@Tiểu Hỉ
Ổn định cũng lâu lắm rồi, ko còn bao lâu nữa là đến nữa thập niên.
Mình cũng hy vọng... và qua các năm thì thấy ko khả quan lên là bao.
Hy vọng các vị mới được bổ nhiệm sẽ có những thay đổi để đất nước có cú hit mạnh mẽ.
Nói về việc hàng năm ra các 1 nùi các thông t.ư nghị định... rồi có cái đã áp dụng, nếu dân ko lên tiếng mà cỉ tin tưởng thôi thì cũng ko đủ để có động lực cho các vị ấy phấn đấu. Thiết nghĩ những vị ấy ra một lô lốc các quy định thông t.ư gì đó... mình cũng thật bái phục các vị ấy vì đã nghĩ ra những điều ấy.
Chúng ta hãy thử xem những người láng giềng của chúng ta hiện nay ở Đông Nam Á , họ đã tiến đến đâu ? Quy mô nền kinh tế của mỗi nước ra sao ? GDP đầu người của mỗi nước như thế nào ? Xin cung cấp các số liệu sau để mọi người chiêm nghiệm . ( Xin lưu ý , đây là những số liệu do Ngân hàng thế giới(World Bank) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF, International Monetary Fund) công bố, ngày 13/02/2014 ).Theo đó :
Tổng GDP của từng nước như sau :
- Indonesia với dân số : 250.091.670 người có GDP là : 950 tỷ USD
- Myanma với dân số : 60.003.503 người có GDP là : 36 USD
- Thái Lan với dân số : 66.982.746 người có GDP là : 370 tỷ USD
- Việt Nam với dân số : 90.012.692 người có GDP là : 170 tỷ USD
- Malaysia với dân số : 27.763.309 người có GDP là : 290tỷ USD
- Philippines với dân số : 105.217.391 người có GDP là : 223 tỷ USD
- Lào với dân số : 6.318.284 người có GDP là : 8 tỷ USD
- Campuchia với dân số : 14.154.948 người có GDP là : 16 tỷ USD
- Đông Timor với dân số : 1.114.229 người có GDP là : 0, 980 tỷ USD
- Brunei với dân số : 409.872 người có GDP là : 13 tỷ USD
- Singapore với dân số : 5.009.236 người có GDP là : 293 tỷ USD
GDP bình quân đầu người của các nước trong khu vực như sau :
- Indonesia với : 4.007 USD/người
- Thái Lan với : 6.000 USD/người
- Malaysia với : 11.857 USD/người
- Singapore với : 56.797 USD/người
- Philippines với : 2.200 USD/người
- Việt Nam với : 1.970 USD/người
- Myanma với : 850 USD/người
- Campuchia với : 1.000 USD/người
- Brunei với : 41.004 USD/người
- Lào với : 1.489 USD/người
- Đông Timor với : 982 USD/ người.
và xem cái hình này, sẽ biết được GDP của mình tuy cao nhưng các nước khác từ lâu đạt được rồi.
Đáng nói hơn, theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trong nhóm nước này Việt Nam là nước duy nhất có tỷ lệ nợ công/GDP tiếp tục tăng đến gần 68% GDP vào năm 2020.
Trong khi đó, từ nay đến năm 2020, một số nước như Malaysia, Philippines, Indonesia… được cho là sẽ giảm mạnh nợ công. Ngay như Myanmar, nợ công cũng giảm mạnh từ 2011 đến nay và dự báo chỉ tăng nhẹ trong các năm tiếp theo.
Về mức thâm hụt ngân sách nhà nước, so với một số nước trong khu vực, Việt Nam có mức thâm hụt lớn hơn khá nhiều.
Cụ thể, theo cách tính của IMF – Triển vọng kinh tế thế giới (WEO), năm 2015, thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam lên tới 6,9% GDP. Trong khi đó, của Thái Lan là 1,2% GDP, của Indonesia là 2,3% GDP, của Philippines là 0,12% GDP và của Campuchia là 2% GDP .
Không có một ngưỡng an toàn chung về nợ công cho mọi quốc gia. Nhật Bản nợ công 200% GDP nhưng chưa đáng lo nhưng Việt Nam tỷ lệ 62% đã được cảnh báo nguy cơ. Điều quan trọng là hiệu quả sử dụng đồng tiền đi vay
Giải thích điều này, ông Sandeep Mahajan - Chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại buổi Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương nói, vấn đề nằm ở chỗ, “chúng ta tiếp cận các nguồn vốn như thế nào, rồi kỳ hạn trong danh mục như thế nào. Trong trường hợp Việt Nam, kỳ hạn là vấn đề. Nợ trong nước có kỳ hạn ngày càng ngắn lại. Nó đang tạo ra áp lực lớn”.
Trong báo cáo Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp cuối cùng Quốc hội khóa XIII hồi cuối tháng 3/2016, Chính phủ xác nhận nợ Chính phủ đã vượt mức 50%. Chính phủ cũng nêu rõ nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn.
Gần đây, đại diện Cục quản lý nợ và tài chính quốc tế thuộc Bộ Tài chính cho biết, nợ công sẽ phải trả sớm hơn với lãi suất cao hơn. Vào năm 2017, Việt Nam không còn được vay theo điều kiện ODA từ WB và cũng chưa đầy 3 năm sau, ADB cũng sẽ chấm dứt ODA ưu đãi với Việt Nam giống như WB. Việt Nam sẽ không còn được vay vay ưu đãi khác từ ADB vào năm 2019.
Và đây là bài báo cuối năm:
Nợ công mỗi năm tăng 8 tỷ USD, dân gánh 1.000 USD/người
Nợ công của VN hiện chiếm 46% GDP, tăng 9,6% so với năm trước.
Việc các thế hệ tiếp theo, và tất nhiên là cả hiện tại, phải trả nợ là chuyện tất yếu. Và trả nợ bằng cách nào, chắc mọi người cũng hiểu.
Hy vọng các vị sẽ có những quyết định giúp đất nước trở mình.
Ổn định cũng lâu lắm rồi, ko còn bao lâu nữa là đến nữa thập niên.
Mình cũng hy vọng... và qua các năm thì thấy ko khả quan lên là bao.
Hy vọng các vị mới được bổ nhiệm sẽ có những thay đổi để đất nước có cú hit mạnh mẽ.
Nói về việc hàng năm ra các 1 nùi các thông t.ư nghị định... rồi có cái đã áp dụng, nếu dân ko lên tiếng mà cỉ tin tưởng thôi thì cũng ko đủ để có động lực cho các vị ấy phấn đấu. Thiết nghĩ những vị ấy ra một lô lốc các quy định thông t.ư gì đó... mình cũng thật bái phục các vị ấy vì đã nghĩ ra những điều ấy.

Chúng ta hãy thử xem những người láng giềng của chúng ta hiện nay ở Đông Nam Á , họ đã tiến đến đâu ? Quy mô nền kinh tế của mỗi nước ra sao ? GDP đầu người của mỗi nước như thế nào ? Xin cung cấp các số liệu sau để mọi người chiêm nghiệm . ( Xin lưu ý , đây là những số liệu do Ngân hàng thế giới(World Bank) và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF, International Monetary Fund) công bố, ngày 13/02/2014 ).Theo đó :
Tổng GDP của từng nước như sau :
- Indonesia với dân số : 250.091.670 người có GDP là : 950 tỷ USD
- Myanma với dân số : 60.003.503 người có GDP là : 36 USD
- Thái Lan với dân số : 66.982.746 người có GDP là : 370 tỷ USD
- Việt Nam với dân số : 90.012.692 người có GDP là : 170 tỷ USD
- Malaysia với dân số : 27.763.309 người có GDP là : 290tỷ USD
- Philippines với dân số : 105.217.391 người có GDP là : 223 tỷ USD
- Lào với dân số : 6.318.284 người có GDP là : 8 tỷ USD
- Campuchia với dân số : 14.154.948 người có GDP là : 16 tỷ USD
- Đông Timor với dân số : 1.114.229 người có GDP là : 0, 980 tỷ USD
- Brunei với dân số : 409.872 người có GDP là : 13 tỷ USD
- Singapore với dân số : 5.009.236 người có GDP là : 293 tỷ USD
GDP bình quân đầu người của các nước trong khu vực như sau :
- Indonesia với : 4.007 USD/người
- Thái Lan với : 6.000 USD/người
- Malaysia với : 11.857 USD/người
- Singapore với : 56.797 USD/người
- Philippines với : 2.200 USD/người
- Việt Nam với : 1.970 USD/người
- Myanma với : 850 USD/người
- Campuchia với : 1.000 USD/người
- Brunei với : 41.004 USD/người
- Lào với : 1.489 USD/người
- Đông Timor với : 982 USD/ người.
và xem cái hình này, sẽ biết được GDP của mình tuy cao nhưng các nước khác từ lâu đạt được rồi.

Bài báo này được viết cuối tháng 4
Kỷ cương ngân sách Nhà nước là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô nổi bật, theo báo cáo kinh tế vĩ mô quý 1/2016 do TS. Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Tầng lớp trung tâm (CIEM) - chủ trì, được công bố mới đây.
Lo nghĩa vụ trả nợ công
Nhận định đầu tiên được đưa ra ở phần này là sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà nước những năm gần đây có mức thâm hụt ngày càng tăng.
Về giá trị tuyệt đối, báo cáo nêu rõ, bội chi tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030.
Theo báo cáo, do bội chi tăng cao, nợ công cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2015, từ mức 50,1% GDP lên 62,2% GDP, tiệm cận giới hạn 65% theo quy định của Luật Quản lý nợ công. Năm 2015 cũng là năm dư nợ Chính phủ đạt 50,3%, cao hơn giới hạn 50% theo quy định.
Nếu tính theo thông lệ quốc tế, nợ công Việt Nam còn cao hơn nhiều, vì không tính đến nợ của doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức công khác, báo cáo đưa thêm lưu ý.
Dẫn số liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các tác giả nhấn mạnh, Việt Nam có mức nợ công/GDP cao hơn hẳn các nước trong ASEAN, gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước có mức nợ công/GDP đứng sau Việt Nam.
Quan trọng hơn, theo dự báo của IMF, trong nhóm nước này, Việt Nam là nước duy nhất có nợ công/GDP tiếp tục tăng đến gần 68% GDP năm 2020.
Điều đáng lo ngại, là nghĩa vụ trả nợ công đang tăng lên nhanh chóng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng từ 185,8 nghìn tỷ đồng năm 2013 lên 296,2 nghìn tỷ đồng năm 2015.
Nếu tính cả nợ bảo lãnh Chính phủ, nợ chính quyền địa phương, con số nghĩa vụ nợ còn lớn hơn rất nhiều, dự kiến năm 2015 là 418,4 nghìn tỷ đồng.
Lo ngại tiếp theo được nêu ra là do tốc độ tăng nghĩa vụ nợ rất nhanh, tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên thu ngân sách cũng tăng nhanh. Nếu chỉ tính riêng nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ này là 22,4% năm 2013, tăng lên mức 29,9% năm 2015.
Nguyên nhân của tình trạng trên, theo nhóm nghiên cứu là do giai đoạn 2010-2012, Chính phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu bằng trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm.
Và, đây sẽ là áp lực rất lớn đối với chi ngân sách, nếu phát hành trái phiếu Chính phủ không đạt mục tiêu đề ra. Mà, với một thị trường tài chính non trẻ, thiếu ổn định, phát hành trái phiếu kỳ hạn dài không phải là dễ dàng.
Phần lớn nhà đầu t.ư mua trái phiếu Chính phủ là ngân hàng thương mại và họ thường có vốn ngắn hạn là chủ yếu do kỳ hạn tiền người của người dân ngắn. Các tổ chức tài chính khác như bảo hiểm hay ngân hàng đầu t.ư ở Việt Nam vẫn chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ.
“Như vậy, rủi ro kỳ hạn và mất khả năng thanh toán tạm thời có thể xảy ra. Đó có thể là lý do khiến Bộ Tài chính phải vay Ngân hàng Nhà nước 30.000 tỷ đồng và phát hành 1 tỷ USD trái phiếu riêng cho Vietcombank trong năm 2015”, nhóm tác giả phân tích.
Vay để bù đắp chi tăng lên
TS. Nguyễn Đình Cung và các tác giả bản báo cáo cũng chỉ ra một điểm đáng lưu ý trong điều hành ngân sách của Chính phủ những năm gần đây, là chi đầu t.ư ngày càng giảm, chi thường xuyên và chi khác tăng lên.
Trong giai đoạn 2007-2013, chi đầu t.ư chiếm tỷ trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%. Tuy nhiên, trong hai năm 2014-2015, chi đầu t.ư chỉ còn 16,3% và 15,6% GDP.
“Là một nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình thấp, đầu t.ư công là rất quan trọng để tạo nền tảng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ chi đầu t.ư thấp như vậy là một điều đang lo ngại mặc dù tổng đầu t.ư toàn xã hội năm 2015 vẫn đạt 32,6%, tăng 12% so với năm 2014, do đầu t.ư FDI và đầu t.ư t.ư nhân trong nước tăng cao”, báo cáo nêu rõ.
Đối chiếu với luật hiện hành, các tác giả cho biết, Luật Quản lý nợ quy định, Chính phủ vay nợ trước tiên là để đầu t.ư phát triển, sau đó là bù đắp thiếu hụt tạm thời và các mục tiêu khác.
Tuy nhiên, số liệu ngân sách những năm gần đây cho thấy, việc vay nợ nhằm bù đắp chi thường xuyên ngày càng tăng lên.
Trong giai đoạn 2007-2011, bội chi thấp hơn khá nhiều so với chi đầu t.ư, tức là thu ngân sách lớn hơn chi thường xuyên, chi trả nợ và có một phần cho đầu t.ư. Từ năm 2012, khoảng cách giữa bội chi và chi đầu t.ư ngày càng nhỏ lại và đến năm 2015 bội chi đã vượt xa chi đầu t.ư, tức là Chính phủ phải vay nợ khoảng 60 nghìn tỷ đồng để bù đắp chi thường xuyên và trả nợ.
Điều này đi ngược lại quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, trong đó quy định “trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu t.ư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách Nhà nước”, tác giả báo cáo lập luận.
Kỷ cương ngân sách Nhà nước là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô nổi bật, theo báo cáo kinh tế vĩ mô quý 1/2016 do TS. Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Tầng lớp trung tâm (CIEM) - chủ trì, được công bố mới đây.
Lo nghĩa vụ trả nợ công
Nhận định đầu tiên được đưa ra ở phần này là sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà nước những năm gần đây có mức thâm hụt ngày càng tăng.
Về giá trị tuyệt đối, báo cáo nêu rõ, bội chi tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030.
Theo báo cáo, do bội chi tăng cao, nợ công cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2015, từ mức 50,1% GDP lên 62,2% GDP, tiệm cận giới hạn 65% theo quy định của Luật Quản lý nợ công. Năm 2015 cũng là năm dư nợ Chính phủ đạt 50,3%, cao hơn giới hạn 50% theo quy định.
Nếu tính theo thông lệ quốc tế, nợ công Việt Nam còn cao hơn nhiều, vì không tính đến nợ của doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức công khác, báo cáo đưa thêm lưu ý.
Dẫn số liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các tác giả nhấn mạnh, Việt Nam có mức nợ công/GDP cao hơn hẳn các nước trong ASEAN, gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước có mức nợ công/GDP đứng sau Việt Nam.
Quan trọng hơn, theo dự báo của IMF, trong nhóm nước này, Việt Nam là nước duy nhất có nợ công/GDP tiếp tục tăng đến gần 68% GDP năm 2020.
Điều đáng lo ngại, là nghĩa vụ trả nợ công đang tăng lên nhanh chóng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng từ 185,8 nghìn tỷ đồng năm 2013 lên 296,2 nghìn tỷ đồng năm 2015.
Nếu tính cả nợ bảo lãnh Chính phủ, nợ chính quyền địa phương, con số nghĩa vụ nợ còn lớn hơn rất nhiều, dự kiến năm 2015 là 418,4 nghìn tỷ đồng.
Lo ngại tiếp theo được nêu ra là do tốc độ tăng nghĩa vụ nợ rất nhanh, tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên thu ngân sách cũng tăng nhanh. Nếu chỉ tính riêng nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ này là 22,4% năm 2013, tăng lên mức 29,9% năm 2015.
Nguyên nhân của tình trạng trên, theo nhóm nghiên cứu là do giai đoạn 2010-2012, Chính phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu bằng trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm.
Và, đây sẽ là áp lực rất lớn đối với chi ngân sách, nếu phát hành trái phiếu Chính phủ không đạt mục tiêu đề ra. Mà, với một thị trường tài chính non trẻ, thiếu ổn định, phát hành trái phiếu kỳ hạn dài không phải là dễ dàng.
Phần lớn nhà đầu t.ư mua trái phiếu Chính phủ là ngân hàng thương mại và họ thường có vốn ngắn hạn là chủ yếu do kỳ hạn tiền người của người dân ngắn. Các tổ chức tài chính khác như bảo hiểm hay ngân hàng đầu t.ư ở Việt Nam vẫn chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ.
“Như vậy, rủi ro kỳ hạn và mất khả năng thanh toán tạm thời có thể xảy ra. Đó có thể là lý do khiến Bộ Tài chính phải vay Ngân hàng Nhà nước 30.000 tỷ đồng và phát hành 1 tỷ USD trái phiếu riêng cho Vietcombank trong năm 2015”, nhóm tác giả phân tích.
Vay để bù đắp chi tăng lên
TS. Nguyễn Đình Cung và các tác giả bản báo cáo cũng chỉ ra một điểm đáng lưu ý trong điều hành ngân sách của Chính phủ những năm gần đây, là chi đầu t.ư ngày càng giảm, chi thường xuyên và chi khác tăng lên.
Trong giai đoạn 2007-2013, chi đầu t.ư chiếm tỷ trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%. Tuy nhiên, trong hai năm 2014-2015, chi đầu t.ư chỉ còn 16,3% và 15,6% GDP.
“Là một nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình thấp, đầu t.ư công là rất quan trọng để tạo nền tảng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ chi đầu t.ư thấp như vậy là một điều đang lo ngại mặc dù tổng đầu t.ư toàn xã hội năm 2015 vẫn đạt 32,6%, tăng 12% so với năm 2014, do đầu t.ư FDI và đầu t.ư t.ư nhân trong nước tăng cao”, báo cáo nêu rõ.
Đối chiếu với luật hiện hành, các tác giả cho biết, Luật Quản lý nợ quy định, Chính phủ vay nợ trước tiên là để đầu t.ư phát triển, sau đó là bù đắp thiếu hụt tạm thời và các mục tiêu khác.
Tuy nhiên, số liệu ngân sách những năm gần đây cho thấy, việc vay nợ nhằm bù đắp chi thường xuyên ngày càng tăng lên.
Trong giai đoạn 2007-2011, bội chi thấp hơn khá nhiều so với chi đầu t.ư, tức là thu ngân sách lớn hơn chi thường xuyên, chi trả nợ và có một phần cho đầu t.ư. Từ năm 2012, khoảng cách giữa bội chi và chi đầu t.ư ngày càng nhỏ lại và đến năm 2015 bội chi đã vượt xa chi đầu t.ư, tức là Chính phủ phải vay nợ khoảng 60 nghìn tỷ đồng để bù đắp chi thường xuyên và trả nợ.
Điều này đi ngược lại quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, trong đó quy định “trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu t.ư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách Nhà nước”, tác giả báo cáo lập luận.
Trong khi đó, từ nay đến năm 2020, một số nước như Malaysia, Philippines, Indonesia… được cho là sẽ giảm mạnh nợ công. Ngay như Myanmar, nợ công cũng giảm mạnh từ 2011 đến nay và dự báo chỉ tăng nhẹ trong các năm tiếp theo.
Về mức thâm hụt ngân sách nhà nước, so với một số nước trong khu vực, Việt Nam có mức thâm hụt lớn hơn khá nhiều.
Cụ thể, theo cách tính của IMF – Triển vọng kinh tế thế giới (WEO), năm 2015, thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam lên tới 6,9% GDP. Trong khi đó, của Thái Lan là 1,2% GDP, của Indonesia là 2,3% GDP, của Philippines là 0,12% GDP và của Campuchia là 2% GDP .
Không có một ngưỡng an toàn chung về nợ công cho mọi quốc gia. Nhật Bản nợ công 200% GDP nhưng chưa đáng lo nhưng Việt Nam tỷ lệ 62% đã được cảnh báo nguy cơ. Điều quan trọng là hiệu quả sử dụng đồng tiền đi vay
Giải thích điều này, ông Sandeep Mahajan - Chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại buổi Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương nói, vấn đề nằm ở chỗ, “chúng ta tiếp cận các nguồn vốn như thế nào, rồi kỳ hạn trong danh mục như thế nào. Trong trường hợp Việt Nam, kỳ hạn là vấn đề. Nợ trong nước có kỳ hạn ngày càng ngắn lại. Nó đang tạo ra áp lực lớn”.
Trong báo cáo Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp cuối cùng Quốc hội khóa XIII hồi cuối tháng 3/2016, Chính phủ xác nhận nợ Chính phủ đã vượt mức 50%. Chính phủ cũng nêu rõ nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn.
Gần đây, đại diện Cục quản lý nợ và tài chính quốc tế thuộc Bộ Tài chính cho biết, nợ công sẽ phải trả sớm hơn với lãi suất cao hơn. Vào năm 2017, Việt Nam không còn được vay theo điều kiện ODA từ WB và cũng chưa đầy 3 năm sau, ADB cũng sẽ chấm dứt ODA ưu đãi với Việt Nam giống như WB. Việt Nam sẽ không còn được vay vay ưu đãi khác từ ADB vào năm 2019.
Nợ công, điều nguy hiểm hơn mọi ngưỡng cảnh báo
12/04/2016 03:00 GMT+7
Không có một ngưỡng an toàn chung về nợ công cho mọi quốc gia. Nhật Bản nợ công 200% GDP nhưng chưa đáng lo nhưng Việt Nam tỷ lệ 62% đã được cảnh báo nguy cơ. Điều quan trọng là hiệu quả sử dụng đồng tiền đi vay
Nợ công đe dọa thành tích tăng trưởng
Nợ công mỗi năm tăng 8 tỷ USD, dân gánh 1.000 USD/người
Nợ công tăng chóng mặt, gần 60% GDP
Vay 5 tỷ USD/năm: Nợ công sắp chạm trần, không thể dừng lại
Những cảnh báo
Sau lời nhận xét lạc quan "Việt Nam có khả năng 100% trả hết nợ công", ông Sandeep Mahajan - Chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại buổi Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương hôm 11/4 đã nhắc lại một cảnh báo cho Việt Nam.
Theo đó, tại Việt Nam nợ công từ mức khoảng 50% GDP hồi 2011-2012, theo báo cáo của Chính phủ, kết thúc 2015 đã lên tới khoảng 62,2% GDP, tiến sát trần 65% Quốc hội cho phép. Trong đó, nợ Chính phủ đã vượt ngưỡng cho phép 50% GDP; nợ nước ngoài trên 43%.
Cách thức sử tiếp cận và hiệu quả sử dụng quyết định chất lượng nợ công.
Trong khi đó, báo cáo hồi đầu tháng 3/2016 tới UBTV Quốc hội, Bộ Tài chính cho biết, nếu cứ tâm lý trông chờ vào Nhà nước thì nợ công sẽ vượt trần và nợ công tăng nhanh chủ yếu do phát hành trái phiếu Chính phủ tăng mạnh (tăng 3,5 lần trong 2015).
Chuyên gia Sandeep cho rằng, không có con số nào cụ thể áp dụng cho tất cả các nước. Tỷ lệ nợ công của Nhật là trên 200% GDP (cao nhất thế giới) nhưng vẫn được cho không có vấn đề gì. Tuy nhiên, có những nước nợ 50% GDP thì đã khó khăn vật lộn rồi.
Giải thích điều này, ông Sandeep Mahajan nói, vấn đề nằm ở chỗ, “chúng ta tiếp cận các nguồn vốn như thế nào, rồi kỳ hạn trong danh mục như thế nào. Trong trường hợp Việt Nam, kỳ hạn là vấn đề. Nợ trong nước có kỳ hạn ngày càng ngắn lại. Nó đang tạo ra áp lực lớn”.
Cụ thể hơn, ông Sandeep phân tích, rủi ro không hẳn là mức trả lãi bao nhiêu phần trăm tổng thu ngân sách, bao nhiêu phần trăm GDP. Rủi ro của Việt Nam sẽ tăng lên ở tầm nhìn trung hạn. Nó liên quan tới sự suy giảm các khoản chi tạo ra năng suất hoặc đầu t.ư vào các lĩnh vực quan trọng như giáo dục và y tế. Nợ nhiều khiến khả năng chi tiêu cho các lĩnh vực này thấp. Dư địa không có nhiều để chi đầu t.ư nhiều hơn cho thúc đẩy tăng trưởng.
Cảnh báo này rất sát với thực tế Việt Nam. Cụ thể, theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu t.ư, nghĩa vụ chi trả nợ đang ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh. Trong khi đó, chi cho đầu t.ư phát triển từ NSNN năm 2014 -2015 chỉ ở mức 17% -18%/năm. Cho dù trên thực tế điều hành, có bổ sung thêm từ nguồn dự phòng NSNN, cao nhất cũng chỉ đạt 20%/năm.
Chuyên gia Lê Đăng Doanh từng nhấn mạnh, tình hình nợ công sẽ nguy hiểm hơn nếu ngân sách đi vay để tiêu dùng. Đó là chính sách vay nợ không bền vững. Nếu vay cho mục đích đầu t.ư sẽ sản sinh ra sản phẩm mới, đóng góp vào GDP, từ đây có tiền thuế để trả nợ. Nhưng nếu vay tiêu dùng thì các khoản vay đó sẽ mất đi.
Chính vì thế, Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch đã từng ví von, đi vay là phải vay tiền “cái” mới đẻ được, nhưng ta vay thì lại vay tiền “đực”, không đẻ được. Ý ông Lịch muốn nói đã đi vay, thì phải sử dụng số tiền này đầu t.ư đem lại hiệu quả.
Địa dư chính sách hạn hẹp
Báo cáo Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới - World Bank (WB) bất ngờ giảm dự báo tăng trưởng Việt Nam năm 2016 xuống 6,2%, từ mức 6,6% trước đó vài tháng.
Nhiều lý do được đưa ra, trong đó hạn hán ở Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long... đã được nhấn mạnh là một nhân tố tác động bất lợi cho tăng trưởng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Số liệu Tổng cục Thống kê cũng cho thấy tăng trưởng GDP quý I năm 2016 chỉ đạt 5,46%. Mức tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với mức 6,12% của quý I/2015. Trong đó, các yếu tố thiên tai, giá rét ở miền Bắc, hạn hán ở miền Trung, Tây Nguyên và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt ngành nông nghiệp, công nghiệp và xuất nhập khẩu những tháng đầu năm 2016. Điều này khiến cho mục tiêu tăng trưởng 6,7% của năm nay bị đe dọa.
Nguồn lực hạn hẹp nhưng Việt Nam lại luôn gặp bất lợi từ thiên tai và thị trường quốc tế.
Con số dự báo tăng trưởng 6,2% mới nhất cùng không hẳn là quá tệ vì đây vẫn là mức sáng sủa so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực. Tuy nhiên, điều mà ông Sudhir Shetty - Chuyên gia kinh tế trưởng, khu vực Đông Á Thái Bình Dương của WB thực sự lo ngại đối với Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển trong khu vực là: không gian hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô còn quá ít.
Trước đó, tại một diễn đàn do Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (NFSC) tổ chức hồi giữa tháng 3/2016, PGS.TS Trần Đình Thiên thậm chí còn cho rằng, ngân sách 2016 thực sự gay go. TS. Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch NFSC cũng lo ngại về tín hiệu tăng trưởng không bền vững trong năm 2015 với bội chi ngân sách tăng và nợ công tăng nhanh.
Phó chủ tịch NFSC Trương Văn Phước thì cho rằng, cân đối ngân sách năm nào cũng khó khăn, không chỉ 2015, nhưng trong các năm trước, khoảng trống trần nợ công còn, nay trần nợ công gần như chạm ngưỡng 65%. Đây cũng là vấn đề của năm 2016.
Nhiều chuyên gia chia sẻ, nhu cầu cho đầu t.ư phát triển duy trì tăng trưởng để tránh tụt hậu là khá lớn trong khi dư địa cho đầu t.ư phát triển hạn hẹp. Nguồn lực tài chính quốc gia hạn chế là thách thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong 2016 mà cả giai đoạn tới. Điều này khiến cho khả năng xoay xở chính sách ngày càng hạn chế và áp lực hơn cho người điều hành.
Trong báo cáo Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp cuối cùng Quốc hội khóa XIII hồi cuối tháng 3/2016, Chính phủ xác nhận nợ Chính phủ đã vượt mức 50%. Chính phủ cũng nêu rõ nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn.
Gần đây, đại diện Cục quản lý nợ và tài chính quốc tế thuộc Bộ Tài chính cho biết, nợ công sẽ phải trả sớm hơn với lãi suất cao hơn. Vào năm 2017, Việt Nam không còn được vay theo điều kiện ODA từ WB và cũng chưa đầy 3 năm sau, ADB cũng sẽ chấm dứt ODA ưu đãi với Việt Nam giống như WB. Việt Nam sẽ không còn được vay vay ưu đãi khác từ ADB vào năm 2019.
12/04/2016 03:00 GMT+7

Nợ công đe dọa thành tích tăng trưởng
Nợ công mỗi năm tăng 8 tỷ USD, dân gánh 1.000 USD/người
Nợ công tăng chóng mặt, gần 60% GDP
Vay 5 tỷ USD/năm: Nợ công sắp chạm trần, không thể dừng lại
Những cảnh báo
Sau lời nhận xét lạc quan "Việt Nam có khả năng 100% trả hết nợ công", ông Sandeep Mahajan - Chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại buổi Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương hôm 11/4 đã nhắc lại một cảnh báo cho Việt Nam.
Theo đó, tại Việt Nam nợ công từ mức khoảng 50% GDP hồi 2011-2012, theo báo cáo của Chính phủ, kết thúc 2015 đã lên tới khoảng 62,2% GDP, tiến sát trần 65% Quốc hội cho phép. Trong đó, nợ Chính phủ đã vượt ngưỡng cho phép 50% GDP; nợ nước ngoài trên 43%.

Cách thức sử tiếp cận và hiệu quả sử dụng quyết định chất lượng nợ công.
Trong khi đó, báo cáo hồi đầu tháng 3/2016 tới UBTV Quốc hội, Bộ Tài chính cho biết, nếu cứ tâm lý trông chờ vào Nhà nước thì nợ công sẽ vượt trần và nợ công tăng nhanh chủ yếu do phát hành trái phiếu Chính phủ tăng mạnh (tăng 3,5 lần trong 2015).
Chuyên gia Sandeep cho rằng, không có con số nào cụ thể áp dụng cho tất cả các nước. Tỷ lệ nợ công của Nhật là trên 200% GDP (cao nhất thế giới) nhưng vẫn được cho không có vấn đề gì. Tuy nhiên, có những nước nợ 50% GDP thì đã khó khăn vật lộn rồi.
Giải thích điều này, ông Sandeep Mahajan nói, vấn đề nằm ở chỗ, “chúng ta tiếp cận các nguồn vốn như thế nào, rồi kỳ hạn trong danh mục như thế nào. Trong trường hợp Việt Nam, kỳ hạn là vấn đề. Nợ trong nước có kỳ hạn ngày càng ngắn lại. Nó đang tạo ra áp lực lớn”.
Cụ thể hơn, ông Sandeep phân tích, rủi ro không hẳn là mức trả lãi bao nhiêu phần trăm tổng thu ngân sách, bao nhiêu phần trăm GDP. Rủi ro của Việt Nam sẽ tăng lên ở tầm nhìn trung hạn. Nó liên quan tới sự suy giảm các khoản chi tạo ra năng suất hoặc đầu t.ư vào các lĩnh vực quan trọng như giáo dục và y tế. Nợ nhiều khiến khả năng chi tiêu cho các lĩnh vực này thấp. Dư địa không có nhiều để chi đầu t.ư nhiều hơn cho thúc đẩy tăng trưởng.
Cảnh báo này rất sát với thực tế Việt Nam. Cụ thể, theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu t.ư, nghĩa vụ chi trả nợ đang ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh. Trong khi đó, chi cho đầu t.ư phát triển từ NSNN năm 2014 -2015 chỉ ở mức 17% -18%/năm. Cho dù trên thực tế điều hành, có bổ sung thêm từ nguồn dự phòng NSNN, cao nhất cũng chỉ đạt 20%/năm.
Chuyên gia Lê Đăng Doanh từng nhấn mạnh, tình hình nợ công sẽ nguy hiểm hơn nếu ngân sách đi vay để tiêu dùng. Đó là chính sách vay nợ không bền vững. Nếu vay cho mục đích đầu t.ư sẽ sản sinh ra sản phẩm mới, đóng góp vào GDP, từ đây có tiền thuế để trả nợ. Nhưng nếu vay tiêu dùng thì các khoản vay đó sẽ mất đi.
Chính vì thế, Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch đã từng ví von, đi vay là phải vay tiền “cái” mới đẻ được, nhưng ta vay thì lại vay tiền “đực”, không đẻ được. Ý ông Lịch muốn nói đã đi vay, thì phải sử dụng số tiền này đầu t.ư đem lại hiệu quả.
Địa dư chính sách hạn hẹp
Báo cáo Cập nhật Kinh tế Đông Á Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới - World Bank (WB) bất ngờ giảm dự báo tăng trưởng Việt Nam năm 2016 xuống 6,2%, từ mức 6,6% trước đó vài tháng.
Nhiều lý do được đưa ra, trong đó hạn hán ở Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long... đã được nhấn mạnh là một nhân tố tác động bất lợi cho tăng trưởng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Số liệu Tổng cục Thống kê cũng cho thấy tăng trưởng GDP quý I năm 2016 chỉ đạt 5,46%. Mức tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với mức 6,12% của quý I/2015. Trong đó, các yếu tố thiên tai, giá rét ở miền Bắc, hạn hán ở miền Trung, Tây Nguyên và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt ngành nông nghiệp, công nghiệp và xuất nhập khẩu những tháng đầu năm 2016. Điều này khiến cho mục tiêu tăng trưởng 6,7% của năm nay bị đe dọa.

Nguồn lực hạn hẹp nhưng Việt Nam lại luôn gặp bất lợi từ thiên tai và thị trường quốc tế.
Con số dự báo tăng trưởng 6,2% mới nhất cùng không hẳn là quá tệ vì đây vẫn là mức sáng sủa so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực. Tuy nhiên, điều mà ông Sudhir Shetty - Chuyên gia kinh tế trưởng, khu vực Đông Á Thái Bình Dương của WB thực sự lo ngại đối với Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển trong khu vực là: không gian hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô còn quá ít.
Trước đó, tại một diễn đàn do Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (NFSC) tổ chức hồi giữa tháng 3/2016, PGS.TS Trần Đình Thiên thậm chí còn cho rằng, ngân sách 2016 thực sự gay go. TS. Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch NFSC cũng lo ngại về tín hiệu tăng trưởng không bền vững trong năm 2015 với bội chi ngân sách tăng và nợ công tăng nhanh.
Phó chủ tịch NFSC Trương Văn Phước thì cho rằng, cân đối ngân sách năm nào cũng khó khăn, không chỉ 2015, nhưng trong các năm trước, khoảng trống trần nợ công còn, nay trần nợ công gần như chạm ngưỡng 65%. Đây cũng là vấn đề của năm 2016.
Nhiều chuyên gia chia sẻ, nhu cầu cho đầu t.ư phát triển duy trì tăng trưởng để tránh tụt hậu là khá lớn trong khi dư địa cho đầu t.ư phát triển hạn hẹp. Nguồn lực tài chính quốc gia hạn chế là thách thức lớn cho Việt Nam không chỉ trong 2016 mà cả giai đoạn tới. Điều này khiến cho khả năng xoay xở chính sách ngày càng hạn chế và áp lực hơn cho người điều hành.
Trong báo cáo Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp cuối cùng Quốc hội khóa XIII hồi cuối tháng 3/2016, Chính phủ xác nhận nợ Chính phủ đã vượt mức 50%. Chính phủ cũng nêu rõ nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn.
Gần đây, đại diện Cục quản lý nợ và tài chính quốc tế thuộc Bộ Tài chính cho biết, nợ công sẽ phải trả sớm hơn với lãi suất cao hơn. Vào năm 2017, Việt Nam không còn được vay theo điều kiện ODA từ WB và cũng chưa đầy 3 năm sau, ADB cũng sẽ chấm dứt ODA ưu đãi với Việt Nam giống như WB. Việt Nam sẽ không còn được vay vay ưu đãi khác từ ADB vào năm 2019.
Và đây là bài báo cuối năm:
Nợ công mỗi năm tăng 8 tỷ USD, dân gánh 1.000 USD/người
Nợ công của VN hiện chiếm 46% GDP, tăng 9,6% so với năm trước.
Việc các thế hệ tiếp theo, và tất nhiên là cả hiện tại, phải trả nợ là chuyện tất yếu. Và trả nợ bằng cách nào, chắc mọi người cũng hiểu.
Hy vọng các vị sẽ có những quyết định giúp đất nước trở mình.