàn bày đầy rượu thịt khiến đám văn nho kinh hãi, không dám bàn lời trái ý Thăng Triều. Tiệc tan, đám võ quan nói cười hỷ hả, bọn sĩ nho ngán ngẩm ra về.

Thăng Triều hỏi ý Chung Đạt khi trước quản sự châu Phong, Chung Đạt chỉ cười mà nói với Thăng Triều rằng:

"Đám hủ nho chỉ tỏ ra như vậy, chứ ý lòng chẳng mong Thăng Triều thu hết đất nam về một mối, bọn chúng rồi chẳng phải cũng có nhiều lợi lộc hơn hay chăng. Mà lời nói nước đôi, chẳng can ngăn mà cũng chẳng đồng tình. Đó chính là dụng ý đám hủ nho. Nếu ta thắng trận thì mở lời nhận công, bằng không chúng cũng sẽ chẳng thù tội với đám quan kế tiếp."

Thăng Triều chỉ cười vuốt râu dài. Trời ngả canh dậu, ánh nắng le lói của buổi chiều đất hai bà khiến Thăng Triều không khỏi vấn vương. Tin báo về, Chí Liệt đã dẫn binh tới bắc thành huyện Thái Bình, chờ sự điều động của Toán Hoa Tài. Sĩ Giao ngà ngà say nằm trên xe ngựa đi cùng Thăng Triều về Bạch Hạc. Do Độc cùng Toán Hoa Tài tức tốc tới châu Phong, sai lính tráng chỉnh tề quân ngũ, quân lương vạn hộc không thiếu một ly.

Sớm ngày sau, Thăng Triều cho gọi các tướng tới Bạch Hạc dàn binh, phòng bố khắp châu. Toán Hoa Tài nhận vạn quân hai đường thủy bộ đóng tại thành Mê Linh xuôi về Tống Bình trong thời gian nhanh nhất. Chung Đạt nắm năm nghìn binh kỵ, hợp với đạo quân của Dương Chí Liệt đánh vào các trại quân triều đình ở dải phòng tuyến ngoài cùng từ nam huyện Thái Bình tới vùng châu thổ phía nam.

Do Độc giữ binh Lâm Tây, sai người đến Man Hoàng khéo dụ người Man giữ chắc vùng cương ải, cấp thêm quân lương, điều động binh lính tăng viện cho Trường Châu, đánh vào các phụ cận với Ai Lao, châu Ái nhằm ngăn ngừa sự điều binh từ Tống Bình từ các châu quận phía nam cùng với đám người nhiễu loạn ở Diễn, Hoan.

Đêm khuya ngày rằm tháng sáu, Do Độc dẫn binh từ Lâm Tây bất ngờ đánh thẳng vào trại lính phòng đông của quân triều đình khiến đám quân triều đình hoảng loạn, bỏ đất ấy mà chạy tới Bạch Hạc.

Hai nghìn quân phòng đông của triều đình nhà Đường chạy tới Bạch Hạc kêu la đòi cho trú nhờ trong thành thì bị Thăng Hùng đứng trên cửa thành phóng tên xuống giết chết viên tướng cầm đầu là Lư Hoán. Đám tàn binh giẫm đạp lên nhau, gươm giáo hạ sát những kẻ vướng chân mà chạy tới Đà Giang phía nam thì quân lính bọc hậu của Chung Đạt trông thấy liền xông ra chém giết chết đến nghìn rưỡi.

Còn hai trăm lính chạy tới ngã ba Tam tỉu phát hiện ra thuyền chiến châu Phong đang xuôi dòng, có tên lầm lỳ tới hỏi viên tướng họ Phùng. Họ Phùng vừa nói thì có mũi tên bắn tới, Hỏa Cước Tốc Đinh Tráng gọi lớn khiến tên lính đó thất kinh nhảy vội xuống sông. Đám thủy quân châu Phong liền nhảy lên bờ bắt giết hết số tàn quân triều đình.

Tin báo về Tống Bình, Nguyên Hỷ đang mê mộng liền hộc máu lăn xuống đất. Hai ả vũ nữ đang hầu hạ thấy vậy mà gọi lớn. Bọn lính tráng xông vào giết chết hai ả đó rồi mới hỏi han Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ cho gọi các viên quan lại, tướng sĩ tới bàn kế chống lại quân châu Phong. Thi Nguyên, Long Trạch giáp chiến không trở về Tống Bình bàn chuyện. Các tướng Triệu Cam, Triệu Túc, Mao Húc, Bục Đồ, Giả Thanh, Giả Không, Trương Hàm, Lương Khúc tức tốc chạy tới Tống Bình.

Từ Nguyên Hãn cúi mặt không dám ngẩng mặt nhìn Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ ho sù sụ bàn việc với đám tướng quan. Kẻ nào kẻ nấy đều không dám mở lời đề đạt với Nguyên Hỷ. Duy chỉ có lão quan Triệu Hoằng dâng kế triệu tập quân lính vùng biên ải, gửi thư cho vị tướng trẻ Mã Thực đang đóng ở châu Ung.

Ngoài ra kêu gọi tiếp tế từ Đoàn Uyển châu Ái, điều binh châu Lục, Võ An tới các huyện châu thổ phía đông nam phòng ngừa đội quân Man Hoàng cấu kết với Hoàn Vương mang thuyền chiến tới chiếm đánh. Lại sai các tướng chia các phòng tuyến từ phía ngoài để đối phó với sức địch từ châu Phong.

Long Trạch giữ binh ở đất hồ lớn râm Đàm, đêm nghe tiếng rắn cắn chuột the thé bên tai mà tỉnh dậy nghe quân báo về phòng tuyến lớp ngoài cùng phía tây bị quân của Chí Liệt cùng một đội quân giáp vải, dao dài từ phía bắc huyện Thái Bình xông tới phá tan, Trạch ngã ngửa ra sàn.

Một tên lính chạy từ phía bờ tây hồ thúc ngựa về trại báo thêm tin rằng đội quân phòng đông ở đất Lâm Tây thường qua lại với quân châu Phong bị giết sạch khiến Long Trạch bất thần nửa đêm dẫn ba nghìn lính bắc cầu nổi qua sông Tô Lịch không cần ý dụ của Nguyên Hỷ đánh thẳng tới huyện Vũ Bình hòng cứu nguy cho đội quân của Thi Nguyên đang chống cự với đám quân Trường Châu cùng Man Hoàng.

Một đạo quân do tướng dưới trướng của Long Trạch là Luân Hữu đi về phía bắc phá vòng vây của quân châu Phong, mở đường tháo chạy cho trại quân đóng ở phía đông huyện Thái Bình.

Luân Hữu mang quân tới chân núi Câu Lậu thì bị toán quân của Chung Đạt chặn đánh, vòng vây hai lớp của quân đội châu Phong chưa thấy, đội quân của Luân Hữu bị phá tan. Luân Hữu bị nô gia của Chung Đạt tên là Cầm Đắc dùng dao dài chặt đứt tay phải. Luân Hữu ôm tay thẫm máu xông lên liều chết với Chung Đạt thì bị con rể lớn của Chung Đạt là Liễu Bình dùng gậy gióng tre vót nhọt đâm thẳng vào ngực trái ngã xuống đất, mắt mở thô lố mà ngừng thở, máu đông. Chung Đạt cho lui quân về thành huyện Thái Bình hạ trại nghỉ ngơi.

Lúc bấy giờ, đội quân Man Hoàng do gã quỷ Tồn Thăng cùng với Triệu Cường xông ra từ núi Tản Viên đánh phủ đầu vào đội quân tiên phong của Long Trạch. Sức quân Man Hoàng quá mạnh khiến Long Trạch đành phải rút lui. Thi Nguyên mang hai đội giáp sĩ chạy về phía đông gặp đội quân của Long Trạch hợp làm một đánh nhau một trận lớn với Chí Liệt, Dương Diện Gã Quỷ đến mờ sáng không phân thắng bại.

Bỗng nhiên có một đội binh mã gần ba nghìn người có hai chục tượng binh đi cùng rầm rầm đi từ phía tây tới. Viên tướng cầm ống nứa thổi vang âm thanh kỳ quái khiến đầu óc quân lính cả hai bên quay cuồng. Gã Quỷ Dương Diện biết đó là Nga Tú Du Thủy liền sai lính bịt hai bên tai chạy toán loạn khiến đội quân của Long Trạch không biết địch ta chém giết lẫn nhau lên đến nửa nghìn người.

Thi Nguyên nghe thứ âm thanh đó lấy chiếc gậy đầu rắn chạy về phía đông nam nơi Chí Liệt đang giao chiến với đám tàn binh, tránh xa thứ âm thanh nhức tai từ Lý Toàn đang tới. Đánh nhau với Chí Liệt hai mươi hiệp dụ Chí Liệt chạy tới chỗ có bụi dứa gai thì nấp đi rồi bất ngờ xông ra đạp vào người Chí Liệt từ phía sau khiến Chí Liệt ngã vào bụi dứa.

Nguyên tay trái dùng đầu xà ngậm chặt đầu ngón tay của Chí Liệt khiến Chí Liệt đau đớn kêu la. Tay phải, Nguyên dùng chiếc quyền trượng đầu rồng toan đánh vào đầu Chí Liệt thì Lý Toàn phi dao nhỏ trúng đầu xà khiến gậy đó gãy đôi. Thi Nguyên chạy ra giật lấy ngựa của tên giám quân chạy về phía nam, lạc vào đất có nhiều núi thấp không tìm thấy đường ra.

Long Trạch trông thấy quân lính Man Hoàng tới tiếp viện cho quân châu Phong cùng Chí Liệt đành phải rút lui về phòng tuyến lớp thứ hai. Đội quân do Chí Liệt đuổi theo truy sát thì gặp đội quân hơn năm nghìn lính của Tống Bình giáp hoa, giáo dài đứng chặn ở phía bờ tây sông Đáy. Chí Liệt thu quân trở về phía tây.

Dương Diện gã quỷ chưa thỏa cơn thèm khát đánh giết tự ý rời quân Trạch xông thẳng về phía quân lính triều đình lấy đầu bảy tên lính dễ như xơi trầu, xông tới giao chiến với Long Trạch. Sức nặng của từng hiệp đánh khiến ngựa của cả hai người phải khuỵu chân, được chục hiệp giao đấu thì ngựa của Long Trạch bị gãy chân, Trạch đành dùng song câu chém đứt lìa hai chân trước ngựa của Gã Quỷ. Gã Quỷ nhảy xuống ngựa, đôi mắt căm hận, miệng nói lớn, cười hả hê:

- Đám giả phật các ngươi. Có bất ngờ không con trai.

Long Trạch đôi mắt đăm đăm, da xanh gân guốc nổi đầy, Trạch cất đi đôi câu trên lưng, dùng móng vuốt gắn chặt đôi tay. Long thiết trảo những đòn giáng mạnh khiến Gã Quỷ lúng túng chống đỡ. Cây dao quắm đã bị gãy làm t.ư, chỉ còn lưỡi quắm dính một mẩu chuôi gỗ. Gã xông tới bụi tre cạnh đó chặt gãy mười cây, chống trả thêm được ba mươi hiệp đấu với Long Trạch.

Gã Quỷ ngẫm trong bụng không thể khắc chế được Long Trạch nên nghĩ kế chạy về mé sông, dùng nghi binh để Long Trạch không biết. Đám quân xô tới mé sông, phạt hết các bụi thì không thấy Gã Quỷ đâu. Một lát sau, gã Quỷ từ phía xa chạy cưỡi ngựa đi tới. Một tên lính không đầu đứng cạnh. Ném thủ cấp vào trước mặt chỗ Trạch đang đứng, Gã Quỷ cười lớn :

- Hẹn gặp lại tên quỷ da xanh nhà ngươi. Đợi ta về rèn vũ khí xứng tầm, sẽ quay lại đấu với nhà ngươi. Các ngươi còn không mau mau chuẩn bị tinh thần lên đoạn đầu đài. Không thì hãy cúi đầu xin gia gia tha mạng, biết đâu ta vui sẽ tha cho lũ các ngươi.

Long Trạch ánh mắt căm hờn mà nghiến răng ken két, cho quân lính hạ trại nghỉ ngơi thay nhau phòng bị quân Man Hoàng cùng châu Phong đến đánh. Sĩ quân mệt mỏi nấu bữa cháo sáng với cá bắt từ sông, Lọng Trạch dùng cháo nhạt trắng thanh đạm mà đầu óc quẩn quanh, lúc nào cũng giật mình thon thót. Hễ có tiếng giáo gươm rơi xuống đất, hay chỉ là tiếng xoong chảo đập vào nhau Trạch lại giậm chân, giương kiếm nạt nộ khiến quân lính chỉ dám thở nhẹ.

Đám binh mã mệt mỏi ngủ khì khì dưới nắng, dẫu nước sông vẫn chảy cuộn ào ào. Long Trạch ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ rồi ôm đầu gục xuống. Nhắm mắt vào mà chẳng thể an tâm, lại trằn trọc giữa nắng rát miền Lĩnh Nam, mồ hôi hột giỏ ướt nhòe vải mực. Sức không còn, Trạch gục mặt xuống bàn.

Tiếng leng keng báo giờ thìn đã hết, một tên lính mặt nhem nhuốc chạy vào. Long Trạch lờ mờ mở mắt, trong thấy lính nhem nhuốc mà giận lời :

- Bọn mày làm gì mà nhơ nhơ nhuốc nhuốc. Giờ đã cơn trưa sao cháo lão chưa xong.

Hắn nói rằng hắn là mõ cả ở trong xóm cách sông Đáy hai hương, chạy tới đây khi trời còn mờ sáng. Báo rằng có kẻ cầm đầu rồng quyền trượng vào trong hương nhiễu nhách suốt đêm. Trẻ con khóc thì bị nhét giẻ, bà già kêu thì đánh mẻ hàm răng. Nhìn hắn tướng uy võ oai phong, không phải dạng tầm thường cướp trộm.

Long Trạch mường tượng ra họ Thi, lấy làm giận đành bỏ bữa không ăn. Cho người đến hương ấp đó tìm kẻ quấy nhiễu.

Đến canh mùi, Thi Nguyên ló mặt về, dáng vóc trông không khác kẻ ăn xin. Long Trạch hỏi Thi Nguyên về thực hư chuyện ấy. Thi Nguyên nói rằng nữa ngày tìm đường mới chạy được tới đây, không biết về dân làng bị nhiễu nhách.

Long Trạch tạm tin lời Thi Nguyên, không trách tội Thi Nguyên. Sau đó, Thi Nguyên buồn bã tới chỗ bờ sông, tên cả mõ đang đánh đẩy đong đưa với một đứa con gái phường mèo mả gà đồng. Long Trạch nói rằng chính tên đó đã nói Nguyên nhiễu nhách dân làng khiến dân đó ghét đám lính triều đình.

Nguyên nghe xong, nhận ra tên đó đêm qua trà trộn vào đội lính của Nguyên, lại hô hào bọn lính bỏ chạy. Chính là gã rêu rao đồn thổi lời không hay về quân lính Tống Bình với đám dân nghèo khiến dân chúng nhìn thấy lính Tống Bình liền bỏ nhà mà đi.

Nguyên hằm hằm mặt đi tới chỗ đôi trai gái chém đứt đôi người đứa con gái. Tên kia máu me đầm người, hốt hoảng chạy đi thì bị Trạch ném câu trúng gáy, đầu lìa khỏi cổ lủng lẳng rồi toàn thân đổ rầm xuống đất. Nguyên lấy trên người hắn ta một chiếc ngà voi khắc chữ Dương. Long Trạch nghĩ thầm trong bụng "Hẳn là bọn người họ Dương, chính bọn ấy làm ra làm ra việc này".

Trạch lệnh cho toàn quân nhổ trại lui về Tống Bình để bảo toàn binh lực. Đi đến đoạn bờ tây sông Tô Lịch, cây cầu nổi bằng gỗ đã bị phá tung. Trạch đích thân cùng tay quân sư dùng bè gỗ vượt sông vào trong La Thành bẩm báo lại toàn bộ việc quân cho Nguyên Hỷ nghe.

Hỷ lúc bấy giờ hai đêm mất ngủ, khuôn mặt đờ đẫn như cái xác vô hồn. Đôi mắt thâm quầng, sâu hoắm lộ ra chiếc sọ hốc hác, tay chân bủn rủn nói với Trạch :

"Ta sai các tướng đi bố phòng những chỗ yếu hiểm. Nay chỉ còn đất phía tây do Long tướng quân cùng Thi Nguyên giữ. Phía bắc bị quân châu Phong tập kích từ đất Mê Linh, quân ta rút theo sông Cái về đến râm Đàm, tướng Triệu Cam, Triệu Túc đang bày binh đoạn từ hữu ngạn sông Cái tới râm Đàm, chúng không quen sông nước nên bị chết đuổi phần nhiều.

Quân lính Mê Linh mạnh quá liên tục cho thuyền vượt sông đánh vào La Thành. Bọn Mao Húc, Bục Đồ trấn thủy quân cửa sông Thiên Đức bị đội quân châu Phong do tướng Toán Hoa Tài châu Phong đẩy lui về phía đông. Thành Long Biên, các tướng Giả Thanh, Giả Không không chống cự nổi đành bỏ trống thành lui về Liên Hựu huyện Nam Định.
Trương Hàm, Lương Khúc giữ Loa Thành hiện vẫn còn giữ được thành nhưng không rõ sẽ trụ được bao nhiêu lâu nữa. Lục Châu lại loạn, quân đội tiếp viện chẳng biết khi nào mới tới."

Long Trạnh tím tái mặt mày, tay bấm chặt dấm máu. Trạch hỏi :

- Nghe nói có viên tướng trẻ tuổi Mã Thực năm trước ở châu Ung dẹp được bọn Nam Chiếu, Man Hoàng. Chẳng hay đại nhân có nghĩ tới hay chưa.

Nguyên Hỷ thều thào :

"Nước xa không cứu được lửa gần. Liên Thụ thành Nam đã bị một toán cướp ở Chu Diên đốt cháy cửa thành, phải dựng cọc tre để trấn thủ. Loa Thành đã bị phá phân nửa. Viện quân ít nhất cũng phải ba ngày nữa mới tới lại bị quân nổi loạn ở châu Lục cản bước.

Giờ chỉ còn đường núi đi qua Nà Lữ nhưng phía đông châu Bình nguyên dân ở đó hiện còn căm ghét Trương Sang do Sang giết viên tù trưởng của chúng nên cũng không thể đi tới được. Nếu có đi qua cũng bị đám quân châu Phong chặn đánh ở phía bắc. Thư gửi tới các châu Quảng, Quế, Kinh Nam mà chẳng có hồi âm. Nay cậy nhờ cả vào Long Trạch tướng quân."

Trạch mặt đăm đăm hồi lâu, vết thương ở vai nhức giật lên như khiến Long Trạch nhớ ra điều gì đó. Gã mặt xanh đi qua đi lại, lầm nhẩm vài lời trong miệng như tự nói với bản thân. Nguyên Hỷ thấy vậy liền hắng giọng mà hỏi :

- Tướng quân có kế gì hay chăng? Có điều gì thì hãy lớn tiếng nói cho ta.

Long Trạch lau đi dòng mồ hôi ướt vừng trán, hai tay vò chặt lấy nhau. Lòng nóng như lửa đốt:

- Cơ sự đã như vậy. Hãy liều chết với chúng một phen, ta không tin bọn chúng có thể chiếm được đất Tống Bình một cách dễ dàng như vậy.

Nguyên Hỷ thấp thỏm ngồi lên, nằm xuống. Giọng nói không ra hơi như người hấp hối :

- Hay ta viết thư đầu hàng châu Phong. Nhường đất Tống Bình cho họ Vương. Hòa hoãn với chúng đợi viện quân tới.

Tay quân sư cho Long Trạch nãy giờ ngồi yên lặng, nghe thấy Nguyên Hỷ muốn hàng mà mặt mũi như bừng tỉnh. Hắn liền ngỏ ý tham mưu :

- Lời đại nhân không phải không có ý hay. Chỉ có điều họ Vương đó có chịu lời hòa hoãn của ta. Chi bằng đại nhân hãy cho Triệu Hoằng làm sứ tới đó mà khuyên giải chúng.

Long Trạch quả quyết :

- Thà chết nơi sa trường chứ không thể hàng những tên phản loạn.

Nguyên Hỷ nhổm dậy, tay run run chỉ vào Long Trạch toan nói lời gì đó thì từ phía ngoài huyện lệnh Tống Bình Nguyên Hãn đi tới báo tin rằng quân lính phía nam đã đánh lui đám quân nổi loạn. Chiếm lại sống Xích Đằng, bọn quân lính Chu Diên đánh dẹp được một đám dân buôn chài là tay sai của đám quân nổi loạn.

Quân lính bắt được hai mươi người cả phụ nữ, bị ép cung nên bọn đó khai ra chỗ quân lính đóng trại, lại dẫn đường mà bắt sống được phó tướng của Phạm Đan là Nguyễn Hoắc. Nhận tin mừng Nguyên Hỷ nét mặt giãn ra đôi chút, Hỷ nói :

- Bọn dân nam nghèo đói đã lâu, bọn thổ hào cũng lấy cớ ấy mà hô hào chúng nổi dậy. Bây giờ chỉ cần sai đám lính trà trộn vào dân, cho mỗi hộ vài đồng bạc lẻ, nói chuyện khéo léo với chúng để chúng căm ghét bọn cầm đầu nổi loạn. Về phía châu Phong ta sẽ sai Triệu Hoằng tới đó bàn lời nghị hòa xem chừng sẽ được lợi cho ta.

Nguyên Hãn cản lời :

"Triệu Hoằng trước theo Dương Thanh không được lòng họ Vương, sau lại bỏ họ Dương theo ta càng khiến Thăng Triều coi khinh. Triệu Hoằng lại vốn tính tham lam e rằng sẽ hỏng chuyện.

Hạ quan nghe quân tình báo về thì Vương Thăng Triều cùng với Kiều Chung Đạt bị kẻ khác rèm mà mà đem lòng hận Tống Bình vì bắt giết con trai của Chung Đạt, lại khiến con trai của Thăng Triều mất tích nên mới động binh đòi xử tội Tống Bình. Tại hạ phen này xin đi để nói lời phải trái với họ Vương cùng với họ Kiều. Tỏ ý muốn nghị hòa, giải quyết mọi chuyện cho êm xuôi."

Long Trạch ném câu xuống dưới sàn nhà, giọng nói trách móc :

"Nếu các ngài muốn hàng thì tự đi mà hàng. Quân lính của ta sẽ đánh tới cùng đợi viện quân tới. Các ngài nghĩ rằng họ Vương đó chỉ vì t.ư thù mà đem binh đánh Tống Bình hay sao. Không phải bọn chúng đã mấy năm nay nuôi binh lính hùng mạnh để đợi cái ngày này hay sao.

Nếu bọn tướng tá dưới trướng như ta đầu hàng chúng thì cái đầu vẫn còn, dẫu có không làm quan tướng thì cũng được trở về làm thường dân. Như các ngài bọn đó đâu có thể cho các ngài ung dung ở Tống Bình."

Từ Hãn Xương vỗ về Long Trạch:

- Long tướng quân nói lời rất hay. Nhưng ta tin quân châu Phong thừa hiểu rằng, khi bọn chúng ngồi lên cái ghế ở Tống Bình sẽ có rất nhiều kẻ khác ngó nhòm, rồi cả triều đình cũng chẳng thể cho bọn chúng ngồi yên. Ta tin rằng Vương Thăng Triều chỉ vì một chút t.ư thù nên mới cả giận mang binh đánh Tống Bình. Phen này ta đi lấy lời phải trái nói cho đám người Phong Châu. Nếu chuyện mà không thành xin dâng đầu cho loài sói lang.

Long Trạch không phục lời nói của Hãn Xương, hậm hực bước ra ngoài, chạy thẳng về phía thành cũ, vượt sông trở về Hoài Đức cùng Thi Nguyên giữ chặt phòng tuyến. Hãn Xương nhận lệnh mang theo đôi chim Hạc đứng trên mình rùa đúc bằng vàng , một mâm cau trầu, xôi gấc, chín chín tám mươi mốt con gà trống luộc kỹ soạn sửa mang tới bờ nam sông Cái.

Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ mười :

Bá Nam mượn rượu mắng Vương thứ sử .

Chung Đạt giết quan huyện đoạt Tống Bình .

Chương 10.4 Từ chỗ sáng bước vào tăm tối và cái chết

Chung Đạt nghe có quan huyện Tống Bình có thành ý đem theo lễ vật tới diện kiến liền sai người mang thuyền lớn tới rước.

Bãi Quần Thần giữa dòng sông Cái, phía bờ là đất linh thiêng của lão thần nhân Lý Ông Trọng. Chung Đạt cho người bày chõng tre, vải lụa giữa bãi đất cùng Hãn Xương ngồi đàm đạo hồi lâu đến giữa trưa canh ngọ. Sau đó Chung Đạt mời Hãn Xương về trại quân, mang xôi gấc, thịt gà khao đãi toàn quân.

Hãn Xương trông thấy khí thế ba quân của Chung Đạt mà lấy làm kinh hãi, lúi húi vội vàng chạy qua đám quân bước vào lều trại của Chung Đạt. Chung Đại tiếp đón hậu tình, rồi sai người chuẩn bị xe ngựa, lệnh bài để đưa Hãn Xương tới Bạch Hạc hầu chuyện với Phong Châu thứ sử.

Đêm khuya tiếng lang sói gầm vang, trong cơn ngà say, Chung Đạt tiễn Hãn Xương đi về phía tây bắc. Hãn Xương lên chiếc xe ngựa dần xa tiếng trống chiêng, ánh lửa bập bùng. Tiễn người bạn thâm tình bao năm, cầm ly rượu rót xuống mặt đất cát phù sa đỏ ngàu, Chung Đạt cười trong nước mắt :

- Tiễn biệt hảo hữu. Chén rượu cay như lời tạ từ. Tiễn người từ chỗ ánh lửa rọi tới chỗ mịt mù tối tăm.

Bước vào trại, Chung Đạt mải miết từng nét chữ. Canh ba gà gáy nơi làng chài nhỏ bên sông, Chung Đạt cho người gửi lá thư cho quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ kể tội, vạch trần bộ mặt của đám quan lại Tống Bình, thể hiện ý nguyện muốt quét sạch Tống Bình.

Chung Đạt khuyên rằng Lý Nguyên Hỷ muốn đầu còn trên cổ thì mau mà bỏ trị sở về bắc, kẻo chẳng còn vẹn nguyên tấm thân. Lời lẽ mỉa mai Chung Đạt ví Nguyên Hỷ như gà nuôi trong lồng bấy lâu, béo tốt, lông mượt đến khi lồng vỡ rách thì bị đám gà khác xông tới mổ xé. Chung Đạt nằm ngủ mê trong trại cười phá lên : "Đồ gà lồng không biết bay".

Quân lính kháo nhau, lời bàn tới các quan trong phủ đô hộ. Ai nấy đều cho đám quân châu Phong trước giờ lấy lụa là, vàng bạc nịnh bợ quan trên, nay lại lật thuyền toan làm phản, không đáng kẻ anh hùng trượng nghĩa. Kẻ nào kẻ nấy sớm lên trị sở mà bàn chuyện đều dâng kế đánh dẹp quân châu Phong.

Nguyên Hỷ ho gà suốt tuần lễ, máu xổ ra đến hai chậu đỏ tươi đã nằm bẹp trên giường bệnh từ lâu. Chờ tin từ Hãn Xương quay về mã mãi chưa thấy, Nguyên Hỷ đành phó mặc cho các quan dưới lo liệu việc quân tình.

Kẻ nói đánh tây, người bàn chinh bắc, người nghị hòa với nam, kẻ muốn chiến đấu diệt đông khiến quân tình đảo loạn hết thảy.

Bấy giờ Hãn Xương tới Bạch Hạc diện kiến thứ sử châu Phong, ba ngày không gặp được họ Vương khiến Hãn Xương thấy trong lòng như nuốt phải than đỏ. Hãn Xương nằm trên gác quán trọ nhìn ra thấy chữ Đỗ treo trên chiếc đèn lồng phía trước một quán rượu phía xa.

Hãn Xương sực nhớ lời Chung Đạt ngày trước có nói rằng tới quán rượu ở cửa phủ phía đông, gặp được cha con họ Đỗ sẽ có tín lộ mà tới được phủ thứ sử. Hãn Xương vội vàng mang theo chút bạc tới quán rượu ở góc phía nam thành Bạch Hạc.

Bước vào phía trong quán rượu, như bao quán rượu nhỏ to khác, tên tiểu nhị đon đả hồ hởi đón khách quý. Lời ra tiếng vào trong quán ầm ĩ không khác chi phường buôn thúng bán mẹt ngoài chợ. Tiếng vàng bạc liểng xiểng, lúc xúc mà không thấy một ánh lấp lánh của những thứ đó phát ra. Kẻ vội vã, người cúi mặt, xì xầm những lời bàn bạc như cánh hát tạp âm.

Hãn Xương mặc chiếc áo đẹp đẽ, bước vào quán rượu toát lên vẻ tôn quý của bậc trưởng giả, cô gái bước ra xua tên tiểu nhị vào trong, giọng nói đon đả:

- Khách quan xin mời vào phía bên trong. Có người đang chờ ngài ở phía trong.

Bước qua bếp rượu vào tới một gian phòng ngập tràn những sổ sách bàn tính lách cách. Nhìn qua khe cửa gỗ mà Hãn Xương cười nhạt lắc đầu. Cô gái quay lại nhắc khéo Hãn Xương nhanh nhanh bước vào phía trong. Một viên công tử đang đứng quay mặt về bức vách mặc áo lụa, đầu chít khăn vàng chữ phúc, tay vắt phía sau cầm chiếc quạt lá cọ trực chờ. Nghe tiếng bước chân từ phía sau, viên công tử quay ra cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương ngợ ngợ cúi chào lại vị viên ngoại đó. Hãn Xương lập bập :

- Chẳng hay tên họ vị công tử này là gì? Sao lại biết ta tới đây mà cho gọi vào.

Viên công tử khẽ nhếch mép cười :

- Những kẻ tới đây không phải là tìm tín lộ tới cửa quan hay sao. Thấy vị quan khách đi từ phía quán trọ tới, ta liền sai người nghênh tiếp. Có điều chi thất lễ xin quan khách bỏ quá cho. Ta họ Đỗ tên Nam, tự là Bá Sính, hiệu là Hoàng Y Tín Lộ. Mọi người vẫn gọi ta là Đỗ Hoàng Y. Vị quan khách này nhìn qua bề ngoài chắc hẳn không phải là người đất châu Phong. Đeo lệnh bài, mặc áo lụa bên trong chỉ có thể là huyện lệnh.

Hãn Xương lấy tay ra hiệu gạt lời Hoàng Y :

- Công tử xin khẽ lời cho. Thú thật ta là người của huyện lệnh huyện Thái Bình tới châu Phong đã ba ngày nay tìm gặp thứ sử châu Phong Vương Thăng Triều mà chưa được gặp.

Hoàng Y cười lớn :

- Ngài hãy cứ ngồi xuống đây, uống ly rượu này, ăn chút điểm tâm rồi hãy kể lại sự tình cho ta. Đến đây, bất kỳ ai ở châu Phong đều có thể gặp được. Chỉ có điều…

Hãn Xương rút ra túi bạc, vỗ vào bụng :

- Ta hiểu ta hiểu. Chỉ là cần gặp được họ Vương đó, chắc chắn sẽ không để công tử phải nghĩ suy. Ta ở đây có hai nén bạc đặt làm tin. Xong việc ta sẽ trả thêm cho công tử ba nén nữa.

- Không được. Gặp thứ sử chứ đâu có phải gặp chó gà. Hai nén vàng. Không hơn không kém. Bằng không xin quan khách hãy cứ về quán trọ để đợi gặp thứ sử.
Hãn Xương cắn môi mà rút ra một nén vàng đưa cho Đỗ Nam. Hoàng Y chút thêm hai ly rượu, Hãn Xương nằm ngủ thiếp đi. Khi tỉnh lại đã ở phía trong gian phòng rộng rãi, vật trang trí đơn sơ, bàn ghế gỗ tre mộc mạc. Hãn Xương nhẩm trong bụng rằng mình bị tên kia lường gạt cho tới cái chỗ xơ xác này.

Mở cánh cửa gỗ bằng gỗ lát chắc nịch bước ra phía ngoài, có một ông lão đã trực sẵn ở chỗ đó từ bao giờ tới cúi chào Hãn Xương. Hãn Xương hỏi ông ta đây là đâu. Ông lão nói đây là phủ của thứ sử rồi dẫn Hãn Xương bước qua khuôn viên tĩnh lặng, đất vườn rộng bao la với những gốc tre, cây cọ mọc thành từng lụm dày di dít, cánh cò, cánh hạc đậu trắng sân vườn.

Có vị công tử mặc áo lụa màu xanh, đầu búi củ hành, đi giầy vải đỏ, mặt mũi tuấn tú khôi ngô trông thấy ông lão dắt người đi tới liền gọi lại :

- Này Lão Đỗ, nhà ngươi lại dắt người đi tới điện phủ có việc gì.

Lão cúi đầu, ra hiệu cho Hãn Xương cúi chào vị công tử, lão bẩm lời :

- Bẩm Vương thiếu chủ, người này muốn được gặp Vương thứ sử.

- Vậy à. Lão hãy đi đi.

Hãn Xương đứng đợi ở phía ngoài, Lão Đỗ bước vào trong bẩm với một người đàn ông tuổi chạc tứ tuần, phong thái điềm đạm. Bóng người hắt ra, tiếng thì thầm nhỏ to, Hãn Xương cố rỏng tai nghe nhưng không sao tập trung được. Hãn Xương nhìn theo vị công tử đó quanh đi quẩn lại, cầm sách đọc lại ngẩn ngơ cười, chốc chốc lại quay ra nhìn về phía gian phòng vẫy tay như muốn chào Xương.

Xương liên tục cúi đầu chào từ phía xa. Một lát sau, Lão Đỗ bước ra, tay cầm một thẻ bài dắt Hãn Xương tới phủ điện.

Mùi trầm hương thoang thoảng, chiếc lư đồng nghi ngút khói, đôi hạc đồng đen đứng uy nghi. Thấp thoáng bóng người là vị thứ sử đang ngồi đọc thẻ tre, dùng nghiên bút đọc điểm những bản tấu sớ. Nhìn từ phía ngoài, Hãn Xương lén nhìn vào phía trong.

Lão Đỗ bước tới gần chỗ của vị thứ sử đang ngồi. Thăng Triều đứng dậy, bước ra ngoài gian điện lớn, hai dãy ghế bàn gỗ nghiến, gỗ xoan bạc màu được xếp phẳng phiu thẳng lối. Vương thứ sử ngồi chính giữa, trên bàn chỉ có nghiên bút cùng vài mảnh giấy gió còn vương chút mực, ánh đèn dầu phụng đang lập lòe bỗng tắt phụt khi Hãn Xương theo chân Lão Đỗ bước vào.

Hãn Xương loay hoay tìm cho mình chỗ ngồi, Lão Đỗ xin lui ra. Thăng Triều ánh mắt nhìn ra Hãn Xương, không gian tĩnh lặng, họ Vương hỏi lớn khiến Hãn Xương giật mình ngồi bệt xuống phía bàn cánh tả. Thăng Triều hỏi:

- Nghe tiếng Hãn Xương huyện lệnh Tống Bình đã lâu. Ngài đến mà không báo với ta một tiếng, dẫu gì cũng là mệnh quan triều đình, sao lại đi lối cửa sau tới điện phủ của ta.

Hãn Xương lấy lại bình tâm, ngồi thẳng lưng, đôi tay đặt lên bàn như trẻ học chữ, tay men men chén nước còn nóng nghi ngút. Xương hít hơi thật sâu, nhắm mắt lấy lại khí giọng đáp lời Thăng Triều một cách khảng khái :

- Gặp được Vương Thăng Triều thật là vinh hạnh. Xét về chức tước tại hạ vẫn kém ngài hai bậc. Tại hạ lại là khách, không dám đòi hỏi gì nhiều hơn. Ta báo với đám hầu lại thì được biết Thăng Triều đại nhân đi thăm nom quân tình ở vùng biên ải nên không gặp được. Nay biết tin ngài trở về phủ, nóng lòng muốn gặp nên mới đành phải nhờ chỗ Đỗ Hoàng Y dẫn đường.

Vương Thăng Triều cười lớn, bỗng nghiêm nghị :

- Làm mệnh quan triều đình, lại là sứ của quan đô hộ Nguyên Hỷ tới châu Phong để gặp kẻ tôi mọn như ta thì đâu cần phải lén lút như vậy. Người đời nghe Thăng Triều đối xử với các bậc trưởng giả như vậy thì nào còn mặt mũi với thiên hạ. Không tiếp đón khách quý thật tận tình chu đáo, mong Từ huyện lệnh không để bụng. Ta sẽ xử thật nghiêm đám tôi dưới quyền. Chẳng hay huyện lệnh tới châu Phong có việc gì.

Hãn Xương ngậm chút chè thơm, dõng dạc đáp:

- Nghe nói Châu Phong vì cả giận quan sứ mà động binh đánh tới Tống Bình.

Thăng Triều mặt không biến sắc, giọng nói hào sảng :

-Đánh thì sao, mà không đánh thì sao? Hãn Xương tới đây muốn khuyên giải ta chăng? Hay là ý chủ nhân của Hãn Xương muốn đầu hàng.

Hãn Xương vểnh mặt, vuốt râu, cười Thăng Triều:

"Tại hạ không dám khuyên giải Vương thứ sử. Chỉ muốn bàn vài lời phải trái với Thăng Triều. Đất Phong châu dẫu có hùng mạnh, nhân tài hào kiệt vô số thì cũng chỉ là một mảnh đất nhỏ nhoi ở xứ tây An Nam, đời đời lệ thuộc vào các quan đô hộ, thuế sưu dâng cống cho triều đình.

Quân binh dẫu có đến nghìn, vạn thì cũng chỉ như những sợi tóc trên đầu. Cắt bỏ đi tóc cũ thì tóc khác lại mọc, chỉ là chủ nhân của nó muốn để tóc ấy ra sao. Đầu nấm ngứa thì dùng bồ kết, hoa bưởi, hương nhu đem nấu với nước, gội đi sẽ hết. Nếu có chấy rận thì dùng lược mau để chải. Bằng không gọt đầu bắt hết chấy rận rồi chăm cho lứa tóc mới.

Châu Phong muốn chiếm đất Tống Bình, chẳng phải là muốn triều đình cắt bỏ tóc ấy đi hay sao. Dẫu sao châu Phong xưa nay vẫn trượng nghĩa, tôn thờ trung hiếu. Nay làm ra điều ấy thấy thật hổ thẹn lắm thay."

Vương Thăng Triều chỉ tay vào Hãn Xương, lắc đầu, nhếch miệng cười :

- Nghe nói chỉ vì mái tóc chấy rận mà đô hộ đại nhân Nguyên Hỷ ốm o, thở không ra hơi, nằm thoi thóp chỉ trực chờ ngày ra đi. Xét ra cũng thấy tội thương cho Nguyên Hỷ đó. Thân xác không còn, thì mái tóc có cũng để làm gì.

"Nếu Thăng Triều đã nói như vậy, ta cũng xin thẳng thắn nói với Thăng Triều. Phía tây bắc chây Phong là bọn Nam Chiếu đang lúc cường thịnh, phía tây là dải cao nguyên Ai Lao, đám người đó vốn chẳng ưa miền trung du phía đông. Nếu Thăng Triều mang quân đánh Tống Bình, chẳng phải khiến bọn đó mừng vui hay sao.

Lại nữa, quân đội các châu quận phía nam có để yên cho Vương thứ sử ngài ngồi yên ở đất châu Phong hay không. Phía bắc có Mã Thực ở đất châu Ung, đội quân Kinh Nam, các châu Khâm, Quế, Quảng, Quỳnh mới chỉ hắt xì thôi, e là châu Phong cũng chẳng còn một ngọn cỏ."

- Triều đình thối nát. Các quan lại trong triều còn chẳng quản nổi. Nói chi đến đám quan tướng xứ xa biên ải. Hãn Xương đừng nói thêm lời nào nữa. Nể mặt Hãn Xương là chỗ qua lại với Chung Đạt từ lâu nên ta sẽ tiễn Từ huyện lệnh ra khỏi thành. Mong Hãn Xương về Tống Bình nói với Nguyên Hỷ rằng gỗ vàng tâm xứ nam ta rất nhiều. Nếu không ngại thì Vương Châu Phong ta sẽ tặng cho đô hộ đại nhân làm quà.

Thăng Triều cười lớn ra hiệu cho Lão Đỗ tiễn khách. Những lời trái tai khiến Hãn Xương bực tức bước ra khỏi điện phủ thứ sử châu Phong. Hoàng Y đứng ở phía ngoài đòi số vàng mà Hãn Xương còn chưa trả.

Hãn Xương dùng dằng không trả, Hoàng Y sai người bao vây không cho Hãn Xương bước đi. Hãn Xương tối tăm mặt mũi, đứng giữa vòng vây đám người to lớn, đóng khố, áo trần mà thiên cưỡng rút túi bạc ra. Hoàng Y tiến tới dằn mặt Hãn Xương:

- Là huyện lệnh thì cũng phải như người thường. Định quỵt của bọn này hả ? Không xong đâu. Nhà ngươi có giỏi thì về Tống Bình gọi tay sai tới đây.

Hãn Xương hậm hực, phun nước bọt vào mặt Hoàng Y. Hoàng Y cả giận cho đám lâu la xông vào đánh. Sĩ Hoàng từ phía quán rượu bước ra quát lớn :

- Dừng tay. Bọn mày còn định làm ăn nữa hay không? Đừng có như lũ ngu ngốc phường trộm cắp như thế chứ. Tha cho hắn ta. Dẫu sao việc của hắn cũng không thành. Lấy của hắn như vậy là đủ rồi.

Hoàng Y mặt vênh váo, mắt trợn ngược lấy tay lau đi miếng đờm trên mặt. Hoàng y chỉ tay vào mặt Hãn Xương cảnh cáo :

"Ngươi nên nhớ lần này có anh Đỗ Thương nói cho mày đấy nhé. Bọn ta đối xử đẹp với tất cả, không phân biệt dân thường, quan lại. Chỉ cần có tiền, bọn ta sẽ làm được việc cho khách. Chứ không bao giờ làm cái việc trốn chui trốn lủi khi xong việc như thế. Định trốn nợ bọn ta à? Lại còn không chịu nói cho tao từ sớm là việc của ngươi không thành cho ta biết.

Bọn ta đây không hề lấy trên người ngươi thứ gì trong lúc ngươi say rượu, mặc dù có thể giết ngươi, lột hết của cải trên người ngươi. Nhưng bọn ta có uy tín, có nghĩa khí. Nhớ chưa. Ta không chấp với loại áo vải yếu mềm như ngươi. Cút."

Hãn Xương không nói một lời, chạy về phía quán trọ, thu xếp tay nải hành lý, cùng hai tên tùy tùng lên xe ngựa thúc ngựa chạy thẳng về phía đông nam. Hãn Xương nắm chặt tay bụng nguyền rủa đám người châu Phong suốt dọc đường đi. Hãn Xương bấn loạn không biết phải nói điều gì với quan đô hộ Nguyên Hỷ khi trở về Tống Bình. Định bụng tới chỗ của Thi Nguyên, Long Trách nói cho hai người đó trước.

Đoạn đi qua dòng sông Đà về phía đông tới cửa Hát Môn tới trại quân của Long Trạch đóng ở Hoài Đức, Hãn Xương thấy tên tùy tùng nói có một đoàn người ngựa chừng hai chục người chạy từ phía nam tới đứng chặn đường phía trước. Hãn Xương cho xe dừng lại, nhìn về phía xa thấy đám lính mặc giáp phục quân Tống Bình liền hỏi :

- Các ngươi là lính của Long Trạch phải không?

Viên tướng đi đầu tiến tới phía trước, cất giọng hỏi:

- Các ngươi là người của châu Phong tới đây do thám có phải không.

- Các anh em nhầm rồi. Ta là Từ huyện lệnh đây. Mọi người không nhận ra ta sao.

Giọng hét lớn, khuôn mặt lầm lỳ viên tướng đó chạy tới cầm cây đao lớn chém đứt đôi người Hãn Xương. Hai nửa người văng ra hai bên xe ngựa, máu chảy loang khắp xe ngựa. Hai tên tùy tùng hoảng sợ nhảy xuống xe ngựa chạy đi.

Viên tướng đó cầm cây giáo của tên lính đứng cạnh bẻ gãy đôi rồi lao thẳng vút về phía hai tên đó. Một tên trúng mũi thương lăn ra chết, tên còn lại bị cán thương ném trúng chân, thậm thọt nhắm mắt chạy về phía đông. Viên tướng cười lớn:

- Về nói với đô hộ Đại nhân rằng Long tướng quân không muốn đầu hàng bọn châu Phong. Quyết đánh với bọn giặc Phong Châu đó đến cùng.

Bóng tên phu xe dần khuất, Toán Hoa Tài dắt ngựa đi từ lụm cây phía tây, lớn giọng nói:

- Quả nhiên lợi hại. Không hổ danh Tre Độc phòng đông – Phong châu Đô úy. Trước giờ ta chỉ nghe Do Độc dũng mãnh mà không tin. Dáng người gày gò, khẳng khiu mà uy lực võ tướng vô cùng kinh ngạc.

Do Độc oai dũng cầm đao lớn, mặt nhìn về đông, miệng nở nụ cười:

- Có khi nào Mặt trời lặn ở phía đông.

Toán Hoa Tài hỏi Do Độc nói lời đó có ý gì. Do Độc chỉ cười, rồi thong thả dắt cưỡi ngựa về.

Toán Hoa Tài cùng Do Độc đi về phía nam, gió thổi lộng mát rượi giữa cái hè nóng bức. Do Độc bàn với Toán Hoa Tài về việc dụng binh, chém tướng, những trận đánh chiến dịch chiến lược. Tiếng chim ríu rít bay theo bước chạy của hai chiến mã.

Về tới trại quân, Toán Hoa Tài cùng Do Độc lập tức cho thu dọn chiến lợi phẩm, sai quân lính kéo xác người đi chôn, băng bó những lính bị thương.

Tàn dư trận chiến vừa qua vẫn còn hiện trên những khuôn mặt thất thần, máu me dính đầy vũ khí, áo giáp, miệng mũi đám lính. Giáo gươm, quân lương hòa với máu, chân tay, mũ giáp lổm nhổm, đâu đó có mùi hôi tanh tanh, những vũng bùn đất đỏ tươi nhuộm màu. Do Độc cùng Toán Hoa Tài thúc giục quân lính dọn dẹp trước canh tuất rồi hành quân tiếp về phía đông.

Trong buổi tối ngày hôm đó, ở Tống Bình, Nguyên Hỷ nhận được tin báo từ triều đình sẽ sai người khác tới thay. Bỗng nhiên Nguyên Hỷ ăn được bữa tối, ngồi dậy bàn chuyện với đám cận hầu.

Long Trạch mang theo binh lính cùng Thi Nguyên bị truy sát tới tận cửa La thành. Tiếng trống giục giã khiến Nguyên Hỷ bất giác nằm lăn ra giường. Đám hầu cận tiến lại hỏi:

- Khi tối sắc mặt của đại nhân đã tốt lên đôi chút. Chẳng hiểu vì lẽ gì mà khiến ngài ra như vậy.

Nguyên Hỷ giọng nói thất kinh :

- Các người không nghe thấy à. Tiếng trống đó báo hiệu quân địch đuổi đám quân của Long Trạch và Thi Nguyên tới sát La Thành rồi. Trời không thương ta mà.

Triệu Hoằng liếc láo nhìn xung quanh hỏi Nguyên Hỷ :

- Chẳng phải đại nhân sai huyện lệnh Nguyên Hãn tới châu Phong để bàn với thứ sử châu ấy về việc hoãn binh hay sao. Tiếng trống quân đâu chắc đã phải là của các tướng trở về.

Nguyên Hỷ nói vọng từ trong trướng ra :

- Hãn Xương đã đi tới đó tới nay là ngày thứ năm rồi mà không hề có tin gì cả. Các tướng thì liên tục báo về quân phản loạn cùng đội quân châu Phong liên tiếp đẩy lui các đợt phản công từ quân ta. Nay nhận tin từ triều đình có Hàn đại nhân cùng đoàn quân Khâm Châu, Ung Châu tới Tống Bình mà ta cũng mừng. Nhưng chẳng biết Hãn Xương có thể nói được đám người châu Phong đó không. Tiếng trống đó khiến lòng ta như lửa đốt.

Một tên lính xông vào hớt hải chạy vào báo tin :

- Bẩm đại nhân. Có một người què quặt nói là tùy tùng của Từ đại nhân đi từ Phong Châu trở về muốn gặp đại nhân.

- Mau mau cho hắn vào.

Năm tên lính vội vàng khênh tên đó vào, hắn thở dốc, ôm lấy chân phải rên rỉ đau đớn. Đám cận hầu tỏ ra ngạc nhiên hỏi hắn :

- Nhà ngươi chẳng phải là Lỗ Hơn đi theo Từ huyện lệnh tới châu Phong hay sao.

Nguyên Hỷ sai người lấy cho hắn một chén nước gạo ninh với tim gà. Lỗ Hơn uống liền hai chén, bẩm với Nguyên Hỷ cùng đám cận hầu:

- Bẩm đô hộ Đại nhân. Từ đại nhân bị quân của Long Trạch chém chết rồi ạ.

Nguyên Hỷ nằm trên giường nghe Lỗ Hơn nói mà giật mình lăn xuống dưới đất. Bọn gia nô phải khênh Nguyên Hỷ lên giường. Miệng đầy dớt dãi, Nguyên Hỷ nói không thành lời :

- Nhà ngươi nói, nói, nói sao. Sao sao lại giết giết, Long long.

Triệu Hoằng đỡ lời :

- Nói đi. Sao Long Trạch đó lại giết Từ huyện lệnh.

- Dạ bẩm. Từ đại nhân vượt sông gặp Kiều Chung Đạt nói chuyện với ông ta một buổi chiều thấy có ý xuôi xuôi nên cử người đưa Từ đại nhân tới thành Bạch Hạc.

Triệu Hoằng sốt ruột liền mắng Lỗ Hơn :

- Nhà ngươi còn không trả lời cho mau. Dài dòng.

Lỗ Hơn lắp bắp, cúi đầu nói tiếp:

"Từ đại nhân tới Bạch Hạc khuyên Vương thứ sử mà hắn không chịu đón tiến. Từ đại nhân phải đút lót cho đám người trong phủ để đưa Từ đại nhân tới gặp hắn. Xong rồi hắn cho người dọa nạt, coi khinh người ở phủ trị chỉ là con tép con tôm không xứng để bọn chúng dâng cống, thuế sưu.

Từ đại nhân hậm hực trở về. Đi tới gần trại quân của Long tướng quân thì bị tùy tướng của Long tướng quân chém chết. Lại nói với tiểu nhân rằng về nói với đại nhân rằng Long Trạch quyết đánh đến cùng. Bằng không Long tướng quân sẽ trở mặt."

Đám cận hầu bàn tán hồi lâu, Nguyên Hỷ ho sụ sụ trong trướng. Một tên lính khác lại chạy vào phủ báo tin:

- Bẩm đại nhân. Long tướng quân cùng Thi Nguyên tướng quân gióng trống ngoài thành muốn được vào thành. Quân địch đang đuổi tới bờ sông Tô Lịch.

Nguyên Hỷ cố hắng giọng nói ra :

- Các ngươi bàn xem ta phải làm thế nào.

Triệu Hoằng kéo cổ Lỗ Hơn, mắt trợn ngược hỏi Hơn :

- Từ Hãn Xương bị giết mà mày lại còn sống để chạy về đây. Mày đi tới đây có kẻ nào nhìn thấy không?

- Dạ. Xin đại nhân tha mạng. Tên tướng kia ra tay nhanh quá khiến tiểu nhân không kịp cho ngựa chạy đi. Đến khi hai đứa tùy tùng bọn con chạy thì tên giặc đó ném thương trúng Lại Hòa khiến nó lăn ra chết. Con may mắn chỉ bị trúng cán thương đập vào chân. Tên giặc đó không đuổi theo nữa lại còn nói với tiểu nhân về bẩm với đại nhân rằng Long đại nhân nói với Lý đại nhân như vậy.

- Vậy trên đường đi nhà ngươi có thấy quân lính đuổi theo không?

- Dạ con không thấy. Con thấy có quân lính của Long Trạch đi từ phía tây về. Sau đó sợ bọn chúng phát hiện ra con đi lên phía bắc, dọc theo sông Cái chạy về tới đoạn bãi sông làng Thị Điềm thì gặp được quân lính đang cưỡi ngựa đi tuần liền cậy nhờ cho về đến La Thành.

Triệu Hoằng bẩm lại với Nguyên Hỷ:

- Bẩm đại nhân. Chỉ e đây là kế của bọn quân phản loạn. Chi bằng hãy mang thêm binh lính trong thành ra phía ngoài cùng với quân tướng của Long Trạch, Thi Nguyên đóng ở bờ sông Tô Lịch. Nếu chúng có lòng phản nghịch thì các tướng sẽ dễ bề kiểm soát. Nếu để chúng vào trong thành hễ có biến sẽ không thể kịp trở tay.

Nguyên Hỷ y lời, Hoằng sai người khênh Lỗ Hơn ra khỏi phủ. Đi được một đoạn, hai tên lính dùng kiếm cắt lấy đầu của Hơn. Tướng giữ thành là Mao Húc cầm đầu Lỗ Hơn lên cửa thành ném xuống dưới đất, buông lời trách móc Long Trạch:

- Nhà ngươi biết đó là đầu của ai không? Của kẻ phản loạn Hãn Xương đó.

Long Trạch tức tối quát mắng :

- Lại là lão già họ Triệu đó nói lời rèm pha đúng không. Giặc đã đuổi đến tận bờ sông Tô Lịch, mau mau mở cửa thành cho ta vào. Bọn Toán Hoa Tài, Lý Do Độc tập kích bất ngờ khiến Thi tướng quân bị trọng thương. Hãy cho bọn ta vào thành. Kẻo quân tướng sẽ chẳng còn một người.

Mao Húc quát lớn:

- Có kẻ nói nhà ngươi có ý phản nghịch nên tối đêm mới mang quân đến thành phủ. Họ Thi kia khổ nhục kế với nhà ngươi. Nếu không có lòng đó thì hãy giữ lính ở bờ sông Tô Lịch, viện binh từ phía bắc và trong thành sẽ cùng ngươi trấn thủ bên bờ sông.

Long Trạch tức hộc máu, phun ra toàn máu đỏ tươi. Ôm lấy ngực, mặt tím tái cầm kiếm chỉ lên trên thành :

"Sức quân mệt mỏi. Lòng quân hoảng loạn. Nào đâu có sức để đánh thêm được nữa. Nay quân giặc kháo tin chia rẽ lòng quân, các ngươi lại ở ru rú trong thành không cần biết bọn ta sống chết ra sao.

Nếu đã như vậy, ta sẽ ở ngoài này chống địch. Cho các tướng sĩ vào trong thành. Họ đã quá mệt mỏi, cả ngày nay đánh nhau không được ăn uống gì. Người lả đi vì đói, kẻ đánh chém tàn tạ. Các người còn không thấy đó sao.

Các người có lòng nào nghi ngờ ta nhưng đừng nghi ngờ bọn họ. Bọn họ do các ngươi tuyển mộ, hết mực trung thành với triều đình. Họ không có tội tình gì. Các người hãy cho họ vào trong thành.

Nếu các ngươi vẫn nghi ngờ ta, ta sẽ cùng đám lính khỏe ở ngoài này nghênh địch. Còn những người bị lả, bị thương hãy cho họ vào trong thành."

Triệu Hoằng đứng phía sau Mao Húc gật đầu. Mao Húc sai người mở cửa thành, nói hắt xuống:

- Các ngươi hãy cho quân lính bị thương vào trong thành. Ta sẽ sai lính mang cơm gạo, vải màn để các ngươi dựng trại ngoài thành. Hễ có động tĩnh thì hãy đánh trống báo hiệu.

Long Trạch thất vọng cầm nắm cơm mà tên giám quân mang tới ném xuống dưới đất. Viên giám quân đưa cho Trạch một miếng khác mà nhặt miếng Trạch vừa ném xuống đất định đưa lên miệng.

Trạch không nhận, cúi xuống nhặt nắm cơm vừa ném xuống cố nhét vào trong miệng, nghẹn ngào nuốt vào trong. Bụi đất dính đầy miệng Trạch, tay giám quân động viên Trạch :

- Tướng quân hãy ăn nốt phần này của ta. Miếng kia đất bụi xin tướng quân hãy để ta đổi miếng khác.

Long Trạch tay lau đi vết máu trên khuôn mặt, giọt mồ hôi lăn từ hốc mắt lăn dọc theo sống mũi. Long Trạch nghẹn ứ trong họng nói:

"Quân ta mỗi người một miếng. Ta cũng như các anh em, không kẻ nào được phần hơn. Miếng của ta dẫu có dính đất bụi thì cũng là đất của cha ông ta, đất ta sinh ra, đất ta nằm khi yên giấc ngàn thu. Có điều chi mà bẩn bụi.

Khi trước ở núi Tiên Du, có khi mỗi người chỉ có một quả dâu chua nhưng không ai tranh giành của nhau. Nay làm tướng quân càng không thể vị kỷ mà quên đi những kẻ khác. Nếu đêm nay địch tới thì các anh em sẽ cùng ta quyết sống chết với bọn giặc cỏ đó hay không."

Lời nói như hiệu triệu cả đoàn quân khiến cho quân sĩ một lòng. Ai cũng chấm xuống nền đất ăn ngon lành miếng cơm được trong thành vừa mang ra. Long Trạch cho người sửa soạn đóng trại, phủ vải màn trên nền đất thịt. Gió mát lành khiến quân sĩ ngủ ngon giấc.

Nửa đêm canh ba, một trận mưa từ đâu kéo tới. Tiếng sấm rền inh ỏi văng vẳng trong tai, Long Trạch choàng tỉnh giấc. Bước ra ngoài cửa trại, thấy nền đất rung rung, Long Trạch hô hào tướng sĩ tỉnh giấc chuẩn bị mũ giáp chống lại đội quân đang ào ào đi tới.

Long Trạch bàng hoàng, cầm song câu ra sức chém quân lính xông thẳng về phía mình. Long Trạch sai người cầm dùi trống để báo hiệu cho trong thành. Tiếng trống gõ được ba tiếng thì bị đám quân của châu Phong lao tới chém chết.

Trống bị phá tan, Long Trạch hò hét phía ngoài trong tiếng gió thổi những hạt mưa nặng hạt réo rắt phía ngoài La Thành. Tiếng sấm rền vang hòa cùng tiếng hò hét ba quân. Đứng trên thành quân lính nhìn xuống phía dưới thấy một màu đen kịt, chỉ có tiếng leng keng của kiếm sắt chạm nhau mà không hề hay biết phía dưới hỗn loạn nhường nào.

Trời tan mưa, những dòng nước cuốn theo máu đỏ tươi đổ về con hào vây quanh, xác người lềnh bềnh nổi trên hào nước. Tiếng gió mưa rền rĩ dần khuất, những tia chớp, tiếng sấm rền dần xa về phía tây nam.

Đám lính trong thành thắp lên ánh lửa đuốc quanh bốn bức thành. Ánh sáng hắt xuống, thây xác nằm ngổn ngang, kiếm đao hắt ánh sáng ngược trở lại trên thành. Nhận ra có điều không hay, Mao Húc gọi lớn phía dưới thành. Không một lời đáp lại, Mao Húc nghe tiếng cười vang vang :

- Bọn chúng chết cả dưới thành rồi. Các ngươi còn không mau chịu trói.

Một ánh đuốc thắp lên phía dưới hiện lên khuôn mặt nham nhở kinh hãi, hai ánh đuốc thắp lên, bộ râu dài, ánh mắt hùm cọp hiện ra, ba ánh đuốc xác người nằm dưới đất ngổn ngang, rồi lần lượt cả trăm ánh đuốc thắp lên.

Mao Húc kinh hãi nhìn xuống phía dưới. Đám lính của Long Trạch đã chết hết, chỉ còn ngổn ngang áo giáp, binh đao.

Phạm Đan đi tới gần cửa thành, vuốt râu dài chỉ gậy lên thành :

- Tay quỷ mặt xanh đã chịu trói. Các người còn không mau mau dâng thành.

Một loạt tên bắn xuống phía dưới, Phạm Đan sai lính lùi ra xa. Đội khiên tre tiến lên phía trước, đỡ lấy những mũi đạn bắn xuống. Được mười lượt tên bắn xuống, lửa trên thành bỗng nhiên dập xuống hết loạt. Ánh lửa dưới chân đám lính đứng trên thành hắt lên khuôn mặt chúng đầy vẻ sợ hãi. Hai tay bọn chúng buông cung nỏ, giáo gươm, đưa quá đầu không nói thêm một lời.

Liêu Đức Thinh bước ra phía trước, miệng nói vang từ dưới cửa thành vang lên:

- Các ngươi thấy quân ta nói đã sợ hãi, bỏ vũ khí đầu hàng nhanh vội. Còn không mau mau mở cửa thành đón gia gia của các ngươi vào thành.

Cửa thành rộng mở, tiếng cười vang từ phía trong vọng ra ngoài:

- Là Phạm Đan tướng quân và Liêu Đức Thinh tướng quân có phải không?

Phạm Đan thu gậy tre xuống ngựa, nhìn vào trong thành một viên tướng già bước ra. Phạm Đan hỏi họ tên lão tướng đó là gì. Lão tướng đó liền xuống ngựa đáp lời :

- Ta là Kiều Chung Đạt, phó thứ sử châu Phong. Các tướng quân là dũng tướng thủy bộ của Dương Chí Liệt phải chăng.

Phạm Đan mừng rỡ, giọng vang vang:

- Ra là lão tướng họ Kiều Phong Châu. Đám tiểu tốt như chúng tôi xá gì so với Kiều lão tướng quân. Chẳng hay các ngài vào được thành từ khi nào.

- Từ khi mưa gió vẫy vùng, sấm chớp rền vang. Bọn ta cướp trại lính ở bờ nam râm Đàm, bắt được hai viên tướng họ Triệu, ép chúng giả làm quân lính Tống Bình trở về La Thành. Triệu Hoằng thấy hai con trai liền mở cửa cho bọn ta xông vào, bắt được toàn bộ đám quan lại võ văn. Chỉ tiếc rằng cái xác Nguyên Hỷ còn chưa tìm được.

Hai tướng quân đi vào trong thành oai dũng, bỏ lại phía ngoài thành những dòng nước đỏ ngàu chảy dữ dội cuộn thành kênh nước đổ ra sông Tô Lịch.

Họ Kiều sắp xếp binh tướng trong thành ổn thỏa đâu đấy liền cho người soạn sửa lễ vật, nhang đèn, vàng mã dựng lễ sạp trước sông thiêng Tô Lịch nơi mà Chung Tiềm con trai của Chung Đạt đã chìm xuống dưới đáy dòng. Tiếng khóc nức nở giữa đêm khuya của viên phó thứ sử đầu hai thứ tóc như nát tan cõi lòng đám lính. Bọn lính ai nấy đều sọng mắt đỏ tiếc thương cho vị thiếu chủ xấu số đã bị chết một cách đầy oan nghiệt.

Chung Đạt người mệt mỏi rã rời, đầu óc mụ mị cho người bơi một chiếc thuyền nhỏ ra giữa dòng sông Tô Lịch. Gió lạnh cuối thu, Chung Đạt ngủ trên chiếc thuyền. Họ Kiều mộng thấy con trai chạy từ trong La Thành ra, người dúm dó, máu đỏ trên miệng, tay cầm cây trúc đào đi từ phía La Thành chạy tới bờ sông liên tục gọi Chung Đạt: "Cha ơi. Oan ức lắm. Cha ơi. Oan ức lắm."

Chung Đạt tỉnh giấc thì trời đã mờ sáng, người toát lạnh mà mồ hôi ướt sũng toàn thân.

Buổi sớm tinh mơ, tiếng gà gáy trong thành như che lấp đi những tan thương của cuộc chiến đêm qua. Có tiếng chim líu lo trên cành sấu đổ bóng xuống dòng sông Tô Lịch. Chung Đạt cưỡi ngựa đi tới góc đông nam La Thành, đứng trông bãi đất khi đêm qua Phạm Đan cùng Liêu Đức Thinh đánh nhau với đám người của Long Trạch.

Mới qua một đêm, chỗ đất đó đã thành những nấm đất cao, chỉ vài canh giờ sau trận mưa sấm trái mùa, xung quanh đã xanh mượt cỏ non cả một vùng. Những xác người không còn nằm chỗ đó, toàn bộ quân lính trong đêm đã mang theo mộc ngưu đem chôn hết xác đó ở chỗ hố sâu phía nam sông Tô Lịch.

La Thành nhỏ còn ướt đẫm những hạt nước của trận mưa đêm qua. Chân thành quách vấy màu đỏ choét, đất bùn vẫn còn vương.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc
Hồi thứ mười một:

Phá đồi cọ, Gã Quỷ chém rắn hổ.

Vượt ải tử, Thứ sử khóc tôi hiền.

Mùa đông, tháng chín, dòng nước sông Cái nước trong vắt, vỗ về đôi bờ cỏ xanh mượt, dòng chảy dịu dàng, êm ái như người con gái đã quá tuổi thanh xuân.

Lý Nguyên Hỷ đã may mắn thoát nạn tử sang tới bờ đông, thành Long Biên khi đó quân triều đình mới giành lại được. Bờ bắc dòng Thiên Đức là đội quân hùng mạnh của châu Phong đang hừng hực khí thế sau khi chiếm được La Thành, trị sở Tống Bình.

Bốn tướng uy dũng nhất dưới trướng của Nguyên Hỷ đều đã bị bắt giết. Chỉ còn vài viên tướng quèn chưa kinh qua trận mạc khiến Nguyên Hỷ càng thêm nặng trĩu.

Tóc đã rụng nửa mái đầu hoa râm, môi dưới dính môi trên chỉ ngậm được chút nước gạo mà đám người hầu chạy vạy từng bữa trong quân. Người như đã dưới tám tầng âm ti, Nguyên Hỷ gọi bọn hầu lại vào bàn kế sách cuối cùng để mong thoát nạn diệt vong.

Trong lúc bàn chuyện, quân lại báo về hai viên tướng Trương Hàm, Lương Khúc trấn thủ Loa Thành bị quân đội của Vương Thăng Triều đánh lui, thành trì bị đốt cháy, dân chúng bỏ thành chạy theo quân của họ Vương lên đến bảy tám nghìn người.

Lý Nguyên Hỷ nhắm mắt nằm trên giường mà không thể bàn thêm lời nào. Từng hơi thở thoi thóp càng khiến cho đám hầu lại, tướng tá cảm thấy lực bất tòng tâm.

Trong lúc toàn quân chuẩn bị loạn, một số tên nho hủ bàn kế muốn đầu hàng, các quan võ tướng cũng ngậm ngùi đành theo. Cùng lúc ấy, có một người xưng là sứ của Vương Thăng Triều tới gặp quan đô hộ cùng thuộc hạ để dụ ý chiêu hàng.

Như chó đói giành được mồi, bọn nho hủ vội vàng cho mời viên sứ của họ Vương vào trong phủ điện để bàn chuyện muốn hàng họ Vương. Các tướng Giả Thanh, Giả Không không muốn bàn chuyện mà tự ý rút hết quân từ Long Biên cùng Nam Định đi về phía đông bắc tới châu Lục.

Nguyên Hỷ nằm trên giường mà như chết không hay chuyện gì đang xảy ra. Bọn nho hủ bàn với nhau, cắt lấy đầu Nguyên Hỷ để dâng lên Vương thứ sử làm quà ra mắt. Nhưng không may cho bọn chúng chưa kịp làm điều đó thì bị tướng Bục Đồ phát hiện liền sai đám lính còn sót lại trong thành giết sạch đám hủ nho.

Viên sứ của Thăng Triều đi tới bờ sông thì bị người của Bục Đồ đuổi theo bắn tên trúng vai. Vừa thất thanh kêu la thì một đoàn thuyền từ phía hữu ngạn sông Cái đổ bộ sang chém giết đám quân của Bục Đồ. Bục Đồ vội vàng chạy vào trong thành, lấy chăn chiếu quấn lấy tấm xác vẫn còn đang thở của Lý Nguyên Hỷ phá cửa thành chạy tới bờ sông Thiên Đức phía nam Luy Lâu.

Ngựa chạy được đến đoạn sông cong cong, bờ hoắm một bên bỗng có cơn gió thổi ngang khiến chiếc chiếu quấn xác của Nguyên Hỷ rơi xuống dưới bờ đất. Quân của Thăng Triều chạy tới thấy có trận gió mạnh liền quay đầu không đuổi theo nữa Bục Đồ mới thở phào nhẹ nhõm.

Đồ xuống ngựa quấn lại chiếu chăn, xếp gọn xác vẫn còn hơi ấm của Nguyên Hỷ, tiếp tục chạy theo sông Thiên Đức tới châu Lục. Đội quân của Thăng Triều do viên tướng tiên phong là Đào Mục thấy cơn cuồng phong tan ngay liền chạy đuổi tiếp.

Chạy qua núi Thiên Thai, tới chỗ ngã ba Trì (Mỹ Lộc), ngựa mệt Bục Đồ đành phải dừng lại cho ngựa ăn cỏ uống nước. Một lát sau đã thấy quân của Thăng Triều đuổi gần tới, Bục Đồ đành phải bỏ ngựa ở lại, cởi giáp trụ, ném mũ sắt xuống dòng nước, lướt chiếc thuyền độc mộc đang neo ở bên phía bờ qua sông về phía đông.

Cõng trên lưng là thần gầy ốm o của Nguyên Hỷ, Bục Đồ chạy được chừng bảy dặm đường nhọc nhằn thở không ra hơi, đành dựa Nguyên Hỷ vào một gốc cây đa ven đường, phía trước là bãi sậy mọc cao hơn đầu người lớn, Bục Đồ chọn chỗ ấy nơi ẩn nấp quân truy sát của Châu Phong.

Bục Đồ lần ra đến bờ sông ghi hai chữ Kinh Thầy khắc trên bia đỏ, thầm cảm ơn trong bụng đã tới đất châu Lục do viên tướng Mã Thực mới chiếm lại được từ tay của Man Hoàng. Có tiếng xục xạo quanh bờ sông, Bục Đồ sợ hãi trốn vào gốc cây đa lớn, lấy cây sậy đắp phủ lên người mình cùng với Nguyên Hỷ.

Nghe giọng nói không phải người châu Phong, Bục Đồ thấy an lòng, nhưng không dám ló nhìn ra ngoài. Có tiếng vó ngựa tiến sát lại gần gốc đa lớn, tiếng cười nói càng khiến Nguyên Hỷ run lên bần bật, tiện ra lúc nào không hay.

Nước tiểu len qua mấy cây sậy chảy tới chỗ bóng cây đám lính đang ngồi. Bọn lính hỏi nhau đứa nào vừa đi bậy rồi cười nói với nhau í ới. Bục Đồ thấy Nguyên Hỷ cựa người do bị kiến đốt, Đồ thò tay xoa xoa người cho viên cựu đô hộ.

Nguyên Hỷ bị kiến bò vào trong lỗ mũi, Nguyên Hỷ đau chảy nước mắt mà không thể kêu la. Một tên lính kể với những tên còn lại rằng :

- Triều đình lại sai một viên sứ nữa tới Giao Châu. Hiện đang đi tới Lục Châu, ghé qua chỗ của Mã Thực tướng quân.

- Nghe đâu Tống Bình đã bị người của châu Phong chiếm được rồi. Đám tướng tá chạy hết loạt tới cậy nhờ Mã Thực tướng quân đó. Ta vừa đi từ thành Chi Phong đi qua núi Châu Cốc thấy đám Giả hòa thượng cầm theo một đội quân đi qua. Chắc hẳn là bọn chúng rồi. Chẳng biết rằng viên đô hộ mới sẽ đánh nổi đám người châu Phong đó hay không. Hay cũng giống viên đô hộ Nguyên Hỷ đáng thương kia.

Bục Đồ nằm im nghe đám lính nói chuyện với nhau dưới tán cây chùm rộng như chiếc lõng, nói về viên thứ sử mới họ Hàn, bàn về câu chuyện những ngày qua đất châu Phong nổi loạn lấy Tống Bình. Bọn chúng nói thao thao bất tuyệt cho đến khi mặt trời nghiêng bóng mới chịu đi.

Tên lính giọng nói tếu táo nhất bỗng hẹm giọng nói với cả đám :

- Cù tướng quân sai chúng ta đi mời thầy tướng số ở núi Thiên Thai về để xem cho tướng quân một quẻ. Nay trời đã ngả chiều, mà sang bên kia sông chỉ e rằng gặp phải bọn lính Giao Châu bỏ trốn trông thấy mình bọn nó lại nghĩ là địch mà giết. Mà không thì lại gặp bọn lính phản loạn đuổi lính Tống Bình chạy tới đây, nào khác gì nộp mạng cho bọn nó. Thôi ta hãy cứ về trại báo với Cù tướng quân một lời rằng thầy tướng ấy nay đi vắng. Ngày mai chúng ta lại quay lại vậy thôi.

Một tên khác giọng chân chất góp lời :

"Nhưng mà Cù tướng quân có tin tưởng bọn mình thì mới giao việc cho. Đã cả tuần nay rồi, cứ đến chỗ này các anh đều dừng ở chỗ này ngồi dưới bóng cây nằm ngửa nhìn tổ ong, bàn chuyện thiên hạ, đến khi ngả chiều lại cưỡi ngựa tức tốc về giả như việc gấp gáp nên Cù tướng quân chẳng nghi ngờ gì.

Tôi là tôi thấy nói dối Cù tướng quân mãi như vậy thành ra sẽ có kẻ nghi ngờ. Chi bằng ta hãy cứ qua bên sông đó một phen. Dẫu sao thì Cù tướng quân và đám hào trưởng đất bên đó cũng là chỗ thân tình, chắc sẽ chẳng sao đâu. Mà nhỡ may Cù tướng quân có hỏi đất bên ấy thế nào, sông núi đi ra sao thì còn biết đường mà trả lời.

Các anh nghe tôi, trời vẫn còn sáng, nay mới độ lập đông, ngày còn dài, ta vượt con nước mà sang bên ấy xem sao. Ta nghe nói vị thầy tướng đó nổi tiếng về nhìn người đoán mệnh, chạm tay mà đọc tâm can người khác, có thể nhìn thấu tương lai chỉ bằng ánh mắt nhìn. Nghe giọng nói biết kẻ sống chết dài ngắn ra sao.

Ta lại nghe được trước đây vị thầy tướng ấy đi theo Cù tướng quân giúp Cù tướng sắp xếp các hòn đá trong nhà, lại cho cây vườn thẳng tắp hai lối đi ấy nên Cù tướng quân mới vào châu Lục đuổi Man Hoàng, lập công giúp triều đình, công lao chẳng kém gì Mã Thực tướng quân. Chỉ tiếc rằng vị thầy tướng đó sợ bị liên lụy, phúc phần bị tiêu hao mà xin cáo lui đã hai năm nay.

Cù tướng quân có nghe trong dân gian thầy đó ở chỗ núi nhìn ra phía bắc có bờ sông Thiên Đức mà muốn tìm gặp nên mới sai chúng ta vượt sông đi tìm vị ấy. Nếu có cơ duyên gặp được vị ấy chẳng phải là phúc hay sao. Biết đâu, khi chúng ta biết trước được số mệnh của ta thì mọi việc sẽ khác.

Anh Huề sẽ không làm lính dọn củi, xúc phân ngựa. Anh Diệc sẽ không phải ngày ngày mang cơm cho bọn tù nhân suốt ngày chỉ kè kè mang cùm đánh người khác nữa. Các anh thấy có phải không? "

Tên lớn tuổi nhất trong đám, miệng ngậm lá sậy, tay von vón ria mép, nhếch miệng cười :

- Đúng là lừa người. Xưa trong hương ta cũng có một tên nhận mình biết số này mệnh kia. Coi cho đám này đám khác đều ra được vinh nhục, hỷ họa. Đấy, xem cho năm người, ai cũng răm rắp nghe theo, ba thằng mù mắt, một thằng què chân. Lại đổ thừa cho mấy người đó ý thức không tôn nghiêm nên mới thành ra như vậy. Mấy trò lừa bịp đó ta không có tin. Chỉ tin vào cái bụng này thôi, đói thì nó réo như nước đun sôi, còn no thì ì ạch như cả tạ chì trong bụng.

Nghe đám lính nói chuyện một lúc lâu, bọn chúng quyết định quay về mà không qua sông đi tìm vì thầy tướng kia nữa. Bục Đồ định bụng rằng đợi lúc đám lính đó đi thì quay lại chỗ bờ sông tìm đến thầy tướng số đó để mong được giải đáp những ẩn khuất trong lòng. Nguyên Hỷ khẽ nói vào tai Bục Đồ :

- Nếu Bục tướng quân có ý tìm tới vị cao nhân ấy thì hãy cứ để Nguyên Hỷ ở lại chỗ này. Ta chỉ tiếc không thể trở về bắc phụng dưỡng cha mẹ già, đền ơn với Phùng Cát tướng quân đã nâng đỡ ta từ tấm bùn nhão thành miếng sành miếng sỏi.

Bục Đồ đáp lời viên cựu đô hộ :

- Mạt tướng song thân già yếu, lại lêu lổng theo đám thanh niên trong thành Đại La suốt ngày quán xá, chơi bời, nhờ ơn đô hộ tướng quân chỉ đường dắt lối mà song thân an nhàn tuổi xế chiều, bản thân lại được tin tưởng làm tướng cận hầu cho đại nhân. Bao nhiêu ơn đức của đại nhân với kẻ làm tôi tớ này dẫu có đi vào lửa bỏng, dầu sôi cũng cam lòng miễn sao đại nhân bình an vô sự.

Nguyên Hỷ nhíu mày, nước mắt ứa ra. Bục Đồ cúi thấp ngươi mang vị đô hộ trên lưng cõng đi tới bờ sông khi nãy băng qua con nước lạnh lẽo bằng con thuyền độc mộc mục nát.

Ánh mắt mừng rỡ khi thấy con ngựa vẫn đứng nhởn nhơ uống nước, gặm cỏ bên bờ, Bục Đồ liền đặt Nguyên Hỷ lên lưng ngựa, đôi chân mỏi mệt bước đi quay trở lại phía tây hướng tới núi Thiên Thai mong tìm được duyên hạnh ngộ với cao nhân.

Trời sẩm tối, hai người bọn họ đói lả ngồi cạnh một gốc cây dâu dại. Bục Đồ kiếm một chút quả dại ngọt nếm thử rồi mang cho Nguyên Hỷ ăn tạm. Lấy áo thấm nước ở dòng kênh vắt vào miệng cho vị thứ sử nằm thoi thói trên đám lá cây mà Bục Đồ trải ra không êm ái nhưng mà ấm áp biết bao.

Nguyên Hỷ nhìn ánh trăng vằng vặc hỏi Bục Đồ :

- Đã bao nhiêu tuần trăng mà tướng quân chưa được ngồi yên thưởng ngoạn chị Hằng trên bầu trời xa ấy.

Bục Đồ cười méo xệch miệng, bụng réo, tay thô ráp vắt chiếc khăn nước vào miệng. Khà một hơi, Bục Đồ đáp lời viên cựu đô hộ :

- Từ lúc theo hầu đại nhân đến nay cũng đã được ngót nghét ba năm. Cũng chừng ấy chưa được ngồi thưởng trăng. Dẫu có cũng chỉ dám liếc nhìn, mượn ánh sáng mờ của nó mà dẫn binh đi tập kết, hạ trại, dàn quân đánh địch trong đêm.

Bục Đồ nghe tiếng có con thú nhỏ vừa chạy qua liền lấy dao nhỏ bắt lấy, xẻ thịt rồi hì hụi châm lửa nướng thơm. Xé từng miếng nhỏ cho Nguyên Hỷ lẩn nhẩn trong miệng để qua cơn bĩ cực.

Bục Đồ ăn hết phần thịt nướng, tìm thêm hai vạt lá cọ, lá chuối đắp lên người mong cho cơ thể ấm áp hơn dưới mờ sương mùa thu lạnh lẽo. Nguyên Hỷ mặt bớt xanh xao dưới ánh trăng, miệng như người mới ốm dậy đắng ngắt mà nói với Bục Đồ :

- Ngày mai, tướng quân hãy để ta tự đi, ngựa đó đem đổi lấy chút bạc, mua một chút lễ lạc tới miếu nhỏ ở dưới chân núi. Ta nghe đám hào lại địa phương nói rằng ở đó có thần núi thiêng lắm, thắp nén nhang thơm, bày chút lễ mọn để tỏ tấm lòng thành chắc nhà ngươi không phản đối ta chứ.

Bục Đồ tỏ vẻ không đồng tình, khuyên can lời của Nguyên Hỷ. Nguyên Hỷ lắc đầu nhắm mắt cố chìm sâu vào giấc ngủ. Bục Đồ thổi cho lửa cháy lớn hơn để phả hơi ấm, xua tan sương lạnh.

Hai người nằm giữa đất trời, tiếng ngáy của vị tướng quân ầm ầm như vách đổ khiến bọn hổ báo, sói lang, mãng xà phải thật nhanh lướt qua không dám quay đầu nhìn lại.

Sáng ngày sau, Nguyên Hỷ tỉnh táo mang mảnh sành vỡ ra chỗ bờ kênh múc lên mấy miếng mát lành. Nguyên Hỷ thấy Bục Đồ nằm co ro hướng lưng ra ngoài trời lạnh, chân tay rúm ró như trẻ con nằm trong nôi. Nguyên Hỷ gọi Bục Đồ dậy, Nguyên Hỷ dặn với Bục Đồ rằng :

- Khi sáng ta dắt ngựa vào trong làng đổi lấy mấy lượng bạc. Ta thấy có hoa cúc thơm nên mua chút men nếp, hoa quả để tỏ lòng với bậc thần nhân. Mong Bục tướng quân thuận theo ý ta mà tới chỗ thầy tướng đó.

Nói rồi, lễ vật dâng lên, nhang đèn đủ đầy, Nguyên Hỷ bái ba lạy dưới chân núi thì có một người dáng dấp thư sinh, râu con kiến, mặt trái xoan, mái tóc đen nhánh đi tới hỏi chuyện :

- Có phải hai người là khách quý tới từ Tống phủ hay chăng?

Nguyên Hỷ thấy người này không quen, nghi ngờ kẻ xấu liền hỏi :

- Anh là kẻ nào? Sao hỏi hai bọn ta như vậy.

Anh chàng thắt chặt mảnh khố, cúi thấp người chào Nguyên Hỷ:

- Nghe giọng ngài chắc hẳn là một vị tôn trưởng. Không phải giọng người Giao Châu. Tại hạ là Doãn Xanh, người ở làng phía dưới núi. Theo thầy tướng Đàm Tiên Thố đi đó đây giúp người sống tìm anh em thất lạc, giúp những linh hồn phiêu bạt về với gia đình. Thầy có nói với tiểu sinh rằng khi chiều qua có khách quý đi qua. Nhân duyên sẽ đưa người đó quay trở lại. Dáng vẻ thầy tả chắc hẳn không ai khác ngoài hai vị.

Bục Đồ dạm hỏi :

- Nhà anh chớ có nói xàm ngôn. Bọn tôi chỉ là thứ dân thường, đi qua đất này không tìm được chỗ nương nhờ nên mới ngủ chỗ này. Chắc anh nhận nhầm người rồi.

Doãn Xanh quan sát đôi mắt của viên cựu thứ sử, nghe giọng nói của Bục Đồ mà nói tiếp:

- Đàm sư phụ có dặn học trò, nếu hai người đó chối từ thì nói lại với hai vị rằng "Sức ngài chỉ có thể dựng được một chiếc thành nho nhỏ, sau đây nửa trăm năm ắt có kẻ dựng thành to rộng. Nước sông chảy ngược chỗ thành phủ nhiều năm mà đâu hề ai để ý đến, ngài nằm mộng ngao du mà trông thấy nước sông chảy ngược đấy mà biết có kẻ phản nghịch. Dẫu ngài có trông thấy, nhìn rõ ràng cũng chỉ biết đứng trong dòng nước ấy chảy ngược. Sức ngài cũng không thể đổi được dòng nước ngược ấy."

Nguyên Hỷ như bị tên bắn trúng vào óc, giật mình thảng thốt :

- Xin hỏi vị cao nhân đó đang ở chỗ nào?

Doãn Xanh suy suy xét xét, lẩm nhẩm trong miệng :

- Giờ này đã quá nửa canh thìn, nếu như lời sư phụ nói thì đã tới Tống Bình phủ.

Bục Đồ quắc mắt nhìn Doãn Xanh, gầm gừ hỏi :

- Tới Tống Bình? Phải chăng tên đó là người của họ Vương.

Doãn Xanh tặc lưỡi, suýt soa nói với hai người :

- Trước khi đi, ngoài lời dặn dò đó sư phụ tiểu sinh còn gửi lại một lá thư cho vị hiền quân. Trong hai người, tại hạ nhìn thấy thì chắc là vị này, chân tay nhỏ nhắn, khuôn mặt nhỏ nhắn, gò má hõm xương. Vãn bối xin được dẫn hai người vào trong núi, ba gian nhà trống của sư phụ để đưa cho hai vị.

Lý Nguyên Hỷ cùng Bục Đồ bước vào phía trong núi.

Cảnh vật hoang vu, chim thú không nhiều, chỉ có tiếng chó sủa, gà kêu bên trong mảnh vườn giữa núi. Doãn Xanh đưa hai người vào trong ba gian nhà tranh, vách nứa, những hình vẽ tướng tá con người, hình nhân, điểm nốt. Không có sách cũng không có thẻ tre, những bức tranh mộc mạc mô tả dáng người với những chân tay, gò má, chóp đầu, khoảng trán rộng hẹp,… mỗi bức một vẻ, không giống nhau tất cả đều được vẽ trên vải thô ráp treo trên vách nứa.

Bục Đồ hỏi Doãn Xanh :

- Chẳng hay những thứ này Đàm Tiên Thố đó có được từ đâu?

Doãn Xanh cười :

- Những thứ ấy là do tôi vẽ ra, tôi chép lại những lời mà thầy tôi nói thể hiện thành tranh vẽ. Có vậy mới dễ học dễ nhớ.

Nguyên Hỷ tấm tắc khen :

- Quả là bậc kỳ tài. Chỉ tiếc rằng không có duyên hạnh ngộ.

Doãn Xanh tìm được bức thư liền đưa cho Nguyên Hỷ. Những nét bút họa trên vải lụa như rồng bay phượng múa, Nguyên Hỷ chăm chú đọc không dứt được. Bục Đồ tò mò nhìn vào bức thư, đọc lớn :

"Sứ quân ủy cho thần nhân Long Đỗ làm chủ thành, có lòng giáo hóa dân chúng ở Tống Bình mà cái gương không sáng, phàm đều không tuân theo lẽ phải mà hành xử. Đó là cái tội với chúng dân, với sự tin tưởng của thần Long Đỗ đã báo mộng cho ngài.

Phía tây bắc chim hạc no đủ, sung túc, bầy đàn đông đúc, không đủ chỗ dung chứa. Chúng liền bay tới, phủ trắng bầu trời Giao Châu, cái đó là lẽ rất tự nhiên của thiên nhiên vậy.

Trong cơn hiểm ác, Sứ quân dẫu không phải bậc hiền nhân với tài đức nổi trội nhưng cũng không phải là kẻ tầm thường, nhưng số mệnh không như hoa nở, nụ héo trên cành phải đành bứt cả cuống nụ. Thật may cho sứ quân có bậc trung nghĩa dốc lòng mà vượt qua cơm hiểm ác.

Lương duyên với đất Nam chắc có lẽ chỉ tới đoạn như vậy, có kẻ khác sẽ dẹp được yên. Ta xem thiên mệnh thấy có sao đổi ngôi liên tục, ngôi sao sáng đi về phía đông, bụng nghĩ sứ quân sẽ đi qua chỗ của ta. Bấm được thêm thì thấy được sau sứ quân chừng chín năm nữa người Nam sẽ thuần theo Bắc chủ.

Chỉ là cơ duyên của sứ quân chưa đủ mà đất nam không theo lễ pháp của sứ quân. Sứ quân hãy sớm ổn định tinh thần, trở về đất bắc, an nhàn nông gia, chớ quay lại đất này thêm một lần nào nữa."

Nguyên Hỷ đọc từng chữ mà lòng như dao cắt, nước mắt ào ra không sao mà ngăn được. Lời nói vang vang của Bục Đồ bên tai không làm cho viên cựu thứ sử lung lạc.

Nguyên Hỷ xin để lại dấu chữ, dâng lễ vật, nhang đèn thắp lên bàn thờ ghi hai chữ Trời, Đất. Doãn Xanh xin nhận lấy lễ vật, hương hoa, lại dắt một con ngựa từ phía sau gian nhà cho hai vị quân tướng.

Bục Đồ trông thấy ngựa, mắt long lanh mừng rỡ cảm tạ Doãn Xanh :

- Là Tiểu Hoàng Mã của tôi đây mà. Sao lại có ở chỗ này? Chẳng phải khi sáng ngài nói là đã bán cho người trong làng rồi sao.

Doãn Xanh khẽ cười đáp lại rằng :

- Trong tâm có duyên, duyên hồi đáp lại. Đường xa hai vị hãy bảo trọng.

Doãn Xanh đi vào trong nhà, mang theo hai bát nước trong, sánh sánh hạt sen mời hai người. Nguyên Hỷ cùng Bục Đồ nhận lấy tấm lòng, Hỷ lấy trong người một chiếc trâm cài màu xỉn đặt xuống dưới đất rồi cúi chào Doãn Xanh dắt ngựa đi.

Đoạn tới chân núi có một con ngựa màu trắng, Nguyên Hỷ lên lưng ngựa, chẳng một lời quát tháo, tay không nhích dây cương mà ngựa tự chạy về hướng bắc. Từ bấy giờ, chẳng ai trong xứ Giao Châu nhìn thấy Lý Nguyên Hỷ cùng hầu tướng Bục Đồ.

La Thành ngày cuối thu, nước con hào lạnh lẽo trong vắt lặng như tờ. Vương Thăng Triều giục giã đám binh lính chấn chỉnh quân ngũ mới điều động từ Phong Châu, Lâm Tây tới trấn giữ mặt phía đông.

Lý Do Độc lãnh binh đánh dẹp tàn dư quân triều đình các huyện phía đông nam, Toán Hoa Tài giữ mặt châu Bình Nguyên đã bị quân triều đình áp sát tới. Dương Chí Liệt lãnh đất huyện Vũ Bình, Thái Bình gây dựng lực lượng, chỉnh đốn lại dân tình hai huyện. Đỗ Sĩ Giao ở châu Phong bị giam lỏng trong phủ thứ sử, ngày ngày quanh ra quẩn vào, thi thoảng đi cùng với người em trai Sĩ Hoàng tới quán rượu Hoàng Y Tín Lộ.

Phía Trường Châu, đội quân man di của Dương Thanh đã nhân thời cơ đó mà khuếch trương thanh thế, đàn áp những cánh quân hướng về Tống Bình hòng giúp quân triều đình. Đầm long tướng Đỗ Phụng Quán mấy phen cầm lính đánh sát tới các thành huyện châu Ái. Đoàn Uyển dốc toàn lực quân binh chống trả, viết thư nghị hòa với Phụng Quán.

Đướng núi đi từ Tượng Sơn tới thung lũng Hoa Lư cũng đã được thông suốt khiến binh lực Man Hoàng càng thêm vững mạnh. Dương Thanh cùng với con trai Chí Liệt kết thành một vòng cung vững trãi, đặt mũi tên mang tên Thăng Triều sẵn sàng phóng đi bắn hạ quân đội triều đình đã được tăng viện số binh từ hai vạn lên tới bốn vạn rưỡi.

Các tướng dưới trướng Dương Thanh như Lý Toàn, Mã Tước, Ma Cao Dực, Đỗ Tồn Thăng đều lập được công lớn khiến quân đội châu Phong phải nể phục vài phần. Các bộ tướng của Chí Liệt cũng góp công không nhỏ vào thế trận của Thăng Triều tại Giao Châu nên Thăng Triều không khỏi lo lắng, làm việc gì cũng nể mặt họ Dương mà viết thư hỏi ý.

Khi đó, Triệu Cường nghe tin cha cùng hai huynh đệ bị bắt nhốt ở nhà lao huyện Tống Bình xin với Dương Thanh niệm tình cũ từ thuở còn ở châu Hoan mà ra mặt nói với Thăng Triều mong thoát tội cho về làm thứ dân. Vương Thăng Triều biết yếu điểm của Dương Thanh là đám người họ Triệu nên cho Chung Đạt đứng ra xử ba người đó.

Chung Đạt vốn ghét đám quan lại Tống Bình nên lúc bắt được ba người đó liền giải ba người đó về nhà lao huyện Gia Ninh châu Phong sai Hỏa Cước Tốc cai quản chặt chẽ. Triệu Cường cũng phải đành hậm hực trở về đất Trường Châu. Trên đường quay về, Triệu Cường gặp Tồn Thăng mang quân đi từ đất huyện Vũ Bình tăng viện cho Tống Bình.

Hai người nói khá lâu, Tồn Thăng hẹn với Triệu Cường một tuần sau gặp ở huyện Thái Bình, tìm cách tới Bạch Hạc để tìm người cho Cường.

Đỗ Sĩ Giao nghe tin Tồn Thăng tìm cách tới châu Phong liền bày ra kế lừa viên tướng giữ thành tới quán rượu, chuốc cho say.

Sĩ Hoàng nói với Đỗ Nam Hoàng Y tìm cách đưa hai người đó vào trong thành, việc xuôi ngay.

Viên tướng giữ thành uống say tới độ ba ngày không tỉnh lại, mọi việc trong thành đều do một tay Thăng Hùng lo liệu. Vốn bị khi tỉnh khi mơ nên Thăng Hùng bị anh em họ Đỗ qua mặt vài lần. Sĩ Giao bàn với người em Sĩ Hoàng, Sĩ Hoàng liền nói với Sĩ Giao :

- Cha con họ Triệu không đáng để anh ra tay giúp đỡ. Những kẻ như vậy tốt nhất không cần phải nặng tình với chúng làm gì. Hãy cứ để Kiều Đạt xử tội chúng.

- Dẫu gì thì con trai Hoằng là Cường cũng một lòng trung nghĩa. Dù sao mong muốn của hắn cũng đáng để tướng chủ lưu tâm mà viết thư ngỏ ý muốn ta giúp đỡ cha con hắn. Là những kẻ mang trọng tội, chúng đâu có thể làm gì được chúng ta. Chi bằng cho Cường một ân nghĩa để hắn thấy được tướng chủ vị tha, nhân nghĩa với bọn tôi dưới mà dốc lòng phò tá.

Sĩ Hoàng dốc rượu tu một hơi hết hũ, Hoàng không nói gì, miệng ngoác rộng như nhái bén, xõa tóc rũ rượi. Nhìn ánh mắt Sĩ Hoàng phảng phất chút buồn, Sĩ Giao tiếp lời gạn hỏi :

- Chẳng hay chú có điều chi chưa thỏa. Lại uống rượu mà thở ra tiếng buồn nặng trĩu.

- Đâu có gì đâu anh. Anh xưa nay ý đã quyết đâu có thể cản được. Em cũng không phải kẻ mà đám người họ Dương đó ưa gì. Ngày em tới châu Phong, nếu không có Do Độc cùng Tồn Thăng, chắc là em cũng chỉ muốn trong nhà lao của Thăng Triều chứ không muốn theo cái người mà anh một lời gọi tướng chủ, hai lời gọi chủ tướng ấy.

Sĩ Giao nheo mắt nhìn Sĩ Hoàng, lấy hũ rượu cùng cạn với Hoàng. Sĩ Giao tu một hơi cạn hũ cười lớn. Sĩ Hoàng tỏ mặt không vui, nổi đùng đùng hỏi anh :

- Cớ sao anh lại cười em. Điều đó đáng để cười lắm hay sao?

- Chẳng gì cũng là em trai ta, con trai của dòng dõi Đỗ gia. Một thời oanh liệt cai quản một vùng đất thiện lương, khét tiếng khắp Giao Châu. Nghĩ đi nghĩ lại sáu hổ giờ chỉ còn mình chú, há chăng lại chẳng buồn cho được. Khi bọn ta đánh cướp Lục Hổ, tìm không ra chú, chú lánh trú ở đâu. Tên Long Trạch kia ở đâu, hắn có nghĩ rằng bọn chú đã lăn lộn, khổ sở thế nào để thoát được sự vây bắt của quân lính. Vậy mà hắn đường đường chính chính vào Tống Bình nhậm chức tước, làm tới tước Binh mã sứ nắm hết binh quyền Giao Châu. Ngoài lúc tay Long Trạch đó một mình cướp ngục ở hương Phù Đổng, thì hắn đã ở đâu. Hay khi lúc hắn chức trọng, binh lực trong tay hắn có nghĩ đến chú mà tìm chú hay không. Buồn tiếc chi một kẻ như vậy.

Sĩ Hoàng gạt lời :

- Anh không thể hiểu được đâu. Dẫu là cướp nhưng bọn đệ không như người khác nghĩ. Huynh đệ dẫu với bên ngoài khiến kẻ khác sợ sệt, kinh hãi. Tình cảm không đến độ thân thiết như thể ruột thịt giống em với anh Sĩ Giao nhưng cũng chẳng khác gì thủ túc tình thân. Em biết tin huynh ấy làm binh mã sứ cũng viết thư thăm hỏi vài lần. Huynh ấy cũng thương nhớ các huynh đệ mà việc quân không thể dứt ra mà nghĩ đến bọn đệ được nên việc gặp gỡ cũng đành tạm gác. Nay huynh ấy bị bắt nhốt ở nhà lao, nhờ Sĩ Giao huynh dò hỏi giùm để đệ tới để bày tỏ chút tâm tình. Được như vậy thì em cũng thỏa lòng. Mong anh nghĩ cách giúp cho tiểu đệ này.

Sĩ Giao kiên cưỡng nhận lời. Ngày sau cùng nơi nhà lao huyện Gia Ninh, Triệu Cường cùng với Sĩ Hoàng tới gặp viên bổ đầu Đinh Tráng. Tráng nghe danh Sĩ Giao quân sư mà tiếp đón hậu tình, gã quỷ Tồn Thăng gặp lại bạn cũ ngồi hàn huyên với Tráng suốt mấy canh liền. Hai người đó nâng chén mời rượu Sĩ Giao, Sĩ Giao luận bàn kinh sử trong cơn ngà ngà khiến hai người võ dũng mở mang đầu óc, liên tục ngỏ lời khen vị quân sư học thức hơn người.

Ở phía bên trong ngục tối nhà lao huyện Gia Ninh, Sĩ Hoàng gặp Long Trạch thấy sắc mặt kém đi vài phần so với khi gặp Long Trạch ở thành Bạch Hạc. Khi đó Trạch còn là tướng quân của Tống Bình tới châu Phong để dự thao diễn toàn quân phủ đô hộ.

Hoàng nắm tay hỏi Trạch :

- Đã mấy lần gặp lại tứ ca. So với những lần trước gặp ở hội lính, anh đã sa sút đi phần nhiều. Tiểu đệ thấy buồn lắm thay.

Long Trạch không nhìn mặt Sĩ Hoàng, giọng nói đầy phẫn nộ :

- Ta đâu có huynh đệ gì với ngươi. Lục Hổ cùng bốn vị sư huynh đệ với ta họ đã chết từ lâu.

Sĩ Hoàng than thở :

- Nếu chẳng phải Thôi Kết mà tứ phò giúp đó đánh đuổi tiểu đệ chạy tới đất châu Phong thì đâu phải nông nỗi ra thế này. Đệ biết huynh ở Tống Bình ra vào phủ đô hộ nên đã mấy lần viết thư thăm hỏi. Muốn gặp huynh mà không có thời cơ tương ngộ.

Long Trạch nói giọng ứ trong cổ :

- Nếu ta muốn thì đã tự tìm gặp nhà ngươi. Ta biết ngươi ở châu Phong qua lại với đám người của Dương Thanh, giúp bọn chúng gây dựng lại lực lượng hòng chống phá quân Tống Bình. Chống lại triều đình, chống lại quan đô hộ đó chính là chống ta, phản lại ta. Những người phản lại ta, phản lại triều đình sẽ không có kết cục hay ho gì. Ngươi hãy cứ giương mắt to mà nhìn.

Lục Hổ gầm gừ như bị trúng đao:

- Huynh nói như vậy đệ chẳng thể nói gì. Quanh năm suốt tháng họ Vương đó quản thúc, nói đệ có thể tự do tung hoành thì cũng không phải, tiểu đệ bị giam hãm suốt chừng ấy năm, lại mang tiếng dựa hơi đàn bà nên chẳng còn mặt mũi mà đi đâu. Tiểu đệ quê mùa, không có chí lớn hùng tâm như huynh trưởng Sĩ Giao. Chỉ muốn trở về cuộc sống như dại dột ngày trước, cùng huynh đệ cướp bóc bọn thổ hào, mang chiến quả chia cho huynh đệ, ăn uống no say bàn luận chuyện thế gian.

Tứ Hổ Long Trạch lặng đi một lúc, quay mặt ra nhìn Sĩ Hoàng, vết đao chém chẻ đôi khuôn mặt xanh xao. Mái tóc rũ ướt bết lại thành từng bối như vẫn còn dính mưa hòa với máu ngày trước đánh nhau với quân tướng của Dương Chí Liệt. Sĩ Hoàng cầm chặt lấy tay Long Trạch, Trạch gồng mình, những vết thương từ chiến trận cùng vết thương vừa bị do đòn roi tra tấn nơi ngục tù đỏ rực lên trên tấm thân xanh ngắt trần trụi của Trạch.

Long Trạch nói với Sĩ Hoàng:

- Đệ hãy tới chùa Kiến Sơ, cạnh Đại Đường Nam tự mà ta vẫn thường hay tới đó dưới gốc cây khế ta có chôn một chiếc hòm đựng lá thư. Rồi đệ tìm gặp vị sư phụ người Tiên Du, tên là Lập Đức trong chùa ấy. Người đó sẽ đọc được văn tự ấy. Mong đệ sẽ làm nốt tâm nguyện của ta để ta dưới suối vàng có thể nhắm mắt.

Long Trạch nói rồi quắc mắt lên nhìn thẳng vào mắt Sĩ Hoàng, bẻ gãy bàn tay của Hoàng. Sĩ Hoàng không kịp rút tay lại đau đớn ngã khụy xuống. Mím môi nén đau Sĩ Hoàng cố chống tay vào song cửa, Long Trạch đập vỡ chiếc cong đựng nước tiểu trong gian tù kéo Sĩ Hoàng siết vào song cửa đưa mảnh vỡ chiếc cong kè cổ Sĩ Hoàng gào thét:

- Mau mau nói bọn chúng thả ta ra mau. Lục Đệ đã chết, nhà ngươi chỉ là một tên họ Đỗ em trai của kẻ thù của ta Đỗ Sĩ Giao. Gọi tên Bá Nam đó tới đây thả ta ra mau.

Sĩ Hoàng nén cơn đau, cổ dấm máu giọng thì thào nói với Long Trạch :

- Giết đệ khi còn có thể. Đừng mong họ sẽ thả cho huynh.

- Đừng nói nhiều nữa. Gọi chúng vào thả ta ra. Ta sẽ tha chết cho ngươi.

Sĩ Hoàng dấn cổ vào mảnh vỡ, Long Trạch càng ấn sâu hơn khiến máu chảy ra càng nhiều.

Nghe tiếng quát tháo lớn trong nhà lao, Hỏa Cước Tốc cũng Sĩ Giao xông vào trong gian nhốt Long Trạch. Cửa đã bị phá tung, xích gông cũng bị giằng đứt, chỉ còn Sĩ Hoàng nằm dưới sàn đất ôm cổ đầy máu.

Sĩ Hoàng được đám sai nha khênh ra phía ngoài lấy vải quấn để cầm máu. Sĩ Giao trông thấy hoảng hốt nhìn vào vết thương. Một rạch ngang cổ nhưng không chạm phải yết hầu và mạch máu chính.

Sĩ Giao nhìn thật kỹ rồi thở phào nhẹ nhõm vỗ về mọi người :

- Các anh em hãy cứ an tâm. Chỉ là vết thương ngoài da. Nam tử hán mất một vài giọt máu đâu có là gì. Phải không Sĩ Thương.

Sĩ Hoàng gật đầu nhè nhẹ sợ máu chảy thật mạnh. Hỏa Cước Tốc cho lời Sĩ Giao là phải, sai đám sai nha đặt Sĩ Hoàng nằm bên chiếc chõng tre để dưỡng thương. Tên sai nha chạy tới bẩm báo, trước khi bỏ trốn tên Long Trạch đó không hiểu sao có được chìa khóa mở gông, xích sắt rồi khống chế Đỗ viên ngoại. Hỏa Cước Tốc tức giận hỏi tên sai nha đó:

- Không phải chìa khóa các ngươi cất giữ cẩn thận trong phòng tra tấn. Từ sáng tới giờ có kẻ nào vào đó hay không? Lục soát toàn bộ huyện thành không cho kẻ nào vào ra cho đến khi tìm thấy được phạm nhân bỏ trốn.

Sĩ Giao nhìn Sĩ Hoàng vờ nhắm mắt nhìn trộm Sĩ Giao cùng Đinh Tráng liền cất lời:

- Đã gây ra tội lớn, ảnh hưởng tới việc công của nha huyện. Thật ngại quá, xin Đinh bổ đầu lượng thứ cho. Sĩ Thương chú ấy bất cẩn để xảy ra chuyện như vậy xin cứ nghiêm trị đúng tội.

Công Tráng xua xua mấy tên sai nha ra ngoài, nói với Sĩ Giao:

- Sĩ Thương đâu có tội gì. Chỉ là do bọn ta sơ suất khiến phạm nhân thoát được ra ngoài lại gây tổn thương cho các vị. Xin hai vị trở về dưỡng vết thương, tránh lời thị phi.

Nói dứt lời, Sĩ Giao liền nhờ mấy tên sai nha khênh Sĩ Hoàng ra xe ngựa trở về thành Bạch Hạc. Sĩ Giao nhìn Sĩ Hoàng biết được tâm t.ư, Sĩ Hoàng mấy lần định giải thích liền bị Sĩ Giao cản lại không cho nói.

Cùng lúc đó, Hỏa Cước Tốc sai người canh giữ đám người họ Triệu cẩn thận, giám sát Triệu Cường từng chút từng chút. Đinh Tráng thoăn thoắt bước chân khắp nẻo đường tìm ra tên trọng tội da xanh đó.

Đỗ Tồn Thăng hồi lâu đi tìm bãi đất trống để tiện quay về thì nghe bọn sai nha kể lại sự tình cũng dắt ngựa đi tìm. Sực nhớ lại khi đi ra đến bãi sông gần nhà lao có một kẻ dáng vẻ lén lút, men theo sát tường chạy về phía tây, Gã Quỷ thúc ngựa chạy theo hướng đó.

Như được thần tiên mách bảo, ngựa của Gã Quỷ liên tục hý vang đến đoạn bụi rậm khó đi thì ngựa đó lại chọn đường ấy mà đi. Đến một đồi cọ rậm rạp, Gã Quỷ trông thấy bóng người đang đứng để đi tiện, liền thúc ngựa chạy tới. Tiếng vó ngựa dồn dập khiến người đó giật mình chạy lao vào trong rừng cọ.

Gã Quỷ đuổi theo, cầm dao quắm phạt đổ đến bảy mươi cây cọ cùng bụi dậm chắn ngang. Long Trạch thấy không thể chạy thoát liền dụ ngựa của Tồn Thăng tới một hố ong lớn. Ngựa theo đà đuổi lao thẳng về phía Long Trạch, Long Trạch nhảy sang một bên nằm sạp xuống dưới đất, ngựa đạp trúng hố ong, ngã nhào ra đất khiến Gã Quỷ nằm sõng soài ra phía trước. Đàn ong vây lấy ngựa mà đốt, Gã Quỷ cầm dao quắm vội vàng chạy về khe nước gần đó nín thở ngụp xuống dưới làn nước tránh bọn ong bay tới.

Đàn ong vừa rời đi, Gã Quỷ đứng dậy quay ngang dọc tìm dấu của Long Trạch. Tiếng ngựa kêu thảm thiết khiến Gã Quỷ phân tâm. Gã Quỷ đành phải lấy dao lớn chặt đầu ngựa để nó không kêu nữa. Long Trạch nhổm dậy bò lùi ra xa hố ong, tiếng xào xạc khiến Gã Quỷ đánh mắt theo. Cầm dao quắm đẫm máu ngựa xông tới nhằm Long Trạch bổ thật mạnh. Trạch bật mình tránh được đòn chí mạng, chạy về phía bìa rừng nơi dưới chân đồi.

Gã Quỷ hô hào đuổi theo:

- Đứng lại tên quỷ da xanh kia. Lần này nhà ngươi sẽ không thoát khỏi dao quắm của ta. Mau mau đầu hàng chịu trói.

Long Trạch thở không ra hơi, lại gần bờ sông Thao đỏ rực, cúi mặt xuống mặt sông uống lấy uống để. Gã Quỷ nhổ một gốc cây quăng mạnh về phía bờ sông, nước bắn lên tung tóe khiến Long Trạch ướt hết thảy. Long Trạch cởi bỏ quần áo kín mít như bưng đã bị sũng nước khoe mình trần đầy thớ sẹo. Gã Quỷ cười lớn ầm vang:

- Lần này thì nhà ngươi sẽ chẳng thể chạy thoát. Nếu quỳ xuống cúi xin thì ta sẽ tha cho. Còn không thì hãy lãnh một đòn dao quắm của ta.

Long Trạch giậm chân xuống dưới nước, dùng lá cọ phe phẩy trên mặt sông, chỉ thoáng lát đã đi ra giữa bờ sông. Gã Quỷ trông theo mà tòng tâm bất lực, đứng trên bờ mắng chửi một hồi lâu. Long Trạch cười khinh Gã Quỷ bất tài, bỗng giữa dòng có hòn đá nổi lên khiến Long Trạch mất thăng bằng ngã nhào xuống nước. Là Sĩ Giao đứng ở sau gã Quỷ cầm quạt mo phe phẩy miệng mỉm cười:

- Thứ tà pháp của nhà ngươi, ta đã nghiệm được từ lâu. Chí Liệt đã từng nói cho ta nhà ngươi dùng tà pháp hòng thoát được nguy nan. Nay chớ hòng thoát được khỏi tay ta.

Long Trạch bơi ngang sang phía bờ bên kia mà dòng nước cứ xoáy cuộn trở lại. Sức Long Trạch vùng vẫy hồi lâu, hắn dạt vào phía bờ nơi Gã Quỷ cầm sẵn dao lớn chờ hắn dạt vào. Long Trạch đập tay xuống mặt nước, bỗng nước tung tóe trắng bọt ập lên người Gã Quỷ. Trạch nhanh nhẹn giật lấy dao quắm của Dương Diện Tồn Thăng. Gã Quỷ bị bọt nước che mất tầm nhìn, Sĩ Giao trông thấy ném cho Gã Quỷ một thanh kiếm. Long Trạch xông tới hòng hất kiếm ra xa nhưng không kịp.
Gã Quỷ cầm lấy kiếm xông thẳng tới Long Trạch ra đòn uy lực tựa núi đổ. Quan sát một lúc, Sĩ Giao nói với Tồn Thăng:

- Họ Long đó chỉ quen dùng trảo cước, song câu thuần thục đến độ hoàn hảo. Trong tay hắn giờ chỉ còn có một, hãy dùng kiếm đánh vào mạn trái không cầm vũ khí của hắn. Đánh đến khi hắn quen chiêu thức dùng trảo, câu đỡ đòn, ắt sẽ bị kiếm chém lìa tay.

Gã Quỷ dùng kiếm liên tiếp ra đòn tấn công về cánh tay trái không cầm vũ khí của Trạch. Long Trạch gượng gạo dùng tay phải cầm dao quắm đỡ lấy đòn của Tồn Thăng.

Tồn Thăng dùng sức toàn cơ thể dồn đánh năm mươi hiệp về phía tay trái của Long Trạch. Đỡ được thêm vài hiệp, như lời Sĩ Giao nói, tay phải đã mỏi, Long Trạch chuyển dao quắm sang tay trái để ra đỡ đòn. Gã Quỷ đổi chiều đánh sang phía phải tay của Trạch. Đỡ được bảy hiệp, Long Trạch như thường lệ vung tay phải lên đỡ nhát kiếm của Gã Quỷ như thể trong tay đeo Long trảo.

Kiếm sắc lẹm chém đứt ngọt cánh tay Long Trạch. Long Trạch điên cuồng dùng dao quắm chém về phía Gã Quỷ Tồn Thăng, Dương Diện dùng hai tay đỡ lấy đòn trời giáng của Long Trạch. Năm mươi hiệp nữa trôi qua, Long Trạch mất máu quá nhiều, mắt hoa cố đánh với Gã Quỷ. Gã Quỷ theo đà phản đòn chém ngang ngực Long Trạch, người đứt làm đôi. Hai lá phổi bập bùng máu chảy, trái tim cắt xẻ làm hai máu lênh láng một vũng đỏ tươi hòa vào đất.

Gã Quỷ mệt nhoài nằm xuống đất thở dốc, mặt trắng bệch như trúng gió lúc say. Đỗ Sĩ Giao chạy tới kéo Gã Quỷ gượng dậy, từ phía bìa rừng có đám lính đi tới trông thấy xác Long Trạch đỏ ỏn ba đoạn trên đất liền gom ba phần xác của Long Trạch mang về huyện thành Gia Ninh. Gã Quỷ nằm trên chiếc xe ngựa, đôi mắt lờ đờ trắng dã như người sắp chết, Sĩ Giao phải lau giọt mồ hôi trên người vào chiếc khăn lụa, vắt kiệt từng giọt nhỏ vào miệng Gã Quỷ. Gã Quỷ nằm thiếp đi hổn hển cho đến khi về tới huyện thành.

Trở về tới huyện thành Gia Ninh, Sĩ Giao đưa Gã Quỷ tới nhà của viên bổ đầu, Sĩ Hoàng đang ở đó dưỡng thương. Gã Quỷ ngồi dựa trên chiếc ghế mây, uống cạn tích nước quả vối còn hơi âm ấm, thở phì phò như bò ngựa.

Sĩ Giao lay Sĩ Hoàng tỉnh dậy khiến Hoàng giật mình tung đòn thủ về phía Sĩ Giao. Hoàng nằm mộng thấy ngũ hổ tụ sơn xong rồi cưỡi mây bay đi mất. Chàng mở mắt ra ôm lấy Sĩ Giao, ánh mắt liếc nhìn bộ dạng lấm lết, chân tay đầm đìa máu của Gã Quỷ.

Hoàng bỗng òa khóc:

- Lục Hổ nay chẳng còn một ai. Đau đớn lắm thay.

Sĩ Giao vỗ nhẹ lưng Sĩ Hoàng an ủi người em trai:

- Hiền đệ của ta. Dẫu sao thì cũng đã rồi. Trách than làm gì. Bọn ta cũng chỉ vì cái bình yên của chúng dân mà diệt đi những kẻ gian ác.

Hoàng đẫm lệ gào thét, gầm rú ầm vang cả núi rừng châu Phong.

Tiếng vọng len lỏi đến tận nơi lao ngục tối tăm. Triệu Cường vẫn ở đó dặn dò thăm hỏi cha cùng hai người anh em.

Đinh Tráng sốt ruột liên tục gọi cho người vào giục họ Triệu. Triệu Cường mỗi lúc xin thêm chút thì giờ để lắng nghe những lời của ba người đó giãi bày. Triệu Hoằng nói với con trai:

- Ta đây đã lớn tuổi, tre già ắt héo, măng non lại mọc. Phận mỗi thân một khác, gióng thẳng làm cột kèo dựng nhà, gióng dẻo dai mềm mại làm nan đan thúng mủng, nón lá, măng non bùi ngọt thì làm món ngon cho đời. Mỗi đứa một phận, nay Triệu Cam, Triệu Túc không được may mắn như con Triệu Cường. Chỉ mong sao cho hai đứa nó làm thứ dân thường, không màng danh vọng tướng tá, sống cuộc sống yên ả. Thay cha sửa chữa những lỗi lầm của cha. Có vậy cha mới yên lòng nhắm mắt cho được.

Triệu Cường ruột đau như cắt, nước mắt nhòa đôi gò má vành vặn của đấng nam nhi cúi đầu tạ từ cha cùng hai đệ. Lời nói của Triệu Hoằng như ngàn kim châm trong lòng, vạn lửa thiêu đốt trong tâm can cứ văng vẳng mãi bên tai của Cường.

Cường bèn mang lời đó nói với anh em Sĩ Giao, Sĩ Hoàng mong có chút hy vọng cho cha cùng với hai người em.

Đêm đó, tiết trời quạnh hiu, Sĩ Hoàng ghé chỗ người bạn làm ăn ở huyện Gia Ninh là Liễu Thử mượn mảnh vườn nhỏ, bắt cá dưới sông Thao, vào trong thành mua đôi gà nấu bữa rượu mời các huynh đệ đã từ lâu mới có dịp tương phùng.

Thắp nén nhang thơm bái vọng về hướng quả đồi đất đỏ khi chiều Tứ Hổ Long Trạch nằm xuống, Liễu Thử mang rượu nếp quý Mường Lò thiết đãi khách quý.

Chén chú chén anh bảy tám người ngà ngà say, ôm lấy nhau nằm ra nền cỏ giữa vườn phơi sương. Dưới ánh lửa lốm đốm của buổi canh tàn, Sĩ Hoàng ngồi cạnh Triệu Cường bá vai chia sẻ nỗi lòng:

- Anh Triệu này, cha anh hết mực chăm chút cho anh, nuôi anh khôn lớn thành người. Dẫu có mang tiếng nhục với đời nhưng cốt chỉ chăm lo cho các anh trưởng thành, dốc lòng trung nghĩa với với các bậc tôn trưởng, với chúng dân. Triệu Hoằng lão như vậy, anh có ghét cha mình hay không?

Triệu Cường nấc nghẹn, mơi ra đống cá thịt vừa mới thơm lừng đưa vào trong miệng. Cường liếc mắt nhìn Sĩ Hoàng, tay chống trên chõng đổ người về phía trước, ngón tay chỉ mặt Đỗ Sĩ Hoàng:

- Kẻ làm cướp như chú không xứng để nói chuyện nhân nghĩa với ta. Chẳng phải chú là em trai của quân sư thì đã đầu lìa khỏi cổ như đám hổ cọp gì đó rồi. Chú không xứng để bàn, chú không xứng để bàn…

Nói rồi, Sĩ Hoàng miệng ngoác hất cằm vênh mặt nhìn Triệu Cường. Hai người bốn mắt nhìn nhau rồi bật cười phớ lớ. Cạn thêm hũ rượu chung, Sĩ Hoàng đập vai ba cú thật mạnh khiến Triệu Cường điếng người. Hoàng thì thầm với Cường:

- Nếu chẳng phải chuyện của cha anh thì đâu phải anh đã tới châu Phong tìm bọn ta. Mà anh thừa hiểu chỉ có anh ta Sĩ Giao và ta mới giúp được cho anh. Hãy trả lời ta thật rõ ràng. Anh có ghét cha mình không? Lão già phản tặc Triệu Hoằng đó.

Triệu Cường đập vỡ hũ rượu, đứng dậy cầm rút kiếm khỏi bao khiến Sĩ Hoàng không khỏi kinh hãi lấy tay giữ tay Triệu Cường ấn kiếm trở lại bao. Triệu Cường rũ tay Sĩ Hoàng, dứt khoát rút kiếm khỏi bao, quay sang chĩa lưỡi kiếm vào cổ Sĩ Hoàng.

Mũi kiếm đi tới vết thương khi sáng Sĩ Hoàng bị Long Trạch gây ra. Sĩ Hoàng hiên ngang ấn cổ mình vào kiếm, Triệu Cường rút kiếm lại múa mấy đường thoăn thoắt.

Sĩ Hoàng đứng lặng như tờ quan sát từng đường kiếm của Triệu Cường mang đầy tâm t.ư của người con trai với cha già, của vị hiền huynh đệ với hai người anh em còn đang ở trong lao ngục tăm tối. Mỗi đường kiếm như rũ bỏ hết mọi ưu phiền, từng chiêu thức vung mạnh như đánh đuổi những lo âu. Kiếm thu lại, kiếm lại bung ra, ánh sắc lạnh kè vào cổ của Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng nhìn Triệu Cường mà cười khẽ.

Triệu Cường hỏi Hoàng:

- Mũi kiếm kè cổ mà Sĩ Hoàng không chút sợ hãi hay sao?

- Bao lần cái chết cận kề, nước sôi đổ đầu, lửa bỏng thiêu thân, lưỡi kiếm đó đâu có là gì. Nếu Triệu huynh có ý nhằm vào đệ thì sẽ chẳng phải mũi kiếm đặt ở chỗ đó. Một mũi kiếm trúng yết hầu hoặc tia máu phía trái sẽ khiến đối phương lập tức mất máu mà chết.

Triệu Cường nhìn vào vết cứa ở cổ còn đỏ tươi miếng da lợt, Cường cười lớn:

- Ta đã hiểu rồi. Vậy ra Sĩ Hoàng cũng được một lần đáp trả ân nghĩa với đám Lục Bạch Hổ đó. Vậy xem như cũng đã toại lòng rồi. Dẫu có ở bên kia thì Long Trạch cũng hiểu được tâm ý của Sĩ Hoàng. Quả nhiên hai anh em họ Đỗ của chú thật biết cách che mắt thiên hạ. Ta xin bái phục. Sĩ Hoàng bản lĩnh đầy mình đâu phải một vết trầy xước ở cổ mà ngã nhào chỗ biệt giam ngục tối được, chỉ là…

Sĩ Hoàng nhìn thẳng vào ánh mắt Triệu Cường dường như đang tường tận đọc ra những suy nghĩ trong đầu mình. Sĩ Hoàng mời Triệu Cường ngồi xuống, Cường thu kiếm ném xuống phía dưới nền cỏ xanh mượt. Hoàng dâng ly rượu mời, Cường cúi đầu mời lại:

- Nếu hai anh em đệ giúp ta được tâm nguyện này, dẫu có làm trâu ngựa cho hai người cũng cam lòng. Xin Sĩ Hoàng nói giúp với Sĩ Giao, cùng nghĩ cách giúp ta. Chỉ cần hai đệ của ta cùng cha ta thoát được tội chết, về làm thứ dân, vậy là ta toại lòng rồi.

Sĩ Hoàng uống thêm chút rượu, nghĩ thêm một lúc rồi ghé vào tai Triệu Cường. Cường gật gù lắng nghe lời Sĩ Hoàng.

Hai người thi thoảng lại cười phá lên giữa đêm khuya vắng lặng. Hỏa Cước Tốc nhổm đầu nhìn hai người đó định buông lời mắng mỏ mà đầu óc nặng trĩu lại nằm thiếp đi.

Đôi người bạn hữu ôm những hũ rượu đổ ngả nghiêng, chỏng trơ vào trong lòng như người cha già ôm những đứa con cưng vào lòng nằm ngáy phì phò trên chõng tre cho đến khi gà gáy mờ sương.

Sáng ngày sau, Triệu Cường cùng Gã Quỷ sớm trở về huyện Thái Bình.

Chí Liệt biết tin hai tướng dưới trướng liền gọi hai người tói hỏi chuyện. Chí Liệt sai người cầm roi mây tới để hỏi tội hai người. Chí Liệt giận dữ nói:

- Lại là tên mặt quỷ nhà ngươi gây ra chuyện tày đình. Nhà ngươi nói xem ta phải nói với Vương thứ sử thế nào cho ngài ấy hiểu đây. Long Trạch đó dẫu có đáng chết, bỏ trốn thì liên quan gì đến nhà ngươi. Nếu hắn có bỏ trốn được thì tội ấy là của đám cai ngục châu Phong. Nay nhà ngươi làm ra như vậy, uổng bao công sức ta đã cố gắng bây lâu.

Triệu Cường trộm nhìn ánh mắt của Chí Liệt, có chút giận dữ trong giọng nói nhưng nét mặt không nếp nhăn lo lắng. Triệu Cường đỡ lời cho Gã Quỷ:

- Chuyện này là do tại hạ. Vì chưa quen đường thuộc lối nên mới rủ Tồn Thăng đi cùng tới châu Phong để gặp thân phụ cùng hai huynh đệ đang bị bắt giam ở đó. Không may đúng lúc Long Trạch thoát được ra ngoài, Gã Quỷ cùng đám sai nha huyện đó đi tìm tên họ Long đó, hắn chống cự hết sức mãnh liệt mà thành ra như vậy. Có quân sư Sĩ Giao ở đó làm chứng cho Gã Quỷ.

- Không phải bàn thêm nữa. Tự ý rời bỏ quân doanh là tội lớn nhất, quân pháp nghiêm minh không phân biệt tướng sĩ, tốt lính. Nay ta phạt hai ngươi hạ hai cấp, làm lính cấp lương. Để ta xem phía châu Phong có động tĩnh gì không rồi sẽ xử Gã Quỷ nhà ngươi.

Chí Liệt sai Cường viết quân lệnh trạng đọc trước toàn quân, xử phạt mỗi người năm mươi roi, giam lỏng trong quân doanh, có người giám sát kè kè suốt cả ngày.

Triệu Cường toàn thân sưng tấy, nằm bẹp trên giường, Chí Liệt thường lui tới để thăm dò vỗ về Triệu Cường. Cường cảm động mà tạ lỗi với Chí Liệt, tỏ ý muốn dốc lòng phò tá cho cha con họ Dương.

Gã Quỷ bị cấm uống rượu nên bí bách trong lòng đánh đấm với đám quân sĩ khiến cho đám lính châu Phong mới gia nhập đội quân của Chí Liệt sợ hãi, không kẻ nào dám lại gần.

Nghe tin, Chí Liệt liền điều Gã Quỷ tới châu Phong để hai anh em Đỗ Sĩ quản thúc Gã Quỷ.

Vương thứ sử ở Tống Bình cho người mang thư tới khen tặng Gã Quỷ cùng đám quân sĩ của Chí Liệt:

“Anh hùng hai tiếng lừng vang

Gã quỷ Dương Diện ánh vàng chói chang

Khi xưa đả hổ đuổi rồng

La Thành khói lửa thoát vòng tử nan.

Phong châu thứ sử thanh nhàn

Nhờ công Dương chủ cùng đàn tướng tinh

Đứng đầu Gã Quỷ Tồn Thăng

Đánh đông dẹp bắc sánh bằng Lý Ông

Thương thay áo yếm má hồng

Bao duyên không ngó, đêm không giấc tròn

Chí trai tát biển rời non

Sáu thu cây đã khô giòn cành cao

Gặp lại cọp hổ năm nào

Trốn theo con nước xông vào rừng sâu

Đánh cho hổ rắn bẹp đầu

Hai trăm hiệp đấu có lâu la gì

Sức dai long hổ chẳng bì

Quỷ ta dũng mãnh lầm lỳ tiến lên

Ba trăm hiệp tiếng sấm rền

Người không nhức mỏi, hổ rên hừ hừ

Khen người khí dũng “Long Ngư”

Giết loài tàn ác, loại trừ kẻ gian.

Rạng danh khắp đất An Nam

Tồn Thăng Gã Quỷ muôn vàn mến yêu.”

Trong thư Vương Thăng Triều còn dặn dò Chí Liệt thu xếp cho quân sĩ Man Hoàng chu đáo, đấy là quân lính của thân phụ Chí Liệt đã dày công gây dựng suốt bấy nhiêu năm dưới danh nghĩa châu Phong nghĩa binh.

Đọc tới đoạn Thăng Triều đã ra sức giúp đỡ Dương Thanh cùng các hầu tướng mà Chí Liệt rưng rưng, nước mắt tự ứa ra từ trái tim của kẻ gan dũng. Chí Liệt biết được bao nhiêu năm từ khi Long Trạch chiếm lấy Tống Bình dâng cho họ Quế cho đến lúc Man Hoàng chiếm được Trường Châu, Dương Thanh đã nương nhờ đất châu Phong.

Chí Liệt hiểu tấm chân tình cùng hảo ý của Vương Thăng Triều liền gột rũ hết những hoài nghi bấy lâu nay. Chí Liệt yên lòng tập trung gây dựng quân đội, khao thưởng quân sĩ theo công trạng, khiến quân sĩ ai nấy đều mừng vui. Bấy giờ trong quân mới yên.

Khi đó ở Tống Bình, từ lúc Vương Thăng Triều chiếm được đất ấy, dân chúng trong thành ban đầu tỏ ra nghi ngại, các quan tướng đầu hàng đều chưa yên dạ thấp thỏm lo âu.

Thăng Triều liền ra ý dụ muốn trọng dụng đám quan tướng đầu hàng, xét theo công tích và tài năng mà cho giữ các chức sắc. Hầu như kẻ nào cũng được giữ nguyên chức cũ, có kẻ công tích lớn hơn thì được xét thăng một vài cấp.

Đám dân Tống Bình vốn không ưa đám người miền biên ải, man di tự lập nên phần nhiều có ý định bỏ đi. Bọn quan tướng mới hàng được Thăng Triều ưu ái nên nghe theo lời Thăng Triều thuyết phục đám dân đó ở lại Tống Bình, phò giúp cho Thăng Triều bình định đất Giao Châu.

Kiều Chung Đạt nghe theo lời Thăng Triều cũng cởi bỏ mũ áo, đi cùng đám quan tướng cũ của Tống Bình đi vào trong dân, lắng nghe tâm tình của họ mà bày ra mưu sách kịp thời cho Thăng Triều. Nhờ thế mà Thăng Triều giảm bớt được mối lo dân chúng Giao Châu không phục thứ sử Châu Phong.

Trong lúc đi vào trong dân cùng đám quan lại, Chung Đạt mới biết được lý do cái chết của con trai Chung Tiềm. Nhiều lúc Chung Đạt đã gắng lòng gạt đi những điều không vui đó vào tận sâu đáy lòng nhưng mỗi lúc gặp người dân huyện Tống Bình, Chung Đạt không sao mà quên đi, lại gợi mở câu chuyện để tự nhủ với lòng mình rằng “Ý muốn mang quân đi đánh Tống Bình của ta và Thăng Triều là hợp tình, hợp lẽ. Trước là báo ơn tiền nhân, con dân đất Nam, sau là đáp thù t.ư gia.”

Trong thành huyện, ai nấy đều nhớ rõ như ban ngày, kể ra tường tận càng khiến cho Chung Đạt không nguôi được cơn giận. Có người còn nói với Chung Đạt rằng:

- Nếu không phải các ngài thì chẳng sớm thì muộn sẽ có kẻ chiếm lấy Tống Bình. Họ Lý không tài năng, sức không thể cáng đáng được An Nam. Dẫu có mười người như Hãn Xương, Long Trạch cũng chẳng thể cứu vãn nổi.

Chung Đạt nghe lời đó mà mừng trong bụng. Chung Đạt hỏi người đó:

- Đâu phải riêng gì con trai ta nói những lời đó đúng không. Ai ai trong thành đều thấy rõ điều đó. Chỉ là không kẻ nào dám lớn tiếng công khai nói ra những điều đó. Có phải không Lão bá Tô Trực Hiến?

Ông lão họ Tô tuổi ngoài bảy mươi, râu tóc vẫn còn đen nhánh, dáng dấp nhanh nhẹn, giọng nói vang vang như tiếng chuông đồng, cười lớn bàn với Chung Đạt:

- Lão đây thất thập cổ lai hy nói những lời đó có khác chi trò cười cho đám nho học lúc nào cũng tự cao tự đại ấy, vốn ta là chỉ là phận dân đen thấp cổ bé họng có bàn những lời đó với nhau thì chẳng sao mà tới tai quan lớn thì đầu sẽ rơi khỏi cổ, gia đình vì thế mà mang theo trọng tội. Chuyện đó đám dân bọn ta đâu có thể bàn được. Nhưng mà…

Chung Đạt thấy ông lão ngập ngừng, tay chống gậy đi vòng quanh nhà liền hỏi:

- Nhưng mà gì nữa hả lão? Nay đám quan tham đó đã không còn. Lão cứ tự nhiên mà nói.

Lão hạ giọng, lời nói uyển chuyển hơn so với khi nãy:

- Nói ra chỉ sợ Đại nhân thấy không vui. Nếu đại nhân cho phép lão nói thì lão cũng xin kể lại. Chẳng phải đám người châu Phong trong đó có Kiều công tử và Vương công tử nói điều ấy ra trước tiên. Mà là người khác, người mà đã thường xuyên vào trong nhà lao mà chăm chút bữa ăn cho hai vị công tử đó, sau lại mang tội giết người mà phải đền mạng.

Chung Đạt cắt lời ông lão hỏi:

- Là lão Tô Hiền, người mà bị viên quan đô hộ họ Lý đó đã giết?

Nói đến chỗ đó, ông lão nức nở:

- Nhắc tới lão Tô Hiền đó mà tôi đây cảm thấy xót xa thay. Lão là người em con chú con bác với tôi. Chỉ vì lão nghe lời tên thầy tướng ở núi Thiên Thai mà nên nỗi đó.

Chung Đạt sửng sốt hỏi:

- Chẳng phải là đám nho hủ kia nói ra trước tiên, mà chính là lão Tô Hiền? Sao chúng lại chỉ bắt con trai ta. Đúng là họ Lý đó đâu có coi bọn châu Phong ta ra gì.
Là lão nói là núi Thiên Thai, có phải quả núi cách thành Long Biên chừng bảy mươi dặm đường về phía đông hay không? Tên thầy tướng đó nói gì với lão Tô Hiền mà khiến ông ta lại nói ra lời như vậy.

...Đúng vậy. Lão Tô Hiền có lần ngao du, mượn thuyền đám dân chài ở cửa bắc thành Long Biên đi dọc theo sông Thiên Đức tới bờ sông phía nam gặp một người tự xưng là thầy tướng, thấy lão Tô Hiền khí chất khác thường liền gọi lão vào mà nói rằng:

“Trị sở An Nam đô hộ phủ nằm trên đất Long mạch, năm trước bị một tay phù thủy người Nai Lương ngoài biển Bắc Hải theo viên quan sứ Triều Hành – Triều Cự Khanh (Abe no Nakamaro) tháo mạch đất nên từ bấy trở đi người lập trên đất ấy đều mang họa lớn. Nếu không có thầy phù thủy cao tay trấn yểm thì những kẻ ở đó chẳng sớm thì muộn cũng sẽ phải rời đi hoặc không thì sẽ bị diệt vong. Gương của Cao Chính Bình, Lý Tượng Cổ vẫn còn trước mắt.

Lý Nguyên Gia biết lấy lòng chúng dân Tống Bình nhưng sức ông ta chỉ được như vậy. Dầu có dựng thành đắp lũy thì cũng chỉ được một tòa thành nhỏ, mà đất Long Đỗ ấy cũng không thể dựng được thành lớn hơn. Về tầm nhìn và sức vóc, Lý Nguyên Gia sẽ không thể bằng những kẻ sau này.”

Sau đó lão Tô Hiền cùng các hiền tế về bẩm lại lời đó với quan đô hộ. Quan đô hộ không trách phạt, chỉ tặng cho lão Tô Hiền cùng các hiền tế mỗi người bảy lượng bạc. Bảy ngày sau, khi khánh thành đền thờ thần Tô Lịch, Long Trạch cho bắt đám nho hủ trong đó có hai vị công tử. Chuyện sau này thì đại nhân đã rõ...

Chung Đạt đắn đo hồi lâu, quay ra hỏi Trực Hiến:

- Ông lão thử nói ta nghe. Liệu có âm mưu nào được dựng lên ở đây chăng?

Lão suy nghĩ hồi lâu, nghe tiếng giục giã Lão thốt lên lời:

- Theo ta thì…

Nói rồi lão nhìn xung quanh, lão liền xuống giọng nói khé vào tai Chung Đạt:

- Ở đây lắm kẻ rèm pha. Chi bằng khi tối nay, đại nhân hãy tới gian nhà cũ ở góc nam thành Đại La cũ. Ta sẽ kể cho đại nhân.

Lão lại nói lớn:

- Chẳng có gì cả ngoài những lời rèm pha. Đại nhân xin lại nhà.

Tối ngày đó, gió đông bắc lạnh thấu xương, Chung Đạt cáo ốm không vào trong La Thành tiệc tùng cùng đám chức sắc trong thành. Chung Đạt tới chỗ lão Tô Trực Hiến bàn tiếp chuyện khi chiều.

Áo choàng phủ kín không làm cho cái lạnh bớt đi, Chung Đạt xuýt xoa, hai tay liên tục cọ xát vào nhau, mùi khen khét đưa lên miệng phả hơi ấm sưởi cho tan đi cơn giá.

Nghe tiếng người đến, lão Trực Hiến vội chạy ra ngoài cửa mở rộng hai cánh cửa. Ngó nghiêng hồi lâu, lão mới mang chiếc đèn lồng ánh sáng leo lắt ra dắt đường cho Chung Đạt vào bên trong. Chung Đạt hồ hởi xách hai hũ rượu bước nhanh tới gian nhà phía sau, bày lên mặt bàn gỗ nhỏ, sít miệng nói:

- Ta nghe lão kể chuyện mà như sóng vỗ mạn thuyền chao đảo ngả nghiêng. Những lời nói của lão khiến cho ta không thể dứt ra được. Khi chiều lão hẹn ta tới, chẳng hay có chuyện gì cần bàn, nhưng ta muốn được ngồi cùng với lão. Đã kinh qua cái tuổi tri thiên mệnh, cổ lai hy chắc chắn sẽ có những điều hay ho để cho ta dỏng tai lãnh hội.

Lão cười nhạt, rót hũ rượu ra hai chiếc bát sành hoa văn đơn giản, nước men trắng đục, hà hơi một tiếng thật dài, lão khen:

"Rượu của đại nhân thơm nồng, mà uống vào lại dễ chịu biết nhường nào. Quả nhiên rượu của bậc tôn trưởng cao sang mới có được khí chất như thế. Lão xưa nay chỉ quen việc nhặt nhạnh của đám dân, thu gom mọi thứ, ai cần cái gì thì tìm thứ ấy bán cho người ta, nên người khác gọi lão là Lão Mại.

Mấy đứa nhỏ nhà này, con cháu đều theo ta làm thứ việc đó, mỗi đứa chuyên mua mua bán bán một thứ, không tạp nham như ta nữa. Nên thành thử cũng kiếm được khá hơn. Thế nên cũng thấy mừng.

Nghe tướng quân có duy một người con trai lại mang trọng tội mà khép vào án tử, thật thương thay. Nhìn ánh mắt của đại nhân khi chiều nói về chuyện tôi cũng đoán già đoán non chứ chẳng dám chắc rằng ngài có ý hỏi rằng có kẻ giật dây cho đám quan Tống Bình cố tình giết chết hai vị công tử?"

- Phải. Không ngờ lão lại tinh ý đến vậy. Ta vẫn còn bấn rấn đôi điều. Nghe Hãn Xương kể lại với ta, phong phanh ta cũng đoán được vài phần nhưng vẫn còn nhiều uẩn khúc. Lão là người trong thành, quen biết đám hảo hữu là những bậc trưởng tôn chắc cũng biết được phần hơn những gì ta đã nghe. Lão Tô Hiền tiếng là mưu hại hai đứa trẻ đó nhưng cái chết cũng đầy bí hiểm. Phải chăng có điều gì đáng ngờ.

Lão Mại nhíu mày, gõ đũa vào hai chiếc bát sành, âm thanh tanh tách vui tai khiến Chung Đạt tỏ mặt khó chịu. Chung Đạt hỏi:

- Lão chừng ấy tuổi, không biết gõ đũa vào bát là điều tối kỵ trong bữa hay sao?

Lão cười:

- Đại nhân nghe cho kỹ, cùng là hai chiếc bát, giống y hệt nhau âm thanh phát ra lại thật khác.

Chung Đạt cởi chiếc áo choàng bông ném xuống chiếc chõng tre, người nóng phừng phừng sau hai bát rượu, giọng nói lạc đi:

- Chẳng phải hai chiếc bát đó rượu ít đầy khác nhau nên âm thanh phát ra sẽ khác. Có điều chi làm lạ.

- Đại nhân xem cho thật kỹ. Hai chiếc bát giống hệt nhau, không cái nào nặng hơn cái nào, khuôn vành miệng loe cùng kích cỡ ấy vậy mà âm tiếng rất khác. Đại nhân biết không, hai chiếc bát này cùng được làm từ cùng một lò gốm, nhưng do hai người thợ khác nhau cùng làm. Cùng nguyên liệu, cùng nung chung một lò, rõ ràng giống hệt nhau, nhưng chỉ khác đó chính là thứ này. Ngài hãy chạm vào xem, chiếc bát này nhìn thật kỹ sẽ thấy một rãnh nhỏ bên trong lòng bát, đó chính là cái bất cẩn của người làm thợ gốm nên dù nhìn trông rất giống nhau nhưng kỳ thực hoàn toàn khác biệt.

Chung Đạt nhìn hai chiếc bát thật lâu mà không hiểu ra dụng ý của Lão Mại. Chung Đạt nhìn thẳng ánh mắt hiền hậu của lão, miệng cười hỏi lại:

- Lão nói như vậy ta vẫn chưa thật thấu đáo.

Lão gõ chiếc gậy chống xuống nền đất hai tiếng thật mạnh, có chàng thanh niên mặt mày nhỏ nhắn, ánh mắt tinh khôi, đôi môi mỏng như lá tre, miệng rộng tới mang tai, khúm núm cúi chào hai người. Lão Mại giới thiệu với Chung Đạt:

"Đây là hiền tế của lão đệ Tô Hiền tên là Trương Tính, anh ta chính là người nấu bữa cơm cuối cùng cho hai vị công tử châu Phong. Người mà đã khiến lão đệ Tô Hiền của ta bị oan uổng chết thay. Mà nghe qua, chắc chắn người mà Chung Đạt đại nhân muốn bắt giết sau Lý Nguyên Hỷ và Long Trạch chính là hắn.

Nhưng hãy khoan, xin đại nhân hãy bình tĩnh nghe lão nói. Trương Tính là người hiền lành chất phác, chạy mua chạy bán giúp ta lại hay giúp đỡ người khác nên được lòng lão đệ của ta, lão đệ biết ý con gái út Tô Thị thầm thương hắn từ lâu nên gả cho hắn. Nhờ có hai người anh em cột chèo làm sai nha trong phủ huyện Tống Bình nên được xung làm quản bếp cho đám phạm nhân.

Bữa có hai vị công tử châu Phong bị bắt nhốt, Từ Hãn Xương ra lệnh chăm lo chu đáo cho hai người đó. Vốn tính hay nghe lời nên Trương Tính nghe theo, mang hết số bạc mà Hãn Xương giao cho mua thịt rượu đủ đầy cho hai người đó, không thừa ra lấy một cắc."

Nói đến đây, anh chàng lúi húi cúi lậy Chung Đạt:

- Mong Kiều đại nhân minh xét. Bữa cơm hôm đó, tiểu nhân không cố tình làm ra như vậy. Câu chuyện không phải như Từ Hãn Xương nói với đám quan trên vậy đâu ạ. Từ trước tới giờ nhạc phụ và tiểu nhân chưa từng có ý hãm hại ai bao giờ. Vả lại cái chết của nhạc phụ, hai người anh rể, chị gái và cả vợ tiểu nhân nữa là ngụy tạo dựng lên hòng xoa dịu cơn giận của các ngài ở châu Phong, muốn mọi chuyện êm xuôi để người châu Phong được yên dạ mà không mang quân đánh Tống Bình.

Chung Đạt mày dựng, mắt trợn, uống cạn hũ rượu, nghiến răng ken két hỏi:

"Không phải là các ngươi thì còn là kẻ nào nữa. Ta còn nghe các ngươi nhận lệnh của tên Lý Nguyên Hỷ đó mà lấy lá trúc đào nấu canh mang cho hai đứa trẻ đó giết chết chúng, hòng lấy uy để hiếp đáp bọn ta hay sao. Nếu không phải mấy lời múa mép của Hãn Xương đó thì Tống Bình đã bị dẹp từ lâu, chứ đâu phải chờ tới ngày nay.

Bọn chúng mày được lắm, dám cả gan bắt nhốt con trai ta, lại giết người không dao, đánh trống bỏ dùi, vừa muốn đe nẹt đám người ở các châu quận khác, lại mềm dẻo muốn châu Phong ta nghị hòa với lũ khốn nạn đó sao.

Đừng hòng. Kiếp này, quý tử ta đã không còn, ta cũng chẳng thiết gì công danh, chỉ muốn cho bọn chó má đô hộ đó biết rằng, người nam ta không sợ gì bọn chúng. Còn ngươi, ngươi cũng chỉ là kẻ khua khoang miệng lưỡi, đừng hòng thoát khỏi tội chết."

Lão Mại từ tốn vuốt râu, tay đặt nhẹ lên tay nắm chuôi kiếm của Chung Đạt, mặt không đổi sắc, giọng nói vang vang:

- Tướng quân xin hãy bình tâm mà suy xét. Nếu cháu tôi muốn chết thì cũng sẽ tìm cách chết đường hoàng hơn chứ chẳng phải tới đây cầu xin đại nhân để chết dấm dúi ở chỗ này. Là người duy nhất biết được sự tình bên trong nên từ khi đại nhân tới nhà lão, lão đã định bụng rằng sẽ phơi bày hết sự thật cho đại nhân. Nay ý tốt của lão lại bị đại nhân nghi ngờ, nếu cháu ta phải chết, ta xin chết thay nó. Đại nhân hết sức bình tâm nghe cháu ta kể tiếp.

Nói đoạn, Chung Đạt dịu cơn giận, thu kiếm về, nghe chàng trai đó kể hết sự tình. Trương Tính nói rằng trong bữa cơm cuối cùng trước khi hai vị công tử đó về với ngàn thu, Trương Tính bị Long Trạch sai mang cơm cho đám binh lính canh gác ở cửa nam La Thành. Lúc chưa nấu xong, lính của Long Trạch tiếp tục sai tới đốc thúc nên Tính đành phải vội vàng gói ghém mang cho đám lính đó bữa cơm trưa.

Lão Tô Hiền hôm đó vào thăm ba người con rể thấy Trương Tính có việc phải đi nên mắt mũi kèm nhèm vào bếp nấu cơm giúp con rể. Có hai suất đặc biệt dành cho hai người nên lão chăm chút từng ly, nhưng lão không hay đám rau tươi đã bị thay bằng là trúc đào từ khi nào.

Đến khi mọi sự đã rồi, lão kể lại cho Trương Tính rằng ngày hôm đó chỉ có một người nói là người của Từ huyện lệnh tới để thăm dò xem cơm nước cho hai vị công tử đó có chu đáo hay không nên lão chẳng nghi ngờ. Hỏi ra thì không một ai biết người mà hai cha con lão Tô Hiền tả lại. Vậy nên mọi tội lỗi quy hết lên đầu cha con họ Tô ấy.

Chung Đạt vẫn còn bán tín bán nghi nhưng không còn tâm trí để xử tội Trương Tính đành cho Trương Tính lui ra. Lão Mại mang thêm hai hũ rượu thơm lừng đãi viên phó thứ sử châu Phong.

Đến khi ngà ngà say, Lão nhắc lại chuyện ông thầy tướng số. Chung Đạt hỏi ý lão xem người đó ở chỗ nào hay không thì tới hầu chuyện Vương Thăng Triều ở La Thành. Lão Mại vẽ đường cho Chung Đạt đi theo, tới núi Thiên Thai, đi qua ba bậc thang lớn, gặp một người huynh đệ tên là Doãn Xanh sẽ tìm được người.

Chung Đạt rượu say trở về phủ, ngủ một mạch tới ban trưa. Chung Đạt choáng váng đầu, kiếm vội miếng trầu nhai rồi sai người mang canh hến rau ngót tới. Chung Đạt thưởng thức xong món canh, lập tức cùng năm người tùy tùng đi theo sông Thiên Đức tìm tới viên thầy tướng họ Đàm.

Y lời Lão Mại nói, Chung Đạt gặp được Doãn Xanh, Doãn Xanh chỉ hai ngón tay hướng về tây bắc và tây nam dặn rằng Chung Đạt hãy đi về hai phía đó, nếu có duyên ắt sẽ gặp được thầy.

Chung Đạt dùng kiếm chĩa thẳng vào mặt Doãn Xanh, Xanh không chống cự mà chỉ cúi đầu bái lạy mấy người cùng Chung Đạt. Chung Đạt lấy làm giận lắm, nhưng không làm gì được, Chung Đạt hào phóng tặng ngựa cho Xanh, rồi đi theo hướng tây bắc.

Trời đổ bóng xế, Chung Đạt thở dài than vãn với đám tùy tùng. Người nào người ấy mệt mỏi chỉ đáp lại đôi ba câu rồi thúc ngựa chạy không biết đâu là đích đến.

Tới một khúc sông, có cây gạo hiên ngang rủ xuống mặt sông những cành khẳng khiu trụi lá, Chung Đạt trông thấy một người đàn ông mặt gẫy, chán rô, mái tóc xù xòa, chân tay như những cành mục trên cây gạo mà người đó đang dựa vào.

Thoảng qua, Chung Đạt nghĩ đó chỉ là kẻ khách tầm thường như bao kẻ khác nên quất ngựa chạy đi. Đi quá cây gạo chừng ba mươi chín bước chân ngựa, giọng người đó cất lên, nghe inh ỏi văng vẳng như tiếng ve kêu mùa hè:

- Đã có duyên tương ngộ giữa dòng đời tấp nập, vậy mà kẻ hùng tâm sao vội lướt qua mà không hỏi han kẻ sĩ. Thật tiếc lắm thay. Chỉ còn chừng ấy nữa thôi, sẽ chẳng còn có thể hạnh ngộ.

Chung Đạt quay đầu lại, kéo cương ngựa tiến tới chỗ người đàn ông đó. Nhìn chăm chăm một lượt, đôi mắt đục mờ, bàn tay thô rạm, người gầy gò kham khổ, lại có vết bớp lớn phía sau gáy hiện rõ hai chữ “nhân tướng” (人相). Tướng mạo không có gì khác thường, Chung Đạt hỏi:

- Cớ gì anh lại nói duyên tương ngộ với ta. Anh có ý gì hay chăng?

- Là ta thật có duyên phúc mới gặp được kẻ anh hùng như ngài. Tận mắt trong thấy tướng mạo phi phàm, da đỏ hồng tí di. Ở cái tuổi của ngài được như vậy quả là xưa nay hiếm.

Chung Đạt lầm nhẩm, nhớ lại trong đầu ký ức nào đó vừa mới chợt quên. Chung Đạt mừng rỡ:

- Đúng rồi, vết bớp hình nhân tướng phía sau gáy, nốt ruồi to chèn dưới bọng mắt phải. Là Tiên Thố tiên sinh. Có phải hay chăng? Gặp đây quả nhiên trời xanh có mắt, hữu duyên muôn lần.

Người đàn ông cúi thấp mình chào viên phó thứ sử châu Phong:

- Gặp được tướng quân thật là mừng thay. Ta cũng đang đi tìm một vị tướng quân mong được người đó dẫn tới gặp Vương thứ sử để bàn với ngài ấy về…

- Có phải là việc trấn yểm đất Long Đỗ hay chăng?

Thầy tướng họ Đàm vâng lời xin đi theo Chung Đạt về tới Tống Bình. Đàm Tiên Thố kể lại những điềm tích đã xảy ra ở đất Tống Bình cho Chung Đạt nghe.

Suốt dọc đường đi Chung Đạt cố gắng gặng hỏi về tướng số con người. Lời họ Đàm nói như mưa rào đổ xuống đất khô cằn, bao nhiều câu chữ Chung Đạt nắm lấy nằm lòng. Như thể gặp được tiên thần, ánh mắt Chung Đạt toát lên sự rạng rỡ, phấn khởi biết nhường nào.

Những câu chuyện kinh bang tế thế đều được Chung Đạt hỏi ý vị thầy tướng đó, Đàm Tiên Thố cũng không ngần ngại bày tỏ hết tâm can của mình đối với những việc của tầm cao nhân trị đó.

Cả quãng đường dài mới chừng năm mươi dặm không sao kể cho hết những tâm t.ư của Chung Đạt bấy lâu.

Trời sầm tối, Chung Đạt thiết đãi Tiên Thố một bữa thịt rượu đầy ắp, vũ nữ múa lụa trong cả trăm điệu nhạc hay. Ánh trăng mờ mịt ẩn trong làn mây mỏng, gió se se khiến hai người đó rượu say nằm lăn ra sàn phủ đầy lụa là, gấm vóc sang trọng chốn điện phủ.

Có tiếng mèo gầm gào trong đêm khiến vị thầy tướng số tỉnh giấc. Một con mèo đen, mắt sáng quắc dưới ánh trăng mờ nhìn vào phía trong điện phủ, Tiên Thố xua xua đuổi mèo đó đi thì nó tiến lại gần, nhảy qua đầu họ Kiều xông vào liếm ly rượu còn vương trên bàn.

Tiên Thố mím chặt môi giậm giậm đuổi mèo đó đi nhưng nó vẫn đứng trơ trơ ở đó. Nghe tiếng thậm thịch bên tai, Kiều Chung đạt mở mắt, giật mình Chung Đạt cầm kiếm chém chết con mèo đen. Tiên Thố mặt mày kinh hãi, lắp bắp nói với Chung Đạt:

- Hắc Miêu vốn tính âm rất mạnh. Nhỡ may nó nhảy qua người khác nằm ngủ sẽ rước theo linh hồn người ấy. Nãy giờ nó ngồi đó nhìn chăm chú vào tướng quân, khiến ta thật không thể yên giấc nên mới khua đuổi nó đi.

Chung Đạt cười:

- Chỉ là một con mèo. Tiên sinh chớ nên lo lắng như vậy. Ta đây đã trải qua cả trăm trận đánh lớn bé. Quạ kêu, éc chết đã chứng kiến bao lần. Chưa hề có chuyện gì xảy đến với ta.

Tiên Thố nhìn thẳng vào đôi mắt Chung Đạt, ánh mắt bỗng đờ đẫn, con ngươi nhạt màu, râu tóc mới có mấy canh giờ mà đã rũ xuống, rụng dưới sàn cả nắm. Chung Đạt khép tay xoa bụng, Tiên Thố nói với Chung Đạt:

- Thần thái đại nhân thật khác so với khi tối. Người xoa bụng là có ý gì hay chăng.

- Ta thấy nhâm nhẩm đau. Chắc là do khi qua uống nhiều rượu nên mới vậy.

- Bụng trướng, môi thâm xì, râu tóc rụng nhiều. Đại nhân thấy trong người thế nào.

Chung Đạt giương đôi tay khỏe khoắn, cười hả hê:

- Sức như voi cọp, đâu có điều chi đáng ngại. Những thứ đó khi mới ngủ dậy ai mà chẳng vậy.

Nhìn ấn đường Chung Đạt, Tiên Thố lắc đầu. Chung Đạt gặng hỏi mà Thố không trả lời. Chung Đạt liền kè dao vào cổ ép Thố đáp lời. Thố gạt tay, ánh mắt dịu xuống, thấp thỏm lo âu, âm thanh từ lồng ngực thình thịch mỗi lúc thêm dữ dội càng khiến Chung Đạt nghi ngờ. Thố đành buông lời:

- Nói ra thì đại nhân hãy xá cho.

- Có điều chi mà phải giấu giếm.

Đàm Tiên Thố chìa những ngón tay bấm bấm nhẩm tính điều gì rất thần bí. Đi đi lại lại chừng bảy bước chân, Tiên Thố quay ra nói với Chung Đạt:

- Ta thấy toàn thân đại nhân âm khí đang vượng, e là sẽ chẳng thể qua nổi được một trăm lẻ tám ngày nữa.

Chung Đạt sửng sốt:

- Nhà anh nói sao? Ý nhà anh nói ta sẽ chết hay sao.

Tiên Thố răng môi lập bập vấp vào nhau:

- Tại hạ không có ý đó. Mà xin đại nhân trong vòng hơn ba tháng tới, hãy giữ gìn thân thể. Mùa đông giá rét, đại nhân hãy cẩn trọng.

Cơn say chưa dứt, gió lạnh thổi vào trong gian phòng khiến đầu óc Chung Đạt choáng váng nằm ra sàn ngủ thiếp đi. Tiên Thố thu dọn xác mèo đen, lau sạch vết máu rồi dìu Chung Đạt nằm lên trên chiếc sập gụ chễm chệ giữa điện. Tiên Thố ngồi canh giấc ngủ mà giật mình thon thót, rồi thở phào nhẹ nhõm khi buổi sớm Chung Đạt tỉnh giấc rủ Thố luyện võ nơi hậu viên.

Bữa sáng soạn dùng đã xong, Chung Đạt dẫn Tiên Thố tới gặp Vương thứ sử.

Thăng Triều nhìn tướng người chất phác, dân dã nên cũng hỏi qua loa Tiên Thố một vài lời. Tiên Thố thấy Thăng Triều tỏ mặt không thích nên có ý lui ra. Chung Đạt hỏi ý Tiên Thố sao không bàn chuyện Long mạch với họ Vương. Tiên Thố chỉ lẳng lặng bước đi mà không nói lời nào.

Đến canh ngọ, Tiên Thố cúi chào Chung Đạt rồi quất ngựa rời khỏi La Thành. Chung Đạt giữ ngựa hỏi họ Đàm:

- Cớ sao lại vội vã đi mau mà không nói lời nào như vậy?

- Chủ tướng của đại nhân không phải duyên nên dẫu ta có nói ngài ấy cũng chẳng chịu nghe lời. Nếu chủ tướng ngài có hỏi thì hãy trả lời cho thật khéo kẻo gây chia rẽ mối thâm tình. Mong có ngày tái ngộ.


Chung Đạt nhìn theo dáng người gầy gò khắc khổ mà lắc đầu chán nản. Đi một đoạn, có tiếng ngựa quay lại. Chung Đạt mừng rỡ chạy ra đón. Tiên Thố nhoen miệng cười, ánh mắt vô hồn, giọng nói buồn bực:

"Lời cuối chia ly mong đại nhân hãy bảo trọng. Hãy luôn giữ cho khí dương sung vượng tránh âm khí lấn át sẽ tránh được tai họa.

Kẻ làm chủ đất này dẫu có sức muôn vạn người cũng chẳng thể khiến thiên mệnh đổi rời. Nếu được thì ngài hãy khuyên họ Vương đó trở về đất châu Phong, lấy gương của của Thục Phán xưa, tự ý rời kinh đô của tổ họ Hùng về tới Loa Thành khí chất xung khắc với bản tính của họ Thục mà đất nước lâm nguy.

Nay họ Vương cũng theo vậy mà sẽ rước họa sát thân, nếu có lòng đổi ý, thuận theo ý trời thì được an lạc, bằng không chẳng thể tránh được số mệnh đã định sẵn từ trước."

- Vậy tiên sinh sẽ đi về đâu?

- Tại hạ không hợp với chốn xô bồ, chỉ ưa thanh nhàn, vui thú điền viên. Nơi nào có cây cỏ, chim thú nơi ấy sẽ thấy tại hạ. Xin đại nhân hãy bảo trọng.

Nói rồi, ngựa lồng lên chạy về phía nam. Chung Đạt quay lại La Thanh mà lời nói của Đàm Tiên Thố văng vẳng mãi bên tai. Chung Đạt đem lời đó tấu lên Thăng Triều, Thăng Triều giận dữ ra lệnh bắt giết Tiên Thố đó, lại mắng Chung Đạt một trận té tát:

"Là bậc quân chủ lại đi nghe những lời sằng bậy của đám đạo sĩ giả thần, giả nhân đó. Ta nghe trong dân gian mà lòng đã ngờ ngợ bấy lâu. Nay gặp ở chính điện, ta thấy kẻ đó khí chất tầm thường, đôi mắt gian xảo, không phải là người tốt. Kẻ tà đạo, những lời đó có gì đáng làm tin cậy.

Hão huyền mê hoặc chúng dân như bọn giặc Hoàng Cân thời Tam Quốc bên nước Hán, lại có những tên đạo sĩ lấy đạo pháp làm ngu muội lòng người như Vu Cát nước Đông Ngô, thời nào chẳng có.

Chung Đạt ơi, Chung Đạt. Lão cùng ta suốt mấy mươi năm há lại chỉ vì lời của kẻ xa lạ mà thay đổi ý nguyện của chúng ta. Mà chẳng phải chính Chung Đạt nói quyết dẹp bọn gian ác, trước báo ân tiền nhân, sau trả mối gia thù."

Lời nói Thăng Triều như nước lã lạnh lẽo hắt vào mặt tiết trời đông giá rét. Hụt hẫng, Chung Đạt lủi thủi bước ra về.

Đường đi qua thành cũ, Chung Đạt ghé qua đoạn sông chỗ con trai Chung Tiềm chút hơi thở cuối cùng, lắng lòng nghĩ về những chuyện đã xảy ra. Chung Đạt nhìn về phía mặt trời đang ngả bóng phía tây nam bụng chợt nghĩ “Mặt trời hướng tây nam, gió đông bắc tràn về. Rõ là mùa đông giá buốt.”

Toán Hoa Tài dẫn binh đi tuần phía ngoài thành trông thấy Chung Tiềm đang ngồi lơ đễnh bên bờ sông đi tới gọi Chung Tiềm. Toán Hoa Tài nói với họ Kiều rằng Dương tù trưởng ở Trường Châu đó chính là Dương Thanh. Quân lính Man Hoàng mà châu Phong vun đắp bấy lâu là một tay Dương Thanh dựng lấy.

Nay Chí Liệt ở cánh phía tây bắc Tống Bình, họ Dương lại ở đất tây nam, đội quân Man Hoàng do man tộc trưởng trẻ tuổi là Ma Cao Dực nắm giữ như thể cánh cung đang kéo căng, chỉ trực ngày nhả dây phóng mũi tên là đội quân Tống Bình về phía bắc. Chung Đạt nhìn theo ánh mặt trời, cố gắng xâu lại những ký ức trong đầu, có điều gì đó khiến họ Kiều bất an.

Chung Đạt vội vàng lấy ngựa của tay giám quân đi cùng Toán Hoa Tài thúc ngựa vào trong La Thành hỏi Vương thứ sử về người Man Hoàng, Dương tù trưởng. Lão tướng họ Kiều khéo lời khiến thứ sử họ Vương đành phải nói hết những bí mật mà sáu bảy năm nay người châu Phong đã bị che mắt.

Cánh quân phía tây dọc từ Tản Viên xuôi theo Hát Giang đổ ra cửa Đại An châu Trường hết thảy nằm dưới sự chỉ huy của họ Dương ấy. Lời nói của Thăng Triều như ngàn tên bắn, vạn con ong đốt sưng tấy khắp cơ thể họ Kiều.

Kiều lấy làm ấm ức bởi mình đã bị lừa gạt trong suốt chừng ấy năm. Mọi việc châu Phong đều do một tay Thăng Triều cùng đám bộ tướng Lý Do Độc, Hỏa Cước Tốc định đoạt. Toán Hoa Tài cùng Chung Đạt chỉ là những quân tốt thí trong ván cờ do họ Vương dựng lên với dã tâm chiếm đoạt Tống Bình từ lâu.

Suốt một tuần liền, Chung Đạt bỏ về Mê Linh, Thăng Triều cho gọi cũng không tới diện kiến họ Vương. Họ Kiều ở trong phủ suốt ngày, cáu gắt giận dữ với đám gia nhân nên khi họ Vương tới thăm hỏi cũng mượn bọn gia nhân ra mắng chửi, tỏ ý đuổi viên thứ sử đi.

Họ Vương thừa hiểu lòng dạ Chung Đạt nên đã dùng gái đẹp, lụa là, vật hiếm của lạ mang tới lại cho người viết một lá thư khéo nhắc nhở Chung Đạt chớ quên những tâm nguyện ngày trước khi hai người trai trẻ hằng mong. Họ Vương ở lại trong phủ một ngày, Chung Đạt chẳng chịu ra tiếp đón. Họ Vương đành cởi bỏ mũ áo, xắn cao tay áo, ống quần, búi tóc củ hành, lấy bầu rượu ngồi trên chõng tre trước cửa gian phòng của Chung Đạt mà kể hết lòng dạ.

Chung Đạt khi đầu quát mắng, sau đó lại dịu dần theo mạch diễn thuyết của họ Vương. Nhìn qua khe cửa gỗ, ánh sáng lập lòe, làn hương thơm dễ chịu bay vào khiến Chung Đạt bỗng thấy mềm lòng trước họ Vương.

Canh ba gió lạnh, Thăng Triều ngồi dựa vào cột hiên trước gian nhà mà chiếc áo choàng đã rơi xuống từ bấy lâu. Chung Đạt lòng nóng như lửa đốt ở bên trong dẫu muốn mở cửa để mời Vương thứ sử vào trong nhưng lý trí lại không cho.

Bọn con gái đứng trực chờ ở gian trước cũng đã mệt nhoài, co ro ôm lấy nhau mà ngủ từ bao giờ. Mấy gánh lụa là, vật hiếm của lạ lăn lóc chỏng trơ ngoài hiên nhà.

Có tiếng quân lính chạy xộc thẳng vào trong phủ họ Kiều, khua khoắng đêm khuya. Thăng Triều lạnh vai tỉnh dậy lấy chiếc áo choàng khoác lên mình, ngồi nghiêm nghị trên chõng tre nghe tin báo:

"Bẩm chủ tướng. Phía triều đình đã rốt ráo mang quân áp sát các trại quân của ta. Phía Lục Châu quân bản bộ tám nghìn, kỵ mã chín trăm đã vượt sông Kinh Thầy vào tới đất huyện Chu Diên. Đóng quân ở Hải Môn quan là đội quân ba vạn lính do Hàn Ước nắm giữ, dưới quyền còn có viên tướng đầy mưu lược là Mã Thực.

Từ phía bắc châu Bình Nguyên các đạo quân từ đất Quảng Châu, Quế Châu đã đánh lui các đạo quân Nam Chiếu áp sát đến bờ đông sông Lô. Thành trì các huyện Lục Thủy, Thang Tuyền ở Thang Châu đã rơi vào tay quân Triều Đình.

Các huyện Hàn Thành, Lạc Quang, Đa Vân ở Chi Châu, các quan ở đó hết loạt trở mặt với quân ta chém chết phân nửa số binh lính Man Hoàng đóng trại ở phía tây bắc Nà Lữ. Quân của Trương Sang, bộ tướng của Long Trạch từ khi bỏ thành Nà Lữ đã huy động được số quân lên tới bảy nghìn người đánh sập hai cửa thành phía đông và phía bắc.

Lính quân ta trong thành chống cự suốt ngày hôm qua, nay đành phải rút về phía nam. Tình thế nguy cấp mong chủ tướng ra ý dụ."

Thăng Triều bình tâm hỏi han kỹ lưỡng quân tình. Chỉ trong hơn nửa canh giờ, có đến năm người chạy ngựa tới báo tin. Quân tình cấp bách, Thăng Triều đành phải trở về Tống Bình cho gọi đám sĩ tướng tới bàn chuyện.

Chung Đạt nhìn Thăng Triều trong cơn nguy nan mà vẫn bình tâm dặn dò đám gia nhân trong phủ lo liệu, chăm sóc chu đáo cho Chung Đạt. Họ Kiều đắn đo hồi lâu rồi lấy áo giáp, mũ sắt khoác lên người, giữa đêm khua thương hò hét đuổi theo Thăng Triều.

Tới La Thành trời đã mờ sáng, lời nói oai dũng của lão tướng họ Kiều vọng tới điện phủ trong thành. Thăng Triều mừng rỡ cùng các tướng ra đón Chung Đạt.

Tay bắt mặt mừng, Chung Đạt quỳ trước mặt Thăng Triều, giọng đầy quyết tâm:

- Tề gia trị quốc kể chi những chuyện nhỏ nhoi, lòng dạ hẹp hòi đó. Là ta đã quá đặt mình lên cao mà quên mất Thăng Triều vẫn luôn coi ta là bằng hữu, là chí cốt tâm can. Nguyện dốc hết sức đánh dẹp đám ác gian.

Chí Liệt cùng lúc đó mang bảy nghìn quân bản bộ cùng các tướng Phạm Đan, Liêu Đức Thinh, Đặng Hoài từ huyện Vũ Bình đi tới hội quân.

Phía châu Trường, Dương Thanh sai bộ tướng là Đào Tung, Nguyễn Bẻm, Đổng Hùng dẫn theo năm nghìn quân tăng viện cho số quân đóng ở miền châu thổ đề phòng đám quân Vũ An Châu nổi loạn phản lại quân châu Phong.

Từ Man Hoàng, Lý Toàn cùng với Mã Tước cầm đội quân một vạn rưỡi tới bờ nam sông Lô dọc từ huyện Gia Ninh tới châu Bình Nguyên tạo thành phòng tuyến đủ sức chống phá các đợt phản công của quân triều đình.

Đỗ Sĩ Giao ở châu Phong nghe ngóng viết một lá thư cho Dương Thanh và Ma Cao Dực ý muốn hai người ấy hòa hảo với quân Nam Chiếu, Ai Lao cùng bọn Đoàn Uyển Châu Ái, đợi khi thời cơ chín muồi thì mới nên động binh.

Ba ngày sau, quân đội của Thăng Triều đẩy lui được các cuộc tấn công của quân triều đình từ phía bắc tràn xuống. Quân của Hàn Ước phải lui về châu Ung, châu Quảng cách biên giới chừng hai trăm dặm.

Thăng Triều ở Tống Bình bớt đi mối lo phía bắc, tập trung binh lực từ châu Phong đổ về Giao Châu bảy huyện. Châu Phong được dồn binh từ đất Lâm Tây, Man Hoàng do Lý Do Độc cùng Đinh Tráng trấn giữ phía sau phòng tuyến của đội quân họ Dương.

Quân lính triều đình suốt ba tháng mùa đông không thể chiếm được thế thượng phong đành lui quân sâu vào trong đất Giang Đông. Duy chỉ có đội quân của Mã Thực quyết định bỏ đất châu Ung về phòng thủ ở châu Lục vốn đã được họ Mã bình định từ khi Lý Nguyên Hỷ bỏ bê đất ấy cho Man Hoàng và Hoàn Vương quấy phá.

Họ Mã trẻ tuổi bình sinh tính tình hòa nhã nên đã viết thư xin hòa với họ Vương. Chí Liệt cùng Chung Đạt cương quyết muốn mang binh đánh dẹp đi đất châu Lục nhưng họ Vương cho điều đó là trái đạo nên không mang quân đi đánh dẹp, chấp thuận ý nguyện cầu hòa của họ Mã.

Mùa xuân năm Mậu thân (828), Vương Thăng Triều đã thu toàn bộ đất Lĩnh Nam về một mối, các tướng sĩ được chia đất, phong thưởng.

Riêng chỉ có người của Dương Thanh và họ Đỗ vẫn giữ nguyên các chức cũ, được thưởng vàng bạc, vải vóc mà không phong thêm đất. Các tướng dưới trướng Dương Thanh vì thế mà không phục họ Vương, liên tục dâng lên Dương Thanh lời lẽ khinh miệt.

Họ Dương nghe lời Đỗ Sĩ Giao vỗ về các tướng sĩ rằng:

“Chừng ấy năm nương nhờ họ Vương, muôn trùng hiểm họa rập rình. Vậy mà Thăng Triều đó dám đứng ra hứng chịu mọi nghi ngờ của đám quan lại triều đình, hết sức nâng đỡ che chở cho ta. Người như vậy mới đáng bậc tôn trưởng trung nghĩa.

Ta dốc lòng này đánh đuổi kẻ bạo tàn, phò dân giúp nước cũng là cái vinh quang của bản thân ta. Nếu chẳng phải có Thăng Triều mà các ngươi mới được mặc chiếc áo quan thơm phức, đội chiếc mũ giáp ánh kim. Nhìn xem các ngươi đã làm được gì cho dân cho nước hay chỉ ở đó mà so bì với kẻ khác về chức tước lợi lộc.

Há các tướng lại không thấy hổ thẹn khi nhìn vào Thăng Triều mà lại sinh lòng đố kỵ, không phục. Người sinh lòng đó chẳng phải là bất nghĩa bất trung hay sao.”

Lời vỗ về của Dương Thanh khiến bọn tướng sĩ dưới trướng kẻ nào kẻ nấy không dám bàn tán ra vào nữa.

Biết được Dương Thanh trấn an được đám binh tướng dưới quyền toàn tâm toàn ý cho bờ cõi An Nam nên Vương Thăng Triều càng thêm nể phục. Thăng Triều viết lá thư ngỏ ý muốn mời Dương Thanh tới đất Tống Bình nhưng họ Dương đáp lời chưa phải lúc để trở về Tống Bình nên xin khất tới dịp khác. Thăng Triều biết lòng dạ của Dương Thanh nên cũng không ép họ Dương trở về Tống Bình.

Ngày giữa tháng ba, cái rét không còn siết da siết thịt, Thăng Triều trở về châu Phong thăm nom con trai Thăng Hùng và cháu đích tôn Thăng Bình. Được vài hôm ngắn ngủi, việc quân chẳng thể ở lại thành Bạch Hạc được lâu, Thăng Triều dặn dò Hỏa Cước Tốc chăm lo việc châu Phong cho chu đáo, để mắt tới đám người của Dương Thanh còn đang bị giam lỏng.

Yên lòng, Vương Thăng Triều mang theo hai đôi hạc đồng, đi theo phía nam qua huyện Thái Bình, châu Nam Tà vãn cảnh rồi mới trở về La Thành.

Đi qua huyện Hoằng Giáo, có bãi đất nhô cao, cỏ xanh mượt mọc cao ngang thắt lưng, bia đá nham nhở, cỏ rêu bu kín sừng sững giữa trời như thể có bàn tay con người dựng lên. Nóc bia thẳng đứng vút ngược bầu trời, thấy điều kỳ lạ Thăng Triều liền cho người ngựa dừng lại.

Bỗng có hai con chim quạ đen trùi trũi bay tới đậu lên bia thì lông trên người chúng rụng hết chỉ còn đám lông ống phía đuôi và hai sải cánh.

Bọn lính đi theo ngửi thấy mùi lạ liền hô hào cho cả đoàn người chạy đi. Thăng Triều lấy vạt áo che mũi, tiến tới bia đá, hai con chim quạ kêu éc éc rồi đập cánh bay đi. Đám lông của chúng vương trên bia, Thăng Triều lấy tay gạt lông quạ đi thì hiện lên hai dòng chữ lớn:

“Mặt trời chí lớn ngả tây,

Ánh trăng sáng rọi gọi ngày qua đêm”

Rồi phất phơ một làn gió nhẹ thổi qua, hương thơm dễ chịu xông vào tận óc khiến Thăng Triều lơ mơ bước lên đồi cỏ. Đám lính trông theo chủ tướng mà sửng sốt, há hốc miệng khi nhìn thấy viên thứ sử đang bồng bềnh trên mặt cỏ, nhẹ giẫm lên mây trắng lướt đi như thần nhân giáng trần.

Tiếng sấm rền ngang tai, những giọt mưa đầu mùa rơi xuống lạnh thấu da thịt. Bọn lính tráng vội chạy đến chỗ Vương Thăng Triều dìu vào xe ngựa toan đi thẳng về Tống Bình.

Viên tỳ tướng là Hà Dĩ nhìn bia đá sáng rực lên rồi nhuốm màu đen kịt trong làn mưa, khuôn mặt hình thù kỳ quái hiện ra trước mắt. Hà Dĩ dùng kiếm chém gãy đôi bia đá, có dòng nước đen từ trong bia chảy ra, tiếng quạ kêu the thé bên tai.

Cảnh tượng khiến cả đám quân hãi hùng, vội thúc ngựa đi về phía đông. Có tiếng cười vang vọng theo đoàn người ngựa của Thăng Triều:

- Bậc minh chủ há lại khinh miệt kẻ sĩ. Tâm bất minh, kẻ dưới dạ không sáng.

Thăng Triều trở về La Thành ốm liệt suốt bốn ngày bốn đêm. Đến đêm thứ năm, Chung Đạt mang theo thầy lang họ Lý tới La Thành.

Bắt mạch kê đơn, Lý Lang Mộc nói với đám gia nhân chỉ cần thứ sử tĩnh dưỡng, đến canh tỵ ngày mai sẽ tỉnh táo.

Chung Đạt lấy làm kỳ lạ hỏi Lang Mộc. Thầy lang lưng đã còng rạp, đôi chân yếu mỏi, ngồi xuống ghế đẩu, miệng móm mém nhai miếng trầu không phân giải cho Chung Đạt nghe:

"Đó là dị tà của đám người huyện Hoằng Giáo. Xảo thuật ấy thường được bọn mãi võ trong thành sử dụng. Người làm được đến độ thuần thục như vậy chắc hẳn không phải người thường.

Theo lão thấy thì thứ bùn đen mà Hà Dĩ tướng quân chém phải là hỗn hợp của thạch tín, lá giáp trúc đào cùng cây độc xứ Lâm Tây trộn với bùn.

Mùi hương mà Hà Dĩ tướng quân kể lại đó rất có thể là loài dạ hương, thường mọc nhiều ở vùng đó, chỉ cần hít một lượng nhỏ cũng có thể khiến người ta toàn thân mê muội vô thức. Như lời Hà tướng quân kể lại thì đám chim quạ ở đó còn rụng cả lông nên ta đoán chắc chính là thứ hoa ấy.

Khi ta từ châu Phong tới La Thành có đi qua chỗ đó, nghe dân làng ở đó kể lại thì trước đó vài ngày có một người tướng mạo hiền lành, chất phác tự giới thiệu là Phong Hùng có qua chỗ ấy, dựng lên bia ở mô đất cao đó, nói với dân làng rằng sẽ có quý nhân đi qua đất làng nên mượn chỗ mô đất đó để đón khách.

Đúng như lời anh ta nói, Vương thứ sử đi qua chỗ đó nhưng anh ta lại bỏ đi trước đó vài canh giờ trước. Mọi người trông thấy anh ta đi về phía đông nam. Bia sơn màu đá nhũ nhưng kỳ thực là gỗ bọc bùn độc. Đây là một kế hoạch hòng giết hại tướng chủ."

Lang Mộc còn đang dang dở câu chuyện bỗng Chung Đạt thấy trong đầu chếnh choáng, bụng đau dữ dội nằm lăn ra sàn thoi thóp.

Đám tùy tùng trong phủ đỡ Chung Đạt lên chiếc sập. Sắc mặt Chung Đạt xấu bảy phần, Lang Mộc bắt mạch, lấy tay ấn nhẹ vào bụng của Chung Đạt liền lắc đầu nói nhỏ vào tai viên phó thứ sử:

- Bệnh tình của đại nhân đã đến độ rất xấu, dị thể mọc to ở trong bụng chèn ép lục phủ ngũ tạng. Nói ra mong đại nhân thứ tội, chớ suy sụp tinh thần. Lão e rằng đại nhân không qua khỏi.

Chung Đạt nhẩm tính trong đầu, kể từ ngày thầy tướng họ Đàm rời khỏi La Thành cũng đã được gần trăm ngày. Chung Đạt càng tỏ ra tiếc nuối, tiến lại gần chỗ Thăng Triều mà khẽ nói những lời chăng chối.

Thăng Triều nằm trên giường mà đôi dòng lệ ướt đầm đìa gối chăn, tay cố nắm chặt lấy Chung Đạt.

Ngày sau, như lời lão lang Lý, Thăng Triều tỉnh dậy sau suốt những ngày đêm miên man trong trướng rủ màn che.

Nghe binh tình phía biên ải có biến, Hàn Ước lần này mang theo năm vạn rưỡi binh lính hòng đoạt lại dải đất Lĩnh Nam. Thăng Triều tìm tới phủ của Chung Đạt để dò ý.

Chung Đạt nghe vậy liền bật dậy, cầm thương, mặc giáp xin cầm quân tiên phong đánh đuổi quân họ Hàn. Thăng Triều một mực can ngăn không cho. Khi lên điện phủ, các tướng sĩ mặc dù miệng nói nể phục ý chí của lão tướng họ Kiều nhưng hết thảy đều không muốn cho họ Kiều đang mang trọng bệnh xung trận.

Tháng t.ư, mùa hè Mậu thân năm ấy, cánh quân tiên phong của quân đội triều đình do tướng Quách Thôi xâm lấn tới bờ cõi Thang Châu. Tướng người Lão của Thăng Triều là Đột Xuân chém chết tướng giữ thành huyện Hoa Thanh châu Lục, hòng uy hiếp Mã Thực.

Mã Thực đành phải viết thư cho Hàn Ước nghị hòa thêm một thời gian nữa. Hàn Ước không nghe, sai Quách Thôi, Bồ Quan Thức dẫn quân tiên phong vượt trấn Hải Môn đi hai đạo thủy bộ đánh vào miền trung du, tỏa khắp các sông lớn nhỏ phía trước tiền đồn châu Lục của Mã Thực.

Ở La Thành, đếm số ngày còn lại trước về cõi cực lạc, Chung Đạt không yên lòng đứng trước toàn quân tỏ rõ ý nguyện được cầm thương đánh giặc lần cuối :

- Số trời đã định, ta sẽ chẳng còn được sát cánh cùng chủ công, cùng các vị huynh đệ. Đêm qua ta nằm mộng thần nhân nói với ta rằng ta chỉ còn bốn ngày nữa. Số ngày ít ỏi đó có thể không thể làm nên thắng thua toàn cục nhưng ta quyết chiến đấu với bọn giặc cỏ ấy đến hơi thở cuối cùng. Còn hơi thở ta sẽ còn cầm mũi giáo đâm chết kẻ địch.

Toàn quân xúc động trước khí dũng lão tướng quân, ai nấy đều hô vang tên của lão tướng quân. Thăng Triều đành thuận theo ý nguyện của Chung Đạt, sai Toán Hoa Tài cùng hai viên phó tướng mang theo năm nghìn lính vượt sông Như Nguyệt hòng đánh tan đội quân tiên phong của Hàn Ước.

Giáp trận, Kiều Chung Đạt ôm bụng đau dữ dội, các tướng đều khuyên ông trở lại trại binh để dưỡng sức, khi đủ sức lâm trận cũng chưa muộn. Chung Đạt không nghe theo, tay ôm bụng, tay cầm huyết thương chém chết năm mươi tên địch.

Giữa trận gặp tướng địch là Bồ Quan Thức mang đao lớn chém Toán Hoa Tài thì bị lão tướng Chung Đạt dùng mũi thương chém bay đầu. Đám lính triều đình trông thấy lão tướng bụng to, đầu không mang mũ sắt, tóc rụng nửa đầu uy dũng chém chết tướng mà nhốn nháo bỏ hàng ngũ chạy về phía bắc.

Cùng lúc đó Quách Thôi hợp với đội quân huyện Ô Lôi châu Lục lên đến tám nghìn lính đi từ huyện thành huyện Hải An tới tăng viện. Toán Hoa Tài cùng hai viên phó tướng thấy khó lòng địch nổi sức giặc liền hô quân chạy về phía tây nam.

Chung Đạt thấy quân rút về liền quay lại chặn địch, chém chết hơn hai trăm quân lính của Quách Thôi. Toán Hoa Tài quay lại trông theo thì Chung Đạt đã bị quân lính vây kín, người ngựa tạo thành nhiều vòng, nhiều lớp. Gạt nước mắt, cơn giận dữ, Toán Hoa Tài đành cho quân rút về bờ sông Như Nguyệt.

Kiều Chung Đạt một mình xoay sở giữa vòng vây nghìn quân địch, gào thét, chém giết vô số kể. Đám lính chỉ dám chạy vòng quanh mà không kẻ nào dám xông tới.

Chung Đạt cười lớn, giương thẳng ngọn thương chỉ lên mặt trời đứng bóng. Tiếng ngựa hý vang, mũi tên phóng ra trúng đầu chiến mã, cả người vào ngựa ngã nhào xuống đất. Chung Đạt rút mũi tên trên đầu ngựa, vuốt mắt nó yên giấc, tay cầm thương ôm lấy bụng đau đớn, tay còn lại phóng tên về phía Quách Thôi. Mũi tên bị chém gãy đôi nằm dưới mặt đất lầy lội.

Quách Thôi xông lên dùng kích chém đứt đôi người lão tướng Chung Đạt. Chung Đạt ngước mặt lên trời, tay giữ chặt huyết thương. Phần dưới cơ thể đổ ra, máu lênh láng khắp mặt đất. Phần trên cơ thể lão tướng rơi xuống mặt đất, những con bọ xanh trắng từ ngũ tạng chạy ra bò lổm nhổm trên đất, bâu lên mặt mũi, tay chân quân lính. Quân lính triều đình lấy làm kinh hãi bỏ chạy về thành huyện Ô Lôi.

Chỗ đất nơi Chung Đạt ngã xuống, một gò đất cao đùn lên, con nước mang theo hạt giống mọc lên cây sung cao lớn, che phủ cả một quãng sông.

Vương Thăng Triều nghe tin Chung Đạt anh dũng nằm lại nơi chiến trường, khóc thương suốt mấy ngày, sai tám nghìn binh mã đánh vào huyện Ninh Hải châu Lục, mong giết chết Quách Thôi để trả thù cho họ Kiều.

Khi tới núi Lôi Âm quân triều đình tăng viện thêm bảy nghìn lính, Thăng Triều đành rút quân về.

Họ Vương cho người lập điện thờ bên chỗ gò đất Chung Đạt nằm xuống. Từ bấy giờ, quân lính, dân chúng hễ đi qua chỗ ấy đều thắp nén nhang thơm dưới gốc cây sung lớn với tất cả lòng mến mộ thành kính.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ mười hai

Thành Phục Hòa Lý Toàn giết sói lang.

Mất tướng tài quân châu Phong sinh loạn.
Thế quân Giao Châu dễ loạn, nhận thấy điều ấy Vương Thăng Triều ra lệnh cho các tướng giữ binh ở các thành lũy không được tự ý mang binh đi đánh quân triều đình. Thăng Triều nghe lời Chí Liệt chuyển từ thế công sang thế thủ, quyết sống chết giữ thành trì, lũy ấp.

Đội quân triều đình của Hàn Ước hành quân tới các quan ải chia ra hơn hai mươi đạo binh mã lần lượt đánh chiếm các thành ấp, đem tiền bạc của cải ra dụ đám người mọi rợ chống lại quân đội của họ Vương. Phân nửa các ấp trại tiền đồn đều bị người Nùng, người Mông ngả theo quân đội triều đình quấy phá. Các trại quân của họ Vương đều phải lui về phía nam đến hơn trăm dặm.

Vương Thăng Triều gửi thư muốn Dương Thanh mang binh tiếp viện để chống lại sức quân triều đình, Dương Thanh lập tức mang một đội binh mã hơn một vạn người từ châu Trường tới Tống Bình.

Các tướng Tồn Thăng, Đặng Hoài được tăng thêm binh mã mỗi cánh quân năm nghìn người, Thăng Triều đẩy cánh quân hai vạn binh của Toán Hoa Tài lên phía trước để nghênh địch, đóng dọc theo phòng tuyến sông Như Nguyệt. Toàn bộ bố phòng phía sau đều do Dương Thanh và Dương Chí Liệt nắm giữ.

Họ Vương biết mình chỉ còn có thể nhờ cậy cha con họ Dương nên đành ngậm bồ hòn làm ngọt, phát thêm quân lương từ châu Phong cho Trường Châu, các huyện phía tây Tống Bình.

Thăng Triều phong cho các tướng dưới trướng họ Dương thêm các chức sắc cao hơn, Chí Liệt làm trung lang tướng, lãnh toàn bộ binh mã Giao Châu, Dương Thanh được phong làm Đô đốc Giao Châu, Trường Châu thứ sử quyền hành chỉ kém Thăng Triều.

Các tướng Ma Cao Dực, Đỗ Tồn Thăng, Đỗ Phụng Quán, Đặng Hoài, Mã Tước đều được phong thêm đất đai, binh lính, mỗi người được tăng hai ba bậc quan phẩm.


Ở Châu Phong bấy giờ, Vương Thăng Hùng ngờ nghệch, Hỏa Cước Tốc Đinh Tráng là kẻ thuận theo chiều gió mà dần dần nghe lời đám người họ Đỗ. Đỗ Sĩ Giao viết thư cho Vương Thăng Triều phong cho làm Phong Châu mục, người em Đỗ Sĩ Hoàng làm phòng đông đô úy, binh quyền trong tay Lý Do Độc bị anh em Đỗ Sĩ Giao nắm tới hai phần, ba phần còn lại họ Lý mang theo về đến đất Lâm Tây tự dựng lũy ấp.

Triều đình mới lập vua mới còn trẻ tuổi nên bị hoạn quan lộng hành, Hàn Ước xin chiếu đánh dẹp Thăng Triều năm lần đều bị khước từ.

Họ Hàn bàn với Mã Thực sai các tướng dưới trướng liên tục quấy phá các đồn trạm của họ Vương nhưng bị đội quân tăng viện của họ Dương ở Giao Châu đẩy lui.

Trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, Mã Thực đành viết bản tấu sớ dâng lên triều đình. Bấy giờ Đường Văn Tông đang phải lo lắng đám quan hoạn nên các tấu sớ của Mã Thực gửi tới triều đình đều do viên tể tướng Hàn Lâm học sĩ Vi Xử Hậu xét duyệt.

Họ Vi biết được Văn Tông không có lòng muốn giữ mình ở lại trong triều nhưng trước đám quần thần lại luôn tỏ ra muốn giữ họ Vi bằng mọi cách. Nhân lúc Đường Văn Tông còn chưa đảm đương nổi việc quốc gia đại sự hay nghĩ đến một kẻ khác đáng tin tưởng hơn họ Vi để giao phó việc nước cho, họ Vi đã tiếm quyền đưa ra nhiều quyết sách thay vua, khiến đám triều thần nể sợ mà không dám động tới ông ta.

Việc binh biến ở An Nam, Vi Xử Hậu nhận bản sớ của Mã Thực liền hỏi đám quan dưới về hành tung của họ Mã. Đám đó đều không biết họ Mã mà chỉ nghe Hàn Ước được tiên đế Đường Kính Tông phong chiếu cho, tới đất nam thay cho viên đô hộ cũ là Lý Nguyên Gia.

Họ Vi sai một tên học trò trong Hàn Lâm Viện viết lại thư cho Hàn Ước tỏ lời trách móc Ước không làm tròn bổn phận để cho bọn hầu tướng viết lời sàm tấu dâng lên triều đình nên hạ một phẩm hàm của Hàn Ước, lệnh phải dẹp quân nổi loạn ở xứ nam trong vòng một tháng. Nếu Hàn Ước không làm được sẽ xử tội khi quân, giết chết cả nhà.

Hàn Ước biết tin Mã Thực dâng sớ khiến họ Hàn bị trách tội nên Hàn Ước liền tước hết binh quyền họ Mã ở châu Lục. Lúc đó Mã Thực nhận ra họ Hàn chỉ là tên vô lại nên bỏ quan chạy trốn đến đất Chi Châu làm nông trang ở huyện Lạc Diệm.

Hàn Ước viết thư cậy nhờ đám thái thú, châu mục vùng Kinh Nam, Giang Đông. Hàn Ước hứa hẹn sau khi đoạt lại Lĩnh Nam sẽ chia đất đai, quan lộc, thuế sưu cho đám ấy nên bọn châu mục đó cũng chịu lời cậy nhờ của họ Hàn.

Hàn Ước được bọn thái thú, châu mục các vùng lân cận xung quanh Ngũ Lĩnh tăng viện thêm cả thảy một vạn tám lính cùng lương thảo trong vòng nửa tháng.

Mùa hè, ngày cuối trăng tháng năm năm Mậu Thân, Hàn Ước nắm quyền binh trong tay hơn bảy vạn người. Sức quân như thác đổ đánh xuống phía nam các châu quận của người Giao Chỉ đang chiếm giữ.

Chỉ sau hơn một tuần lễ, Hàn Ước chiếm toàn bộ châu Lục, Thang Châu, Chi Châu. Các quan ải hơn hai mươi đạo binh mã của Hàn Ước nhanh chóng lấn đất, đẩy lùi quân phòng vệ của quân đội An Nam vào sâu gần tới châu thổ sông Cái.

Dương Thanh nghe ngóng quân tình biến chuyển bất lợi cho họ Vương nên ngầm ban lệnh cho các tướng đang ở vùng châu thổ sớm tìm kế rút lui trở về Trường Châu để bảo toàn lực lượng.

Dương Chí Liệt biết dụng ý của cha nên mấy lần ngỏ ý với Vương Thăng Triều rút binh khỏi Giao Châu, đợi quá thời hạn một tháng, các cánh quân Kinh Nam, Giang Đông sẽ rút về, bấy giờ đánh họ Hàn cũng chưa muộn. Họ Vương chần chừ hỏi ý kiến các tướng Toán Hoa Tài, Lý Do Độc, Kiều Thái Hoàn, Trương Khánh Tùng mới ra quyết định.

Trong lúc chần chừ quyết định, họ Vương nhận tin báo quân đội Nam Chiếu áp sát miền đất Lâm Tây. Lý Do Độc đã chống đỡ suốt hai ngày mà sức quân không thể giữ lâu do quân triều đình đã t.ư thông với vua Nam Chiếu, hứa hẹn chia đất đai xứ An Nam.

Đội quân châu Ung mới được Mã Thực gây dựng lại cũng nhăm nhe nhằm đánh bật quân phòng đông do Lý Do Độc nắm giữ. Cùng lúc đó, Toán Hoa Tài bị đám quân Quách Thôi, Hàm Chưởng t.ư mang hai vạn quân tiên phong đánh phá dữ dội, phòng tuyến sông Như Nguyệt đã bị tiêu hao binh lực hơn một phần, chỉ còn hơn hai phần.

Đội quân của Hàn Ước lại liên tục được tăng viện, khí giới quân lương mỗi ngày một nhiều hơn nên sức mạnh chiếm phần ưu hơn so với quân đội của họ Vương.

Vương Thăng Triều cho người tới Trường Châu, Phong Châu hỏi ý Dương Thanh cùng Đỗ Sĩ Giao. Dương Thanh hứa sẽ tăng viện nhưng binh mã phải giữ lại đội tinh nhuệ đề phòng quân Ái Châu còn chưa thuần phục nên việc tăng viện sẽ có chút chậm trễ viên.

Về phía Đỗ Sĩ Giao nhận được lời ngỏ ỷ của Thăng Triều liền đáp lời muốn Lý Do Độc nắm quân châu Phong đi theo đường núi hai ngả đường đánh vào hậu quân của họ Hàn vừa để thu hút sự chú ý của toàn quân triều đình sang ngả phía tây, lại vừa giữ được sức quân Tống Bình.

Thăng Triều tin lời Dương Thanh sẽ tăng viện nên thuận theo ý Sĩ Giao. Lý Do Độc nhận được lệnh liền rút hết quân Lâm Tây hợp với quân châu Phong ngược theo sông Lô đánh vào Ung Châu, một cánh quân khác do Lý Toàn dẫn quân vượt núi Hiếu Sơn đánh vào thành Nà Lữ đã bị quân đội triều đình chiếm được cách đây không lâu.

Đội quân của Lý Do Độc tới châu Ung đánh vào kho lương của họ Hàn nhưng bị quân Nam Chiếu dẫn binh đánh đuổi, bỏ chạy đến phía bắc châu Bình Nguyên.

Do Độc nhận thấy có chỗ đất bằng sai lính hạ trại, quân vừa bắc bếp vo gạo thì bỗng từ đâu một đội quân chừng năm nghìn người mặc áo đen, quần đen, đầu búi xù, mặt chát bùn đen cầm nỏ trên núi bắn tên xuống giết chết hai phần quân lính của Do Độc.

Rồi từ trên dốc núi, áo quần xộc xệch đội quân ấy thừa thắng xông lên chém giết hơn ba nghìn người, máu phủ đỏ đất xanh, những ngọn cỏ dính lại với nhau, tết thành những mảng búi loang lổ. Thây chất thành đống cao như những tổ mối chặn cả dòng chảy của con suối cạnh đó.

Do Độc đang đi tuần quanh núi thì bị một tảng đá lớn lăn từ trên lưng núi xuống chèn chết ngựa, Do Độc ngã nhào xuống đất, miệng hộc ra máu đỏ tươi ướt đầm đìa vải giáp.

Biết quân mình bị bao vây chốn rừng hoang, Do Độc hét lớn gọi binh tốt giữ vững tinh thần, tay chống đất lê tới gốc cây lớn gần đó rồi gắng sức gượng dậy chặt hạ cây ấy, chắn đường đội quân áo đen đó chạy tới chém giết huynh đệ của họ Lý.

Một phần quân lính của Do Độc không thấy chủ tướng nháo nhác bỏ chạy. Kẻ lạc vào trong núi hoang làm mồi cho cọp báo, kẻ không lối thoát trầm mình xuống Lô Giang, có số ít người thoát được ra tới đường lớn thì bị cướp đường bắt bớ, mổ bụng, moi gan lấy thịt.

Sót lại chỉ còn mười tên lính đi tới động Ngưu Dương, núi Tụ Long gặp một toán người đang đào núi tìm đồng, tìm bạc. Đi theo đám người đó, có một ông lão nói với đám lính rằng :

- Nơi này đất cao xứ tiên thần, rồng cuộn kết mây, các người đi qua núi mà chạy tới được chỗ này thì số mệnh ắt sẽ được hưởng thọ nên cứ yên tâm đi về phía nam. Chừng năm mươi dặm đường đi không có bóng người nên sẽ không gặp những kẻ xấu xa, bọn người bụng dạ không tốt mà trở về huyện thành một cách bình an.

Mười tên lính đó nghe theo lời lão phu đào đá đi xuôi về phía nam. Quả nhiên mấy người đều sống sót trở về được huyện thành mà không gặp bất kỳ cản trở nào.

Về phía Lý Do Độc, anh cùng phó tướng của mình bị đoàn quân áo đen đuổi theo truy sát cả người lẫn ngựa, hai người thục mạng chạy đến núi Đang Sơn cách núi Tụ Long không xa.

Đoạn ngựa vấp đá bị thương, Do Độc cùng phó tướng Toán Lân Mân bị đội quân áo đen bắt giữ, kéo lê suốt đoạn đường núi hiểm trở tới một động núi cao ngang lưng trời.

Trong dân chúng châu Bình Nguyên kể lại với nhau, có người nhìn thấy hai người bọn họ như hai cái xác khô bị treo trên cành cây cao bỏ đói cho đến chết trên ngọn núi chất ngất ở phía bắc, làm mồi cho đám quạ trắng, mõm to. Lại có lời đồn rằng hai người bị đội quân áo đen đó mang hành hạ cho đến chết chỗ động hoang, hễ có ai đi lên núi đó đều nghe thấy tiếng kêu la thảng thiết văng vẳng trên vách đá treo leo.

Dân trong vùng bàn tán chỗ đất nơi quân lính của Lý Do Độc bị tàn sát hay có tiếng người qua lại hành quân trong đêm, lại có tiếng hò hét ầm vang núi rừng mỗi độ chiều xuống, thi thoảng lại có bóng hai vị tướng quân hiện về đứng từ trên vách đá cầm gươm chĩa mũi kiếm xuống dưới oai vệ vô cùng.

Nhưng cũng kể từ ấy, không ai nghe thêm, không ai thấy hai người họ nữa. Sau này một đám dân man di tới chỗ đất bằng đó lập làng ấp, trẻ con đàn bà hay bị quấy nhiễu lúc chiều tối và ban đêm nên người đứng đầu làng bản đó mời thầy cúng đến để dựng miếu thờ hai vị tướng quân ấy, tượng người mảnh khảnh ghép từ những gióng tre là Lý Do Độc, còn hình nhân được tạc bằng than củi đen bóng là Toán Lân Mân.
Từ bấy, dân làng mới được yên, đám con gái, trẻ con vào rừng, vào núi cũng không còn hay bị chòng ghẹo như ngày trước.

Trở về châu Phong, mười tên lính thần hồn nát thần tính không ai bảo ai cứ thấy người mặc áo đen là hoảng sợ, nghe hai tiếng thổ phỉ là kinh hãi. Bị ám ảnh quá nặng nề, mười người bọn họ đều tỏ ra nghi ngờ những người xung quanh, hễ ai nói gì đến họ là họ sẽ quát tháo, mắng chửi, thậm chí là dùng võ lực để uy hiếp.

Những vết thương càng khiến cho những người này gắt gỏng, dùng dao chém giết súc vật, gà qué. Có ba bốn người lúc nào cũng kè kè con dao bên cạnh hông, hễ gặp ai lạ mặt là xông tới muốn chém.

Đỗ Sĩ Giao buộc phải ra lệnh bắt nhốt hết những người lính đó vào trong ngục, cách biệt hoàn toàn với bên ngoài. Khi tâm lý bọn họ đã định sau vài ba hôm, Đỗ Sĩ Giao mới phong thưởng, tặng quà cho những người đó.

Linh tính bảo rằng Lý Do Độc cung Toán Lân Mân chưa chết nên Sĩ Giao hàng ngày vẫn cho các trại binh vùng quan ải thường xuyên báo về tình hình tìm kiếm các huynh đệ bị thất lạc.

Trong tình thế bị mất đi một mũi tấn công chiến lược, Sĩ Giao nghe ngóng tin quân lính của Lý Toàn rồi đưa ra quyết định rút đội quân của Lý Toàn trở về do lo sợ đám quân của Hàn Ước sau khi t.ư thông với Nam Chiếu cùng đám thổ hào sẽ quay lại diệt nốt đội binh mã mà bấy lâu nay Lý Toàn cùng các tướng dưới trướng của Dương Thanh gây dựng.

Dẫu Lý Toàn đã bao vây, liên tiếp công phá thành Nà Lữ, chặn đánh từ bốn phía của địch nhưng do đoàn quân của Lý Toàn tới sau khi cánh quân của Lý Do Độc đã bị phá nên bị quân đội Hàn Ước phản công, Lý Toàn phải rút lui.

Do trời tối, quân của Lý Toàn bị một đám quân Đường đuổi theo vội chạy về phía đông. Đi được chừng hơn trăm dặm đường núi, Lý Toàn trông thấy một tòa thành bằng đất, tầng trên xây bằng gạch mộc, tầng dưới lát đá trông như thành Nà Lữ.

Lý Toàn hỏi trong quân không kẻ nào biết thành đó tên là gì. Thoạt đầu Nga Tú Du Thủy nghĩ trong đầu rằng "Không lẽ quân ta bị đuổi riết mà xoay vòng trở lại thành Nà Lữ".

Lý Toàn cho khua trống khiêu binh, trong thành không có động tĩnh, chỉ có vài cờ xí phất phơ bị ném chỏng trơ trên thành. Lý Toàn sai hai mươi lính tiên phong mang theo dây thừng ném lên trên thành lẻn vào trong thành.

Tên lính to khỏe đi đầu treo lên tường thành cầm chiếc đuốc trên thành vẫy xuống, nói giọng lớn :

- Chủ công. Thành vừa bị hạ, rất nhiều xác lính quân triều đình cùng với một toán người áo đen. Máu còn đỏ tươi, ướt đẫm tường thành.

Đoàn binh thắp lửa sáng cả một vùng dưới chân thành. Lý Toàn sai thêm năm chục tên mang theo gỗ lớn đục vào cửa thành bằng gỗ. Cửa thành đổ rầm, chất thây đầy cửa. Máu nhuộm đỏ bia đá phía hữu môn, những xác chết bắt đầu thối rữa khiến mùi hôi thối nồng nặc.

Lý Toàn sai năm trăm binh mã vào thành lục soát, tìm kho lương, đoạt mũ giáp khí mặc lên người. Lý Toàn ra lệnh toàn quân phải rút khỏi thành trước buổi sáng sớm.

Lý Toàn lên trên cửa thành chờ đợi, lấy đuốc soi lên biển chữ lớn trên thành ghi chữ "Phục Hòa Thành".

Thấy có động từ cánh rừng phía tây, chim chóc bay phủ kín bầu trời vằng vặc. Đoán được có quân lính triều đình sắp đi tới, Lý Toàn lệnh cho toàn quân đóng chặt cửa thành, thay giáp phục của quân triều đình đứng lên trên thành chờ lệnh của Lý Toàn.

Đúng như lời đoán của Lý Toàn, một đội quân áo giáp hoa, giáo dài đi tới trước cửa thành gọi lớn :

- Ta là Trương Sang, tướng giữ thành Nà Lữ, vừa đuổi theo một toán quân địch họ Lý chạy về phía đông. Các ngươi có thấy chăng.

Lý Toàn gọi một tên người địa phương lên trước cửa thành, cầm kiếm chỉ xuống đáp lời :

- Họ Trương hay họ Lý gì đó ta chưa nghe qua. Có gì làm chứng các ngươi là quân của triều đình hay không?

- Lệnh bài đây. Các ngươi có nhìn thấy được hay không? Ta nghe lệnh Hàn Ước tướng quân đánh vào thành Nà Lữ, chiếm được thành nhưng đám quân Man di đó lại chạy trốn từ trước. Có người nói trông thấy một đội quân đi về phía đông. Không lẽ một đoàn binh mã lớn như vậy mà các ngươi không có trông thấy sao.

- Trương tướng quân thật dễ tin người. Kẻ nói lời đó có chắc là người của triều đình hay chung một ruộc với bọn chúng. Một con muỗi đi qua thành còn có thể không trông thấy, há chăng lại cả một đoàn binh như vậy mà không trông thấy. Chắc chắn Trương tướng quân đã bị tên đó lừa rồi. Xuôi phía nam thành Nà Lữ là con đường dễ đi, lại có đường thông với châu Phong. Lẽ nào bọn chúng lại đi về phía đông để nạp mạng cho ta.

Trương Sang bán tín bán nghi, quay ra hỏi hai tên tộc trưởng người Nùng. Hai tên đó quả quyết :

- Bẩm tướng quân, lời của đám dân trong mường đó nói là đúng. Tướng quân nghĩ mà xem, đoàn quân đó đi hướng ngược ánh trăng do chúng lầm tưởng ánh trăng đó với ánh trăng tháng ba mùa xuân, lại thêm có vết chân giậm cỏ, ngựa đạp đất lún đi qua chỗ ấy, không thể nào có thể nhầm lẫn được.

Trương Sang tiến vài bước đổi ý quay lại nói với tên lính đứng trên thành :

- Này mấy tên kia. Các ngươi vào trong phủ báo với Diên đại nhân rằng có Trương Sang tướng quân đi qua thành muốn vào thành trú nhờ. Sáng sớm ngày mai ta sẽ mang quân đi.

Lý Toàn sai tên đó nói với Trương Sang :

- Diên đại nhân ngày qua đã tới chỗ của Hàn đại nhân. Đến trưa mai mới quay trở về. Đại nhân có dặn bọn ta dạo này hay có đám người man di quấy phá nổi loạn không được mở cửa thành cho kẻ lạ mặt vào trong để tránh tai họa. Mong Trương tướng quân xá cho.

Trương Sang tự nhủ trong bụng : "Lão già họ Diên đó khi sáng tới chỗ Hàn Đại nhân rồi vội vội vàng quay trở về nói có quân cướp thành. Vậy mà mấy tên nhãi ranh dám lừa cả bổn tướng quân. Ta sẽ cho các ngươi biết tay".

Trương Sang cho quân hạ trại trước cửa thành, chất củi lớn đốt lửa cháy bùng sáng rọi như ban ngày. Trương Sang ngồi ung dung ăn thịt, uống rượu trông lên thành cao.

Quân sĩ kẻ nào kẻ ấy cười nói hả hể, hòng khích đám quân đang đứng gác trên thành. Trương Sang uống say ngà ngà, mặt mũi bóng loáng, giương mũi thương lên cửa thành như muốn chọc tức đám quân lính trên đó.

Trương Sang lại dùng roi mây đánh trúng con chó đang đứng trực miếng thừa, tiểu bậy vào đống lửa. Sang nổi cơn đùng đùng quát mắng :

- Loài chó ngu xuẩn. Mày không biết bổn tướng đang làm nhiệm vụ hay sao mà đứng cản đường ta. Bay đâu, đã qua canh tý, ngày mười sáu mau mang con chó đó đi thịt.

Đám binh sĩ đứng trên thành bụng đói cồn cào, ánh mắt thòm thèm thấp thỏm nhìn xuống. Lý Toàn đi phía sau, thi thoảng trông ra thấy cảnh tượng chướng mắt liền sai quân lính mở cửa thành, lại cho tên người Thổ mở lời đón quân của Trương Sang vào :

- Diên đại nhân có lời mời tướng quân vào trong thành. Ngài ấy vừa đi về tới phủ. Cảm phiên tướng quân đã phải chờ đợi bấy lâu.

Trương Sang hếch miệng, lên ngựa đắc ý hiên ngang bước vào trong thành. Gã lấy chiếc tăm xỉa xỉa, nói lời mỉa mai :

- Loài chó cũng đâu có ngu. Nghe thấy ta gườm một tiếng mà đã co vòi sợ hãi, kính nể ta vài phần.

Đoàn quân của Trương Sang lục đục theo cửa thành bước vào. Đám quân kinh hãi trước cảnh tượng máu me, thây xác đầy đường. Mùi ôi thối xộc thẳng vào mũi khiến Trương Sang nôn nao, mơi ra hết chỗ thịt rượu khi nãy. Trương Sang ho sù sụ hỏi :

- Trong thành vừa có chiến sự gì mà thây xác lại nhiều đến vậy. Nghe Diên Hách nói có cướp đến phá thành, không ngờ lại ác liệt đến thế. Máu vẫn còn đỏ tươi, các ngươi vẫn còn đang dọn dẹp bên trong thành từ bấy giờ à. Diên Hách hiện đang ở chỗ nào.

Tên lính được cắt cử ra đón tiếp Trương Sang chạy theo cúi đầu bẩm lại :

- Dạ bẩm tướng quân. Diên đại nhân hiện đang ở bên trong phủ lo việc dọn dẹp thành phủ để đón Trương tướng quân vào trong thành.

Trương Sang ngả người trên ngựa đong đưa :

- Ra là Diên Hách trốn trong thành để dọn đống xác này. Không phải đám quân lính châu Phong đánh tới thành phủ hay sao. Ta nghe đám người châu Phong đó hung hãn và sẵn sàng liều chết tới cùng.

- Thật là may mắn cho thành Phục Hòa có Trương tướng quân tới kịp thời cứu giúp. Vừa bị đám cướp toàn thân mặc Hắc y tới cướp phá, sức còn chưa kịp hồi lại nên Diên đại nhân ra lệnh giữ chặt cửa thành đề phòng bất trắc. Lại nghe có đám quân lính đi từ phía thành Nà Lữ tới nên càng phải đề phòng. Để đại nhân phải đứng ngoài thành cũng là cái khó cho Diên đại nhân.

Có tên giám quân chạy tới thì thầm với Trương Sang:

- Bẩm tướng quân, bọn mật thám báo về có dấu chân, người ngựa đi từ bìa rừng phía nam vào trong thành. Quân ta vừa bắt được một tên lính trong thành này chạy trốn. Tên đó nói thành đã bị giết hết, không còn một bóng người, kể cả Diên Hách cũng bị bọn áo đen đó chặt đầu. Nay lại có rất nhiều binh lính trong thành, mà người trong thành chết rất nhiều tên kia lại nói lời thao thao, không tỏ mặt tiếc thương hay đau buồn gì cả. Xin tướng quân hãy cẩn trọng.

Có tiếng hô lớn từ trên thành :

- Giết ! Giết chết Trương Sang bảo toàn tính mạng.

Một mũi tên bắn trúng tên giám quân, Trương Sang đỡ lấy lấy hắn đang khuỵu chân xuống. Máu chảy đầy tay, đầm đìa ra cả người tên giám quân. Từ phía sau một mũi giáo đâm trúng, một đòn côn đập trúng gáy khiến hắn dúi dụi dập mặt xuống đất chết tươi.

Từ trên thành, Lý Toàn hét lớn :

- Trương Sang là tên giáp hoa mang kích. Đứng cạnh kẻ mà các ngươi vừa đâm trúng.

Cửa thành đóng sập, quân của Trương Sang bị chia làm đôi, kẻ ngoài người trong thành hỗn loạn giao chiến với quân Lý Toàn.

Nga Tú Du Thủy dùng tiêu thổi một điệu nhức tai khiến toàn quân địch phía ngoài inh tai nhức óc bỏ vũ khí chạy vào rừng cây để tránh đi thứ âm thanh ma mị ấy. Chỉ trong chốc lát, trong thành xác cũ còn chưa nguội, xác mới máu ấm lại phủ khắp.

Cả thành tang thương, máu chảy, đầu rơi nhiều như lá trong rừng rụng những ngày cuối thu.

Trương Sang cầm kích xông tới chém loạt lính ngã xuống như ngả dạ, Lý Toàn nhảy lên yên ngựa dụ Sang vào trong một tửu quán. Biển hiệu sập sệ, những hũ rượu chất đầy máu tươi, trên bàn rượu là ngũ tạng của đám quân lính, khách qua đường bị chém giết còn chưa hết mùi tanh của máu. Ngồi quanh những chiếc bàn ấy là những xác người đang nằm ngồi nhiều t.ư thế, kẻ cổ lìa, người mắt mở thô lố, đầu vỡ, chân tay rời rạc tung tóe khắp quán. Áo rách, khố bung, tàn tạ trong mùi cháy khét từ gian bếp bốc lên.

Lý Toàn cầm một vò rượu dốc ngược, máu tươi đổ ra đầm đìa cả áo. Chàng ta vội nôn thốc tháo, cầm chắc đao ngắn trong tay, lưng gù mai rùa, miệng nhoen cười mà không khác kẻ đang mếu máo.

Trương Sang cười khểnh :

- Chỉ là một tên dị dạng lưng còng, cha ngươi hay vợ ngươi chết mà mặt mày chảy xị xuống.

Lý Toàn cầm đoản đao đạp lên chiếc bàn, vung đòn hiểm chém ngang khuôn mặt họ Trương. Họ Trương vung kích phản đòn nhưng sức chém của đoản đao khiến họ Trương bất giác không giữ được thăng bằng vung kích khỏi tay.

Lý Toàn dùng ám khí trộm phi về phía Trương Sang trúng lúc họ Trương vừa rút kiếm ra khỏi bao đỡ được. Trương Sang dùng chân đạp chiếc kích nằm dưới đất lao thẳng về phía Lý Toàn, chàng né được đứng trên hai chiếc ghế dài, chân dạng xuống tấn, mặt đăm đăm nhìn Trương Sang.

Trương Sang tiếp tục buông lời thóa mạ :

- Giống chó cùng đường cắn càn. Xem nhà ngươi có tài nghệ gì nào, giặc chân dài mai rùa.

Lý Toàn vuốt cằm, tay nắm chắc đao nhảy xuống dưới sàn nhà đi vòng vòng chỉ vào mặt họ Trương :

"Cái tên thất phu nhà ngươi. Đừng có già mồm. Ta đây vốn dòng dõi Uy mãnh Oanh liệt Phụ tín Đại vương Lý Ông Trọng. Tổ mẫu là Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung con gái của tổ đế người Hoa Hạ. Đi không đổi tên, ngồi không đổi họ là Lý Toàn."

Trương Sang nhìn Lý Toàn một lượt từ trên xuống, ánh mắt khinh miệt, phỉ nhổ buông lời xỉ nhục Lý Toàn. Chàng nghiến răng, chân mím nền đất khiến sàn nhà nứt toác, tay nắm chặt chuôi đao vỡ vụn thành hạt nhỏ.

Trương Sang thất kinh lui lại vài bước. Lý Toàn tung hạt nhỏ về phía Trương Sang, đoản đao ném sượt mái đầu Trương Sang, búi củ hành rụng xuống sàn đất.

Trương Sang chạy ra ngoài ôm lấy một tên lính lấy chiếc đuốc ném về phía quán rượu. Lửa bén nhanh cháy rụi sập quán.

Lý Toàn bước ra, tay nắm hai đấm, lưng còng chân dạng bước từng bước từ quán rượu đang cháy hừng hực tới chỗ Trương Sang đang cố chém giết quân của Lý Toàn. Trương Sang dùng kiếm xông tới hòng chém Lý Toàn, Toàn rút cây tiêu khi nãy chàng thổi đuổi quân địch ra đỡ kiếm. Kiếm mẻ, Trương Sang bật lại phía sau chừng năm bước.

Lý Toàn nhân lúc Trương Sang còn chưa lấy lại sự điềm tĩnh vốn có của hắn chạy tới dùng đòn cước hậu tung trúng hàm dưới của hắn. Hắn rút kiếm toan chém trúng chân của chàng nhưng kiếm thêm lần nữa bị mẻ mà chân chàng chẳng hề hấn gì.

Trương Sang thảng thốt :

- Là thứ võ thuật kỳ quái gì mà khiến chân ngươi có thế cứng như sắt đá. Có lẽ nào là Liêu gia thập thất quái chiêu.

Lý Toàn rút từ ống chân một cây thiết bổng đầu rồng, xông tới đánh Trương Sang miệng hét lớn "Hầu hổ xà ưng long nhất cước".

Cú đánh từ trên giáng xuống uy lực như dũng thần, Trương Sang dùng kiếm đỡ chiêu mà kiếm gãy làm đôi, mũi kiếm văng trúng ngực trái của chính hắn. Nền đất lún sụt, đầu gối hắn như vỡ tung, xương trắng đâm thủng gối hắn lòi ra. Tay của Trương Sang các gân đứt lìa, mạch máu vỡ tung. Cả người sưng mọng, phù tím từ gáy đến hông. Khuôn mặt khô máu, không còn sự sống, Trương Sang nằm sấp mặt xuống nền đất đỏ dưới trăng.

Tướng cầm đầu đã chết, toán quân triều đình còn sót lại số ít trong thành đều giơ tay chịu trói. Lý Toàn lập tức cho nấu cơm lấy lá chuối nắm thành từng nắm nhỏ, mỗi lính hai đến ba nắm vội vã hành quân trở về phía tây.

Đi hơn nửa ngày đường, phó tướng của Lý Toàn là Đào Khắc bắt gặp một tên lính mật thám của Hàn Ước lén lén lút lút đi qua địa hạt t.ư Nông châu liền bắt giải về trại.

Lý Toàn nghe không ra giọng nói của hắn nên cho người lấy nẹp tre quấn đầu ngón chân, ngón tay bện dây hai đầu rồi cho hắn ngồi lên ghế cầm trà nóng vừa mới hãm. Hai tên lính cầm hai đầu dây kéo mạnh khiến hắn kêu rống như lợn bị hoạn, đổ tách trà còn nghi ngút lên giữa bụng.

Đào Khắc tiến lại gần dùng lời đe hắn:

- Khôn hồn thi khai ra. Không thì đừng trách bọn ta là ác. Bay đâu mang muối, ớt, mắm cua tới bày trước mặt hắn cho ta.

Thoạt đầu tên này rắn mày rắn mặt nhưng bị Đào Khắc dùng mấy trò đe dọa, hắn sợ sệt, lấm lét xin tha. Miệng hắn lắp bắp, mắt liếc trái phải nói :

- Xin các tướng quân tha mạng. Tiểu nhân chỉ là người dân lương thiện đi qua vùng này. Nghe trên núi có thần tiên nên mới ghé tới thăm để hỏi chuyện trước sau.

- Đừng có lừa ta. Ta thấy ngươi lén lét lút lút, theo dõi bọn ta hồi lâu. Quân ta phát hiện ra ngươi đi từ thành Hanh Sơn đi về phía bắc, gặp bọn ta nên mới theo dõi chúng ta. Xét thấy trong tay nải nhà ngươi có mang một lá thư. Nhà ngươi còn định chối à. Nếu phát hiện ra nửa lời nói dối thì đầu ngươi sẽ lìa khỏi cổ như thế này. Một cách nhẹ nhàng. Nói mau, nhà ngươi biết những gì, định báo cho họ Hàn kia những gì.

"Khật" một tiếng, cây chuối dại cạnh đó bị Đào Khắc chém đứt ngọt lịm. Đào Khắc cắn một quả ớt, mặt nhăn nhó, rồi dí trúng bụng hắn chỗ vừa bị đổ nước sôi lên. Hắn kêu gào, giãy nảy trên ghế, toàn thân run rẩy, chân tay cố gắng cựa quậy, khóc lóc van xin :

- Các tướng quân tha cho. Ta là lính quèn không biết chuyện bố phòng của cấp trên. Chỉ nghe lệnh mà đi dò thám. Ta nghe trong đám quân lính của Vương Thăng Triều có nói chuyện với nhau đám quân của họ Dương, họ Đỗ gì đó sẽ là tốt thí cho họ Vương ở đầu trận tuyến. Nếu như họ Dương kia có ý phản lật đổ Thăng Triều thì họ Vương sẽ trở mặt đầu hàng Hàn Ước, đánh dẹp quân Trường Châu, Man Hoàng.

Lý Toàn từ xa nghe thấy lời hắn ta nói liền dùng gậy đập trúng gáy của hắn ta. Lý Toàn sai lính bắt một tổ kiến rừng vào chiếc là khoai bông phe phẩy trước mặt hắn. Hắn ta hãi hồn, nước tiểu ướt dầm dề, tiếp tục van xin.

Lý Toàn nhe răng, mắt nhìn hắn ta một lúc lâu lặng thinh rồi giậm chân mạnh. Hắn ta giật mình, mồ hôi nước tiểu làm người hắn ướt hết thảy. Lý Toàn hỏi hắn:

- Ta hỏi nhà ngươi. Quân của Hàn Ước đóng trại ở đâu. Tất thảy có bao nhiêu binh mã. Ở Tống Bình có kẻ nào nội ứng cho hắn hay không.

Hắn túng túng, giọng run run đáp:

"Bẩm bẩm. Về binh mã tiểu nhân không nắm được số lượng chỉ nghe đâu, tính cả vạn tám binh mã Kinh Nam, Giang Đông tộng cộng là bảy vạn.

Hàn Ước tướng quân thay đổi chỗ hạ trại liên tục nên tiểu nhân không rõ. Ngày hôm nay, có người nói với tiểu nhân lên chỗ núi cao có ba hồ nước lớn sẽ gặp được một vị tướng quân ở đó thì báo lại quân tình cho vị tướng quân ấy.

Còn về người nội ứng thì tiểu nhân không nghe có người nào ở Tống Bình. Bởi đám người được lệnh mang vàng bạc của cải đến Tống Bình hòng t.ư thông với người có ý hai lòng đều không gặp được người nào có ý ấy. Chỉ nghe ở châu Phong có đám người họ Triệu đang dấy quân hòng tiêu diệt Vương Thăng Hùng con trai của Thăng Triều."

Lý Toàn cho người trói hắn vào gốc cây, sau đó rời đi về phía tây nam. Một lát sau, có một tên lính mặt hớn hở quay lại khiến tên mật thám của họ Hàn mừng rỡ. Hắn mở lời cảm tạ xin tên lính đó thả ra. Tên lính không nói không rằng rút dao ra lăm le đi về phía hắn.

Hắn cười cợt trêu đùa tên lính, tên lính dùng dao đâm trúng bụng hắn, hẳn thổ huyết ú ớ vài câu. Tên lính đó liền dùng dao cắt cổ, mắt trợn ngược tên mật thám đó tắt thở.

Tên lính khám xét khắp người hắn rút ra một túi nhỏ đựng bạc xóc lên, tiếng bạc vụn va đập vào nhau khiến tên lính mừng ra mặt. Miệng hắn lẩm nhẩm “Thật may, đi đánh trận này dẫu có hơi vất vả nhưng ta lại kiếm được chút lộc coi như quà lấy may”.

Lý Toàn thoát chết, dẫn được đội binh hơn sáu nghìn người trở về tới Phong Châu khiến Sĩ Giao không khỏi mừng.

Nga Tú Du Thủy kể hết chuyện đã xảy ra với quân lính của mình, Đỗ Sĩ Giao không lấy làm bất ngờ. Bá Nam quân sư buồn bã kể lại chuyện của Lý Do Độc cho Lý Toàn nghe.

Bấy giờ, Toàn mới biết tất cả tướng sĩ của Do Độc hơn năm nghìn người đi theo đất châu Bình Nguyên chỉ quay lại vỏn vẹn mười người. Lý Toàn thất thần đi về phía bắc thành Bạch Hạc la lối xả bớt buồn giận trong lòng.

Hai ngày sau, Sĩ Giao cử hành lễ nghi tiễn đưa vị tướng quân trẻ tuổi xấu số cùng các binh lính đã vĩnh viễn nằm xuống nơi núi non hùng vĩ, rừng thiêng nước độc.

Mọi người trong thành Bạch Hạc cho tới đất Lâm Tây biết Phong Châu phát tang mà ai nấy đều tiếc thương, xót xa cho vị tướng quân trẻ tuổi. Khắp nơi đều rủ vải trắng trước nhà, các quán trọ, tửu lầu đều im ắng trong suốt mấy ngày tổ chức tang lễ. Cả Phong Châu nước mắt ngập Lô giang.

Tin báo về Tống Bình, Vương Thăng Triều ngày đêm u uất, nhốt mình trong phủ. Lý Lang Mộc phục vụ trong phủ họ Vương ngất lên ngất xuống bảy tám lần, lăn lộn khóc lóc thảm thương khôn tả xiết.

Không khí tang thương đến độ đám bò trâu, hổ cọp quanh đất Phong Châu đểu bỏ ăn bỏ uống suốt mấy tuần trời. Dương Thanh viết thư thăm hỏi, động viên Thăng Triều, Sĩ Giao cùng quân dân châu Phong:

“Sự ra đi của Lý tướng quân với châu Phong quả là một mất mát to lớn, niềm thương xót vô hạn. Đau đớn thay, căm phẫn lắm thay nó có khác chi đâu cơ thể ta sống mà chẳng còn đôi tay, đôi chân nguyên vẹn.

Trời xanh đâu có thể thấu rõ được nỗi lòng này. Xưa Lý tướng quân cùng huynh đệ xông pha trận mạc, cũng vinh nhục cùng ta mấy phen. Lại được tướng quân giúp đỡ lúc nguy nan, là điểm nối giữa ta với Thăng Triều. Nay Thăng Triều cùng với ta còn đang đương đầu với hoạn nạn phía trước, tướng quân ra đi để lại một khoảng trống mênh mông xiết nhường nào bù đắp nổi.

Ta cùng với Thăng Triều quyết dẹp lũ tham tàn, trước là để tỏ long trung hiếu với dân nam, với tổ tông, sau là để dâng lên tế linh hồn kẻ sĩ. Mong Lý tướng quân ở trên trời soi thấy tấm lòng thành nghĩa khí vượt trời xanh.”

Ở nơi xa xôi châu Ái, Đỗ Tồn Thành đang khỏe mạnh bỗng ốm liệt suốt mấy ngày liền. Đỗ Trang, Đỗ Kiêm sai người tìm khắp Ái Châu tìm thầy thuốc kê đơn mong cho Thành chóng khỏi.

Nàng Lã Vọng suốt mấy đêm không ngủ canh giấc cho chàng mà trông thấy nước mắt chàng trào ra không dứt. Nàng ôm lấy con trai lớn Thủ Trừng, khẽ hỏi han Tồn Thành:

- Đã suốt mấy ngày nay chàng không ăn không uống. Trong cơn mê chàng thường nhắc đến chú Do Độc, khi tỉnh giấc nước mắt lại đầm đìa. Phải chăng có điều gì ghê gớm lắm, mới khiến chàng ủy mị mà thiếp chưa quen.

Cựu Ái châu đô úy nắm chặt tay nàng, gọi Thủ Trừng khe khẽ ghé vào tai:

- Cha mơ thấy Lý thúc về cõi tiên. Trong giấc mộng chú ấy nói Thủ Trừng phải biết nghe lời tiền nhân làm điều có ích cho dân cho nước. Sau này gặp chuyện thù oán chớ có nóng vội kẻo thị phi không tránh được tai ương.

Trời nhá nhem tối, Đỗ Kiêm trở về nhà từ nha môn. Mặt thất thần, lời nói sét đánh ngang tai cựu Đô úy:

- Tin báo từ Giao Châu, Lý Do Độc tham gia trận chiến chống lại quân triều đình. Bị bắt giết không tìm thấy manh xác.

Thủ Trừng ôm lấy cha thút thít. Tiếng khóc nấc của đứa trẻ mười lăm mà nghẹn đắng như ngậm ngàn lá ngón. Tồn Thành đờ đẫn ở trên giường, ho từng cơn, thổ huyết mấy mươi lần.

Cả nông trang phủ vải trắng, khăn tang suốt hai tuần không giọng cười, tiếng nói. Lã Vọng nghe theo lời Tồn Thành, thúc xe ngựa chở hai cha con họ Đỗ tới huyện Cửu Chân, đi đến ngọn núi phía bắc thành.

Bước vào túp nhà tranh đơn sơ năm xưa đã cũ kỹ, mạng nhện giăng kín, bụi phủ khắp ba gian. Vẫn vò rượu còn trơ trơ trước mặt, khóm đinh lăng đã lụi, bật gốc hết loạt sau cơn bão gió mấy ngày trước, cỏ đã mọc xanh cả khu vườn. Bụi tre cũ ngả nghiêng theo cơn gió, kẽo cà kẽo kẹt đón ánh nắng như đổ lửa trời hè.

Tồn Thành thắp nén nhang thơm, quỳ gối trước chiếc chõng tre gãy mục. Lấy áo phủi bụi, ôm lấy chõng khóc than:

“Chàng trai em của ta ơi.

Bao nhiêu năm tháng xa nơi chiến trường.

Cành sung, chiếc chõng thân thương.

Em nơi đầu núi, ta giường phẳng phiu

Mái nhà vách nứa liêu xiêu

Măng lên thẳng gióng buồn thiu ngả cành

Đinh lăng lá hãy còn xanh

Nỡ đem đào gốc vườn thành bãi hoang

Giọng ai nghe tiếng vang vang

Chí trai vùng vẫy dở dang mấy lần

Rượu này xẻ nửa đôi thân

Nén nhang xin thắp cho gần nhau hơn.”

Nén đau, Tồn Thành lán lại gian nhà ấy vài ngày, soạn sửa cho gọn ghẽ tinh tươm. Bài vị người em xấu số được cất lên trên giường thờ ngay ngắn.

Mấy ngày ở gian nhà tranh ấy, cứ hễ trời sáng tỉnh dậy hay khi Tồn Thành đi đâu về bài vị cố nhân lại đổ về phía trước.

Tồn Thành cho gọi thợ mộc đến để xem xét lại rồi đóng đinh tre giữ cho chắc chân trên giường thờ rồi mới trở về huyện Sùng Bình.

Rằm tháng sáu mùa hạ, Tồn Thành soạn sửa lễ vật, cúng tuần đầu cho người em thì phát hiện ra chiếc bài vị bị rơi xuống nền đất vỡ vụn kỳ lạ. Thành đành phải sai người hạ giường thờ cho thấp xuống, đóng chặt bài vị lên vách nứa.

Cứ tuần rằm mồng một, Tồn Thành sai người mang nhang khói đến thắp cho nguôi ngoai lòng. Thủ Trừng đương tuổi mới lớn, tính tình dễ nóng giận bàn với cha:

- Cha ơi. Nhìn chú Do Độc vì dân nghèo, ghét kẻ bạo tham mà chết trong oanh liệt. Há lẽ nào cha con ta dửng dưng ở đứng nhìn. Đâu có đáng mặt anh hào, xứng với lời kết nghĩa năm xưa của cha với Lý thúc.

Tồn Thành nổi đùng đùng, ánh mắt nghiêm khắc lấy chiếc đũa cả đập vào đầu Thủ Trừng chín lần. Tồn Thành thở dài:

- Nhân thế đổi thay, lòng người khó đoán. Chỉ tiếc đại bàng vướng phải bùng nhùng cây leo mà chưa thể tung cánh bay đi. Con hãy còn trẻ tuổi, chưa thể hiểu được hết những việc ấy. Chỉ mong lớn lên, con sẽ tiếp nối chí khí thời còn trai trẻ của cha.

Lời nói ôn tồn, trạm tới tận sâu trái tim non trẻ của Thủ Trừng nhưng không thay đổi được cái ý định báo thù cho Do Độc. Nàng Đinh Thị vỗ về hai cha con:

- Phận thiếp nữ nhi, chẳng dám bàn việc đại sự. Chỉ mong hai cha con giữ gìn cẩn thận. Tránh tai ương như chú ấy là thiếp mừng rồi.

Tồn Thành nhìn nàng, giọng nói nghẹn ngào:

- Chỉ tội cho nàng. Bấy lâu theo ta mà phải chịu cảnh khốn khó, bữa đói, bữa no. Duyên trời không cho ta và nàng một đứa trẻ. Nàng hãy hết mực yêu thương Thủ Trừng. Dẫu sau này có chuyện gì xảy ra với ta, với nàng hay cả con trai của ta nữa. Ba người chúng ta vẫn chung trinh giữ lấy hạnh đạo.

Đinh Thị cùng Thủ Trừng nghe lời lui ra ngoài. Đỗ Trang từ đâu chạy về báo tin:

- Tồn Thành huynh đệ. Ngày qua ta dẫn lính đi qua huyện Cửu Chân ghé vào thăm nhà của lão Lý Lang Mộc thì thấy ba gian nhà đã cháy rụi. Tất cả đã thành tro bụi. Nghe nói có đám người trong thành huyện đó đêm qua rượu say rủ nhau vào rừng kiếm hổ bắt chơi, ngủ ghé ở đó, sáng dậy đốt cháy nhà hoang đó. Bọn lính lác nói lại với ta rằng bọn ấy là cháu họ của Đoàn Uyển là Đoàn Ân và con trai Uyển là Đoàn Tù Thiên. Đoàn Ân còn nói nhà của kẻ phản loạn, ngủ lại làm tổn hại thanh danh của chúng, nên phải đốt đi trừ tẩy vận xấu.

Đỗ Tồn Thành mím chặt môi, ngón tay cái bấm rách lòng bàn tay máu chảy. Cơn giận phừng phừng đỏ lửa, vội chạy ra ngoài mặc áo giáp, cầm gậy gộc xông ra cửa. Đỗ Kiêm đi từ nha huyện về trông thấy liền cản lại hỏi chuyện. Đỗ Kiêm vỗ vai, nói lời dỗ dành Tồn Thành. Thành nhắm mắt trầm tĩnh lại mà chịu nghe lời quay vào trong trang.

Lời đồn Tồn Thành khúc mắc với đám người họ Đoàn đến tai Dương Thanh ở Trường Châu. Nhân lúc cơn hận thù trong con người họ Đỗ ấy lên tới đỉnh, Dương Thanh viết thư cho Sĩ Giao muốn dùng lời lẽ thuyết phục Thành quay lại phò tá cho họ Dương dựng nghiệp lớn.

Tồn Thành đọc thư của Sĩ Giao lời lẽ thẳng thắn mời vị hiền huynh đệ vì thù nước, nợ nhà mà quay trở về dẹp bỏ quân tham bạo. Thành đọc xong liền đốt cháy đi, nói với tên đưa thư:

- Nhà ngươi hãy về bẩm với Sĩ Giao thư ta đã đọc, cảm ơn thành ý của anh ấy. Vậy thôi.

Đỗ Sĩ Giao nhận lời đáp của Tồn Thành mà lòng giận lắm nhưng bụng thương cho Thành mà không trách cứ. Dương Thanh hiểu ra tâm ý của Thành sai người tới châu Ái tìm cách vào trang để dò xét rồi xử trí theo ý của họ Dương.

Thật chẳng may, kẻ đó bị Tồn Thành phát hiện ra, Đỗ Trang dụ hắn đến bờ sông Mã rồi giết chết hắn.

Dương Thanh nhận tin Tồn Thành giết người của mình đành phải nín lặng không nói cho Sĩ Giao hay. Đỗ Sĩ Giao nghe đám sĩ tướng bàn ra bàn vào liền ban lệnh cấm, kẻ nào xằng ngôn sẽ bị xử theo quân pháp, bấy giờ quân mới yên.

Mùa hè tháng bảy, nước sông Lô lên cao hợp với Đà Giang lũ đổ về khiến Bạch Hạc nước ngập trắng băng. Sĩ Giao sai quân sĩ dịch chuyển lên chỗ đất cao hơn về đất núi Hy Cương, quân lính phải đến chỗ cao hơn rời xa Tống Bình càng khiến việc tăng viện càng thêm khó khăn.

Sau khi quá thời hạn một tháng, tình hình Lĩnh Nam chưa chuyển biến nên Hàn Ước đành xin với triều đình và đám quan lại Kinh Nam thêm thời hạn nửa tháng. Hàn Ước điên cuồng huy động toàn quân mạnh mẽ đàn áp các cuộc phản công của nghĩa quân họ Vương.

Ở miền đồng bằng, do nước sông Cái lên cao nên các vùng châu thổ buộc lòng phải phá hệ thống đê chống lũ để giảm nhẹ sức nước sông Cái xung quanh các huyện Tống Bình, Nam Định, Long Biên, Bình Đạo.

Nước lớn tràn bờ ngập úng các cánh đồng vàng ruộm, mùa màng đến vụ phải bỏ đi và chia cắt các đạo quân phía đông của Thăng Triều, càng khiến quân của Thăng Triều thêm rối loạn.

Các cánh quân của Thăng Triều ở miền đồng bằng châu thổ không quen thổ địa, lại bị bọn dân miền nam mất mùa liên tục nhiễu nhách xin lương, cướp kho thóc khiến quân khố càng thêm thiếu hụt.

Hàn Ước được mật thám báo về liền tức tốc khởi binh bảy đạo thủy bộ đánh thẳng vào Tống Bình. Mặt châu Ung, Hàn Ước để một tướng người địa phương là Nùng Văn Thầm trấn giữ và phần nào đã an tâm vì mặt đó bị chia cắt bởi sông sâu nước lớn, mùa hạ mưa nhiều núi lở lấp hết các đạo nên Sĩ Giao có mưu lược đến mấy cũng không sao giải quyết được trong một sớm một chiều.

Phía Châu Lục đội thủy quân năm trăm chiến thuyền nhờ nước các sông lên cao mà dễ dàng đi vào trong đất châu thổ chiếm lại được rất nhiều đất từ các cánh quân đang bị chia cắt của họ Vương.

Thăng Triều sốt sắng cho gọi các tướng trở về bờ tây sông Cái, dẫu tâm không muốn nhưng cũng đành phải rút quân khỏi dải đất phía đông. Khí dũng quân lính họ Vương bị sa sút nghiêm trọng, càng khiến quân triều đình mạnh mẽ xông lên.

Họ Hàn nhanh chóng thu được hết đất châu Lục, sĩ khí quân càng lên cao, chỉ trong hai ngày đã chiếm toàn bộ huyện Chu Diên, Nam Định đất Giao Châu. Phía bắc mười mấy các châu cơ mi, đám châu mục, đô đốc các châu ấy hết loạt đầu hàng quân triều đình.

Ở Trường Châu, Dương Thanh cạn lương nên không tiếp tế được cho quân của Thăng Triều đành phải rút một đội quân hơn chín nghìn người từ miền châu thổ trở về Trường Châu để tăng cường phòng thủ.

Đỗ Sĩ Giao nghe ngóng tình hình ở Tống Bình liền sai quân đội ở châu Nam Từ, huyện Bình Đạo hơn bảy nghìn vượt lũ lui về phía tây. Toán Hoa Tài hục hặc không chịu rút quân liền bẩm với Thăng Triều:

- Quân ta đang bị yếu thế. Bỗng nhiên quân lính Trường Châu rút về ngừng cấp lương cho ta, binh lính châu Phong ở các huyện phía tây đều do Dương Chí Liệt nắm giữ nhất quyết không chịu tiến quân. Tình hình này, hai cha con họ Dương đó muốn thấy ta chết ở Tống Bình này rồi.

Thăng Triều nhận các tin báo từ các cánh quân, ngồi thất thần nhìn Toán Hoa Tài. Viên thứ sử châu Phong đặt tay lên ngực vỗ hơn ba mươi lần, ho hắng hồi lâu rồi than thở:

- Chỉ vì ta quá tin tưởng vào họ Dương đó mà ra cơ sự này. Dẫu rằng chung chí đồng lòng, rằng muốn thống nhất xứ Nam nhưng cái dã tâm của kẻ đó thật khác với ta. Hai hổ không thể cùng một núi, ta thật kinh tởm với cái âm mưu đầy sự khổ nhục ấy của hắn ta.

Toán Hoa Tài vỗ về Thăng Triều:

- Họ Dương làm như vậy nào khác chi hạ thấp mình trước anh hùng thiên hạ, tiếng xấu mang theo. Suốt bấy nhiêu năm tháng hắn nương nhờ chúng ta, sống bằng lương thực của ta, ở trên đất của ta, lại được các tướng của ta hết lòng giúp đỡ. Vậy mà giờ đây khi cùng đường lỡ bước, ta lại bị hắn lật mặt làm ra chuyện ăn cháo đá bát ấy.

Vương Thăng Triều tiến đến chỗ ngồi mà họ Vương dành riêng cho Kiều Chung Đạt ở trên điện để tỏ lòng tưởng nhớ vị tướng già ấy. Thứ sử ngồi cạnh, tay vỗ nhẹ lên tay ghế cảm giác như có họ Kiều ở đó, mà nghẹn đắng cổ họng:

- Chung Đạt ơi là Chung Đạt. Ta đã thật không phải lẽ với cha con ông. Nay chuyện ra như thế này, chí lớn chưa thành, biết làm sao đây. Chỉ vì ta u tối mà nuôi ong tay áo, lại nghe lời bọn chúng dùng kẻ trung nghĩa như đám quân tốt thí. Nay thế giặc sức ta chẳng thể chống cự, giá như có Chung Đạt và Thăng Hùng ở đây sẽ có thể giúp ta được. Một mình Toán Hoa Tài dẫu có nhiệt huyết nhưng tình thế này tướng quân vào chỗ hiểm ác kia thì có khác chi lấy trứng chọi đá. Lòng này thật đớn đau.

Toán Hoa Tài nghe những lời phân tình của thứ sử họ Vương vừa quặn từng cơn trong lòng, lại vừa ngạc nhiên hỏi:

- Dù có xông pha nơi tuyến đầu, dẫu biết rằng sẽ phải máu chảy đầu rơi cũng quyết không hai lòng. Thề đánh cho kẻ địch phải sợ hãi, phải kinh hồn bạt vía để tỏ rõ cái uy của người đất châu Phong. Đại nhân hãy an tâm, còn có tiểu tướng thì đại nhân còn có thể dựa vào. Chỉ có điều tiểu tướng còn chưa được rõ lời đại nhân than trách bản thân mình. Rằng cái chết Kiều lão tướng quân có điều chi khiến Đại nhân lại dằn vặt như thế. Chẳng phải tình thế này tất cả là do họ Dương đó trở mặt hay sao.

Vương Thăng Triều ngồi dựa sát vào lưng ghế, dôi tay sõng soài. Ánh mắt mệt mỏi, khuôn mặt hóp lại, hai chân nặng trĩu buông xuống mặt đất, nước mắt từ trong tim tự ứa ra:

"Là ta có lỗi với cha con họ. Ta nói ra lời này, Toán tướng quân hãy thật bình tĩnh. Chung Đạt biết ta có lòng lấy Tống Bình, thu đất nam ta về một mối nhưng Chung Đạt nhiều lần tỏ ý chưa muốn làm việc ấy vì cho rằng thời cơ chưa đến.

Ta nói lời đó cho Thăng Hùng và Thăng Đức. Thăng Hùng khi tỉnh khi mơ chẳng bàn đến làm chi. Nhưng Thăng Đức nói lại với ta Đức có mưu kế hòng khích tướng Chung Đạt. Thậm chí là phải dùng cái chết của con trai lão tướng ấy. Cái chết của Chung Tiềm là Thăng Đức sắp đặt, mượn gió bẻ măng mà khiêu khích mối hận thù của Chung Đạt với đám người Tống Bình.

Đến khi Dương Thanh cho Sĩ Giao đến gặp Chung Đạt cùng với ta, hắn nói Dương Chí Liệt muốn cùng ta đánh chiếm Tống Bình, ta đã nghi ngờ ý đồ của họ Dương đó. Hắn biết mưu kế của Thăng Đức nên hắn đã tiếp tay cho Thăng Đức làm ra việc hạ độc Chung Tiềm ở nhà lao Tống Bình. Họ Dương đó dùng người của hắn ta ở Tống Bình là cha con họ Tô kia mưu hại Chung Tiềm.

Sau đó biết được ý đồ của ta nên hắn đã nhân cơ hội Thăng Đức trốn đến nơi hẻo lánh hòng che mắt mọi người, họ Dương đó đã giam lỏng Thăng Đức ở đất Hoa Lư. Nay hai con trai ta đều ở trong tay chúng, mà ta chẳng thể đòi hỏi điều gì đó hơn ở họ Dương đó.

Thật là người tốt dẫu giỏi tính toán cỡ mấy cũng chẳng thể bằng kẻ gian bụng đầy mưu mẹo. Chừng ấy năm, ta đã nghĩ họ Dương ấy sẽ giúp ta hoàn thành tâm nguyện từ thời trai trẻ của ta. Chỉ vì chí hắn hơn ta mà chuyện ra như thế này."

Thăng Triều thở dài rồi đột nhiên trở người dậy gọi Toán Hoa Tài:

- Toán tướng quân. Tướng quân hãy cùng ta đánh một trận quyết sống mái với đám quân triều đình tàn bạo kia. Trước là để đáng mặt người châu Phong, mới xứng mặt anh hùng để khi gặp Chung Đạt dưới suối vàng, Chung Đạt còn nhìn mặt ta, hiểu cho ta. Sau là giữ nguyên khí tiết của đội quân người người Giao Chỉ, thà chết chứ không thể sống mà đứng ở trên máu thịt của dân nam ta. Quyết không vì cái t.ư lợi bản thân mà nhận ân lộc của kẻ giả nhân giả nghĩa ngoại bang, lũ người không biết đến cái đói khổ của chúng dân An Nam.

Toán Hoa Tài rút kiếm, mũi kiếm sáng lóa trước đôi mắt Thăng Triều. Kiếm chỉ phía đông, giọng nói vị tướng quân dáng người như chim hạc đĩnh đạc:

- Còn sống nghĩa là sẽ phải chờ cho đến ngày ta chết. Sống mà mang theo tiếng xấu muôn đời là cái ê nhục của ta vậy, đời sau khó lòng có thể gột rửa cho hết. Dẫu có chết cũng cho đáng mặt anh hào. Chí lớn của Đại nhân kẻ tiểu tướng không bì nổi nhưng máu này chảy trong người là của cha mẹ, ông bà ta cho ta. Tiền nhân đã phải chịu biết bao khổ cực do đám tham ác đó gây ra, thế nên ta đâu nào có lòng nào khác. Tiểu tướng xin tuân lệnh thứ sử, quyết mang hết tâm sức chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Quyết không đầu hàng.

Hai người tráng trí một lòng quyết tâm, dốc hết toàn bộ lực lượng bảy huyện Giao Châu cùng quân lính tinh nhuệ ở trị sở Tống Bình giăng trận trước tiền đồn của địch ở phía đông.

Toán Hoa Tài mang một vạn lính vượt sông Cái bất ngờ phản công quân triều đình. Khí chí cao ngút, một người giết ba, vạn quân của Toán Hoa Tài giết được vô số địch nhưng lượng quân triều đình là quá lớn khiến vạn quân của Toán Hoa Tài sớm chỉ còn một phần nhỏ nghìn người.

Hàn Ước khi đó đã đi qua trấn Hải Môn biết quân lính của Thăng Triều quyết đánh một trận sống mái nên đã không ngần ngại thúc giục các tướng tăng cường viện quân hòng một trận quét sạch đội tàn quân của Thăng Triều.

Các tướng Hà Dĩ, Tùng Bảo, Ngô Xoang, Nguyễn Thanh theo Toán Hoa Tài lần lượt bị địch hung hãn, sức lực vượt trội xông lên chém giết. Quân tiên phong hàng lối theo tiếng hô vang của chỉ huy không lung lạc trước quân địch mà rời vị trí. Kẻ nào kẻ nấy hiên ngang cầm cờ xí, giáo thương trước địch đẫu cho trăm nghìn mũi giáo mũi thương đâm trúng.

Toán Hoa Tài cùng một trăm lính tinh nhuệ liều chết xông lên đâm tới chỗ tướng tiên phong của Hàn Ước là Quách Thôi. Quách Thôi không kịp trở tay bị trúng một mũi giáo chạy vào trong hàng ngũ tốt lính. Toán Hoa Tài đuổi theo hét vang:

- Địch kia chớ chạy. Mau mau lãnh mũi huyền thương của ta.

Quách thôi ôm cánh tay sũng máu, quay lại cười mỉa mai:

- Ta nghe huyền thương là cây vũ khí lợi hại của cha con họ Dương. Bọn tiểu tốt như ngươi ngoài cái ý chí điên cuồng chó dại thì còn cái cóc khô gì mà nghĩ rằng sẽ hạ được bổn tướng quân. Hãy mở to mắt xem sức mạnh của ta đây.

Quách Thôi xé áo quấn lấy vết thương trên cánh tay, tay cầm chắc giáo dài quay lại toan hỏi tội họ Toán.

Toán Hoa Tài thúc ngựa lao tới, từ mặt đất một bàn chông nổi lên văng trúng đầu ngựa của Toán Hoa Tài, ngựa của Toán Hoa Tài ngã nhào ra đất. Toán Hoa Tài chống huyền thương đạp trúng hai viên tiểu tướng của Quách Thôi.

Ngựa chạy ráo riết khiến Toán Hoa Tài không thể chế ngự được đành phải buông cương thả chúng đi. Cùng lúc đó hai mươi tên lính dùng giáo dài đâm về phía Toán tướng quân. Hoa Tài dùng huyền thương quay người một vòng chặt gãy hết loạt giáo mác đâm tới. Chưa ngơi tay, Quách Thôi lao ngựa vượt đầu đám lính đang vây tròn Toán Hoa Tài, đâm giáo trúng giữa trán vị tướng quân trẻ tuổi.

Máu chảy che hết khuôn mặt, đôi mắt đỏ ngàu nhòe nhoẹt rơi xuống hàm én. Cố đứng vững trên đôi chân viên tướng quân ngẩng cao cổ lãnh trăm nhát kiếm, toàn thân tan tác thành nhiều mảnh.

Toàn bộ đội quân của Toán Hoa Tài tan rã, kẻ đầu hàng, người trốn chạy, đều chung số phận đã định sẵn, đó là cái chết. Hàn Ước ra lệnh nhổ bỏ tất cả mầm mống nổi loạn nên không một người nào trong hơn vạn quân lính dưới trướng Toán Hoa Tài còn sống sót.

Thăng Triều đứng nghênh địch phía bên này sông, thân mang giáp bạc, cầm đao lớn trên mặt đê sông Cái dàn ngang chờ thuyền quân triều đình tới. Từ phía bắc một đoàn người ngựa mặc áo quân đội châu Phong đi tới. Thăng Triều nhìn từ xa mở cờ trong bụng, cho ngựa chạy lên phía trước hô lớn:

- Là vị tướng quân nào đang đi tới.

Thăng Triều nheo mắt cố nhìn về phía xa, thúc ngựa chạy tới rồi đột ngột quay lại hô hào đám quân tướng:

- Hãy mau mau chặn đội quân từ phía bắc đó đang chạy tới. Đó là đám quân lính họ Triệu, không phải là quân sĩ châu Phong.

Viên phó tướng Đàm Tức liền cho quân xông lên phía trước ra sức chém giết đội quân họ Triệu. Vương Thăng Triều dẫn bảy trăm lính chạy xuôi bờ sông Cái về phía nam.

Quân lính còn lại theo lệnh của Đàm Tức quay lại chống cự. Hai bên hỗn loạn giao chiến xác người nổi lềnh bềnh bờ sông Cái, trên bờ xác người dải dọc mặt đê suốt hai dặm đường.

Thăng Triều đi được chừng mười dặm thì đoàn thuyền quân triều đình vượt sông Cái bắn tên lên trên bờ giết chết hai trăm lính.

Thăng Triều cho quân đứng khuất sau một rặng tre dài chờ quân Đường nhảy lên bờ thì lao ra chặn đánh. Thuyền cập bờ, lính của Thăng Triều xông ra chém địch.

Chém hết lượt này đến lượt khác, binh lính quân triều đình ngày càng đông khiến quân lính của Thăng Triều không thể trở tay. Thăng Triều xuống ngựa dùng kiếm cùng quân lính đâm loạn xạ, uy dũng của viên thứ sử khiến đám quân lính càng thêm chí khí, sẵn sàng liều chết đến cùng.

Từ phía tây nam một đoàn người không giáp mũ, đóng khố, áo xẻ, cầm gậy gộc, cuốc xẻng đi đến gần cuộc hỗn chiến. Dẫn đầu là một người đàn ông tuổi chạc tứ tuần, tóc vấn khăn vàng, mũi hếch, trán rô, mặc quần nâu sạm, áo đen cầm kiếm nhỏ cưỡi trên con ngựa gầy lao vào chém quân triều đình.

Quân lính của Vương thứ sử như tăng thêm ngàn sức, chống trả được sức tấn công khiến địch chạy ngược về phía bắc. Thăng Triều chống kiếm, cúi người thở dốc, mắt liếc nhìn người đàn ông đó bái tạ:

- Cảm ơn tráng sĩ đã cứu ta khỏi họa diệt vong. Chẳng hay tên họ của tráng sĩ thế nào.

Người đàn ông hở cả hàm răng cười:

- Thì giờ chẳng có. Tướng quân xin hãy chạy theo ta. Phía sau đội quân khi nãy là cả một đoàn quân khí thế rợp trời. Hãy tránh trước đã rồi biết ta là ai cũng chưa muộn.

Thăng Triều lên ngựa, đám quân lính mệt nhọc chạy theo sau. Cứ mỗi đoạn bờ đê lại có vài tên thở không ra hơi tự ý rời khỏi hàng ngũ ngồi xuống vệ cỏ để nghỉ ngơi lấy sức. Thăng Triều xót thương cho đám quân lính theo mình bấy lâu mà không trách cứ đám ấy.

Thăng Triều cố thúc ngựa thật nhanh chạy tới một bãi đầm nước lớn có sẵn thuyền nhỏ ở đó. Quân tướng họ Vương nhanh chóng lên thuyền đi theo người đàn ông kia đi qua một bãi lau sậy lớn tới một đảo giữa lòng đầm. Bấy giờ Thăng Triều đã hết cơn mệt mỏi, hỏi lại người đó.

Người đó liền đáp ngay:

- Tôi là Chử Thoán. Người huyện Chu Diên, thấy người gặp khó khăn nên hô hào đám người trong làng tới giải cứu. Đã khiến tướng quân hoảng sợ.

- Có phải hậu nhân tứ bất tử Chử Đồng ở đầm Dạ Trạch hay không?

Thoán đáp:

- Bẩm đúng là như vậy. Tôi cùng cha bị quan quân bắt bớ khi còn ở Hà Thị vì bị buộc tội phản nghịch. Năm đó, em gái tôi Chử Thị cùng chồng nó là Phạm Đan theo nghĩa quân của Dương Chí Liệt.

Thăng Triều vội nhận người quen, cúi thấp mình bái lạy khiến Chử Thoán cảm thấy không xứng liền quỳ gối lạy chào viên thứ sử. Thăng Triều kéo vội Thoán đứng dậy, giọng nói đầy cảm kích:

- Thật may gặp được anh vợ của Phạm tướng quân ở đây. Nếu không ta và quân lính của ta đã bị giết hết. Liệu rằng có thể cho thuyền chở đám lính còn đang ở phía bờ đê hay chăng.

Chử Thoán suy t.ư một lúc rồi lắc đầu:

- Chỉ e quân địch đã đuổi tới, nếu đám lính đó chạy theo ta mà dẫn quân địch tới đây không khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Theo tôi, tướng quân hãy nghỉ ngơi cho lại sức, đám tàn quân hy vọng chúng sẽ được thoát nạn tử. Tôi đã cho người ở phía ngoài đầm nước thám thính quân tình. Đợi khi quân địch đi qua tôi sẽ cho người dẫn tướng quân đi theo sông Xích Đằng tới chỗ đóng quân của Phạm Đan.

Thăng Triều nhìn Thoán hồi lâu, ánh mắt không còn chút nghi ngờ mới hỏi Thoán:

- Ta nghe quân lính của họ Dương đã trở về phía tây. Đâu còn đạo quân nào ở phía đông. Liệu anh có nhầm hay không?

Thoán nói lời chắc nịch:

- Chử Thị hãy còn ở đây. Há tôi lại nói dối tướng quân làm chi.

Vương Thăng Triều nghĩ trong đầu: “Người này chất phác thực thà, chắc sẽ không gây họa cho ta. Lại biết được Phạm Đan ở đây. Chi bằng để xem lòng dạ chúng thế nào.”

Bất giác Thăng Triều hỏi lại chuyện của Phạm Đan. Chử Thoán có tật nói lắp kể một hồi lâu cho Thăng Triều. Thăng Triều cười nói dưới ánh trăng với con người tưởng như vô ưu vô lo kia mà quên đi những nặng nề trong tâm can, sự thù oán với đám người phương bắc.

Bữa chiều chỉ có chút khoai luộc cùng ít tép nhỏ dầm với muối mặn chát, nước sông để lắng đun lên giả làm ly rượu vui vầy suốt tối. Bỏ quên đi bậc thứ, quan dân, Chử Thoán không ít lần vỗ vai viên thứ sử, giọng nói như uống rượu say nhưng kỳ thực không hề có chút hơi men mà chỉ thứ ảo giác tự thân Thoán phát ra.

Thoán nói:

"Cái ngày em rể tôi cùng vợ nó theo nghĩa quân họ Dương, cha tôi thương con nên mới mang chút quà tặng cho nghĩa quân. Nào ngờ có kẻ rèm pha lên hương trưởng, tin tới tai quan huyện nên bọn chúng đã cho người đến bắt bớ. Cũng nhờ may gặp phải người tốt nên mới trốn thoát được ra ngoài.

Nào ngờ gặp bọn ăn mày trong thành Liên Thụ, chúng dẫn hai chúng tôi vào phường tạp kỹ. Chúng lấy cha tôi ra làm trò tiêu khiển cho bọn chúng, rồi ép cha tôi ăn rắn sống, nuốt cá sông,.. toàn là những điều tởm lợm.

Được ba ngày như ba năm địa ngục, hai cha con bỏ trốn ra ngoài thì bị bọn chúng bắt được liền đánh cha tôi ba mươi trượng. Sức ông không còn mạnh như trước lại thêm tuổi già mà gãy hai chiếc xương đòn. Được hai tháng thì ông chết.

Tôi mang đi trình quan báo tin thì bị bọn sai nha gô cổ lại giải vào nhà lao thêm lần nữa vì tội vu khống cho kẻ khác. Vào trong ngục tôi mới gặp thêm vài người giống tôi đều bị đám giả ăn mày đó lừa vào trong phường ấy, người thì bị chúng đánh đập dã man, người bị ép phải làm những trò dị hợm nhưng đều không bị quan sai động tới bởi lẽ một điều tên chủ tiệm tạp kỹ ấy chính là viên quan giúp việc cho quan huyện Nam Định.

Chỉ cần nghĩ đến thôi, tôi lại thấy hận thay đám cường hào đó. Được bảy tuần cha tôi thì bọn sai nha mới thả tôi ra. Sau này nhờ ơn tướng quân dẹp bỏ quan đô hộ Lý Nguyên Hỷ nên em rể ta được rạng danh, cả gia đình mở mày mở mặt.

Định bụng muốn trử bỏ đám ác bá ấy nhưng em ta tấm lòng vị tha mà thả cho chúng về làm thứ dân thường, dẹp bỏ phường tạp kỹ của bọn chúng. Nay nghe tin tướng quân bị giặc phá thành, quân tướng đều mệt mỏi. Nếu không chê, mời đại nhân ở lại đây ít hôm nghe ngóng tình hình rồi quyết định đi đâu, làm gì cũng chưa muộn.

Xứ đầm nước mênh mông này, chưa từng bị đám quan binh biết đến. Dân xóm chài nghèo phía bên kia sông Cái mới tìm ra được hơn hai tháng nay, cũng đáng để yên tâm."

Vương Thăng Triều ưng ý liền xin ở lại ba ngày. Nghe đâu đám quân lính đi theo Thăng Triều đã bị quân triều đình giết bằng sạch. Thăng Triều thương xót lại nghĩ về thân cô thế cô nên bỏ đi mà không nói lời nào cho Chử Thoán.

Ở Trường Châu, có người báo cho Dương Thanh cảnh tình của Thăng Triều. Thương cho họ Vương, Dương Thanh liền cho người đến tìm Vương Thăng Đức đang trốn ở động Hoa Lư.

Thăng Đức liền xin cáo với Dương Thanh đi tìm cha. Sau này, có người kể lại rằng hai cha con Thăng Triều tìm gặp được nhau ở bờ đông sông Đáy đoạn giáp với Trường Châu rồi trốn về phía nam ẩn tích. Lại có người nói Thăng Triều trầm mình xuống Xích Đằng giang, xác trôi ra biển Đông Hải, còn con trai Thăng Đức biết tin nên xông vào phủ quan huyện Chu Diên để rửa hận giết cha bị đám sai nha đem đi giết, xác bị đem làm mồi cho loài chó hoang vùng ấy.

Dương Thanh hay tin hai cha con họ Vương mất tích trong tay anh em Chử, Phạm nên trách tội hai người đó đã không chu đáo lo liệu cho đồng minh. Thanh không tin vào mấy lời đồn trong dân gian nên sai người đi tìm.

Hơn một tuần sau, mật thám báo về với Dương Thanh hai người đó đã trong vòng kiểm soát của họ Dương. Bấy giờ Dương Thanh mới an lòng.

Dân chúng Tống Bình bị bọn người của Hàn Ước chèn ép, bức cho phải nhận tội cấu kết với Thăng Triều nên phần nhiều đã phải rời bỏ trị sở mà đi.

Nhân lúc Tống Bình đang loạn, kẻ tốt xấu chưa phân định nên họ Hàn đưa ra quy tắc với bọn người đó, ý dụ rằng “Hạn trong ba ngày, nhà nào có tục thờ cúng tổ tiên bằng bài vị chữ Việt cổ sẽ phải thay hết bằng bài vị chữ Hán. Mọi sự ra vào La Thành được kiểm soát nghiêm ngặt, kẻ nào có thể hiện không tốt trên nét mặt sẽ quy vào tội xem thường triều đình. Tất cả xử chém tại chỗ, không cần phải báo cáo.”

Theo đó, đám quân lính triều đình đã sát hại cả nghìn người vô tội khiến ai nấy đều kinh sợ họ Hàn mà không dám làm trái lệnh.

Hàn Ước mau chóng chia quyền hành cho đám cận hầu, theo ý của viên Liễu tá Trần Khôn phục chức lại cho đám quan lại thời Lý Nguyên Gia bị Thăng Triều đánh đuổi.

Mỗi châu huyện đều cho cắt bỏ những viên “Thanh tra châu” theo như bản tấu của Hàn Ước với triều đình từ trước khi tới Giao Châu. Thay vào đó là các tay sai của họ Hàn được phép đi đến tận các châu huyện “dạy dỗ, bảo ban” các quan dưới hành xử cho phải phép, không được sai ý của viên tân đô hộ.

Lúc đó, viên đô hộ Hàn Ước đã kiểm soát được cả một vùng rộng lớn từ phía đông sông Lô châu Bình Nguyên dọc theo sông ấy đến đoạn ngã ba Tam tỉu, tới tận vùng châu thổ giữa hai dòng sông Đáy và sông Cái trở ra đến các huyện Chu Diên, Lục Châu, Võ An.

Hàn Ước ung dung nghĩ trong bụng “Một nửa đất đai Giao Chỉ đã trong tay, lại thêm vùng châu thổ màu mỡ rủng rỉnh đủ để thu thuế nộp cho triều đình và đẫy gia khố của ta. Đám dân man di phía tây và phía nam ta cứ để đó xem bọn chúng có chịu cống nộp hay không. Nếu không nghe ta sẽ mang quân xử chúng. Trước tiên hãy cứ hưởng quả ngọt cái đã. Chia sẻ thành quả này với bọn Kinh Nam, Giang Đông, Nam Chiếu ta vẫn còn phần nhiều lộc phẩm. Vài nghìn lượng bạc, vạn hộc thóc chắc là sẽ đủ vừa lòng bọn ấy”.

Nghĩ hồi lâu Hàn Ước lại tự cười trong gian phòng lớn.

Ngày sau, Hàn Ước sai bọn giúp việc đến bàn kế thu thuế sưu mỗi hộ làm nông đất từ hai mẫu trở lên năm đấu gạo và hai lượng bạc. Các hộ đất ruộng dưới hai mẫu thì cứ mỗi sào tính là ba hộc thóc, một đồng bạc. Hộ nào không có đất thì phải nộp thuế thân mỗi người hai hộc thóc, ba ngày công ích hoặc không thì mấy hộ góp vào với nhau nuôi lính thú trong vòng một tuần lễ.

Nghe tiếng họ Hàn tàn ác nên đám dân nghèo thấp cổ bé họng không ai dám trái lệnh, cố gắng nhai lưng ra để mà nộp sưu thuế cho đủ đầy.

Bằng đòn roi, áp bức, chỉ trong vòng hơn nửa tuần trăng, Hàn Ước đã thu được số thuế sưu gấp đôi so với hắn dự tính. Hắn chia phần thừa đó cho đám thân tín hai phần, tám phần còn lại hắn bỏ túi riêng, chia cho người nhà ước chừng hơn trăm người, mỗi người một phần nho nhỏ đủ để hai đời người không phải lo lắng chuyện tiền bạc, thóc lúa.

Vụ chiêm tháng sáu, dân Nam than khóc đói khổ trước sự hà khắc của viên đô hộ mới họ Hàn. Trong vùng đất mà họ Hàn nắm giữ, nhiều kẻ muốn đứng dậy đều bị bọn tay sai của họ Hàn biết được, đàn áp đánh dập đầu bọn đứng đầu.

Họ Hàn cho người xây dựng các hàng rào tre suốt dọc các vùng giáp ranh với các vùng là địa bàn của quân khởi nghĩa.

Họ Hàn lại liên tục tuyển mộ binh lính bằng sắc dụ “Mỗi đinh trong nhà xung quân sẽ được thôi miễn thuế một nửa, nếu từ ba đinh trở lên sẽ được miễn nộp thuế trong vòng ba năm.”

Số binh mới tuyển của họ Hàn đã lên thành hai vạn, bù đắp đủ số binh thiếu hụt sau khi mượn từ các châu quận bắc Ngũ Lĩnh.

Họ Hàn nhăm nhe các vùng giáp ranh, tăng cường khí giới, lương thảo tới những chỗ trọng điểm, dần dần lôi kéo đám dân chúng ngả về phía quân triều đình.

Hàn Ước đưa một đội quân sáu nghìn người cùng tướng người Hoa là Trình Mậu vượt sông Cái đi từ phía tây thành Cổ Loa đến đoạn tiếp giáp với đội quân châu Phong đang đóng ở Mê Linh. Một vạn tám nghìn binh mã chia làm hai ngả do hai tướng Hàn Lâm, Cao Đình Định nắm giữ đi tới phía đông và phía nam huyện Vũ Bình hòng chiếm lại huyện Vũ Bình đánh mưu đánh Trường Châu từ hai ngả.

Biết được dã tâm của Hàn Ước có ý đồ mang quân đô hộ đi đánh dẹp các xứ đạo còn lại đất An Nam hòng khuếch trương thanh thế, lấy lại quyền uy tối thượng cho triều đình Trường An, Thiên thanh tướng quân gọi mời các tướng tới bàn việc quân thì hay tin ở Tống Bình, Hàn Ước vừa cho tấn công châu Phong.

Mùa thu tháng tám, ba nghìn quân châu Phong do Vương Thăng Hùng đóng tại Mê Linh bị một đám quân nổi loạn tiếm lấy binh quyền của họ Vương trao cho hai người anh em của Triệu Cường là Cam, Túc.

Bị đuổi đến tận ngã ba Tam tỉu, họ Vương gặp gió lớn nên phát bệnh, cười nói luyên thuyên khiến Triệu Cam khi đó chạy đuổi theo tới bờ sông nghe được liền dùng mũi giáo ném trúng mạn trái thuyền khiến thuyền bị thủng.

Mấy tên lính châu Phong đứng phía bờ phía tây, giáp với thành Bạch Hạc trông thấy có người bị chìm thuyền giữa dòng ra vớt viên thiếu chủ lên.

Nghe quân sĩ báo họ Triệu dẫn quân đánh Sĩ Giao liền gọi Triệu Cường lên hỏi:

- Ta nghe quân báo hai người anh em của anh dẫn một toán lính đánh Thăng Hùng tiếm lấy binh quyền. Anh đã biết hay chưa?

Triệu Cường lúng túng:

- Chuyện đó, ta biết. Đệ hãy cho ta nói lời này.

Sĩ Giao ánh mắt sắc lẹm, ngậm tách trà đủng đỉnh nói với Triệu Cường:

- Huynh trưởng nói với ta phải nói chuyện này với chủ tướng thế nào đây. Hiện Hàn Ước đã chiếm được Tống Bình. Quân lính của hắn sĩ khí đang lên, đang nhăm nhe đánh quân châu Phong ta. Hai người huynh đệ của anh chưa từ bỏ cái tính cũ, gây ra chuyện tày đình như vậy, chẳng phải muốn bức chết châu Phong hay sao.

- Hai người anh em của ta đó ta thật không còn cách nào để trị nổi. Đầu ta xin dâng để tạ tội với tướng đệ. Ta đã phụ sự tin tưởng của tướng chủ, chẳng còn mặt mũi nào để gặp tướng chủ.

Sĩ Giao nói lời hiền hòa nhưng lời lẽ như muốn trách móc họ Triệu:

- Nếu không phải là năm trước huynh đã có công cứu chủ tướng thoát khói nguy nan e là sẽ chẳng thể thoát được tội chết. Ta muốn huynh hãy đến khuyên giải bọn họ sớm thay đổi, đầu hàng sẽ được dung thứ. Bằng không cha huynh cùng hai anh em bọn họ sẽ không thoát khỏi tội chết. Kể cả huynh nữa. Triệu Cường huynh chắc chắn sẽ phục hàng được hai người đó. Ta tin vào huynh.

Triệu Cường nhận lời, đi về phía đông lướt nhẹ thuyền độc mộc vượt Tam tỉu giang tới điểm trại của đám phản quân. Đám quân phản thoạt đầu không biết Triệu Cường nên bắt trói dẫn giải đến chỗ của Triệu Túc. Có tên giám quân trông thấy Cường liền sai đám lính đó cởi trói, đưa Cường đến gặp Túc.

Đến trước cửa trại, Cường làm mình làm mảy, quát mắng hai người anh em ở phía trong lều trại. Triệu Cam nóng giận bước ra, tay cầm thanh kiếm khua khua trước mặt vị huynh trưởng. Triệu Cường không chớp mắt, dáng đứng hiên ngang, tay khoanh trước ngực, vểnh râu nhìn người em, giọng nói khinh miệt:

- Giống đần độn các ngươi. Còn không mau mau bỏ gươm giáo mà theo ta về nhận tội với Sĩ Giao quân sư.

Triệu Cam tức giận ném kiếm xuống mặt đất, Triệu Túc phi ngựa tới, mặt rạng rỡ chào đón Triệu Cường. Cường đánh mắt nhìn ngang, không thèm nhìn mặt Túc.

Túc thấy Cam hậm hực, tay nắm chặt, nghiến răng kít kít, huynh trưởng cau mày không vui liền biết ý xuống ngựa bái chào huynh trưởng. Cường quay mặt không nhận. Triệu Túc cười hời hợt:

- Huynh trưởng chớ phiền vì điều ấy mà phiền lòng. Chỉ có chút hiểu lầm thôi. Chứ không như huynh trưởng nghĩ.

Triệu Cam cởi bỏ cơn giận, xối xả một tràng:

- Đúng vậy. Họ Đỗ đó bên ngoài nhân từ rộng lượng nhưng đằng sau hắn bức ép bọn đệ. Ba lần bảy lượt đều tỏ ý không muốn bọn đệ ở trong thành Bạch Hạc, đuổi bọn đệ đến tận Mê Linh. Cái đất đầu sóng ngọn gió ấy muốn làm thứ dân thường cũng đâu phải dễ dàng gì. Ban ngày đám quan quân triều đình dò xét, chiều hôm xuống thì đám châu Phong quần thảo người ngựa cho đến tận đêm khuya. Từng tấc đất, bờ sông giành qua giành lại, đâu phải chỗ để đám dân thường sinh sống yên ổn. Huynh trưởng quá tin vào cái tâm đức giả tạo của hắn mà đem lời trách móc bọn đệ. Hỏi làm sao mà bọn đệ phục hắn được.

Triệu Túc rót thêm mấy lời:

- Nếu khi trước, tay miệng ngáo ộp Sĩ Hoàng kia thuận lời cho bọn đệ làm thứ dân làm ăn ở trong thành Bạch Hạc thì đâu nên nỗi này. Chính hai anh em chúng muốn bức hại bọn đệ nên mới sai đám người châu Phong cướp chỗ hàng bọn đệ chở giúp bọn Hoàng Y tới châu Nam Từ, sau lại đổ vấy lên đầu bọn đệ. Tên quân quân xi xuẩn gì đó phân giải bất công, cho là bọn đệ có ý đồ xấu nên mới dựng chuyện hòng cướp hết chỗ hàng ấy.

Triệu Cường bối rối, đứng lặng một lúc rồi mới lấy lại được tâm tĩnh. Cường thở dài rồi nói với hai người huynh đệ:

"Các chú sai rồi. Đỗ quân sư trước giờ luôn phân xử rõ ràng, không phân biệt kẻ tôi hèn, bậc tôn trưởng. Đặc biệt là những mối quan hệ đang ở mức nhạy cảm như giữa các chú và đám người châu Phong đó.

Nói đi cũng phải xem lại bản thân mình, các chú đã làm những gì để khiến đám người đó phải nghi ngờ, Đỗ quân sư phải đứng về phía người bọn họ.

Các chú xem, Đỗ quân sư rất nể mặt ta mới sai người tháo gông cho cha và các chú. Chỉ vì các chú còn mang nặng trong đầu suy nghĩ của kẻ nổi loạn, bất tuân mà mới ra như vậy.

Hoàng Y có nói với ta, hắn nhờ hai chú dẫn hàng cho hắn từ châu Phong tới Nam Từ, đường dễ đi thì nhiều cướp, đường ven sông thì sợ gặp lính phủ đô hộ. Chỉ có đường duy nhất là đi vòng từ huyện Thái Bình tới đó. Các chú biết rõ điều đó nhưng lại đánh xông đánh nga đòi đi đường ven sông.

Ý đồ của các chú rõ ràng như vậy, sao có thể qua mắt được bọn họ. Lại thêm khi các chú ngỏ ý muốn được làm dân binh trong thành, quân sư mới chỉ đề nghị hai người đi tìm tên Thi Nguyên mới bỏ trốn lúc huyện thành bị ngập nước thì các chú chối đây đẩy, sợ hắn một phép.

Vậy là thể hiện điều gì? Rõ ràng là các chú sợ hắn hơn là nể phục đám người họ Đỗ kia. Nếu là ta thì ta cũng không thể làm khác.

Đằng này, các chú lại đem lòng phản trắc, ép viên thiếu gia ngây ngây ngô ngô họ Vương đó phải trao lại binh quyền. Các chú nghĩ rằng quân phủ đô hộ sẽ dễ dàng chấp nhận đám binh quèn này sao.

Các chú làm như vậy có khác gì nhét lá ngón vào miệng ta ép ta phải ăn cho hết hay không. Các chú có còn nghĩ cho người anh này, cho Triệu gia nữa hay không?"

Triệu Cường không kìm nén được, tay nắm chặt, giằng lấy vai áo day dứt. Túc và Cam nheo mắt tỏ vẻ khinh bỉ.

Triệu Cường cầm kiếm chĩa thẳng vào mặt Triệu Cam lại lia qua chỉ vào Triệu Túc. Lòng đau quặn mà không biết phải nói hai người huynh đệ đó lời nào cho hai người đó chịu khuất phục.

Triệu Cường giận dữ chém mạnh xuống mặt đất bùn nhiều lần không dứt. Triệu Cam ôm lấy Triệu Cường, Túc giằng lấy kiếm ném xuống vũng nước đọng gần đó. Cường dùng dằng hất hai người đó ngã ra đất, cầm chiếc gậy lớn đánh vào người Cam cho hả cơn giận :

- Đánh chết nhà ngươi, cái tên cứng đầu khó bảo. Không hiểu lẽ trước sau. Đánh cho các ngươi khôn ra, bớt đi những ngu dốt trong đầu.

Triệu Cam chịu đánh vài roi, hắn bật dậy hất ngã Triệu Cường. Triệu Cường tát mạnh vào mặt Cam một cú nổ đom đóm mắt. Từ phía sau trại, Triệu Hoằng chống gậy bước ra. Hoằng ho sù sụ, hắng giọng nói không ra hơi:

- Nghịch tử Triệu Cường kia. Còn không mau dừng lại.

Triệu Cường cúi rạp người chào cha. Cường buông cổ áo Triệu Cam, phủi tay chạy tới đỡ Triệu Hoằng đang bước từng bước nặng nhọc. Hoằng rũ bỏ tay không khiến Cường nâng đỡ.

Hoằng trách móc:

"Hai em trai của Triệu Cường ngươi đó. Bọn chúng nó mới khổ làm sao. Triệu Túc hết lòng phò tá họ Dương, theo Chí Trinh tới thành Nà Lữ, bị chúng bỏ lại trong thành một mình ra sức chống lại quân triều đình, may mắn lắm mới thoát được tay họ Thôi năm trước. Sau vì cùng đường nên mới phải hàng họ Quế. Lúc đó cha con Dương Thanh đó ở đâu?

Bọn chúng nó đứa chạy trốn, thằng nương nhờ thân tín, nào có màng đến cha con ta. Con giúp hắn thoát nạn trốn được đến châu Phong. Đổi lại con được gì?

Họ Đỗ kia vốn chỉ là một tên nha dịch quèn trong phủ Tống Bình, vậy mà nay hùng cứ châu Phong, nắm binh quyền vượt cả Chí Liệt.

Con ta Triệu Cường vẫn vậy, vẫn chỉ là kẻ chạy ngược chạy xuôi, dẫu bao lần đói khổ nén đau giúp họ Dương đó vượt qua bao cơn hoạn nạn, cạm bẫy giăng đầy xứ Man Hoàng. Ôi họ Triệu ta mấy đời phận hầu hạ, tôi tớ cho họ Dương mà đâu bằng mấy tên họ Đỗ đó miệng nói trí đức mà bụng dạ hẹp hòi tiểu nhân.

Việc của hai em của con đó là ý dụ của ta. Nếu có trách mắng hay đánh đập hãy cứ đổ hết lên đầu ta đây. Bọn chúng nó không đáng bị như vậy."

Triệu Cường phận con nên chẳng biết phải làm sao. Cường phân trần với cha :

- Nhưng cha à. Phận làm tôi mà chưa làm tròn bổn phận nên mới để tướng chủ nguy nan. Cha phía đầu trận tuyến không biết được nội tình bên trong. Còn họ Đỗ đó tài giỏi, trí dũng hơn người, làm sao con có thể sánh kịp được với quân sư. Chuyện năm xưa ở trấn Hải Môn, con cũng đã nghe. Mong cha đừng trách tội, con cảm thấy quân sư đã xử sự đúng với Triệu Túc. Nếu không phải tình thân máu mủ thì người giết Triệu Túc chính là con.

Triệu Hoằng hắng một tiếng lớn, máu tươi hộc ra. Đầu óc choáng váng, Triệu Hoằng dùng sức gậy đánh dập đầu Triệu Cường. Triệu Hoằng tức tối, miệng đầy máu quát mắng người con trưởng:

- Giống nghịch tử ngu dốt khó dạy bảo nhà mày. Mày muốn giết thì nhặt kiếm lên chém đầu cha mày đây này. Ta đây từ bé đến lớn hầu hạ nhà họ Dương. Có điều chi mà ta không tường tận cho đến tận chân tơ kẽ tóc họ Dương ấy. Họ Dương bạo ngược, tính tình nóng giận, nếu không phải hắn giết được Tượng Cổ kia gian ác hơn hắn thì người mà đám châu quận muốn giết nhất chính là hắn chứ chẳng phải ai khác. Hắn luôn dùng bạo lực để đàn áp kẻ khác. Con theo hắn suốt chừng ấy năm chắc hiểu rõ con người hắn. Hãy thức tỉnh đi con trai của ta à.

Hai anh em Cam, Túc đưa cha vào trong trại. Triệu Cường lặng lẽ trông theo, muốn dìu đỡ cha mà không sao bước chân lên được. Cường cúi đầu bái biệt rồi lên ngựa ra về.

Về tới thành Bạch Hạc, Đỗ Sĩ Giao đang cơn sốt dịch nằm mê mệt trên giường. Triệu Cường ghé tới thăm hỏi biết được bệnh tình liền tặng viên quân sư đôi gà chín cựa. Cường báo với người trong phủ rằng:

- Nếu canh ba gà gáy, quân sư tỉnh giấc ngủ bởi tiếng gà thì sẽ tự khỏi bệnh. Chuyển lời tới quân sư khi ngài ấy tỉnh lại rằng Triệu Cường ta đã ghé tới gửi lời chào.

Đến nửa đêm đôi gà gáy ầm vang cả phủ. Sĩ Giao choàng tỉnh lại, người trong phủ chuyển lại lời của Triệu Cường cho viên quân sư. Sĩ Giao hỏi đám người hầu trong nhà không có nuôi gà cớ sao lại có tiếng gáy gáy đêm, lại là hai giọng hoàn toàn khác biệt. Có một tên người hầu chạy tới bẩm với Đỗ Sĩ Giao:

- Bẩm Bá Nam quân sư. Khi chiều, Triệu tướng quân có ghé tới phủ, ngài ấy tặng cho đôi gà chín cựa. Khi tối, có tên hầu gia Vương phủ tới nói với tiểu nhân rằng đôi gà chín cựa trước giờ chỉ trong phủ Vương mới có. Lứa vừa rồi chỉ được có hai con, Thăng Hùng thiếu gia luôn mang theo kể cả khi mang quân đóng ở Mê Linh. Nghe tiếng lóc cóc trong vườn sau, tay hầu gia đó nhận ra ngay. Nhưng tiểu nhân quả quyết rằng đôi gà đó do Triệu Cường mang tới tặng.

Sĩ Giao mặc chiếc áo mỏng tránh sương, tóc buộc tạm vắt qua cổ vòng ra phía trước. Môi nhợt nhạt dưới ánh trăng mờ, Bá Nam dò dẫm từng bước theo ánh đèn trên tay người hầu tới sau vườn. Sĩ Giao giật mình nghe tiếng gáy của con gà chín cựa màu trắng, Sĩ Giao lẩm nhẩm trong miệng “Có phải đó là con gà mái hay không? Gà mái gáy, gà mái gáy!”.

Tên người hầu cúi thấp mình nói với Sĩ Giao:

- Bẩm đại nhân. Tiếng gáy lanh lảnh, the thé đó chính là của gà mái. Có chuyện gì hay sao ạ?

Sĩ Giao thở dài:

- Gà gáy canh ba là điềm không tốt, gà mái gáy lại càng là điềm chẳng lành. Đôi gà này Triệu Cường chắc chắn có được từ hai tên họ Triệu đó. Thật không hay rồi.

Sĩ Giao nửa đêm đi tới gọi Gã quỷ Dương Diện dậy để dặn dò. Gã Quỷ đang trong giấc ngủ ngon, ngáy khồng khộc ầm vang cả gian nhà phía tây. Đỗ Sĩ Giao khẽ khẽ lay người Tồn Thăng, Gã Quỷ giật mình cầm lấy chiếc dao quắm đang đặt cạnh giường bật dậy vung dao toan chém Sĩ Giao.

Gã Quỷ thảng thốt:

- Anh là ma hay người. Khi tối vẫn còn nằm bẹp trên giường kia mà.

Sĩ Giao mỉm cười:

- Vậy mà bình thường ta vẫn nghĩ rằng chỉ có chú mới dọa cho ma quỷ sợ chứ sợ gì hồn ma của ta. Có phải không.

Tồn thăng mắt nhắm mắt mở, tay dụi con mắt lành lặn mà cười hề hề:

- Sĩ Giao lại chọc em rồi. Đang nửa đêm, sao anh lại tới chỗ em có việc gì?

Sĩ Giao thở dài phân trần:

"Ta lo lắng trong lòng mà không sao ngủ được. Ta nghe tin quân triều đình đã phá được huyện Thái Bình, Chí Liệt thiếu chủ phải điều thêm binh mã từ Động Đỗ tới huyện Vũ Bình để phòng thủ.

Ngày mai, chú cùng Triệu Cường mang binh tới ngã ba Tam tỉu giữ lấy mặt sông lớn không để quân địch tràn vào trong thành Bạch Hạc. Ta đang ốm mà nghe tiếng gà gáy đêm bỗng thấy trong người nhẹ như không, tỉnh dậy dễ dàng. Ta cũng cảm thấy mừng vì đã qua cơn mê mệt.

Trước khi mang quân đi, có đôi điều ta muốn chú cần phải để ý giúp ta. Ba cha con họ Triệu mấy ngày trước đuổi Vương Thăng Hùng khỏi đất Mê Linh, chỉ e đám quân đó không thuận theo ta mà ngả theo quân triều đình. Mọi việc chú cần phải hết sức cẩn trọng.

Có việc gì thì hãy hỏi ý kiến của Triệu Cường, nếu Cường do dự thì hỏi ngay Hỏa Cước Tốc, không được tự ý động binh nếu việc động binh mang đến bất lợi cho ta. Nghe chưa."

Sĩ Giao viết thêm vài chữ lên mẩu giấy nhét vào trong túi thơm dặn Tồn Thăng cất cho kỹ. Sĩ Giao dặn dò Tồn Thăng nếu quân Mê Linh phản kháng chống cự, sức quân không địch lại được thì hãy đưa tờ giấy đó cho Hỏa Cước Tốc.

Tồn Thăng nghe lời, Sĩ Giao nhắc lại một lần nữa. Gã Quỷ răm rắp theo lời đồng thanh với Sĩ Giao. Sĩ Giao cảm thấy an tâm hơn nên trở về phòng nghỉ ngơi.

Gã Quỷ tò mò muốn biết trong túi đó viết gì định bụng mở ra xem, Đinh Tráng từ đâu xồng xộc đi tới. Gã Quỷ giật mình vội nhét vào chiếc khố hông phải. Gã Quỷ quát mắng:

- Cái tên tốc tốc nhà ngươi. Làm ta giật cả mình. Sao đã tới phủ sớm như vậy.

Hỏa Cước Tốc mặt vui hớn hở nói với Gã Quỷ:

- Ngày qua, Bá Nam quân sư nói với ta khi trời sáng canh dần thì tới chỗ anh để chuẩn bị quân sĩ đi đánh quân tham tàn đó.

Gã Quỷ kể lại cho Đinh Tráng nghe chuyện khi nãy nhưng không nhắc tới chuyện mẩu giấy nhỏ kia. Đinh Tráng cũng kể lại lời Sĩ Giao dặn dò y như vậy lúc buổi tối hôm trước, lúc bấy giờ Triệu Cường còn chưa trở về Bạch Hạc. Hai người thưởng mấy ngụm trà cho tỉnh táo rồi dắt ngựa tới phía đông thành Bạch Hạc.

Đợi khi mặt trời ló rạng đỏ rực chân trời đông, không thấy mặt Triệu Cường, Gã Quỷ hỏi đám giám quân, lại cho người đi tìm họ Triệu tới. Một tên gia nhân phủ họ Triệu đi tới bẩm báo cho Tồn Thăng rồi dâng thư lên Dương Diện. Hỏa Cước Tốc nhìn bộ dạng của Gã Quỷ biết Gã không hay mặt chữ nên giành lấy đọc. Đinh Tráng nói với Dương Diện:

- Triệu tướng quân sinh khí u uất nên cơ thể mang bệnh, không thể đi cùng chúng ta. Lời đã đến Sĩ Giao quân sư, Bá Nam cũng đã đồng ý cho Triệu huynh ở lại trong thành dưỡng sức.

Đỗ Tồn Thăng ra lời hiệu triệu ầm vang, cả đoàn quân đi về phía đông giăng lối dọc ngang hai quân thủy bộ hơn một vạn quân. Đoàn quân hừng hực khí thế liên tục hô vang “Phong Châu Bá Nam truy càn giặc bắc. Quyết phá cường địch, lấy lại Giao Châu.”

Đoàn quân đi được chừng bốn mươi dặm về phía đông nam, Đỗ Tồn Thăng cho quân dừng lại đun bếp nấu cơm ăn bữa sáng. Bỗng từ phía nam một trận gió lốc bụi mù giăng lối che phủ cả vùng mặt đất bầu trời. Mặt đất rung rung bấy giờ Đinh Tráng mới phát hiện ra có một đội quân đang đi tới. Hỏa Cước Tốc lệnh toàn quân bỏ bếp, cầm vũ khí chờ lệnh chiến đấu.

Triệu Cam dẫn một đoàn binh hơn trăm người đi phía trước. Tồn Thăng lên lưng ngựa, cầm dao quắm chỉ về phía Cam, tức tối buông lời:

- Tên cam cam quất quất nhà ngươi. Dám đem lòng tạo phản, khôn hồn thì đầu hàng chịu trói thì sẽ thoát khỏi nhát chém từ dao quắm của ta.

Triệu Cam trên lưng ngựa quyết không chịu xuống, đưa tay ra trước tỏ tấm thịnh tình:

- Đỗ tướng quân đã hiểu lầm rồi. Mấy ngày trước, thiếu chủ Vương Hùng bị trúng gió nên mới thành ra như vậy. Bọn ta chỉ tạm thời giữ quân lính, ổn định tình hình chờ viện quân từ các ngài tới. Nay Đỗ tướng quân cùng Đinh tướng quân đã tới đây. Lòng vui xiết bao. Mời hai tướng quân đi lên phía trước, cha ta và Túc huynh đang đợi hai người.

Đi thêm hai mươi dặm về phía đông nam dọc theo sông Cái, đoàn quân của Tồn Thăng có vài người bụng réo, người mệt lả. Tồn Thăng cho toàn quân hạ trại, lấy gạo mới để nấu cơm cho quân lính ăn. Được chừng hai khắc, một đội binh mã đi từ phía bắc tới, cờ thêu chữ “Thi” lớn chính giữa, tên cầm đầu mang xà trượng lao tới hò hét:

- Mau mau phá quân châu Phong. Giết chết tên Quỷ cầm đầu.

Tồn Thăng lên ngựa thúc binh lính cầm gươm giáo chống địch. Triệu Cam cầm kiếm cưỡi ngựa đánh qua loa với Thi Nguyên rồi cắm đầu bỏ chạy. Đỗ Tồn Thăng đuổi thì bị Đinh Tráng cản bước, Hỏa Cước Tốc nói với Gã Quỷ :

- Sức quân địch đang dồn từ nam về phía bắc, kẻ làm tướng lại chạy về phía nam. Quân sĩ chạy theo hướng ấy sẽ bị quân của họ Thi kia thỏa sức chém giết. Huynh hãy đánh với họ Thi đó một trận xem sao.

Gã Quỷ giằng cương cho ngựa quay đầu lại tay cầm dao quắm, tay toan rút kiếm ngang hông xông tới đánh vào họ Thi. Hai bên dũng mãnh khác thường lao vào nhau như hai hổ tranh mồi. Tiếng kiếm chém choang choảng bên tai, dao quắm mấy lần đánh trúng ngựa không khiến họ Thi mất thăng bằng.

Được chừng hơn sáu mươi hiệp, Thi Nguyên giả thua bỏ chạy về phía đông nam. Bỗng một đoàn quân lớn, lớn hơn cả khi đoàn quân khi nãy Triệu Cam dẫn theo xông lên phía trước.

Đoàn quân của Triệu Cam khi nãy quay ra chém giết quân châu Phong. Thi Nguyên quay lại đánh với Gã Quỷ thêm ba mươi hiệp nữa thì đội quân châu Phong đã bị phá loạn, kẻ này chạy lên người kia giẫm đạp nhau chết rất nhiều.

Gã Quỷ khi ấy sực nhớ ra lời của Bá Nam đã dặn dò liền ném túi thơm cho Đinh Tráng. Tráng nghĩ là Gã Quỷ cợt đùa nên ném túi xuống đất.

Gã Quỷ liều chết xông vào đám lính dùng dao quắm chém chết hơn ba mươi tên địch lấy lại túi thơm đưa lại cho Tráng. Hỏa Cước Tốc bấy giờ mới biết Gã Quỷ không có ý đùa nên mở túi ra xem.

Trong đó túi Sĩ Giao dặn «Hai người hãy mang theo binh lính phá vòng vây tới bờ sông chạy dọc theo sông đến gần Mê Linh».

Đinh Tráng lệnh toàn quân chạy về phía nam dọc theo sông Cái. Gã Quỷ cùng một trăm lính kỵ đi trước phá từng lớp vòng vây của địch. Hỏa Cước Tốc bị địch chặn ở phía sau không thoát ra được đành phải quay lại dẫn hai nghìn binh đi về phía tây.

Gã Quỷ manh binh chạy tới đoạn đối diện bên kia sông là Hát Môn thì một đoàn thuyền lớn đã trực chờ sẵn ở chỗ đó, phóng tên bắn đám quân địch đang đuổi phía sau.

Trên thuyền lớn, Bá Nam cầm quạt cọ che nắng, nheo mắt nhìn lên bờ, nói lớn :

- Các vị tướng quân vất vả rồi. Hãy mau mau cho quân lính lên thuyền sang bờ sông bên này.

Tồn Thăng trông thấy Bá Nam quân sư mà mừng rơi nước mắt, chân tay rụng rời, hét lên sung sướng:

- Đúng là Sĩ Giao huynh liệu tính như thần. Thật may cái tên Tốc tốc Sóc Bay đó ném trúng chỗ hiểm nên hắn mới biết được thư ấy quan trọng đến nhường nào, không thì vạn quân đều đã bị địch giết chết.

Sĩ Giao phẩy quạt mắng:

- Làm tướng như Đinh Tráng quả nhiên hấp tấp. Triệu Cường nói không sai, tính tình ngươi bồng bột, làm tướng lĩnh có ngày sẽ khiến toàn quân chết thảm. Thật may có Tồn Thăng anh dũng liều chết nên hắn mới nghĩ lại mà đọc thư ấy. Thế hắn đâu rồi, Tồn Thăng?

Gã Quỷ cười hề hề:

- Hỏa Cước Tốc hắn mang binh cắt đuôi địch nhưng không thoát khỏi truy quân nên đã đi về phía tây, vượt sông tới Bạch Hạc.

Tồn Thăng quay lại hỏi Bá Nam :

- Sao huynh biết mà tới chỗ này. Thế còn thành Bạch Hạc thì sao.

Bá Nam lắc đầu. Từ phía tây một chiếc thuyền đi tới, giọng gọi í ới :

- Sĩ Giao đại ca. Bọn đệ tới đây rồi.

Tồn Thăng quay ra trông thấy Sĩ Hoàng cùng Đỗ Nam Hoàng Y Tín Lộ. Tồn Thăng sốt sắng hỏi :

- Rốt cuộc là có chuyện gì đã xảy ra. Triệu Cường đâu? Sao các huynh lại ở đây?

Sĩ Hoàng nhìn ánh mắt Sĩ Giao, Hoàng vỗ vai Tồn Thăng :

- Triệu Cường nghe lời cha giả ốm không theo chú đi đánh phản quân Mê Linh. Cường cho người vào trong phủ thứ sử bắt bớ hết loạt người ở trong phủ, lấy binh ấn mà lệnh quân châu Phong đuổi chúng ta ra khỏi thành.

Gã Quỷ chẳng thể tin nổi những lời Sĩ Hoàng vừa nói hỏi lại:

- Anh nói là Triệu Cường sao? Anh ta luôn hết mực trung thành với tướng chủ. Sao lại có thể làm ra chuyện đó được.

Sĩ Giao lặng người một lúc, giọng lạc đi Bá Nam nói với mọi người :

- Điểm yếu lớn nhất của Triệu Cường là tình cảm. Ta đã cố gắng chia cắt hắn với ba cha con họ Triệu kia. Ta quá tin tưởng Triệu Cường, muốn Cường thuyết phục ba người đó thuận theo ta nên mới thành ra như vậy. Khi đêm qua hắn tới chào ta mà không ghé vào phủ, lại tặng ra đôi gà quý trong phủ thứ sử quả nhiên là có ý nhắc ta. Dẫu sao thì hắn cũng còn biết trọng nghĩa khí đuổi chúng ta đi trước rồi mới hành động.

Tồn Thăng mặt buồn rượi, ánh mắt nặng trĩu, ngồi yên một góc thuyền. Thuyền nghiêng theo sóng dội khiến Gã ngã lăn ra sàn giật mình. Dương Diện nắm chắc dao quắm chém mạnh xuống mạn thuyền dữ dằn quát tháo :

- Thật là căm tức quá đi. Ta vẫn coi họ Triệu đó là anh em. Vậy mà hắn lại làm ra chuyện đó. Nay Lão Đỗ, Tiểu Mai và Tồn Lăng con trai ta còn đang ở trong tay họ Triệu đó. Ta làm sao mà sống nổi đây.

Hoàng Y Tín Lộ bặp bẹ chêm lời:

- Là mẫu dạ xoa ở quán rượu Hoàng Y đó sao? Và cả con nuôi của Vương Thăng Hùng đó à?

Lời nói như sát thêm vào nỗi dằn vặt của Gã. Gã gào thét ầm trời, gió mưa bỗng từ đâu kéo tới. Từng thớ sẹo lồi lõm lại hiện lên dị hợm dưới ánh chớp.

Hắn nhảy xuống sông lặn tăm một hồi lâu khiến cho mọi người kinh hãi gọi mãi không thấy. Một lát sau Gã nổi lên phía bờ tây sông Cái, Sĩ Giao gọi hắn lại theo mọi người xuôi về đất Vũ Bình.

Huýt sáo ngựa, Gã một mình đi ngược về phía tây bắc. Tiếng ngựa hý vang dưới tiếng rền sấm nổ, Gã cởi bỏ giáp áo, phi ngựa khuất dần vào trận mưa dữ.
 

Tô Thái Hà

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ mười ba

Thành Bạch Hạc Liêu Đức Thinh gặp nạn.

Phủ Phong Châu giăng cạm bẫy họ Vương.

Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ mười ba

Thành Bạch Hạc Liêu Đức Thinh gặp nạn.

Phủ Phong Châu giăng cạm bẫy họ Vương.

Đạo quân chinh nam của Đỗ Sĩ Giao tiến mau về phía nam đi qua huyện Thái Bình, châu Nam Từ đánh một trận quyết liệt với quân lính triều đình. Từ phía huyện Vũ Bình, Dương Chí Liệt sai các tướng Phạm Đan, Liêu Đức Thinh, Hà Bình Xuyên mang theo tám nghìn quân đánh úp từ phía nam.

Hai bên hợp quân phá được đội quân Tống Bình hơn vạn rưỡi, buộc chúng phải rút về phía đông. Đám tàn quân hơn năm nghìn từ huyện thành huyện Thái Bình đi tới chậm trễ bị Sĩ Giao dùng mưu bắt hết loạt tướng sĩ, thu được binh khí, lương thảo vô số. Toàn bộ đạo quân châu Phong cùng các tướng sĩ đoạt lại các thành lũy phía tây sông Đáy.

Lúc hạ trại, Liêu Đức Thinh đi rà soát một lượt hơn hai vạn quân không trông thấy Tồn Thăng gã quỷ cùng Lý Toàn. Thinh tới trại của Sĩ Giao hỏi chuyện, Sĩ Giao nói:

- Nga Tú Du Thủy còn vướng hai nghìn binh mã ở phía bắc châu Phong giáp với châu Bình Nguyên hiện chưa rõ tin tức. Còn gã Quỷ quay trở lại châu Phong tìm vợ và con trai của hắn.

Đức Thinh nghe Sĩ Giao liền giật mình sửng sốt:

- Gã Quỷ đó cũng có vợ con sao? Tiểu tướng chưa được nghe qua. Mà nghe hắn chính là em trai của Tồn Thành phải chăng?

Đỗ Sĩ Giao nhìn Đức Thinh, ánh mắt nghiêm nghị. Đức Thinh lui ra không dám bàn thêm nữa. Lúc đó Chí Liệt đi tới, giọng nói vang vang từ phía cửa trại bước vào:

- Quân sư có điều chi mà phải giấu giếm Đức Thinh. Gã Quỷ đó chính là em trai của viên đô úy châu Ái Tồn Thành. Vợ hắn là do cướp của kẻ khác cùng tên, cùng họ, con hắn thì chỉ có trời xanh và chính cô vợ hờ đó của hắn mới biết được. Mà nhắc đến Tồn Thành mới nhớ, đã từ rất lâu rồi ta không nghe về hắn. Có phải hắn đã trở về làm lão nông, lấy cô vợ đanh đá như bà la sát có phải hay không?

Sĩ Giao cúi chào Chí Liệt. Sĩ Giao ra ý cho Đức Thinh lui ra ngoài, Chí Liệt lệnh cho Thinh đứng lại nghe hết câu chuyện. Sĩ Giao mời Chí Liệt ngồi bàn chính giữa, giọng nói ung dung:

- Thiếu chủ tới đây không báo trước cho đệ nghênh đón. Những lời dân gian đồn thổi, tiểu đệ chưa có gì làm đối chứng nên cũng chẳng thể trả lời được.

Chí Liệt hỏi lại câu chuyện về Lý Toàn cùng Gã Quỷ đang ở châu Phong. Chí Liệt nghe Triệu Cường tự ý dùng quyền binh họ Vương mà lệnh quân đội châu Phong phản lại Sĩ Giao mà lòng giận lắm.

Chí Liệt hỏi Sĩ Giao có kế gì hay để phá bốn cha con họ Triệu đó. Sĩ Giao đáp lời:

- Ba cha con Triệu Hoằng ở đất Mê Linh không có gì đáng lo. Dẹp được quân Tống Bình ắt chúng sẽ tự tan, có chăng là họ Thi đang giúp đám người họ Triệu đó mới là đối thủ đáng để phải hao công tổn sức. Khi Tồn Thăng quay lại Bạch Hạc, đệ rất lo lắng cho Gã Quỷ đó. Triệu Cường khôn ngoan, Tồn Thăng ngờ nghệch sẽ chẳng phải đối thủ của hắn. Nhưng kể cả có nắm được châu Phong thì đệ e với tính cách của Triệu Cường thiếu quyết đoán, châu Phong sớm muộn cũng sẽ rơi vào tay đội quân áo đen đang quấy phá ở phía bắc. Còn về Lý Toàn tướng quân, chỉ mong tướng quân ấy thoát được kìm kẹp như khi ở thành Phục Hòa.

Đức Thinh đứng cạnh nghe câu chuyện của Chí Liệt cùng với Sĩ Giao mà lòng như trăm ngàn lửa đốt. Thinh trình lên Chí Liệt xin bảy nghìn quân cho tướng Hà Bình Xuyên đi về phía bắc đóng ở hẻm núi phía nam cách thành Bạch Hạc bốn mươi dặm để đề phòng quân châu Phong của Triệu Cường lấn về phía nam.

Thinh sẽ dẫn năm mươi lính tinh nhuệ tới châu Phong đột nhập vào trong thành tìm tung tích của Dương Diện hộ sư quân tướng hòng giải cứu tướng quân. Chí Liệt nhìn ánh mắt Sĩ Giao, quay ra hỏi Đức Thinh:

- Nhà ngươi có dám chắc sẽ cứu được Gã Quỷ đó hay không. Triệu Cường đó xảo quyệt nhà người sao có thể là đối thủ của hắn. Mà nhà ngươi sao lại có lòng đi cứu Gã Quỷ ấy.

Đức Thinh nhìn ra Sĩ Giao, Sĩ Giao nhắm mắt ung dung. Thinh hiểu ý ngay liền đáp lời Chí Liệt:

- Bẩm tướng chủ. Ơn của Lý Toàn cùng Dương Diện hộ sư quân tướng, Thinh còn chưa kịp đáp trả. Năm xưa hai người bọn họ đã dẫn lối cho tiểu tướng từ chỗ tối tăm ra ngoài ánh sáng. Đi theo tiếng gọi của chính nghĩa mà vào phủ Tống Bình tìm giết Thi Nguyên, tên tàn ác ăn cháo đá bát đó. Sau lại được hai vị nạp vào nghĩa quân. Công lao chưa đáng là bao để đền đáp tướng chủ cùng quân sư. Nay tình thế đã chuyển khác, hai người bọn họ trong chảo lửa dầu sôi, tôi đây có lòng nào mà giương mắt đứng nhìn. Tiểu tướng xin dùng cái đầu này để đảm bảo với tướng quân. Xin quân sư lập quân lệnh trạng, nếu Thinh trở về mà không đi cùng hai người bọn họ, đầu này sẽ bêu lên trước toàn quân.

Chí Liệt nghe lời chắc nịch của Đức Thinh mà vui mừng rạng rỡ. Sai người mang rượu thịt bày ra, ký lệnh trạng Chí Liệt khen Đức Thinh trước toàn thể sĩ tướng:

- Liêu gia dòng dõi tôn quý, xưa thái công thường ra vào trong phủ đô hộ mà dạy đám quan lại Tống Bình. Nay trong triều đình Trường An, Liêu Hữu Phương làm Hiệu thư lang rạng danh người Nam ta. Chỉ vì kẻ tiểu nhân họ Thi đã đàn áp Liêu gia tàn lụi. Dẫu Liêu gia đã không còn nhưng vẫn còn đó người con đang phải lưu lạc Đức Thinh. Ý chí lớn ngạc kình không sánh nổi, muốn đánh cho bọn giặc cỏ phải lui. Nay thuận theo ý nguyện của trang nam tử, ta chuẩn y cho Liêu tướng quân mang theo một trăm quân tinh nhuệ tới châu Phong giải cứu Đỗ Tồn Thăng. Lệnh các tướng Hà Bình Xuyên, Cao Văn Trác dẫn theo tám nghìn binh hạ trại cách bờ nam Đà giang chân thành Bạch Hạc bốn mươi dặm. Nếu Bạch Hạc có biến thì tự quyền tấn công giải thoát cho Lý Toàn tướng quân đang mắc kẹt ở phía bắc châu Phong.

Liêu Đức Thinh nhận quân lệnh trạng cùng các tướng Hà Xuyên, Cao Trác tới châu Phong.

Hà Bình Xuyên và Cao Văn Trác chia quân thành hai đạo thủy bộ đóng ở bờ nam Đà Giang chạy dọc đến ngã ba Tam tỉu. Đức Thinh chia trăm lính tinh nhuệ thành mười đội nhỏ, giả làm dân thương đi từ bốn cửa thành Bạch Hạc đi vào.

Tướng giữ thành là Mạc Hoài Chung nhìn bộ dạng của họ Liêu đi vào trong thành mà lòng sinh nghi ngờ. Họ Mạc trông thấy Đức Thinh quấn khăn che mặt liền gọi lại:

- Mấy tên kia đứng lại. Kẻ đi đầu trả lời cho ta biết. Các ngươi là ai, đi từ đâu tới, sao lại quấn kín mặt mũi như kẻ gian.

Đức Thinh khóc lóc van nài, bỏ khăn xuống, khuôn mặt loang lổ vết sẹo bỏng lớn dị hợm khiến họ Mạc giật mình hoảng sợ. Họ Mạc cho Đức Thinh đi vào trong thành mà không còn chút nghi ngờ trong lòng.

Đức Thinh cùng đám thuộc hạ lẩn vào trong đám người thành Bạch Hạc, sáng ngày ra chợ nhặt tôm cá bên góc đông mang gà vịt ra góc tây chợ để bán. Chiều tối xuống thì trở về các quán trọ dò la tin tức đám khách điếm trong thành.

Đám người trong khách điếm kháo chuyện với nhau rằng có một tên hung tợn ngày nào cũng tới cửa thành phía tây la lối om sòm. Triệu viên ngoại mấy lần mang quân lính đuổi theo thì hắn lại trốn biệt vào trong rừng núi không tìm thấy.

Đức Thinh dò hỏi được kẻ to lớn, dữ dằn như Quỷ đó thường xuất hiện lúc canh tỵ đứng bóng. Thinh sai hai đội quân quan sát cổng thành phía tây, đúng như lời đám khách điếm trong thành nói. Có một kẻ cao lớn, cưỡi Tiểu Hoàng Mã mang dao quắm lớn, mặc khố viền ngày ngày đi tới cửa thành chửi bới Triệu Cường.

Cường không ra mặt mà chỉ cho đám quân lính ra bắn tên xua đuổi gã. Suốt hơn một tuần, Đức Thinh đã tận mắt trông thấy tướng mạo người đó. Không khác khi gặp ở Thị Điềm năm nào.

Đức Thinh toan đi tìm kiếm gã Quỷ ở cánh rừng già phía tây. Đám lính tinh nhuệ chia nhau tìm suốt hai ngày mới phát hiện ra tung tích của Gã Quỷ. Gã Quỷ dựng một lồng gỗ nhỏ treo cao trên ngọn cây xà cừ trong rừng để che nắng mưa, tránh hổ dữ rắn độc. Ngày ngày Gã bắt thú rừng, hái quả để ăn, buổi sáng sớm lại dắt ngựa đi vào thành Bạch Hạc mắng chửi Triệu Cường.

Buổi sáng ngày canh tý, tiết trời thu mát mẻ, Triệu Cường đi ra ngoài thành Bạch Hạc để khuây khỏa. Như thường lệ đã hơn tuần nay, Triệu Cường sợ Gã Quỷ đó lại tới quát tháo làm loạn cửa tây thành nên Cường lựa lúc sớm trời, hương thơm dìu dịu, ánh nắng mỏng mềm mà thư thái cưỡi ngựa thưởng ngoạn cảnh núi non.

Liêu Đức Thinh trà trộn vào đám người vào rừng hái củi, đi theo hai tên lính dẫn đường tới lồng gỗ trong rừng để tìm gặp Gã Quỷ Tồn Thăng. Thinh tới nơi trông thấy lồng gỗ trên cây đã bị phá bỏ. Thinh tìm tới tim lui không thấy còn dấu tích, cương ngựa còn rơi chỗ này, đám lá cọ cũng khô héo lăn lóc trên đám lá cây vàng ruộm.

Ba người tìm một hồi không thấy đành chất củi lên lưng địu về thành huyện. Đức Thinh buồn bã đi, thầm nghĩ trong bụng “Gã Quỷ đó chẳng biết còn sống hay đã chết mà không chốn dung thân, không ngựa, không cơm áo.”

Thinh ngồi thất thần trên phiến đá thảm rêu, nheo mắt nhìn mặt trời đã chói chang. Chàng giục hai người lính đi cùng trở về thành huyện. Ngồi nhởn nha một lúc, Thinh nghe tiếng một đoàn người đi từ bìa rừng đi tới, bàn tán nhỏ to.

Thinh vội núp đi, lấy lá khoai bông chọc thủng một lỗ nhỏ vừa con mắt trông ra phía ngoài. Tay viên ngoại ung dung đĩnh đạc hỏi chuyện đám lâu la khỏe mạnh, cơ bắp cuồn cuộn, mặt mày gớm ghiếc:

- Các ngươi có chắc là Gã Quỷ đó ở trong này chứ?

Một tay râu rậm da sạm, đôi mắt long sòng sọc cầm rìu chỉ về phía trong rừng:

- Ngày qua chính tiểu nhân đã phá đi chiếc lồng trên cây của hắn. Đợi hắn về định cầm rìu giết hắn nhưng chỉ thấy một con Tiểu Hoàng Mã đứng mãi ở đó nên chém đứt dây cương, cho người xẻ thịt. Chắc chắn hắn đã chạy trốn mất rồi.

Triệu Cường nhếch mép cười, càng về sau tiếng cười càng lớn. Cường ngửa đầu lớn tiếng vọng vào trong rừng:

- Thất phu huynh đệ xin thứ lỗi. Cùng làm tôi tướng bấy lâu, nếu nghe được lời ta nói thì hãy theo ta. Vinh hoa phú quý sẽ chẳng để phần thiệt thòi cho đệ.

Ầm ầm đất rung, cây lớn đổ rạp, chim muông bay loạn xạ, thú rừng xông ra chen lấn nhau đủ thứ âm thanh. Giọng thét vang như xé rách màng nhĩ đối phương, Gã Quỷ xông ra chém gãy cả trăm cây, phăng phăng lao về phía Triệu Cường. Triệu Cường giật cương ngựa lùi lại chục bước. Đám lâu la cầm gươm giáo lên phía trước, tên cầm rìu hất mặt lên vênh váo:

- Là con quỷ mang bộ dạng thằng thất phu. Có giỏi thì hãy đánh với ta một trận xem sức lực giống quỷ nhà ngươi thế nào.

Tồn Thăng ném mặt nạ da dê xuống mặt đất, cào cào trên khuôn mặt ngứa ngáy. Nửa con mắt lòi ra như sắp rơi. Một chút máu nhỏ chảy theo sống mũi rơi vào khóe miệng. Tồn Thăng dùng lưỡi liếm lấy máu, mắt còn lại trợn ngược hung hăng:

- Gọi ta là gã quỷ thì được. Chứ ta căm nhất thằng nào nói ta là giống quỷ. Ta đây vốn dòng dõi Đỗ gia, thân mình săm hình Long Ngư giống rồng đất Lĩnh Nam. Cha mẹ ngươi mới là giống quỷ dữ, đẻ ra một tên lưu manh như ngươi.

Triệu Cường cưỡi ngựa né sang một bên, lệnh cho bốn phía hơn hai mươi tên dũng mãnh xông lên.

Gã Quỷ ôm lấy gốc cây lớn đánh ngang dọc hạ gục bảy tám người. Ném về phía đám lâu la phía trước một tảng đá nặng chừng ba bốn tạ trúng dăm bảy đứa. Hơn chục người nằm nghiêng ngả, máu me bê bết đặc quánh thành vũng như tiết canh trong bát tô lớn.

Tên cầm rìu lao vào, ra sức chém, Gã Quỷ rút dao quắm chém tung rìu. Gã Quỷ hét vang khiến mặt hắn méo xệch, Thăng dùng nắm đấm đấm từng cú trời giáng tung hàm.

Vừa ôm đầu hắn, tay ghì chắc cổ hắn, vặn những tiếng "cậc cậc" khiến mặt hắn tối sầm. Tồn Thăng hổn hển thốt mấy lời :

- Đám súc sinh chúng mày dám giết ngựa Tiểu Hoàng, lại phá đi chiếc lồng gỗ chỗ ta nằm. Ta phải giết giết hết lũ các ngươi.

Triệu Cường sai thêm năm tên bặm trợn ra phía trước, tay lăm le gậy gộc chỉ về phía Gã Quỷ. Triệu Cường hạ thấp giọng, vỗ về Gã Quỷ Tồn Thăng:

- Chẳng phải Tồn Thăng đệ tới tìm ta mắng chửi. Ta tới đây để tìm gặp đệ, cớ sao lại hung hãn đánh người của ta.

Tồn Thăng mắng nhiếc :

- Ta không có huynh đệ với đám người phản phúc. Mau mau thả Tiểu Mai cùng Lão Đỗ. Không thì chớ có trách Gã Quỷ này là ác.

Triệu Cường nóng mặt quay đi. Tồn Thăng dùng gậy ném trúng gáy Triệu Cường. Cường ra hiệu cho bọn người đó xử Gã Quỷ.

Hơn chục tên khỏe mạnh vây tròn quanh Gã Quỷ, đứa nào đứa nấy không một ánh mắt nhân từ, dùng đòn hiểm lần lượt đánh trúng người Tồn Thăng. Gã Quỷ vỗ ngực cười lớn:

- Bọn chúng bay chỉ gãi ngứa cho ta.

Triệu Cường nói với đám lâu la :

- Vai phải hắn là điểm yếu của hắn. Các ngươi cứ dồn sức mà đánh trúng. Chỉ ba chiêu hắn sẽ ngã gục. Chỉ bắt sống, không được phép giết. Mất mạng người phải đổi bằng một mạng người.

Nghe theo lời Triệu Cường, đám lâu la dùng gậy gộc, đòn thương, đòn giáo đánh trúng vai Gã Quỷ hai mươi lần. Gã Quỷ mím chặt môi nén đau, bung hết sức tựa núi đổ sóng dồn. Mấy tên lâu la lùi lại phía sau quan sát. Gã Quỷ ôm vai khuỵu gối điếng người.

Cường ra lệnh dùng thừng trói hắn, dắt gã về nhà lao Bạch Hạc thành. Gã Quỷ bị xềnh xệch kéo đi, chân tay thẳng đuỗn như xác chết trôi. Ánh mắt đờ đẫn nhìn về rừng cọ, Liêu Đức Thinh đứng phía xa xa.

Gã Quỷ lẩm nhẩm trong miệng "Là kẻ nào đã núp ở trong kia, trông bộ dạng dường như đã từng gặp mà khuôn mặt dị dạng trông thật chẳng giống người".

Triệu Cường nghe không rõ lời Gã Quỷ, nghĩ trong bụng Gã đang tự trách bản thân nên cũng không quay lại nhìn.

Đức Thinh thấy có người mang củi đi qua cũng nhặt lên một bó củi trở về thành. Họ Liêu đi theo đoàn người của họ Triệu đến nhà lao dò la tin tức, nghe tin đám sai nha đã giam Gã Quỷ vào trong tử ngục, chờ Thi Nguyên đến mới xét chuyện sống hay chết.

Đức Thinh nghe tin tên gian tặc Thi Nguyên sắp tới Bạch Hạc nên đem bụng muốn báo thù giết chết hắn. Trong đầu Đức Thinh đã vạch ra kế hoạch nhưng lại để suy nghĩ cứu Tồn Thăng lên trước. Thinh đành rút lại ý nghĩ báo thù cho nhà họ Liêu.

Thi Nguyên từ khi chạy trốn khỏi huyện Gia Ninh đã tụ tập được ba nghìn tên lính. Nghe tin ba cha con họ Triệu có ý định cướp quân của Thăng Hùng, Thi Nguyên cho huynh đệ vượt sông Tam tỉu tới Mê Linh diện kiến Triệu Hoằng.

Hoằng từ xưa vốn không ưa hắn bới tính kiêu ngạo, tự đắc nhưng lần này hắn đã chịu nhún người, dùng lời nịnh nọt khiến Hoằng thuận ý.

Được hơn một tuần lễ Thi Nguyên tỏ ra bất tuân với cha con họ Triệu. Hoằng nhận ra đang nuôi hổ trong nhà nhưng đã quá muộn.

Họ Thi ra tay trước, nửa đêm vào trại dùng dao kè cổ Hoằng, ép Hoằng phải nhượng lại toàn bộ binh quyền ở Mê Linh. Hoằng nghĩ quân lính sẽ nghe họ Triệu nên cũng giả đồng ý trao binh quyền cho họ Thi.

Thi Nguyên lại cho người tới tìm gặp Hàn Ước, Ước nghe được thưởng ngay cho họ Thi hai mươi lượng bạc trắng, tước hết quyền hành của cha con họ Triệu ủy thác cho Thi Nguyên cả dải đất châu Phong.

Thành Bạch Hạc được xem là điểm tựa cho Thi Nguyên ra sức vét của cải châu báu. Thi Nguyên tấu với Hàn Ước mang quân đến dẹp thì đúng lúc quân châu Phong đến Mê Linh nộp mạng.

Thi Nguyên thắng trận lại được Hàn Ước khen tặng nhiều hơn. Nhân lúc châu Phong còn chưa ổn định, Ước khuyên Thi Nguyên vượt sông lớn vào Bạch Hạc tiếm quyền của Triệu Cường cùng con trai viên cựu thứ sử họ Vương, tên là Thăng Hùng.

Thi Nguyên nhận lệnh từ Tống Bình mang theo binh mã vượt sông tới cửa đông thành Bạch Hạc gọi Triệu Cường. Triệu Cường nhìn từ trên thành xuống nói với họ Thi :

- Họ Thi kia giản xảo. Đừng hòng tiếm được quyền uy của Phong châu thứsử.

Triệu Cường nhất quyết không ra, Thi Nguyên đành tương kế tựu kế, sai quân lính lấy củ chuối đẽo thành hình mặt người, cắt lấy tóc của mấy tên lính buộc vào trong túi vải.

Thi Nguyên buộc Triệu Cam nửa đêm khóc lóc phía ngoài thành. Tiếng khóc ỉ ơi vọng vào tới trong phủ, Triệu Cường cầm đuốc đi lên trên tường thành lớn giọng hỏi Triệu Cam :

- Là ai đang khóc ở phía dưới. Phải chăng là Cam đệ.

Triệu Cam không giọt nước mắt nhưng vẫn phải dặn ra những lời thống thiết theo cử chỉ giật dây của Thi nguyên. Cam khóc lóc :

- Ơi huynh trưởng Triệu Cường à. Bọn tiểu đệ bị hắn dọa giết suốt mấy hôm nay. Cha nằm ốm ở trên giường, yếm khí nặng nề. Khi bữa tối, Triệu Túc có đôi lời cãi vã với hắn, hắn ngông cuồng dùng kiếm chặt đầu anh hai. Cường huynh mau mau mà nghĩ kế cho bọn đệ vào trong thành tránh khỏi họa diệt thân.

Triệu Cường đắn đo hồi lâu nói với Cam hãy cứ an lòng. Việc của Triệu Túc, Cường sẽ nói ba mặt một lời với Thi Nguyên, nếu hắn không chịu ta sẽ ra tay trước hắn. Đệ hãy cứ về trại, soạn sửa tang lễ, nhang đèn cho chu đáo.

Sáng ngày sau, Thi Nguyên giả tin báo rằng hắn phải dẫn quân vượt sông Cái về phía nam, cho cha con họ Triệu tự ý điều binh.

Cam nghe lời họ Thi mà mắt sáng long lanh, bàn với Triệu Túc cùng với cha nhân lúc họ Thi không có ở trong trại tới Bạch Hạc nương nhờ tạm mấy ngày. Họ Thi kia có quay về cũng không kịp trở tay.

Hoằng đang ốm cũng cố gượng dậy dặn hai con trai đề phòng bất trắc, dẫn một đội năm trăm binh vượt Tam tỉu tiến vào Bạch Hạc. Triệu Cam dẫn năm mươi người đi trước báo tin cho Triệu Cường, tới cửa thành Cam lớn tiếng gọi Cường ra đón.

Cam kể lại hết thảy mọi chuyện với Cường. Cường đấm mạnh xuống mặt tường đá cứng, giọng đay nghiến muốn dẹp bỏ họ Thi.

Ngày nhiều mây, trời oi nóng khó chịu, quân lính thay nhau gác, đi tới bờ sông Cái tìm nước uống cho thỏa cơn khát. Triệu Cam đứng trên thành nhìn từ phía đông có đoàn xe ngựa người đang tới. Cam nói với Cường rằng cha và Túc đã đến gần.

Cường liền cho quân lính thẳng hàng thẳng lối, nghênh đón cha cùng em trai đoàn tụ. Cổng thành rộng mở, Triệu Túc mặt nhăn nhó gượng cười cúi chào hai huynh đệ. Từ trong xe ngựa, Triệu Hoằng ló mặt ra ngước lên trên thành ú ớ được vài lời:

- Các con ta mau mau đóng cửa thành. Họ Thi đang ở trong xe ngựa, ép chết cha và Túc đệ của các con.

Đã quá muộn để cho Cường kịp trở tay, Triệu Cam vội vàng mang manh giáp cầm theo đao lớn nhảy từ trên thành xuống, trúng đám lính khiến chân tay chúng gãy lìa.

Triệu Túc bị trói chân trên ngựa, không nhúc nhích, toàn thân đã tím tái. Triệu Cường lấy đoản đao cắt thừng trói Túc, Túc cứng đờ ngã vật ra nền đất, miệng phun ra một cục máu đen xì. Một tên giám quân xông lên chỉ kịp nói lại với Triệu Cam:

- Túc tướng quân đã bị họ Thi kia hạ độc.

Một mũi tên bắn trúng lưng tên giám quân, hắn đổ người về phía trước, Thi Nguyên đang kéo cổ Triệu Hoằng ra khỏi xe ngựa. Cầm một mũi tên nhọn hoắt dí vào lưng Triệu Hoằng, Thi Nguyên mặt ngước cao lên trời, hàm răng trắng lóa dưới ánh nắng ban trưa.

Nguyên cầm mũi tên dọa nạt hai anh em họ Triệu :

- Đám chuột nhắt các ngươi dám chống lại Thi Nguyên ta. Còn không mau mau đầu hàng chịu trói.

Triệu Cường giương kiếm chỉ thẳng mặt họ Thi:

- Kẻ vô ơn, thằng bất trung, bất nghĩa. Nay tao phải dạy cho mày thế nào nghĩa với trung.

Thi Nguyên phỉ nhổ vào lời nói Triệu Cường :

- Hay cho cái trung nghĩa của họ Triệu bọn mày. Tao đây tiện ra đầy thứ ấy.

Triệu Cam hò hét giục họ Thi thả Hoằng ra. Hoằng xua xua khuyên hai con trai chớ lại gần.

Từ trên cổng thành, họ Liêu dùng nỏ bắn xuống, mũi tên bay nhanh khiến khăn quấn tóc của Thi Nguyên bung ra, tóc lòa xòa Thi Nguyên vội sờ lên đầu xem đầu còn trên cổ hay không.

Triệu Hoằng nhân lúc Thi Nguyên hoảng loạn, cắn tay hắn rời khỏi xe ngựa cầm mũi tên dí sát lưng.

Thi Nguyên chói mắt nhìn không ra kẻ đứng trên thành, tức tối dùng kiếm ném đứt đôi đầu Triệu Hoằng. Đầu lâu đầy máu lăn lông lốc dưới đất, Cường chua xót cầm song kiếm liều chết xông lên.

Triệu Cam khóc thét gọi cha liên hồi, lau nước mắt Cam nhảy lên lưng ngựa, dùng trường đao hợp sức cùng Triệu Cường chém vào Thi Nguyên.

Từ trên thành họ Liêu dùng nó bắn liên tiếp về phía Thi Nguyên. Nguyên dùng Đầu long Bổng vừa gạt làn tên bắn xuống, vừa đỡ những đòn chiêu hiểm từ hai anh em họ Triệu.

Liêu Đức Thinh nhảy từ trên thành xuống lưng ngựa rút Xà bổng dưới chân, giọng hô vang:

- Tên tiểu nhân Thi Nguyên. Tao quyết sẽ sống mái với mày để trả thù cho Liêu gia đã mất.

Ba người cùng đánh họ Thi, Thi dẻo dai sức lực không mệt mỏi, đánh gần trăm hiệp mới chịu lui. Triệu Cam nhìn họ Liêu với ánh mắt dè bỉu, buông lời trách móc Đức Thinh :

- Là tại ngươi mà hắn ta chạy thoát. Cái xà bổng của ngươi chẳng hữu dụng gì. Số họ Thi vẫn chưa chết được.

Triệu Cường nhìn Đức Thinh một lượt. Mặt mày dị hợm mà võ thuật tinh thông khiến Triệu Cường không ngờ. Cường hỏi Thinh :

- Anh là Liêu tướng quân, thuộc tướng của Dương Chí Liệt? Ta đã từng gặp anh khi cùng thiếu chủ đánh huyện Thái Bình thời đô hộ Lý Nguyên Hỷ.

Đức Thinh thật thà đáp :

- Chính là tiểu tướng Liêu Đức Thinh. Tôi đến tìm Gã Quỷ Tồn Thăng, vừa vào trong thành đã nghe thấy đám dân nháo nhác chạy loạn, biết tin có giặc đến quấy nhiễu nên xin lên thành quan sát. Họ Thi đó là kẻ thù Liêu gia.

Triệu Cường mặt buồn rượi quay ra nhìn đầu lâu Triệu Hoằng dính đầy bụi đất, xác Triệu Túc tím ngắt dưới cái nắng oi ả. Chân nặng trĩu, Triệu Cường quỳ xuống, trước cửa thành than khóc:

- Cha ơi. Thù máu phải trả bằng máu, mạng người phải đổi lấy mạng người. Dẫu có băm họ Thi đó ra cả nghìn mảnh cũng không thể xả hết nỗi đớn đau.

Triệu Cam đứng cạnh quỳ xuống, lăn lộn khóc lóc thảm thiết bi thương đến cực cùng. Đức Thinh động lòng thương cảm, dắt hai người đó vào trong thành Bạch Hạc.

Buổi chiều ngày hôm đó, Triệu Cường cho phát tang cả thành Bạch Hạc, dân chúng trong thành nhà nào nhà nấy đều đóng kín cửa trong nhà hoặc buông rèm kín, buộc khăn trắng lên trước cửa nhà.

Trẻ con trong thành bị nhốt chặt không cho ra ngoài đường, lệnh trong thành hễ nghe thấy tiếng cười đùa, nếu là trẻ con thì cha mẹ sẽ bị bắt vạ ba lượng bạc, nếu là người lớn thì bị phạt thêm ba mươi roi.

Cả tòa thành và trong vòng hơn hai mươi dặm quanh Bạch Hạc, không khí im phăng phắc suốt hơn hai ngày họ Triệu làm tang cho cha và người em trai xấu số. Ngoại trừ có hai nơi là ồn ào náo nhiệt.

Một là điểm tổ chức lễ tang, phía ngoài thành gần chân núi phía tây. Chỗ ấy đất bằng, cỏ mọc rậm um tùm, mới chỉ hơn một ngày cỏ đã lụi thành lối đi cho xe ngựa nườm nượp đi qua. Hai là phía bên trong nhà lao thành Bạch Hạc, tiếng xiềng xích, kêu la của đám phạm nhân bị tra tấn, cung hình hà khắc.

Đức Thinh nhân họ Triệu làm ma lơ là việc canh gác nên đã tới lao tù hỏi thăm tìm Tồn Thăng. Thăng bị nhốt trong căn phòng kín mít, không một khe sáng lọt được vào. Ánh đèn dầu cháy được hai khắc thì phụt tắt.

Liêu Đức Thinh cảm thấy trong người ngột ngạt khó thở gọi mấy tên sai nha. Tiếng mở cửa như chỉ đường cho Thinh tìm ra được phương hướng lối thoát ra. Có chút gió lùa vào, mùi ẩm mốc, hôi thối như chuồng lợn sộc thẳng vào mũi khiến Thinh buồn nôi, ói khan liên tục.

Đức Thinh bịt mũi ghé tai Gã Quỷ :

- Đỗ tướng quân có nhận ra tôi hay không ?

Gã Quỷ nằm thườn trên rơm mỏng phủ nền đất bùn nhão mùi khai nồng nặc, mắt đờ đẫn nhìn mặt Đức Thinh. Gã Quỷ yếu ớt nói nho nhỏ :

- Ta không quen tên nào xấu như ngươi. Mau thả ta ra, ta muốn tìm Mai và Tồn Lăng con trai ta. Ta không muốn ở nơi xó xỉnh như địa ngục thế này.

Đức Thinh vỗ lưng Gã Quỷ, từng thớ sẹo trên người Thăng mềm nhũn, da tróc lợt như da rắn đang thay. Phía trước bụng mấy chỗ bùng nhùng như bụng ễnh ương ráp ráp lại mềm mềm.

Thinh khe khẽ nói vào tai Thăng giữa những tiếng la hét, xích xiềng :

- Là tôi đây. Liêu Đức Thinh đây, người bắn nỏ đất Thị Điềm đây. Anh còn nhớ tôi không? Có một lần tôi gặp anh ở trại lính huyện Thái Bình. Anh nhận ra tôi rồi chứ.

Gã Quỷ chưa bao giờ nhẹ nhàng và nũng nịu hệt như lúc này. Gã dựa lưng vào song cửa, tay chân bủn rủn thi thoảng lại giật mình.

Gã gật đầu một cái nhẹ, môi nhợt nhạt, da bong trắng miệng như đang ngậm bọt biển, do gã khát nước suốt mấy ngày. Đức Thinh lại vỗ về:

- Vậy là tốt rồi. Ta cứ nghĩ tướng quân sẽ chẳng nhớ ta. Ta nghe Dương Diện hộ sư quân tướng đang ở châu Phong tìm vợ cùng con trai nên viết quân lệnh trạng trước Chí Liệt thiếu chủ cùng Quân sư quyết tìm cho bằng được anh cùng gia quyến. Chẳng hay cháu nhà anh năm nay đã mấy tuổi rồi. Vợ của anh cô ấy trông thế nào?

Gã Quỷ nở một nụ cười hiền từ mà đã từ rất lâu rồi Gã chưa làm điều ấy, cũng phải chừng hơn chục năm rồi, kể từ ngày Đỗ gia trang bị huyện lệnh cho tắm máu.

Tay quệt bùn rơm lên khóe miệng đuổi ruồi nhặng, bọ chét bâu trên mặt, máu lại toe toét đầy khuôn mặt gã. Có vẻ Gã cảm thấy vui hơn với những lời nói của họ Liêu. Gã vẫn chỉ gật đầu, tay chỉ ra phía bên ngoài.

Thinh đoán ý mấy lần mà không trúng mãi đến khi Thinh nói :

- À, có phải chăng ý anh nói bọn họ vẫn ở bên ngoài, không bị nhốt ở trong này. Phải không?

Gã cười, đầu cũng không gật nữa mà thở ra được mấy lời:

- Nhờ ngươi đi tìm họ, họ vẫn đang ở quán rượu Hoàng Y phía tây nam thành này.

Thinh dặn dò Tồn Thăng thêm mấy lời rồi bước ra ngoài.

Ánh nắng khiến Thinh bừng tỉnh, không còn không gian u tối, hầm hập kia nữa, từng thớ da đua nhau giãn ra như muốn chạm vào ánh nắng bên ngoài trước nhất. Thinh vươn vai rồi hít hà không khí trong lành, tận hưởng thứ cảm giác chốn trần gian.

Đợi có năm tên lính đi thám thính báo tin về, Thinh nghe được rằng trong thành không có quán rượu nào tên Hoàng Y. Đức Thinh đợi thêm hai toán người nữa tới báo tin thêm đều không có kết quả mà Thinh muốn nghe.

Thinh dắt ngựa đi thong dong tới phía tây nam thành Bạch Hạc để tìm hiểu. Thinh nghĩ trong đầu "Rõ ràng là tên miệng ếch Lục Hổ và tên Tín Lộ kia có nói với mọi người quán rượu ở chỗ này mà sao nay lại không còn bóng dáng một quán rượu nào cơ chứ. Không thể thế được, ta quyết phải tìm cho ra."

Thinh buộc ngựa vào cột hiên của quán trọ phía tây, phía trên lầu có cánh cửa nhìn thẳng về phía phủ họ Vương. Viên chủ quán hồ hởi ra đón khách, hắn bẻm mép :

- Quan khách tìm quán trọ có phải không ? Nhìn là biết ngài là bậc tôn trưởng rồi, đôi mày này cộng với vừng trán này thần thái thật không thể kẻ tầm thường được. Ở trong cái thành Bạch Hạc này khách điếm của tiểu nhân sẽ đáp ứng được mọi nhu cầu của các quý quan khách. Chỉ cần khách quan muốn thì điều gì cùng có để phục vụ cho khách quan.

Thinh nghển cổ, chếch chếch chiếc nón đội đầu ánh mắt nhìn hắn. Tay chủ quán trọ nhìn Thinh miệng lúc nào cũng nở nụ cười khiến Thinh không thể chối từ.

Bước vào trong quán, mùi rượu nồng đượm, thức ăn xào nấu phía ngoài hắt vào khiến bụng Thinh sôi lên như giục giã Thinh gọi rượu cùng mấy đĩa nóng hổi, thơm phức. Thinh ngồi một góc quán, đặt nón xuống len lén xung quanh như không muốn để mọi người nhận ra viên tướng mấy ngày trước trên thành dùng nó xua được loài lang sói.

Một lát sau, ba tên áo quần xộc xệch trông thật khác với mọi người chạy vào trong quán ngồi xuống bàn của Thinh. Mọi ánh mắt đổ dồn về bàn mà Thinh đang ngồi, rồi một ánh mắt tinh tường đã nhận ra Thinh, chàng trai đó lớn tiếng thể hiện:

- Đúng rồi. Thoạt đầu ta nhìn thấy quen quen. Hóa ra là vị tướng quân ngày hôm qua đã đánh đuổi được Thi Nguyên, cứu lấy thành Bạch Hạc chúng ta khỏi một trận kinh qua. Mọi người mau mau mà tới chúc rượu vị tướng quân trẻ tuổi này.

Đức Thinh ra dấu cho mọi người giữ im lặng. Một tên ngồi cùng bàn với Thinh cất tiếng dặn dò :

- Trong thành Triệu gia đang làm ma cho cha và người em trai. Mọi người chớ gây láo loạn kẻo quan binh nghe được sẽ bị xử phạt. Chi bằng chủ quán hãy cho tắt bớt đèn sáng, đóng bớt những cánh cửa để tránh tai mắt đám quan binh.

Cả quán xì xào những lời bàn tán, ai nấy đều cho ý kiến đó là hay nên tay chủ quán đành phải chịu theo. Đức Thinh lần lượt được đám khách chuốc cả nghìn ly rượu đến độ say mèm, không thể đứng vững.

Sức nặng cơ thể khiến Thinh không thể nhấc nổi chân, hai bộ hạ của Thinh phải dìu Thinh lên lầu hai nằm nghỉ ngơi chờ trời sáng để tìm hiểu thêm chuyện trong thành.

Cánh cửa trên gác hai nhìn về phủ họ Vương he hé, Đức Thinh chống tay nhổm người dậy đánh mắt trộm nhìn ra phía ngoài. Một làn gió nhẹ hương thơm thoang thoảng như cánh hoa nhài bay vào gian phòng nhỏ, Thinh thả hồn theo cơn gió tiến ra ngoài gian cửa.

Một ánh đèn phụt tắt ở gian phòng của ngôi nhà đối diện. Tiếng lục đục khiến Thinh mở to mắt hơn trông theo. Có bóng người to lớn đang tiếng lại về phía cửa đang đóng chặt bên gian phòng nhà ấy. Một tiếng la hét thất thanh xé tan màn đêm quạnh quẽo. Thinh giật mình làm rơi chén trà nguội cầm trên tay.

Cánh cửa nhà đối diện kéo sang một bên, Thinh cúi đầu núp xuống, phía bên kia một vị công tử tướng mạo khôi ngô, mày râu nhẵn nhụi, tay chân khỏe khoắn cởi mình trần, chiếc khố không vào nếp, bung ra gần hết.

Một đứa con gái đứng khép nép vào góc nhà, tay giữ lấy áo yếm mỏng tang. Da ngăm ngăm, dáng người nhỏ nhắn thắt đáy lưng ong, khuôn mặt trái xoan, giọng nói nhẹ nhàng, run run van nài viên công tử đó:

- Xin thiếu gia tha cho. Tiểu nữ vụng về đã khiến cho ngài không vui.

Đức Thinh khẽ kéo cánh cửa vào rồi khoét một lỗ nhỏ nhìn sang, cánh cửa căn nhà bên cạnh không đóng chặt, hở ra một khe nhỏ. Dường như viên Công tử đó đang cố ép cô gái đó phải chiều chuộng mình.

Phía dưới nhà có tiếng bước chân lên cầu thang, Thinh vội vàng lăn ra sàn nhà, tay cầm hũ rượu giả như vẫn còn say sưa. Viên chủ quán khúm núm chạy theo sau luôn miệng nói :

- Ta đã nói với các vị rồi mà. Họ chỉ uống rượu say rồi ngủ như chết. Không có ai theo dõi điều gì ở phía bên lầu quán đó đâu.

Bọn lính mở cửa xông vào nhìn Thinh ngáy lớn, gian phòng nồng nặc hơi rượu. Tên bổ đầu đi trước nói với tay chủ quán :

- Trước quán rượu này Vương công tử cho dựng là để quan sát động tĩnh bên lầu quán kia. Nay tên Hoàng Y đó ôm cả một đống vàng bạc chạy theo quân họ Dương nên nhà ngươi mới có thể lấy được chỗ đất đẹp như thế này để buôn bán. Mau mau cho dẹp căn phòng gác hai này đi, tránh tai mắt có kẻ gian nhòm ngó.

Tay chủ quán cười cười nói nói với tay bổ đầu :

- Xin các vị đại nhân xá cho. Để khi trời sáng bọn tiểu nhân sẽ cho gỡ xuống.

Tay bổ đầu quắc mắt :

- Tao nói mày có nghe thấy gì không ? Nếu không nghe để tao lấy dao này thông tai cho mày để nghe cho rõ nhé con.

Tay chủ quán sợ sệt nghe theo ngay, sai người khênh Đức Thinh xuống dưới mấy chiếc bàn rượu xếp gọn gàng ở vườn. Ba tên lính đi theo Đức Thinh cũng mở mắt ra đi theo sự chỉ dẫn của tay chủ quán. Gác lầu bị phá ngay trong đêm, Thình giả say ngủ như chết vờ không biết gì.

Lầu gác bị dỡ, đám quan binh mới rời đi, viên chủ quán lót tay cho mỗi tên một ít bạc trắng, giọng ton hót nịnh nọt :

- Cảm ơn các quan gia. Cảm ơn, cảm ơn.

Đám binh đó vừa đi, tay chủ quán vội đóng chặt cửa, quay vào lẩm nhẩm mấy lời chửi bới bọn vô lại đó. Hắn đi tắt đèn đi tới cửa sau, hoảng hồn hắn ngước mắt nhìn lên có bóng người cầm kiếm đứng dưới ánh trăng mờ. Ba cây kiếm sắc lạnh kè cổ, hắn run run lùi lại xin tha mạng. Đức Thinh dúi vào ngực hắn một nén bạc, ánh mắt sắc lẹm :

- Ta vừa nghe bọn quan gia đó nói đây chính là quán rượu Hoàng Y nổi tiếng năm nào có phải không?

Tay đó mặt méo xệch, sợ hãi lùi lại phía sau vấp phải thành cửa ngã ngửa ra sàn. Hắn nghĩ trong đầu Thinh dúi bạc cho hắn hòng đòi tiền, hắn vội quỳ lạy, van xin:

- Con xin các đại ca tha mạng. Bọn con mới đến đây làm ăn, chưa có nhiều tiền bạc đâu ạ. Có chừng ấy thôi tiểu nhân đã cho hết bọn khốn kiếp khi nãy rồi, không còn gì để các ngài cướp nữa đâu.

Đức Thinh ném cho hắn thêm nén bạc nữa, cúi thấp nhìn thẳng mặt hắn :

- Ta họ Liêu không phải họ Phỉ, tên ta là Thinh cũng chẳng phải tên là Cướp. Nhà người còn nói ta là cướp ta sẽ giết luôn cái mạng chó của nhà ngươi đó. Ta hỏi đây có phải quán rượu Hoàng Y không?

Hắn vãi hết ra quần, đôi chân khép lại run run nói:

- Dạ con tên là Ất Hiểu, không phải Hoàng Y.

Thinh giậm chân khiến hắn hoảng hồn, Thinh quát mắng :

- Ta hỏi lại một lẫn nữa cho nhà ngươi nghe rõ. Đây, quán rượu này trước có phải quán rượu Hoàng Y của Đỗ Nam hay không?

Một tên tiểu nhị mắt nhắm mắt mở trông thấy cảnh tượng ba kiếm dí cổ lão chủ liền hô hào. Đức Thinh dùng Xà bổng móc chiếc ghế ném trúng gáy tên tiểu nhị đó khiến hắn nằm gục ngay tại chỗ. Tay chủ quán hoảng sợ tiện ra quần nhơm nhớp. Thinh bịt mũi dọa hắn, hắn mới chịu nói:

- Bẩm đại ca. Chính là quán rượu này. Tháng trước, nghe trong thành có quán rượu nằm ở góc đắc địa chuẩn bị rời đi nên con đã cùng hai người anh em nữa hùn tiền để mua lại chỗ này. Nghe trước đây quán thường có quan lại các nơi hay ghé nên làm ăn rất được.

Thinh cắt lời :

- Hai người anh em đó là ai ? Bọn nó đang ở đâu ?

- Dạ, dạ bẩm đại ca đại nhân. Một tên là cận hầu của Vương thiếu gia, một tên là chủ lầu quán ở phía đối diện.

- Vậy sao bọn chúng trong đêm lại cho người đến quấy phá khiến ta mất giấc ngủ ngon.

- Bẩm bẩm. Chuyện này con cũng không rõ. Suốt hơn tuần qua mọi chuyện đều êm xuôi, nay tự dưng bọn chúng lại đến phá quấy đúng hôm mà đại ca đại nhân ghé nghỉ ở quán.

Đức Thinh linh cảm có chuyện không hay sẽ đến nên đã nháy mắt cho một tên lính đi theo tên là Nhữ Đán trốn thoát ra ngoài trước. Nhữ Đán đứng phía ngoài tối, lẻn ra phía ngoài trông thấy từ quán đối diện một toán người cầm gậy gộc chạy sang quán rượu. Đán định chạy vào báo tin cho Đức Thinh thì thấy Thinh đã bị bắt trói. Phía trong nhà một đám gia nô đã trói chặt Thinh cùng hai tên đi cùng. Đán đành đứng núp ở phía ngoài quan sát.

Tên chủ quán vênh mặt cầm chiếc vồ từ dưới bếp lên vả vào mặt Thinh cho bõ cơn tức giận khi nãy. Thinh nén đau, máu giàn giụa khắp mặt mũi, đám người từ lầu quán đối diện kéo Thinh qua bậc cửa khiến Thinh điếng người.

Thinh bị ném vào một gian phòng chật hẹp cùng hai tên lính đi cùng. Hai người kia bị trói chặt la lối um sùm. Phía ngoài cửa có bóng người cao lớn xì xầm với đám người hầu. Thinh khẽ nhắc hai tên kia im lặng, chàng cố rỏng tai nghe mà không sao nghe được đám người phía ngoài nói gì.

Cửa mở toang khiến Thinh đang ngấp nghển gần cửa ngã ra. Một ánh mắt như đã từng gặp, thân hình cao lớn, dáng người thư sinh, da trắng như trứng gà bóc, môi đỏ như cánh hoa hồng nhung, ánh mắt đen lay láy, mày râu nhẵn nhụi bảnh bao. Giọng nói trầm vang hỏi :

- Trong ba người, ai là Liêu Đức Thinh.

Hai thằng theo hầu toan định tới chỉ trỏ về phía người máu giàn giụa trên khuôn mặt, Thinh lớn tiếng quát tháo:

- Là ta. Dáng vẻ đường hoàng sao lại vô cớ bắt người vô tội.

Hắn ta cười, tay nhấc cằm Thinh ngửa mặt lên, cầm cây dao nhỏ dí vào cổ Thinh đe dọa. Thinh quay mặt đi, rướn cổ kè sát dao. Thinh mắng nhiếc:

- Đám giặc cỏ Quế Trọng Vũ, Long Trạch, Thi Nguyên ta còn chẳng sợ. Một kẻ thư sinh như ngươi cầm dao nhỏ nghĩ rằng có thể dọa được Đức Thinh ta sao? Mặt mày tuấn tú lại giở trò tiểu nhân như ngươi không hay dòng dõi của loài giống gì?

Hắn cười lớn, mỗi lúc một lớn hơn. Thinh nhắc nhở hắn:

- Đám quan binh ngoài kia nghe được tiếng ngươi cười trong lúc tang gia họ Triệu sẽ bắt nhà ngươi vào trong ngục đó.

Hai tên người hầu khúc khích cười theo, viên công tử mặt mày tuấn tú giọng nói khảng khái:

- Ta là Vương Thăng Hùng, con trai của thứ sử Vương Thăng Triều. Nhà ngươi không ngạc nhiên chứ?

Đức Thinh nghĩ trong đầu rồi nheo mắt nhìn. Thật không như những gì Thinh đã từng nghĩ về họ Vương. Thinh nghe mọi người kể lại Thăng Hùng ngờ ngờ nghệch nghệch, dại dại khùng khùng không hay giao du với bên ngoài nay lại ở chốn lầu quán này khiến Thinh có phần không tin lời viên công tử ấy.

Thấy vẻ mặt của Thinh không tin tưởng lời viên công tử đó, một tên người hầu đứng phía sau Thăng Hùng nói:

- Nhà ngươi đến đây tìm gã Quỷ cớ sao lại dò la quán rượu Hoàng Y? Phải chăng là có ý đồ gì?

Thinh ho, một tiếng rất lớn khiến cục máu tụ trong cổ họng thốc ra ngoài. Thinh nuốt ực thứ tanh tanh trong miệng, đứng bám vào vách gỗ tróc sơn.

Thinh nói:

- Ta tới tìm đứa trẻ tên Tồn Lăng và một cô gái tên Mai.

Thăng Hùng nhai miếng trầu không, miệng chóp chép ung dung chân vắt chữ ngũ trên ghế đẩu:

- Được. Ta sẽ cho nhà người gặp bọn họ, thậm chí cả việc thả gã quỷ Tồn Thăng. Chỉ có điều ngươi hãy giúp ta một việc.

Đức Thinh quay mặt đi trước lời đề nghị trao đổi của Thăng Hùng. Hùng nói:

- Nhà ngươi nên nhớ Đỗ Sĩ Giao tài đến mấy còn không thoát nổi châu Phong, nhà ngươi không có sự lựa chọn nào tốt hơn đâu.

Đức Thinh hỏi lại Thăng Hùng:

- Ý công tử nói rằng châu Phong không như người khác trông thấy hay sao?

Thăng Hùng cười lớn, tay chắp phía sau lưng rồi sải chân dài bước ra phía ngoài. Cửa đóng sập một tiếng rầm, Đức Thinh nằm sõng soài ra sàn, tay bị trói ra phía sau nhìn lên trần nhà miệng lẩm nhẩm "Tên công tử này muốn nhờ ta làm việc gì? Giết người hay là mưu kế hèn hạ nào đó với kẻ khác?".

Chàng chợt nghĩ rồi nhắm tịt đôi mắt vì hơi rượu vẫn còn trong người. Chàng nằm như dáng con ếch sấp mặt dưới sàn. Có giọng của cô gái trẻ van nài:

- Xin các anh hãy tha cho tiện nữ. Ta van xin các anh đấy.

Thinh chợt tỉnh cố ngồi dậy nghe ngóng. Một tên người hầu đạp cửa xông vào, kéo Đức Thinh đến một căn phòng giường gối trải phẳng phiu, trướng rèm rủ sẵn, lấp ló dưới ánh đèn.

Thinh dường như không quan tâm chuyện gì sẽ xảy đến với chàng, chàng nhảy lên chiếc đệm êm ái, vẫn còn lưu lại mùi phấn son của thân con gái dặm trường. Thinh nghĩ đây chắc chắn là chỗ vui chơi của đám quan lại trong thành. Nghĩ rồi chàng thiếp đi trong cơn miên man mơ hồ về những khung cảnh gợi tình.

Một cô gái khe khẽ bước nhẹ chân vào, ngồi cạnh Thinh quan sát Thinh hồi lâu. Chàng bỗng nhiên nấc nghẹn mở mắt ra, chàng giật mình đẩy cô gái ngã ra khỏi rèm giường.

Cô gái thu mình khúm núm, nàng e thẹn đôi bờ vai hững hờ, dáng nhỏ xinh ánh mắt buồn xa thẳm khiến tim Thinh phập phùng như diều liệng trong cơn gió. Nàng tiến sát tới Thinh, tay giữ áo yếm đã cởi tháo nút giữ sau vai.

Chiếc đụm nhung cũng lỏng lẻo như sắp rơi, chỉ khẽ nhúc nhích thôi là đụm áo thoát khỏi người. Thinh cố nén, mắt chằm chằm nhìn vào thân thể nàng mơn mởn, nuốt ực vào trong một miếng rồi thở gấp gáp. Cô gái sà vào lòng Thinh rồi nhắm mắt. Thinh kéo rèm thổi mạnh tắt đèn đi.

- Cô gái, đèn đã tắt rồi. Ta không trông thấy gì nữa. Cô hãy chỉnh đốn áo quần cho nghiêm chỉnh. Ta là kẻ phạm tội, ta không muốn cô liên lụy.

Cô gái túm được tay Thinh, trong bóng tối cánh tay mềm mại dịu dáng tháo thừng dây cho Thinh. Nàng ôm lấy chân Thinh, chàng đang có ý định trốn khỏi nệm êm, chăn gối thơm phức.

Áo nàng đã bung từ lúc nào, dính chặt vào chân khiến Thinh không kiểm soát nổi con tim đang rối loạn. Chàng rút chân rồi nhảy lên giẫm trúng đùi nõn nà của nàng. Nàng đau đớn khóc nức nở, giọng nũng nịu Đức Thinh:

- Chàng làm thiếp đau. Xin chàng đừng như vậy, thiếp sợ lắm. Lần đầu tiên có người làm như vậy với thiếp. Thiếp thật xấu hổ chẳng dám nhìn mặt ai nữa.

Phía bên ngoài hai tên người hầu bàn với nhau :

- Phen này đã như ý muốn của Vương công tử rồi.

Tên kia khe khẽ lẩm nhẩm bên tai tên còn lại :

- Chỉ có công tử ấy có cái sở thích lạ thường, không thích gái trinh mà thích bọn con gái đã từng. Nghe đâu công tử bị ám ảnh bởi cô vợ cũ nên không dám động đến gái còn trinh. Con bé mơn mởn như thế mà lại cho cái tên mặt người không ra người, ngợm không ra ngợm ấy nhắm trước. Thật là tiếc cho phận chúng ta.

- Chẳng phải lần trước Vương công tử nhờ ngươi làm như vậy với con bé người Thổ hay sao. Con bé ấy cũng trắng ngần nõn nà. Ta mới chỉ được công tử nhờ một lần là đứa nhỏ hiện đang ế khách nhất lầu quán này.

- Ừ thì phúc phần mỗi người hưởng một tí, hoa thơm ai cũng có phần mà. Mọi người cứ nghĩ Vương công tử là kẻ đứng đắn, ngờ nghệch nhưng kỳ thực là một kẻ ghê tởm khác người.

- Nói khe khẽ chứ. Kẻo đầu rơi máu chảy. Không được tiết lộ ra đâu đấy. Trong phủ này chỉ có ta và ngươi biết. Đừng có bép xép không thì ta và ngươi chết lúc nào không hay.

- Chẳng phải còn cái ả Mai kia cũng biết đó sao. Ả từ khi được lòng công tử, được chiều chuộng hết mực ấy thế mà lên nước không coi ai trong phủ ra gì. Ả sau khi quán Hoàng Y dẹp bỏ đã sai tay chân tìm kiếm con gái nhà lành lừa dân nữ tới lầu xanh gác tía hầu hạ cho đám quan lại, hương hào. Kể ra thì ả ta cũng hơn hẳn bọn chúng ta một cái đầu, ta không thể làm gì được ả.

Hai tên đó thở dài rồi cười khẩy với nhau định bụng báo tin mừng cho công tử họ Vương. Trong gian phòng im ắng hồi lâu, hai tên đó không thấy Vương công tử trở lại nên chúng bàn với nhau tìm một ả nằm chung qua đêm ở lầu quán.

Không còn tiếng thì thào của hai tên người hầu đó, Liêu Đức Thinh hé cửa sổ đón ánh trăng rọi vào. Cơ thể nàng mơn mởn lộ ra, chàng cầm chiếc áo yếm cùng đụm váy cho nàng.

Chàng nhìn về căn phòng nhà đối diện, cánh cửa sổ đã bị đóng chặt, vắt chéo là hai ván gỗ lớn như gông xích giữ chặt cửa bên ấy nhìn ra ngoài. Cô gái thút thít ngồi một góc, Thinh đứng nhìn tưởng tượng ra lúc ban nãy đứng phía bên kia nhìn sang trông thật quen thuộc.

Thinh hỏi nàng :

- Nàng tên gọi thế nào? Năm nay đã bao nhiêu xuân mà vướng vào chốn tửu lầu?

Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt trái xoan, nàng lau đi rồi cắn tay mình cho hả chút buồn đau. Thinh đỡ nàng, bế nhẹ nàng trên tay, nàng ôm chặt lấy bờ vai vững chãi, tay chạm vào đám râu lởm chởm bết máu, Đức Thinh giật mình thả nàng xuống nệm êm.

Cô gái ôm chặt lấy tay Thinh, rót vào tai những lời đường mật :

- Thiếp là Lê Thị con gái của một người lính tên là Lê Đáng người Võ An Châu. Thời Lý Tượng Cổ, cha thiếp đi lính xứ Lâm Tây, thiếp còn nhỏ ở lại Võ An với bà nội và mẹ. Mẹ thiếp theo người khác mà bỏ lại thiếp cho bà nội. Ngày thất tịch năm quý sửu, thiếp theo bà nội tới châu Phong tới nay đã được gần sáu năm, tuổi thiếp mới chỉ tròn trăng. Phận thiếp hẩm hiu lắm hỡi chàng.

Đức Thinh thoạt đầu nghĩ không phải nhưng con tim rung động chàng chẳng biết phải làm sao. Cánh tay vững chãi tự đưa ra choàng lên bờ vai trần nuột nà, chàng nghĩ mình là một anh trai cả, bao bọc cho đứa em gái tội nghiệp đang lưu lạc chốn phồn hoa đầy rẫy những lọc lừa.

Chàng nghĩ mà trong người thổn thức, nàng khép mình sát vào tấm thân vạm vỡ. Thinh tâm sự với nàng suốt đêm, tâm tình như đã rõ từ rất lâu, chàng ghé sát đầu vào cô thiếu nữ tuổi trăng tròn. Chưa bao giờ chàng cảm thấy yêu cuộc đời đến thế.

Chàng ngâm nga khúc yêu đời tặng nàng :

"Phận duyên ta đã gặp nhau

Trời se tơ nguyệt ngày sau chẳng rời.

Lòng ta chẳng nói lên lời

Mượn lời của gió lả lơi đến nàng

Mờ mờ lấp ló dưới trăng

Êm êm nệm gối ta hằng ngóng trông.

Ôi hương sắc tựa sen hồng

Thương sao cánh mỏng giữa dòng lênh đênh

Nhụy kia nồng đượm bờ kênh

Giữa bao nhớp nháp thân mình trắng trong.

Hỏi rằng bụng đã hiểu lòng?

Căn nhà nho nhỏ bên trong có tường?”

Nàng ôm chặt cánh tay rắn chắc của kẻ dũng tướng. Chàng ngồi lặng mà chẳng biết nói thêm điều gì.

Chàng mệt lử người, lưng vai ê mỏi, trong cơn nhẹ dịu chàng chợp mắt rồi không biết đã thiếp đi từ bao giờ. Chàng ngáy lớn, râu cùng ria mép rung rung, Lê Thị bước ra khỏi giường, bụng nghĩ đến mọi chuyện đã qua mà không sao cầm được nước mắt.

Sáng ngày sau, Thinh tỉnh dậy đã thấy mình trong ngục tối, phía đối diện không phải lầu cao, hương thoảng nhẹ. Chàng nhìn xung quanh tăm tối, mùi thối rữa bốc lên nồng nặc. Thinh sờ lên đầu thấy vệt máu, dưới bụng một vết lằn sâu đỏ ửng.

Thinh gọi lớn đám người xung quanh, không ai biết chàng là ai, chỉ có một tiếng khe khẽ từ gian nhà lao đối diện:

- Nhà ngươi đi cứu ta nay lại bị nhốt cùng ta. Phen này nhà ngươi cũng chẳng còn cơ hội để làm điều ngươi đã hứa với Sĩ Giao huynh. Dẫu sao cũng là cái chết. Ta cùng với ngươi cùng nhau trở về báo mộng cho huynh ấy.

Hai tên lính đi theo ngồi sát bên cạnh, nghe lời hét của Đức Thinh choàng tỉnh dậy. Một tên nói khẽ với Thinh:

- Tướng quân đêm qua đi đâu, làm gì với ai mà để cho đám quan quân họ Triệu đến bắt giam cả ba người. Tên Vương công tử đó làm gì mà khiến anh đờ đẫn như cái xác không hồn. Bọn sai nha bắt giải đến nhà lao mà anh không thể mở mắt ra.
Gã Quỷ nhếch mép cười chán nản:

- Chắc lại rượu ngàn chén không say. Cái tục lệ ở quán rượu Hoàng Y đó ta đâu có lạ gì.

Đức Thinh gạt lời Tồn Thăng:

- Anh chắc không hay biết. Cô gái tên Mai đó chính là ả Nhất nương chủ một lầu quán ở châu Phong. Ả có vẻ không hay biết sự có mặt của anh ở Bạch Hạc.

Gã Quỷ cười, cười và chỉ cười. Một đám sai nha mang cơm hẩm canh thiu mang vào bên trong cho đám phạm nhân mới bị bắt giam. Thinh cầm tô nhỏ miệng loe đáy thắt, canh chan cơm mùi chua gắt hơn cả mẻ.

Đức Thinh hất bỏ quát tháo:

- Thứ này để cho người ăn hay sao?

Tên sai nha hống hách, tiện vào chiếc bát lăn lóc Thinh vừa hất chỏng trơ:

- Đấy, tươi ngon nóng sốt của mày đấy.

Thinh dùng chiếc gậy nhỏ tay bị gông xích chỉ thẳng vào mặt tên sai nha:

- Cha mẹ giống bất lương. Loại súc sinh nào đẻ ra loại mặt chó như mày.

Bọn sai nha túm tụm vây quanh phòng giam của họ Liêu. Tiếng nói lớn của người đứng đầu Bạch Hạc vọng vào:

- Sao lại bắt nhốt Liêu tướng quân trong ngục? Liêu tướng quân đã phạm tội gì?

Đám sai nha kể lại hết sự tình. Liêu Đức Thinh đêm qua đã uống rượu say ở quán rượu, đập phá quán rượu ở phía sau hậu viên Vương phủ. Sau đó Đức Thinh mượn cớ say rượu sang bên lầu quán của Mai phu nhân, quấy nhiễu một hồi rồi giở trò cưỡng hiếp với cô gái người hầu của Mai phu nhân. Cô gái đó sợ hãi nên đã báo với Mai phu nhân, Mai phu nhân cho người tới trình báo. Đám sai nha tận mắt trông thấy vệt máu phần dưới bụng của Đức Thinh, cho là Thinh đã giở thói chòng hoa ghẹo nguyệt.

Triệu Cường nhìn qua thấy bụng Đức Thinh còn nguyên vết máu, hơi thở nồng nặc như trái hồng sắp rụng. Cường cho giải đến phòng ép cung, tra tấn.

Cung hình đòn roi không làm lung lạc ý chí của kẻ sĩ hùng, chàng nhất quyết không chấp nhận lời buộc tội. Đòn roi đã gãy đứt hết loạt, xích xiềng cùng đã sờn mòn, thân thể chàng như xác vô hồn, đầu tóc rối bời bết máu.

Những vết lằn trên lưng, bụng đỏ rát dấm máu lăn lộn trên đống bùn nhão lởm khởm những cọng rơm chưa phơi nắng, mục rữa thành thứ đất màu mỡ. Chàng nằm nghiêng bên trái chiếc sườn trái nhô ra đâm vào đất thối, chàng nằm nghiêng phải cánh tay chạm đất bùn đau quặn, xót xa đến tận xương tủy.

Chàng ngồi mà sống lưng như gãy, toàn thân gục ngã về phía trước cho máu ở bụng chàng ngừng rỉ ra thành giọt.

Gã Quỷ thì thào với Đức Thinh:

- Họ Triệu đó hữu danh vô thực. Nắm binh quyền nhưng kỳ thực chẳng có quyền hành xử. Cha con bọn chúng rồi cũng sẽ bị rơi xuống địa ngục mà thôi.

Triệu Cường bước vào ngục tối, ngồi xuống cạnh Đức Thinh, bày ra hết bụng dạ của mình:

- Ta nghe nói Vương Thăng Hùng đó bắt được nhà ngươi đang tằng tịu với con bé tuổi mới mươi lăm. Nghe hắn nói mà ta thấy thật ghê tởm cho giống dị hợm nhà ngươi. Ta cứ nghĩ nhà ngươi đường hoàng, anh dũng, ra cũng chỉ là phường trộm cướp không hơn. Nghe nói nhà ngươi trước khi theo Chí Liệt từng là cướp. Nay lòng dã thú của ngươi lại trỗi dậy thật là mất mặt quân lính họ Dương đó.

Đức Thinh tay trói phía sau, mặt đầm đìa máu cũ chưa khô, máu mới lại loang ra ánh mắt khinh miệt họ Triệu. Giọng nói chàng chắc nịch như đinh đóng cột:

- Ta đây thân nam tử hán. Vì anh em, vì trượng nghĩa mà ký quân lệnh trạng đi tìm cứu Tồn Thăng. Gặp nhà ngươi trong lúc khốn khó mà ra tay cứu giúp, đã không được ghi nhận nay lại bị bọn tiểu nhân hãm hại mà nhà ngươi nhắm mắt cho qua. Nghe đám người đó nói rằng họ Triệu các ngươi là bọn lòng lang dạ sói quả không có sai.

Triệu Cường nắm cú đấm giáng một đòn thật mạnh vào khuôn mặt đầy kham khổ của Thinh. Thinh nằm ngất lịm dưới sàn. Cùng lúc đó, Triệu Cam chạy vào trong tìm Cường, Cam cầm đao chống đất, cúi thấp mình thở dốc:

- Không hay rồi huynh trưởng. Thi Nguyên lại dẫn một đội binh mã tám nghìn người trên bờ dưới thuyền mắng chửi chúng ta suốt hơn hai canh giờ liền. Đào Thiện dùng thuyền ra khiêu chiến bị hắn dùng Đầu Long vụt cho gẫy cổ, xác nổi lềnh phềnh trên sông.

Triệu Cường tỏ ra lo lắng:

- Chú đã cho người đóng chặt cửa thành hay chưa? Cứ để mặc xác chúng chửi bới. Mỏi miệng, giã họng chúng tự khắc lui đi.

Triệu Cam lập tức nghe theo Triệu Cường, cửa thành đóng sập. Y như dự liệu của Triệu Cường, họ Thi phải rút quân về Mê Linh sau cả buổi mắng chửi phía ngoài thành Bạch Hạc

Đêm xuống, Triệu Cam đến phủ tìm gặp Triệu Cường, Cam hỏi:

- Khi trước anh ở với Sĩ Giao cùng đám người họ Đỗ đó, tại sao chúng lại dễ dàng bỏ đi đất Châu Phong hiểm yếu, để cho anh nắm quyền hành ở Bạch Hạc.

Triệu Cường quanh quẩn bước lòng vòng trong gian nhà nhỏ xíu khiến Cam càng thêm sốt ruột. Cam toan mở lời thúc giục, Triệu Cường ngồi xuống ghế, tay vò bàn tay liên tục rồi thở dài:

- Chẳng qua họ Đỗ đó muốn chúng ta thế mạng cho chúng ở châu Phong nên chúng vờ thua ta mà tẩu thoát khỏi châu Phong. Ta cũng đâu nghĩ rằng có thể chiếm được châu Phong một cách dễ dàng như vậy.

Triệu Cam tỏ ra sốt sắng hỏi anh trai:

- Nếu chiếm cứ được châu Phong chẳng phải bọn người ấy sẽ thêm hậu phương vững chắc hay sao? Thêm nữa đám dân Man Hoàng nổi loạn kia luôn luôn thuần phục theo ý dụ của kẻ đứng đầu châu Phong. Có bọn người ấy, họ Dương, họ Đỗ càng như hổ thêm cánh, không phải lo sợ đám quân Tống Bình?

Triệu Cường than vãn:

- Khi đầu tiên ta cũng nghĩ như chú, nhưng hết thảy đều là mắc mưu. Thực quyền châu Phong không thuộc về họ Dương, hay họ Đỗ. Ta dẹp bỏ chúng chỉ là cởi chiếc áo ngoài chứ không phải lột được bì da bên trong cơ thể ấy.

- Là kẻ nào nắm giữ. Trước đây Thăng Triều còn, Chung Đạt còn thì châu Phong thuộc về họ Vương. Nay bọn người đó đã chết, kẻ nào có đủ tầm vóc để lãnh đạo châu Phong được cơ chứ.

Triệu Cường lắc đầu ngán ngẩm:

- Chú xem. Họ Vương còn một tên con trai hiện đang ở Bạch Hạc. Tại sao Đỗ Sĩ Giao không nhân lúc Thăng Triều bị quân Tống Bình truy giết mà ra tay trừ khử hắn. Đó là vì…

Triệu Cam như phát hiện ra được một ý tưởng to lớn, hét toáng lên sung sướng nhưng mặt ngắn lại ngay khi Cường nghiêm nghị. Cam thủ thỉ với Cường:

- Cái tên ngờ ngờ nghệch nghệch đó có gì đáng lo?

Cường ôm trán chống tay xuống bàn, cởi bỏ áo lụa ném xuống:

- Chú thấy ta thế nào?

Cam đáp:

- Huynh trưởng hào khí ngút trời. Người trong thành ai nấy đều nức nở khen ngợi nào là áo gấm quân tử, mũ mão anh hùng… Nhiều lời khen nức lòng.

Triệu Cường cởi bỏ nốt chiếc mũ đội trên đầu, đập tay xuống bàn thật mạnh khiến Cam không khỏi giật mình. Cường đay nghiến nói với Cam:

- Đấy, đó là chỗ đấy đấy. Khi ta cởi bỏ mũ áo, có khác chi những người khác hay không?

Triệu Cam lúng túng, còn chưa hiểu chuyện gì. Cường dùng dao ném trúng bức họa trên vách, chân tay bức bối mà không sao diễn tả nổi thành lời, Cường như muốn gào thét lên mà chỉ dám tỏ ra mặt, miệng nói lí nhí:

"Là tên Thăng Hùng đó bị người ta đồn thổi mà nên. Chính hắn là chủ mưu cho cha hắn mượn cớ trừ khử cha con họ Kiều nhằm đề phòng hậu họa, một mũi tên trúng hai đích, bọn châu Phong lại có cớ để chiếm đánh Tống Bình.

Chưa hết, ta nghe nói khi bàn chuyện với đám cận hầu, Vương Thăng Triều luôn miệng nói “Giá như có Thăng Hùng, giá như có thăng Hùng”… Chẳng phải là hắn vẫn tỉnh táo nên Thăng Triều luôn luôn nghĩ đến hắn trước tiên hay sao.

Đỗ Sĩ Giao mưu mẹo hơn người mà rây phải họ Vương cũng đã phải ngậm bồ hòn mà ở lại đất châu Phong. Đến khi họ Thăng Triều bị truy giết, Sĩ Giao cũng không sao tìm cách thoát ra khỏi châu Phong.

Vì sao? Vì sao? Ta luôn hỏi trong đầu mình như vậy. Đến khi Sĩ Giao đó cùng đám người Hoàng Y tửu quán trốn ra khỏi châu Phong ta mới nhận ra được điều ấy. Họ Vương là một kẻ xảo quyệt, khôn ngoan tới độ mà kể cả họ Đỗ đó cũng không thể phát hiện ra, luôn nghĩ rằng đã khống chế được châu Phong nhưng kỳ thực đâu có phải là như vậy."

Triệu Cường khóc lóc, Cam vỗ vai người anh, miệng run run hỏi:

- Cái chết của cha có liên quan gì đến họ Vương đó hay không?

Triệu Cường như chưa hả hết cơn giận, giọng nói bực tức:

"Tên khốn mạt, kẻ tiểu nhân đó. Ta trộm nghe được bọn tướng tá đầu hàng bàn bạc với nhau. Chính họ Vương là người đứng sau dựng lên vở kịch hay, hắn ngầm lệnh thả họ Thi đó khỏi nhà ngục huyện Gia Ninh hòng để cho hắn trở về Tống Bình, muốn giăng bẫy Hàn Ước để vét một mẻ lưới, báo thù cho cha hắn.

Nhưng họ Thi lại không hành động như hắn nghĩ nên đã sai người kích động bọn quân lính dưới trướng hắn phản lại hắn mà trao quyền cho cha và hai em. Sau đó thì sao?

Hắn vẫn ung dung còn cha và Triệu Túc đã phải về nơi chín suối. Hắn chỉ đợi Thi Nguyên mang theo Hàn Ước đến thì họ Hàn sẽ bị quân Man Hoàng xâu xé, mối gia thù của hắn sẽ sớm được trả."

- Vậy khi trước đóng quân ở Mê Linh sao hắn không nhân lúc Hàn Ước đó đánh các châu quận phía tây mà đánh vào Tống Bình.

Cường lại thở dài:

"Chính là hắn sợ thế lực của họ Đỗ và họ Dương nên mới như vậy. Họ Đỗ khi đó ở châu Phong mặc dù đám tay sai của họ Vương ở đó nhưng nào ai dám chắc bọn ấy sẽ không lay động trước mưu kế của Sĩ Giao. Lại thêm nữa, hắn nhượng binh quyền đám lính tiền tiêu Mê Linh cho cha và hai em là có cái cớ để lui về Bạch Hạc, chỉnh đốn lại thế lực họ Vương.

Việc họ Dương liên tiếp quấy phá và đánh nhau với quân Tống Bình khiến cho Tống Bình suy yếu. Hắn giương giương đứng quan sát hai hổ đánh nhau. Được lợi hai mặt đó cùng việc hắn không có dã tâm bá chủ mà chỉ muốn phục gia thù, giữ vẹn đất châu Phong nên hắn mới đưa họ Triệu chúng ta vào bẫy đã giăng sẵn.

Việc họ Liêu kia tới đất châu Phong càng khiến hắn nghi ngờ ta. Đức Thinh có mối gia thù với họ Thi nên việc hắn lộ diện giúp ta đánh họ Thi ấy là ngoài dự liệu của họ Liêu.

Họ Vương thấy vậy nên đã bày mưu muốn thử lòng ta. Ta đắc tội với hắn sẽ khó lòng yên thân, mà ta bắt giữ họ Liêu, khép hắn vào tù tội thì ta lại càng thêm mất lòng đám trí sĩ châu Phong. Thật là quá khó xử cho ta mà chẳng còn cách nào khác ta buộc lòng phải bắt giữ Liêu Đức Thinh ấy để cho họ Vương kia yên dạ."

Cam nghe tới đây lòng nghĩ đến việc chạy trốn khỏi châu Phong nên ngỏ lời ngay với Cường. Cường gàn đi, khuyên Cam ở lại nghe ngóng thêm tình hình. Triệu Cường trong đêm một mình tới phủ họ Vương diện kiến Thăng Hùng, tấu lại việc thẩm vấn Liêu Đức Thinh cho Thăng Hùng.

Cường vừa tới cửa phủ, họ Vương nhanh nhảu đón tiếp từ xa. Suốt từ cửa phủ tới chính điện, Cường đánh mắt quan sát mà không có lấy một bóng người qua lại.

Họ Vương mở toang cửa lớn, ba đứa con gái áo yếm lả lơi, mặc váy đụm màu nâu vén cao tới đùi non tha thướt trong điệu múa Phong sơn. Triệu Cường vội vã khẩn tấu với họ Vương. Thăng Hùng gạt lời, cười khach khách:

- Triệu đại nhân đã làm tròn bổn phận. Ta đã nghe hết chuyện đó rồi. Nay Triệu Cường đã tới phủ, chi bằng ngươi hãy cứ bỏ hết đi những công chuyện ngoài đường. Hãy thưởng ngoạn cùng ta kỳ hoa xứ nhân gian.

Triệu Cường cúi đầu lắp bắp:

- Diễm phúc ấy Triệu Cường tôi nào có tài cán chi mà dám nhận. Triệu Cường tôi xin về phủ xem xét việc công.

Thăng Hùng mắt liêng láo nhìn ba đứa con gái đó, tay xoa tay miệng nói lời suýt soa:

- Đó đó, mau mau cởi nút dây phía sau, ngả người về đằng trước cho một bên yếm rơi ra.

Ba đứa con gái miệng cười tươi hớn hở, tay đưa ra phía sau tháo nút áo yếm quàng qua vai, chúng ngả người về phía trước, tay phải e thẹn giữ lấy phía bên phải, phía bên trái hững hờ trắng nõn nà.

Ba tòa uy nghi đáng kỳ hoa thế gian. Triệu Cường ngượng đỏ mặt tía tai. Lời nói của Cường dường như Hùng không màng tới. Cường đứng lên ra phía trước cúi chào, họ Vương nhìn Cường miệng cười lớn hét lên:

- Cả ba đứa. Giữ nguyên như thế trở lại đây.

Cường đứng khúm núm trước mặt Hùng. Ba đứa con gái đụng chạm vào Triệu Cường rồi ngả vào người Thăng Hùng. Thăng Hùng hít hít hương thơm nhè nhẹ tỏa ra từ thân thể đám con gái đó.

Hùng gọi Cường khiến họ Triệu giật mình:

- Triệu Cường. Huynh tới đây kiểm tra cho ta. Trong ba đứa, đứa nào còn nguyên vẹn.

Triệu Cường ấp a ấp úng:

- Dạ dạ. Xin công tử đừng nói đùa với tại hạ. Tại hạ đâu gan nào dám làm việc đó. Kỳ hoa xin công tử hãy thưởng cho trọn.

Vương Thăng Hùng mắt trợn ngược quát tháo:

- Ta nói anh làm thì hãy làm. Như việc của họ Liêu đó, anh đã làm rất tốt. Nay ta chỉ có nhờ anh kiểm tra việc cỏn con như thế. Định chống lại ý lệnh của ta?

Triệu Cường run sợ chẳng dám nói lên lời, chỉ cúi đầu xin vâng mệnh của họ Vương. Ba đứa con gái chọng ghẹo Cường, những tiếng hoan hỉ, cười đùa khiến Cường lạc vào những mê muội quên lối, Cường nhắm mắt thả hồn theo đám con gái đó.

Những miên man, khao khát bỗng ùa về, Cường lao vào những đắm đuối dục vọng. Mặc cho Thăng Hùng quan sát từ phía xa.

Vương Thăng Hùng ngồi chễm trệ trên chiếc ghế, đôi mắt long sòng sọc nhìn bốn người đó mà tí tách ngậm chén trà. Nửa canh giờ đã trôi qua, Triệu Cường xộc xệch áo quần, lúi húi bước ra.

Thăng Hùng sắc mặt đã đổi khác khiến Triệu Cường không dám nhìn thẳng lên. Cường mở miệng nói với họ Vương:

- Bẩm công tử là cô gái yếm xanh.

Thăng Hùng cười phá lên, một chén nước sôi hắt thẳng mặt Triệu Cường. Thăng Hùng giơ chân đạp trúng mặt còn rát đỏ. Thăng Hùng đứng dậy, bước tới rồi sà vào chiếc giường phủ rèm thơm, lăn lộn giữa đám con gái còn lõa lồ trên đó, giả khóc mếu trước mặt Triệu Cường:

- Ôi Hồng Hoa, Cúc Hoa của ta. Ta chỉ bảo hắn kiểm tra mà sao nỡ lòng nào hắn lại vấy nhơ bẩn lên các nàng. Ta sẽ xử tên súc sinh họ Triệu đó để rửa nhục nhã cho các nàng.

Triệu Cường ôm mặt đau đớn, sau cơn hoan lạc thân xác không còn chút sức lực. Cường lầm lũi bước từ điện ra cửa phủ. Phủ vẫn vắng lặng không một bóng người.

Cường đi len theo phía tường rào bên phải, bông nghe tiếng thét the thé của bọn con gái. Triệu Cường quan sát trước sau, đứng núp vào một chiếc cây sưa sát vách.

Có tiếng một cô gái lạy lục van nài:

- Mong hai anh tha cho tụi thiếp. Dẫu gì thì trước khi hầu hạ cho Công tử, hai bọn thiếp cũng đã phục vụ hai người.

Tiếng roi vút mạnh vào lên cơ thể yếu mềm khiến Triệu Cường sởn gai ốc, dựng tóc gáy. Giọng người đàn ông ồm ồm quát tháo:

- Lũ tiện nhân. Mau mau ra lầu quán tiếp khách. Công tử đã không còn thích các ngươi nữa nên mới cho người làm hoen ố các ngươi.

Giọng lanh lảnh lại cất lên lạy lục:

- Không phải là tụi thiếp đã bị hai người làm hoen ố trước hay sao.

Một tên khác giọng chua như giấm nói:

- Các ngươi ngu hay là giả vờ không biết. Công tử chỉ thích bọn con gái không còn trinh mà phải tận mắt trông thấy kẻ khác làm chuyện đó. Khi không còn thích nữa, công tử sẽ làm như với hai ngươi. Mau mau mà ngoan ngoãn tới lầu xanh tiếp khách, bọn khách làng chơi sẽ nâng niu chiều chuộng các ngươi.

- Các anh có thể cho bọn thiếp theo hầu được hay không? Bọn thiếp không muốn tới chốn xô bồ ấy. Nhục nhã lắm.

- Các ngươi trông thì cũng khá được, cũng vừa miếng thật đấy. Nhưng ta không muốn chết mà rước theo các ngươi. Lệnh của Công tử đã ban, dùng xong rồi thì đem đi bán. Bọn ta dẫu cũng tiếc cho các ngươi nhưng ta đâu dám trái lệnh công tử.

Tiếng gào thét van xin rồi đánh đập dồn dập đập vào tâm trí họ Triệu. Triệu đứng thêm một lúc để nghe ngóng thì có tiếng người xì xào đi từ phía bắc đi tới. Ba người đàn ông dáng người vạm vỡ, tay cầm đuốc lớn bước vội qua chỗ Triệu Cường. Cường trông theo quan sát thấy ba người đó đứng chờ ở phía cửa phủ một lúc khá lâu.

Cường mệt quá ngả lưng vào gốc cây chợp mắt một lát. Tiếng kẽo kẹt của chiếc cửa phủ bằng gỗ lim nặng trình trịch khiến Triệu Cường tỉnh giấc. Cường chợt nghe được tiếng dò hỏi của đám người hầu trong phủ :

- Ba người các anh có phải là Đàm Hữu Trác, Lê Xuân Đỉnh, Toán Minh Trù, con rể của Kiều lão đại nhân?

Người đàn ông râu quai nón, đuôi mắt trái sẹo lớn xẻ khóe mi dài tới tận thái dương, giọng nói đặc sệt xứ Mê Linh đáp:

- Chính vậy. Ta là Toán Minh Trù, rể thứ của Kiều đại nhân. Đây là hai vị huynh đệ Hữu Trác, Xuân Đỉnh cũng là rể của cha vợ ta. Nghe Thăng Hùng công tử có ý lệnh triệu kiến, không hay có việc gì cần gấp mà cho gọi lúc giữa đêm khuya.

Một tên người hầu nhanh nhả :

- Các vị tướng quân đều có mặt cả ở đây rồi. Thăng Hùng công tử có chuyện cần bàn với các anh. Ta nghe nói chuyện về họ Triệu đang ở trong thành Bạch Hạc. Đợi ta vào bẩm báo với Vương công tử rồi vào trong điện phủ.

Ba người đó bàn bạc với nhau trước cửa phủ họ Vương. Hữu Trác luôn miệng nói phải trử khử họ Triệu đó vì họ Triệu đó làm trái di ý của tiên chủ họ Vương.

Minh Trù có ý muốn lợi dụng họ Triệu làm mồi nhử để khiêu khích quân tướng Tống Bình, mượn tay họ Triệu cho đám người họ Dương kia tự chia rẽ được lợi cả đôi đường cho châu Phong. Xuân Đỉnh không nói lời gì, chỉ lẳng lặng đứng nghe hai người kia nói qua lại với nhau, mặt không hề biến sắc.

Ba người đó vội vàng đóng sầm cửa, bên ngoài chỉ còn bóng tối che phủ. Triệu Cường có linh tính rằng có chuyện không hay sắp xảy đến. Cường vội vã chạy về phủ, gọi người em Triệu Cam tới kể lại hết sự tình. Triệu Cam tặc lưỡi :

- Thì ra là đám tướng sĩ Bạch Hạc lòng vẫn ngả theo họ Vương đó. Anh Cường này. Khi tối, em có đi qua góc chợ đông, gặp một ông bói mù. Thấy ế ẩm, em mới vào hỏi chơi chơi xem thế nào. Ông ta mới nghe giọng nói mà đã đoán ra ngay hình thể, gia thế. Ông ta còn nói trong thời gian gần hãy đề phòng những kẻ tiểu nhân. Không có lẽ là…

- Thầy bói đó ở đâu ? Sao ngày nào ta cũng đi qua chợ đông mà không gặp.

Triệu Cam sững người một lát rồi mới tả lại cho Cường :

- Là người đàn ông mặc áo dài đen, đầu vấn tóc cao xếp tròn vạnh trên đầu, đôi mắt nhắm nghiền, chỉ sắp vài đồng xu úp ngửa trên chiếc đĩa nhỏ cùng đôi câu đối nhỏ bày ra ở góc chợ đông, bên cạnh tiệm đánh bạc Xuề Na.

Triệu Cường đi đi lại, suy nghĩ tính toán điều gì đó. Cường quay ra nói với Cam:

- Theo như chú tả lại thì ta nghĩ người đó là một trong những tên mật thám đi theo họ Liêu kia. Chỉ có người huyện Vũ Bình mới để tóc kiểu như vậy, còn việc xem bói đặt đồng xu câu đối thì chắc chắn chỉ có theo tục lệ Đỗ Động. Người châu Phong xem bói không bằng thứ đó cho nên bói đó mới ế ẩm như vậy. Ta đoán rằng bọn mật thám đó vẫn còn rất nhiều trong thành và nắm được rất nhiều thông tin quan trọng giúp ích được cho ta, chi bằng chú hãy tới đó lân la để tìm ra những hoài nghi mà bấy lâu nay chúng ta còn chưa hay tỏ.

Cam bàn lại với huynh trưởng :

- Thế còn tay công tử họ Vương đó thì sao?

- Ta đã lo liệu. Chú hãy yên tâm. Bây giờ, chú dẫn theo gia quyến chia thành nhiều toán người nhỏ, ăn mặc rách rưới không để bọn quân lính nghi ngờ rồi chia nhau ra ngoài thành. Đợi khi ta thu xếp xong ở trong thành, hẹn gặp mọi người ở núi Lịch Sơn ở phía bắc giáp với Bình Nguyên châu. Chỗ đó là đường lui duy nhất mà ta và chú có thể thoát nạn.

- Vậy còn anh, trong thành tai mắt họ Vương có lo liệu được hay chăng?

- Chú hãy cứ an tâm. Họ Vương đó chỉ nhắm chúng ta cho mưu hèn kế bẩn của hắn. Ta sẽ tương kế tựu kế để đối trọi với hắn.

Cam dẫu còn bứt rứt nhưng không biết nói gì hơn đành quay mặt bước đi. Cường vẫy tay xua Cam đi thật nhanh, Cam ngoái cổ lại nhìn người anh cả rồi khuất dần vào trong đêm khuya vắng.

Sáng ngày sau Triệu Cam theo lời của Cường chia gia quyến già trẻ gái trai thành năm toán, mỗi toán ba đến bốn người, ăn mặc rách rưới, chấm bùn đất lên mặt lần lượt ra khỏi thành.

Cam lân la các lầu quán hỏi chuyện về đám người mật thám của Liêu Đức Thinh sau đó mới lặng lẽ đi đến cổng thành nhỏ phía tây. Cam quan sát rồi kỹ lưỡng rồi ẩn mình vào đám dân buôn ra được khỏi thành Bạch Hạc.

Mọi người tập trung tại một điểm cạnh bờ sông Thao rồi men theo đường núi tới núi Lịch Sơn như lời Triệu Cường đã dặn dò.

Triệu Cường nghe tin gia quyến đã trốn được khỏi thành Bạch Hạc liền thúc ngựa chạy tới điện phủ họ Vương. Thăng Hùng khi ấy đang đuổi hoa bắt bướm phía hậu viên cùng hai đứa trẻ đang nô đùa ở đó.

Một tay người hầu dẫn Cường tới chỗ Hùng đang chơi, cảnh vật không khác nhưng thần thái hoàn toàn không giống so với khi đêm qua Cường ghé lại. Có cô gái tuổi chạc ngoài đôi mươi mặc áo yếm gụ, lưng trần rám nắng đang ngồi phe phẩy quạt nan.

Trông thấy Cường vồi kéo chiếc áo ngoài che đi đôi vai hững hờ. Giọng nói đon đả:

- Triệu tướng quân ghé thăm phủ không hay có việc gì? Công tử nhà ta còn đang chơi đùa với lũ trẻ con.

Triệu Cường đưa mắt trông theo Thăng Hùng đang vui đùa mà nhẩm trong bụng rằng "Gã này quả thật che mắt thiên hạ tài tình, đến đám hương thân phụ lão cũng không hề hay biết sự thật sau cái ngờ nghệch kia của hắn. Đã đến lúc ta phải cho hắn ra ngoài ánh sáng để cả Phong Châu này biết."

Ánh mắt Cường đỡ đẫn, nàng Mai trông thấy liền hỏi gọi nài mấy tiếng:

- Triệu tướng quân. Triệu tướng quân. Tiểu nữ không biết tướng quân có việc gì mà ghé lại điện phủ. Đợi khi nào công tử tỉnh táo, ta sẽ truyền lời giúp tướng quân.

Triệu Cường hẹm giọng, khi đầu nói lí nhí trong cổ họng khiến nàng Mai không nghe ra. Cường lớn tiếng như muốn đánh động cho họ Vương:

- Quân Tống Bình mang một đội quân hai vạn đã tới Mê Linh hợp quân với Thi Nguyên hòng phá thành Bạch Hạc. Hàn Ước nói "Cái gai trong mắt là ở châu Phong, nhổ được cái gai đó An Nam sẽ được hưởng trọn hồng phúc Đường triều."

Nay ta tới báo với Vương công tử mau mau thu xếp già trẻ gái trai trong nhà sớm lo liệu tránh nạn diệt thân.

Thăng Hùng dừng lại đôi chút, hai đứa trẻ liền ú òa khiến Thăng Hùng lăn ra đất nằm im một lúc. Triệu Cường nghĩ rằng đã đánh trúng lòng dạ họ Vương nên đứng dậy xin cáo lui, khuôn mặt vẫn còn rát đỏ do vết bỏng đêm qua lánh lánh chỗ Vương Hùng đang nằm lui ra phía cửa phủ.

Thăng Hùng bỗng bật dậy hét lớn:

- Bắt chết tất cả các ngươi này. Từng tên một từng tên một này.

Triệu Cường đứng sựng người, mặt nhúm nhó nghĩ rằng phen này không ra được khỏi phủ. Tiếng hai đứa trẻ tíu tít:

- Cha chơi ăn gian. Cha đã bị Tồn Lăng hạ gục rồi, phải đợi khi Tồn Lăng đánh nhau với con xong thì mới được sống lại chứ.

Thăng Bình nằng nặc đòi cha nó nằm xuống, Nàng mai í ới gọi hai đứa trẻ:

- Thôi nào các con. Thăng Bình nhường em, Tồn Lăng không đánh với anh nữa. Hai đứa dìu cha dậy vào đây ăn chiếc bánh nào.

Triệu Cường quay lưng lại nhìn đám trẻ rồi thở phào nhẹ nhõm bước ra ngoài phủ, cúi chào Mai một lần nữa. Chân liêu xiêu Cường vấp phải thành cửa, ngã lộn cổ ra phố vắng.

Triệu Cường xộc xệch áo quần thúc ngựa thẳng về nhà chuẩn bị giáp áo đủ đầy, thương khiên sẵn sàng cùng đội quân châu Phong nghênh địch.

Hai ngày sau, quân lính Tống Bình do Quách Thôi làm tiên phong đánh dẹp toàn bộ căn cứ quân đội châu Phong ở phía bờ đông Tam tỉu. Quân châu Phong buộc phải vượt sông lui về phía tây.

Thi Nguyên mang một đạo tám nghìn binh mã trong đêm vượt sông Cái đánh vào vùng đất phía bắc huyện Thái Bình nhằm gây bất ngờ cho quân đội châu Phong ở phía nam.

Quân châu Phong chạy về tới bờ nam Đà giang gọi thuyền phía bờ bắc tiếp viện. Thi Nguyên hừng hực xua quân đuổi theo truy sát, bỗng từ phía tây một đội quân người Lý đi tới cầm giáo mác, trống kèn ầm ĩ khiến Thi Nguyên thất kinh bỏ chạy.

Hà Bình Xuyên hét lớn:

- Giặc vô ơn hãy đứng lại. Còn không mau mau xuống ngựa chịu trói.

Thi Nguyên đoạn chạy ngựa đến núi Câu Lậu trông thấy một con trâu to bằng cái đình làng đang húc đám quân lính chạy phía trước. Đám quân đó đứa này giẫm đạp lên đứa kia bị trâu húc ngã hết xuống đầm nước ở chân núi, xác chết nhiều vô kể, chỉ vài canh giờ xác nổi kín đặc mặt đầm.

Thi Nguyên trông thấy trâu mộng hung dữ đành liều chết quay lại đánh với Hà Bình Xuyên. Bình Xuyên vung kiếm chém trúng được búi tóc của họ Thi.

Họ Thi lại trông thấy một viên tướng mắt diều hâu, lông mày sâu róm, mũi hếch miệng ngão đang cầm giáo dài phi ngựa chạy tới toan đâm trúng ngực Thi Nguyên.

Nguyên phá vây chạy về phía con trâu mộng nghĩ rằng phen này phải quẫn tiết mà chết nơi chiến trường.

Trời bỗng gió mưa kéo đến tối sầm, sấm sét rền vang tai, Hà Bình Xuyên thúc giục quân lính xông lên phía trước càn quét đội quân của Thi Nguyên. Trời đổ mưa lớn, trâu mộng gầm vang khiến cả đoàn quân kinh hãi lui lại.

Thi Nguyên quay lại phía sau trông thấy quân lính không đuổi theo nữa liền rút kiếm xông tới trâu mộng. Trâu mộng húc thêm vài nhát vào đám lính nhưng đám lính không bị sừng đâm thủng bụng như khi nãy mà chỉ bị hất văng đi vài trượng.

Trâu mộng lắc lắc cái đầu trầm mình xuống đầm rồi lặn chìm nghỉm. Thi Nguyên trông thấy phía trước không còn vật cản chắn đường liền giục quân chạy về phía đông nam.

Cao Văn Trác đuổi theo đến tận chân núi La Phù thì quay lại hợp với Hà Bình Xuyên đóng quân chỗ cũ. Giáo gươm, mũ giáp, cờ xí thu về đến cả nghìn chiếc Bình Xuyên bàn với Trác:

- Khi nãy gặp thần Đại Hắc Ngưu ở núi Câu Lậu mà quân địch được một phen hú vía. Lần này ta lập được công lớn, chắc chắn sẽ được chủ tướng hậu hĩnh ban thưởng rồi.

Tối trời, mây đen rủ nhau kéo về phía tây nam, bầu trời quang đãng, không khí mát lành, Bình Xuyên cà kê ly rượu với Văn Trác.

Từ phía nam có một tên lính chạy ngựa tới báo tin. Văn Trác dở thư ra đọc, Sĩ Giao gửi lời trách hai người :

"Dương chủ tướng sai các ngươi mang tám nghìn binh lính tới đóng ở bờ nam Đà Giang để đề phòng quân châu Phong. Nay các ngươi lại tự ý mang binh đánh quân Tống Bình, cứu quân châu Phong là trái ý dụ của chủ tướng.

Đã gần hai tuần mà chưa hề có động tĩnh từ trong thành Bạch Hạc mà các ngươi không tiến không lui để cho hao binh tốn lương, đẩy quân ta vào chỗ hiểm yếu. Làm phận tôi tướng các ngươi hãy tự xem xém kiểm điểm lại bản thân mình xem đã tròn trách nhiệm với chủ tướng, với người huynh đệ của các người hay chưa?

Liêu Đức Thinh gặp nạn, cái chết cận kề, các ngươi có biết hay không? Nay ta lệnh cho các ngươi hãy mau mau nghĩ cách để giải cứu một trăm huynh đệ ở trong thành Bạch Hạc, giải cứu cho Đỗ tướng quân, Liêu tướng quân.

Việc quân không thể chậm trễ, nội trong vòng ba ngày, nếu hai người không làm được sẽ xử theo quân pháp."

Hai người đọc được thư liền cho quân thu dọn bàn rượu. Văn Trác tức tối quát mắng:

- Dẫu gì thì bọn ta cũng đã đuổi được lũ giặc họ Thi đó. Nay không những chẳng được luận công lại trách tội bọn ta. Đây là cái lý lẽ của kẻ làm cấp trên hay sao.

Bình Xuyên vỗ về họ Cao:

- Đúng là trước khi đi hai chúng ta cùng với Liêu tướng quân cùng ký quân lệnh trạng cứu cho bằng được Đỗ tướng quân. Nay đã quá hai tuần, chủ tướng cho viết thư trách phạt cũng là điều dễ hiểu. Còn việc ta đánh đuổi được quân địch hẳn là quân sư có ý khác, trước khi mang binh tới đây, quân sư có ý muốn ta không nên đánh vào quân lính Tống Bình mà đợi khi quân châu Phong rút mới ra tay hành xử. Nay ta cứ vờ như quân tình bị chia rẽ, anh hãy mang năm nghìn binh về phía bắc, ta mang số binh còn lại xuôi về nam để nhận tội.

Văn Trác phản đối quyết liệt lời của Bình Xuyên :

- Không thể như thế được. Ta đi đánh trận đâu có thể thấy địch tới mà giương mắt lên nhìn hay là tháo chạy. Nay lại bắt ta đầu hàng đám lính châu Phong đó. Ta không thể làm được cái điều bất trung bất nghĩa ấy.

- Ta có nói anh về phía bắc là đầu hàng đám quân châu Phong đó. Nay quân ta đã bị chúng phát hiện ra, nếu cứ cố thủ ở đó mà chờ bọn chúng lui qua đó thì sẽ chẳng phải kế hay bởi chúng sẽ chẳng dại gì lui qua chỗ ấy khi trông thấy anh mang quân lính giữ chắc trại ở đó. Nghe lời ta, anh hãy mang binh về bắc, mang theo bức thư này để hợp binh với quân châu Phong, tiện đó xin thêm quân lương của bọn chúng. Ta sẽ về bẩm với chủ tướng, sau khi quân Tống Bình đánh được vào thành Bạch Hạc, anh sẽ được thỏa chí chém giết quân địch.

Nghe lời dỗ dành của Bình Xuyên, Văn Trác cảm thấy mủi lòng cười khoái chí.

Rượu lại mang ra, cầm văn thư ném xuống đất Văn Trác nốc hai hũ rượu lớn, ngà ngà say cho bắt trói Bình Xuyên.

Xuyên gọi tên giám quân thân cận tới nhờ hắn cởi trói cho Xuyên rồi gọi theo hơn hai nghìn binh lính trốn thoát được khỏi doanh trại họ Cao về tới huyện thành huyện Vũ Bình. Đỗ Sĩ Giao trước mặt Chí Liệt trách mắng Bình Xuyên thậm tệ, cho người đánh hai mươi roi, tước bỏ tước đô úy, giáng làm lính hậu cần chuyên lo việc bếp núc.

Đỗ Động khi đó binh tình không có nhiều biến chuyển nên Chí Liệt gửi thư tới Trường Châu hỏi ý tướng phụ. Dương Thanh đáp lời rằng hãy cứ để nguyên tình thế như hiện nay chờ quân Tống Bình dẹp xong châu Phong rồi ra tay cũng chưa muộn.

Dương Chí Liệt cầm lá thư của cha gửi lại đưa cho Đỗ quân sư. Sĩ Giao đang ngồi ngắm cảnh Vũ Bình nhận lá thư liền đem đốt đi, tro bụi bay phấp phới trong chiều thu man mác.

Sĩ Giao nở một nụ cười, nhặt chiếc lá bàng đỏ rơi vào trong lầu gác mà trong tâm tự thấy bình an, lớn tiếng thở dài :

- Cuối cùng thì cái ngày mà ta ngóng đợi bấy lâu cũng đã sắp đến.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top