Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 69: Phát hiện lớn
Chương 69: Phát hiện lớn
Dân gian có câu “Ông trời rất công bằng, Người đã ban cho ai đó một cái gì thì cũng lấy đi của anh ta một cái khác”. Nghe có vẻ rất tâm linh nhưng bao đời nay, câu nói trên dường như vô cùng linh nghiệm. Có rất nhiều người vốn được xem là thiên tài kinh doanh, họ nổi tiếng giàu có, ấy là trời cho. Thế nhưng, không ít người trong số họ lại sống trong thiếu thốn tình cảm hay bệnh tật triền miên.

Ngay cả như Toản. Anh là một người có tài, lại có tâm với đất nước. Những gì mà Việt Nam đạt được hôm nay sẽ là hiện thực hay chăng nếu như không có sự xuất hiện của Toản. Anh đạt được thành công lớn trong mọi mặt và đạt được sự tin yêu đến mù quáng của mọi tầng lớp nhân dân. Ấy thế mà anh lại không còn thời gian cho chính bản thân mình nữa. Nhớ những ngày đầu anh tới thế giới này, thời đại này, cậu bé Toản lúc đó thảnh thơi biết dường nào khi giao lại cho Bộ Chính trị xử lý hết phần lớn công việc, riêng mình thì thảnh thơi nằm trên bãi cỏ trong Ngự hoa viên ngắm nhìn ánh hoàng hôn. Thế mà thú vui ngày ấy nào còn đâu nữa. Theo sự phát triển quá nhanh của đất nước, áp lực công việc đè nặng lên vai anh ngày càng nhiều. Lắm lúc, anh phải làm việc đến tận khuya.

Lại nữa, gần đây, anh lại hay bị những cơn đau nửa đầu hành hạ. Ban đầu, thỉnh thoảng mới bị một lần. Đến hiện tại, tần suất xuất hiện của chứng bệnh này lại càng nhiều. Còn nhớ năm năm trước, tin tức Toản đột quỵ khi đang chuẩn bị cho cuộc Bắc phạt. Mọi người, ngay cả những ai thân cận với anh đều cho rằng đây là một mưu kế nhằm kích người nhà Thanh nhanh chóng tiến công. Bởi lẽ cơn đột quỵ đến rất nhanh và qua đi cũng rất nhanh, lại xảy ra ngay tại thời điểm mấu chốt. Nào ai có ngờ, Toản thật sự bị đột quỵ. Và từ đó đến nay, có nhiều lần anh cảm thấy choáng váng, muốn xỉu. Có lẽ đây là ông trời muốn lấy đi của Toản sức khỏe.

Tuy nhiên, là một người đến từ thời đại mà khoa học công nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt, anh không tin đây là do ông trời. Cách giải thích khoa học nhất chính là do áp lực công việc quá lớn làm thần kinh anh căng thẳng mà thôi. Anh mắc phải hội chứng Stress đó thôi.

Nghiêm trọng nhất, mới mấy ngày gần đây thôi, anh một lần nữa bị đột quỵ. Anh ngất xỉu ngay trên bàn làm việc của mình. May sao, Tiểu Thái ở bên cạnh phát hiện kịp, cho người gọi gấp mấy vị Ngự y. Cũng phải mất mấy tiếng đồng hộ được tích cực cứu chữa, Toản mới hồi tỉnh. Lúc này, một vị quan Ngự y tên Phạm Đông Thảo vô tình nói:

- Bệ hạ à! Ngài phải biết quan tâm đến sức khỏe mình một chút. Bệ hạ nên đi đâu đó thư giãn, giao bớt công việc lại cho mấy vị đại thần. Cứ thế này, khéo Bệ hạ lại giống Tiên đế và Đông Định Vương ngày xưa mất.

- Ý Khanh là sao? Cha và chú trẫm cũng mắc bệnh thế này à? – Toản giật mình kinh hãi.

- Thần không dám võ đoán. Nhưng đúng là Bệ hạ có những triệu chứng giống như các vị ấy. Ngay cả Thái Đức Hoàng đế cũng là như vậy.

- Lẽ nào là thế? Ta chỉ nghe nói cha ta vì lao lực quá độ mà quy tiên, chú ta phẫn uất vì hiểu lầm mà chết. Ngay cả bác ta cũng vì tức quá mà chết. Đâu có ngờ.

- Khởi bẩm Bệ hạ! Việc này thần không dám đoán bừa, chỉ là đúng là Bệ hạ và các vị ấy có cùng triệu chứng. Nếu Bệ hạ muốn biết rõ, xin hãy triệu Ngự y Hồ Đắc Duy lão nhân gia sẽ rõ.

- Vậy Khanh mau mời lão nhân gia cho trẫm. Trẫm muốn biết sự thật.

Đoạn, Ngự y Phạm Đông Thảo lui ra, nhanh chóng đi mời vị Ngự y già hiện đang an dưỡng ở Nha Trang. Khi ông đã rời khỏi, Toản quay sang nói với Tiểu Thái:

- Tiểu Thái à! Trẫm có một dự cảm chẳng lành.

- Tiểu Thịnh! Bệ hạ đừng vội bi quan. Thần tin ông trời có mắt, không để Tiểu Thịnh có việc gì đâu.

Đến bây giờ, Tiểu Thái vẫn gọi Toản là Tiểu Thịnh khi không còn ai khác. Mà đôi khi hai người vẫn xưng hô như thế khi có mặt hai người anh lớn và Hoàng hậu Ngọc Lan. Tình bạn giữa nhà vua trẻ và bề tôi vô cùng khắng khít. Đến nỗi Toản từng nói sẽ gả em gái mình cho Tiểu Thái nếu anh không phải là thái giám. Toản nói:

- Tiểu Thái, cậu không hiểu đâu, ta sơ mình đang mắc phải một căn bệnh khủng khiếp. Đáng sợ hơn là nó có tính di truyền.

- Tiểu Thịnh đừng dọa Tiểu Thái. Thần sợ lắm.
Toản chỉ mỉm cười. Anh biết người bạn của mình quả thật rất lo lắng. Nếu như nói ai là người quan tâm đến anh nhất thì trừ Ngọc Lan ra, anh chàng trước mắt là người thật lòng quan tâm nhất. Anh vỗ vai bạn rồi xua tan không khí trầm mặc này bằng cách rủ Tiểu Thái đến chiếc ao trong Ngự hoa viên câu cá.

Một tuần sau, lão ngự y già Hồ Đắc Duy cũng đến gặp Toản với ba chồng y bạ. Đây là một ông lão có dáng người tầm thước. Những nếp nhăn hằn trên trán cùng chòm râu bạc vẫn không làm bớt đi vẻ hồng hào của khuôn mặt. Dấu hiệu rõ ràng nhất của tuổi già là ông đi lại khá chậm và bị chứng lãng tai. Tuy vậy, đây lại là một ông lão hết sức minh mẫn. Nhìn thấy thần sắc của Toản, ông ta bỗng thấy giật mình. Lão ngự y nhanh chóng hỏi dồn dập:

- Bệ hạ! Gần đây Bệ hạ có hay bị đau nửa đầu không? Bệ hạ còn hay bị khó thở hay không? Có hay bị tức ngực khi hít thở sâu hay không? Khi vận động mạnh thì vẫn bình thường nhưng khi suy nghĩ nhiều lại thấy đau đầu, chóng mặt đúng không?

- Lão ngự y. Trẫm đúng là có những triệu chứng y như vậy. Lão biết trẫm bị bệnh gì hay không?

- Nói thật với Bệ hạ, thần chỉ biết đây là một căn bệnh liên quan đến tim mạch nhưng không biết rõ nó là gì. Chỉ biết Tây Sơn Tam Kiệt năm xưa quả đúng có triệu chứng giống hệt như vậy.

- Lão ngự y, điều lão nói là thật?

- Bẩm! Là thật. Thần có ghi chép lại cẩn thận trong y bạ. Khẩn xin Bệ hạ xem qua.

Không chờ Tiểu Thái đến lấy, Toản nhanh chóng bước lại, nhìn chồng hồ sơ Hồ Đắc Duy để trên bàn. Hồ Đắc Duy rơm rớm nước mắt mà nói:

- Bệ hạ! Lão thần vốn không dám đoán bừa. Chỉ là đất nước này rất cần Bệ hạ. Thần cảm thấy lo.

- Âu cũng là số phận thôi – Toản thoáng thở dài. – Bây giờ cũng chưa biết gì nhiều. Trẫm cũng đã chuẩn bị tâm lý cả rồi. Chỉ mong là trẫm đoán sai và kịp làm một việc nữa thôi.

- Ý Bệ hạ là ngào đã biết đây là bệnh gì à? Xin Bệ hạ mở mắt cho lão già này.

- Lão ngự y xin đừng tự hạ mình như vậy. Chỉ là trước đây trẫm đã từng nghe lão thần tiên Trương Văn Hiến nói trong giấc mơ ngày trước mà thôi. Và căn bệnh này thì chỉ có Tây y thì may ra.

- Bệ hạ! Nếu biết thế thì quá tốt. Thần có quen một vị bác sĩ Tây y rất tài giỏi. Gần đây chúng thần có trao đổi những tâm đắc cùng nhau. Để thần đi mời ông ta đến.

- Vậy thì phiền lão ngự y phải đi một chuyến rồi. Cứ để y bạ lại đây để trẫm xem.

Hồ Đắc Duy đi rồi, Toản bần thần trong chốc lát rồi cầm một quyển y bạ lên xem. Những trang giấy lướt qua để lại trong lòng Toản nhiều suy nghĩ. Ngày còn nhỏ, Toản được ba mình là ông Hồ Sĩ Mạnh kể cho nghe nhiều về nhà Tây Sơn, về người anh hùng áo vải. Đặc biệt, anh thanh niên David Hồ ngày ấy thắc mắc mãi lý do gì mà vua Quang Trung đột ngột rời xa nhân thế, dẫn đến nỗi tiếc hận nghìn thu cho hậu thế.
Phải nói, nhà Tây Sơn có hai bí mật lớn nhất lịch sử. Thứ nhất là bí quyết của việc hành quân thần tốc và bí mật thứ hai chính là cái chết của vị anh hùng áo vải cờ đào. David đã từng đi khá nhiều thư viện chỉ để tìm hiểu về hai bí mật này, đặc biệt là về cái chết của nhà vua.

Có khá nhiều giả thuyết về bí mật thứ hai. Có người nói nhà vua bị đầu độc bằng cách cho vào thức ăn mỗi ngày một ít. Có người còn nói là do chính Thái hậu Lê Ngọc Hân đầu độc. Cũng có người nói ông cũng như Hoàng tử Cảnh, bị chết vì bệnh đậu mùa. Rồi gần nhất, một bài báo lại phân tích rất kỹ dựa trên mẫu xương sọ của nhà vua. Đó là công trình của một vị bác sĩ người Mỹ. Ông nói, không chỉ có vua Quang Trung, mà cả ba anh em nhà Tây Sơn dường như đều chết vì chứng tai biến mạch máu não. Chính việc giải phẫu hộp sọ của ba người đã tố cáo điều đó. Tuy nhiên, bị đầu độc cũng có thể dẫn đến chứng tai biến này. Lại nữa, tại sao cả ba anh em đều bị tai biến? Không ai biết. Bởi vậy, có hai giả thuyết được cho là hợp lý nhất. Thứ nhất là họ bị buộc phải phục dụng một loại chất độc nào đó một cách thụ động từ ngày này sang ngày khác. Thứ hai là cả ba anh em đều mắc một bệnh lý di truyền về tim mạch.

Trong hai giả thuyết kể trên, David tin rằng giả thuyết thứ hai là có lý hơn cả. Bởi đầu độc cả ba người là một việc cực kỳ khó. Nhưng nếu nói giả thuyết thứ hai đáng tin thì cũng khó. Bởi lẽ, nếu họ mắc bệnh tim thì làm sao có thể học võ, lại cưỡi ngựa chinh chiến sa trường được. Suy nghĩ như vậy, anh quyết tâm tìm hiểu tất cả các căn bệnh tim. Đến cuối cùng, anh cũng tìm ra được một căn bệnh có nhiều khả năng nhất, lại là căn bệnh tim hiếm gặp nhất, bệnh “Hẹp van tim”. Bệnh này không ảnh hưởng nhiều đến vận động nếu nhẹ nhưng lại thường đưa đến hội chứng thiếu máu cấp cho các cơ quan.

Vốn dĩ David ngày trước và Quang Toản bây giờ rất lấy làm đắc ý khi tự mình suy luận ra điều này. Song, đó là nói khi người khác bị bệnh. Đằng này lại đến chính mình cũng bị. Vậy thì anh còn lấy gì để tự đắc đây.

Ngẫm nghĩ lại, anh chợt mỉm cười. Anh nghĩ, trước mình có mấy ai tạo dựng được một Việt Nam thần kỳ, chỉ chưa tới hai mươi năm đã tạo nên tiếng vang chấn động toàn cầu. Âu như thế cũng đáng tự hào, cũng an ủi đôi phần. Anh chỉ còn một nguyện ước nữa cùng với nỗi lo cho thế hệ sau. Đây là căn bệnh di truyền, chẳng may con hay cháu mình cũng mắc phải thì biết làm sao đây? Về căn bệnh này, cũng phải đến cuối thế kỷ hai mươi, người ta mới tìm hiểu được căn nguyên và có hướng điều trị tích cực. Giờ đây mình đã biết rõ, chỉ cần phẫu thuật nong van là khỏi. Nhưng y học ngày nay chưa thể làm được. Thôi thì mình nên định hướng trước cho mấy vị bác sĩ nghiên cứu, biết đâu chỉ mấy mươi năm, thậm chí mấy năm nữa, lại có bác sĩ nghiên cứu được cách chữa thì sao. Đó chính là lý do Toản không ngăn cản lão ngự y Hồ Đắc Duy mời bạn của ông đến.

Chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau, lão ngự y Hồ Đắc Duy dẫn theo một người Anh Cát Lợi. Ông ta nói:

- Bệ hạ! Đây là bác sĩ Robert Darwin, bác sĩ người Anh Cát Lợi.

“Robert Darwin? Cái tên này không có nổi tiếng nhưng mà mình nghe ở đâu rồi thì phải. Robert... Robert... Darwin... Dar... Phải rồi. Ông ta là cha của nhà bác học thiên tài Charles Darwin”. Toản ngẫm nghĩ rồi chợt giật mình nghĩ ra. Anh hỏi Darwin:

- Bác sĩ có phải có một người con tên Charles phải không?

- Vâng... Vâng... Bệ hạ! Ngài biết việc này sao? Cháu nó mới hơn một tuổi, lại đang ở London. Lẽ nào ngài biết được?

- Ha... Ha... – Toản phá lên cười, vậy là con cháu anh có hy vọng rồi. – Không có gì. Trẫm chẳng qua nằm mộng mới biết vậy thôi. Bác sĩ đừng để bụng. Hãy tin trẫm, dành cho cậu bé sự giáo dục tốt nhất. Tương lai cậu sẽ là một vĩ nhân được cả thế giới phải ngã mũ đó.

- Bệ hạ! Cám ơn ngài chúc phúc. Đó là điều mà cha mẹ nào cũng phải làm mà.

- Bác sĩ! Ông không cần phải quá khiêm tốn. Ông nội cậu bé cũng là một nhà khoa học nổi tiếng nữa kia mà. Thôi, không nói việc này nữa. Quay lại bệnh tình của trẫm, nếu trẫm nói mình không còn sống được bao nữa. Hai vị có tin không?

- Bệ hạ! Thứ cho lão thần nói thẳng – Hồ Đắc Duy nói. – Nếu trong trường hợp khác, thần không dám nói thẳng. Nhưng nay Bệ hạ đã biết rõ bệnh tình. Nói thật, theo thần đoán, bệ hạ còn chưa đến hai năm nữa. Tiên đế ngày xưa cũng vậy.

- Bệ hạ! – Robert hỏi – Lẽ nào ngài biết rõ căn bệnh này?

- Đúng vậy. Trẫm biết rõ. Bệnh này có tên gọi “Hẹp van tim” và mang tính di truyền. Trẫm e là con cháu trẫm cũng mang mầm bệnh. Chỉ có Tây y mới trị được. Nhưng trình độ hiện nay chưa thể làm được.

- Ý bệ hạ là phẫu thuật à? – Robert hỏi.

- Chính xác. Chỉ cần phẫu thuật nong van tim thôi. Nhưng khoa học và y học ngày nay chỉ có thể bó tay mà thôi.

Lão ngự y Hồ Đắc Duy sụt sùi hỏi:

- Bệ hạ! Vậy bây giờ ngài tính sao đây?

- Trước hết, trẫm xin các khanh giữ bí mật này, chớ để mọi người lo lắng. Trẫm có hai việc cần làm thì đã xong một việc rồi. Đó là tìm người để nói lại căn nguyên bệnh này đặng sau này nghiên cứu và chữa trị cho con cháu trẫm, cho muôn dân trăm họ. Còn việc thứ hai thì trẫm chưa thể nói.

Hai người cũng chỉ đành cúi đầu bước ra. Trong thâm tâm họ, vị vua trẻ kia quả là một vị vua anh minh và nhân hậu. Dẫu biết là mình không còn sống được bao lâu vẫn mãi nghĩ cho trăm họ. Và Toản đã nói mình còn một việc nữa phải làm. Vậy việc đó là gì và liệu anh có kịp thực hiện hay không.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 70: Cảnh Thịnh Hoàng Đế
Chương 70: Cảnh Thịnh Hoàng Đế​

Sống trên trần thế, ai lại không có một ước mơ, một hoài bão. Người nông dân suốt đời gắn bó với ruộng đồng, ước mơ của họ là một vụ mùa bội thu. Một nhà giáo lại ước mơ học trò của mình thành đạt. Một thương gia thì ước mơ mình sau này giàu có, ứng với câu “phú khả địch quốc”. Lại cũng có người đơn giản gia đình mình đủ sống, con cái đỗ đạt, thành tài. Và còn nhiều, nhiều nữa. Nhân sinh trên đời, ai tránh phải quy luật “sinh, lão, bệnh, tử”. Quan trọng là mỗi người đã làm được gì trên hành trình dài này, những ước mơ của mình có thành hiện thực hay không.

Theo dòng chảy của thời gian, có người cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi đạt thành ước mơ. Cũng có người nuối tiếc vì những việc còn dở dang. Cũng có người ôm trong mình mối hận nghìn thu. Tất cả dệt nên một bức tranh sống động và giàu màu sắc. Còn khi phải đối mặt với cái chết thì thái độ của họ thế nào. Là lo lắng, là cam chịu, hay là mong chờ. Tin tôi đi, có người mong chờ cái chết của mình đó. Lại nói có ai không sợ cái chết thì đó là chuyện đáng buồn cười nhất thế gian. Một người lính sợ chết thì người tướng nơi sa trường lại còn sợ hơn. Vị tướng ấy lo sợ vì rủi như mình nằm xuống, vợ con nơi quê nhà sẽ thế nào, anh em chiến sĩ không có mình sẽ ra sao.

Cũng như mọi người, Quang Toản của chúng ta cũng sợ chết. Phải nói chính xác là anh rất sợ chết. Nhưng xin đừng lầm tưởng là anh có lá gan nhỏ bé. Anh sợ vì nhiều lý do. Nào là mình có kịp thống nhất Giang sơn hay không. Rồi thì đất nước mình có đứng vững trước các cuộc xâm lăng hay không. Và còn nữa, anh sợ mình chưa thực hiện được hoài bão cuối cùng trong đời.

Nếu thế thì hoài bão đó là gì? Thực ra nói cho đúng thì đó là một tham vọng. Nó có tên là “Nền dân chủ cho đất nước”. Anh hiểu chỉ có nền dân chủ mới có thể đem lại tương lai phát triển vững bền cho muôn dân trăm họ. Khát khao thực hiện này còn đi vào trong giấc ngủ hằng đêm của Toản. Anh trăn trở, thao thức rất nhiều. Có nhiều hình thức dân chủ cho anh lựa chọn. Nền t.ư bản chủ nghĩa cũng được mà nền xã hội chủ nghĩa cũng tốt. Biết lựa chọn thế nào bây giờ? Cuối cùng, cả hai mô hình dân chủ trên, anh đều không chọn. Vậy thì chỉ còn con đường duy nhất, phù hợp với thực tại của Việt Nam. Đó chính là “Quân chủ lập hiến” mà đại diện hùng mạnh và thành công nhất chính là Vương Quốc Anh.

Đã có con đường, việc tiếp theo là lên kế hoạch và biến nó thành hiện thực. Trong mấy năm qua, thông qua hình thức hiệp thương phổ thông đầu phiếu mà Bộ Chính trị đang áp dụng, Việt Nam đã có một nền tảng khá vững chắc để thực hiện điều này. Nếu để mọi việc cứ thế tự nhiên xảy ra thì phải mất vài năm, thậm chí vài chục năm nữa thì mới hoàn thành. Ấy thế mà thời gian của Toản lại chẳng còn bao nhiêu. “Phải gấp rút thực hiện, phải đẩy nhanh tiến độ thôi”, anh dặn với lòng mình.

Sau khi có buổi nói chuyện với hai người thầy thuốc hôm trước mấy ngày, Toản triệu tập một hội nghị của Bộ Chính trị. Để mở màn, Toản hỏi bá quan:

- Theo các khanh, bè phái trong triều là điều tốt hay xấu?
Gần như không cần suy nghĩ, Ngô Thì Nhậm đã lên tiếng:

- Khởi bẩm! Bè phái là điều tuyệt đối cấm kỵ. Bè phái gây chia rẽ và suy yếu quốc gia.

- Đúng vậy, bệ hạ. – Nguyễn Văn Tuyết nói – Bệ hạ hãy nhìn vào cái gương của chúng thần. Từ ngày Tiên đế băng hà, chúng tướng nhà Tây Sơn chia rẽ sâu sắc, Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, quốc gia suy yếu đến cực điểm.

Bá quan nhao nhao khen là phải. Chỉ có riêng Toản mỉm cười lắc đầu.

- Trẫm nói bè phái là tốt, các khanh có tin không?

- Làm sao có thể? – Người lên tiếng chính là Nguyễn Ánh.

- Nghĩa phụ! Cha có nhớ lời con hứa khi ở Phú Yên năm xưa hay không? Con nói đến một thời điểm. Và nó chính là hôm nay.

Nguyễn Ánh bồi hồi nhớ lại buổi hội đàm bên bờ ao ở Phú Yên với tiếng đàn réo rắt năm xưa. Phải nói mỗi khi nhớ lại, ông có một niềm tự hào khôn tả. Ngày đó, ông đã quyết định, một quyết định làm thay đổi vận mệnh đất nước. Ông còn nhớ khi đó Toản nói “Rồi sẽ có một ngày người làm chủ đất nước này chính là người dân”. Thế như việc này có liên quan gì?

Hiểu được cái nhìn đầy nghi hoặc của bá quan, Toản lại tiếp:

- Bè phái đúng là có thể làm suy yếu quốc gia. Nó cũng có thể kích thích sự phát triển. Quan trọng là cách chúng tồn tại và mục đích của các bè phái. Miễn là chúng công khai và những bè phái đó chỉ muốn tốt cho quốc gia.

- Ý bệ hạ có phải là tương tự như việc hai thương nhân. Họ cạnh tranh nhau rồi thi nhau giảm giá, người được lợi là người mua hàng? – Trịnh Hoài Đức hỏi.

- Chính xác. Ý bè phái mà trẫm muốn nói chính là những nhóm có cùng mục đích chung cho sự phát triển của đất nước. Họ cạnh tranh với nhau. Rồi sẽ có nhiều ý kiến mới, nhiều cách làm hay ra đời. Như vậy, được lợi chính là đất nước.

- Ý bệ hạ phải chăng là bây giờ chúng thần tự chia thành mấy phái? Điều này không ổn đâu. – Tuyết nói.

- Không phải.

Ngẫm nghĩ một lúc, Quang Bàn vốn là con rể của vua nước Anh Cát Lợi mới hỏi:

- Ý chú là hình thức giống Vương quốc Anh Cát Lợi phải không chú t.ư?

- Chính thị. Anh ba, anh thấy hình thức này thế nào?

- Đúng là rất tốt. Tuy nhiên, quyền lực của nhà vua cũng không còn lớn như trước nữa. Vả lại, chúng ta chưa có kinh nghiệm về việc này.

- Thật ra việc này không khó. Trẫm đã có kế hoạch cả rồi. Quan trọng là sự hợp tác của các khanh. Lại nữa, các khanh có biết vì sao trẫm chọn con đường này không?

- Chúng thần ngu muội, khẩn xin bệ hạ nói rõ – các quan cùng thưa.

- Đây là trẫm trông lại tấm gương của tiền nhân thôi. Các khanh vì sao trung thành với trẫm. Nói ra là tự cao nhưng ít ra trẫm không thấy thẹn với tổ tiên. Nhưng con cháu trẫm chắc gì đã là người tài giỏi, anh minh, biết đâu lại còn là hôn quân, đam mê tửu sắc. Khi đó, liệu rằng chúng nó có còn giữ được ngai vàng không? Lịch sử đã chứng minh, mỗi khi thay triều đổi đại thì cũng chính là lúc đất nước bị họa ngoại xâm, muôn dân phải khổ. Vậy thì chi bằng trẫm từ bỏ quyền lực, trao vào tay muôn dân.

Nhìn một lượt bá quan, Toản lại tiếp:

- Nói như thế cũng không có nghĩa là hoàng gia không còn tồn tại. Tiếng nói của quân vương vẫn còn nguyên giá trị. Chỉ là khi đất nước bình an, hoàng gia sẽ lui vào hậu đài, nhường chỗ cho cơ quan đại diện cho người dân gọi là Quốc hội. Đến khi đất nước gặp phải binh biến hay những người cầm lái đất nước tha hoá, trở nên vị kỷ, không biết lo cho dân, gây thiệt hại cho dân thì nhà vua mới ta tay giải tán quốc hội. Đến khi mọi sự bình an, hoàng gia lại một lần nữa lui về. Làm như vậy để đảm bảo đất nước luôn ổn định, những kẻ có dã tâm không dám làm bậy vì nhà vua vẫn còn đó. Hoàng thân quốc thích cũng không phải là ngồi mát ăn bát vàng mà vẫn phải lao động kiếm sống như bao người. Các khanh đã hiểu ý trẫm chưa?

- Thần đã hiểu. Bệ hạ quả là anh minh và nhìn xa trông rộng – Tuyết nói.

- Anh cũng không ngờ rằng chú nhìn xa như vậy – đến lượt Quang Thuỳ lên tiếng.

- Nghĩa tử! Người làm cha này quả thật là u mê. Đất nước nếu rơi vào tay ta có lẽ chẳng được như thế này đâu. Ta tâm phục khẩu phục rồi.

Toản lúc này chỉ mỉm cười, không nói. Anh hiểu nếu nói nữa thì hoá ra mình tự kiêu. Đôi khi im lặng chính là câu trả lời tốt nhất.

Cuối cùng thì việc này cũng được thông qua. Toản hướng dẫn cho bá quan từng bước một. Đầu tiên, mọi người chọn ra trong số quan chức cùng toàn thể bộ chính trị tổng cộng một trăm năm mươi mốt người, gọi là Thượng nghị viện Quốc hội. Mỗi người trong số đó gọi là Thượng nghị sĩ. Đứng đầu là Thủ tướng, kiêm luôn vai trò Chủ tịch Quốc hội.

Sau khi cơ cấu thượng tầng đã xong, mọi người lại cho tổ chức tổng tuyển cử cơ quan thứ hai là Hạ nghị viện. Tất cả những người có tài, học vấn cấp Đại học trở lên, tức là đã hoàn thành cấp lớp Vào đời đều có quyền đứng ra tranh cử. Một bầu không khí tuyên truyền, vận động phiếu bầu vô cùng sôi nổi diễn ra trên cả nước. Phải nói người vui mừng nhất là dân chúng. Họ hiểu, từ nay, tiếng nói của mình đã có giá trị, mỗi ứng cử viên là người đại diện cho chính họ. Cuối cùng, ba trăm lẻ một người trúng cử, trở thành Hạ nghị sĩ. Nhiệm kỳ của lưỡng viện Quốc hội đều là bốn năm. Lúc này, các đảng phái chưa phân. Theo ý Toản, rồi cũng sẽ phát sinh đảng phái sau nhiệm kỳ đầu tiên. Anh cũng khống chế cả nước chỉ có hai đảng gọi là Cánh Tả và Cánh Hữu.

Việc Toản làm cũng chỉ dừng lại ở đó. Mọi việc sau này thì cứ hết một nhiệm kỳ sẽ đâu vào đó. Anh cũng yên tâm lui vào hậu trường rồi. Cũng theo ý Toản, vị Thủ tướng đầu tiên là được chỉ định không cần phải bầu cử. Việc này cũng gây ra không ít tranh cãi. Tất cả đều xoay quanh việc lý do gì mà nhà vua lại không chọn một trong hai người anh của mình mà là một người khác. Kể ra tân Thủ tướng cũng chẳng phải xa lạ gì, chính là Nguyễn Phúc Đảm, con trai Nguyễn Ánh và cũng là Bộ trưởng Bộ Khoa học. Lý giải cho việc này, Toản ra lệnh: “Tất cả người Hoàng tộc trực hệ ba đời của nhà vua có thể làm bộ trưởng, không được làm Thủ tướng. Như vậy, Hoàng tộc có thể giữ vị trí trung lập và tránh sự chuyên quyền”.

Tân Thủ tướng Nguyễn Phúc Đảm lại chọn ra những bộ trưởng mới cùng những người khác cho nội các của mình. Nhóm người này trừ mấy vị bộ trưởng, còn lại đều có thể không phải là Nghị viên. Một điều nữa, tất cả thành viên nội các đều còn rất trẻ. Phần lớn trong số họ đều là lứa du học sinh thứ nhất và thứ hai năm xưa.

Mọi công tác đã hoàn tất. Ngày 5 tháng 7 năm 1802, tức là vừa tròn hai mươi năm Toản đến thời đại này và cũng là ngày Quốc khánh, toàn thể nội các chính phủ đến ra mắt nhà vua. Và đây cũng là ngày mà vị tân Thủ tướng tuyên thệ nhậm chức. Toản nói vài lời dặn dò rồi chúc phúc cho người em nuôi của mình trên điện rồi mỉm cười, ngồi xuống. Nguyễn Phúc Đảm lại nói một bài diễn văn trước mặt các vị đại diện cho lưỡng viện Quốc hội. Khi anh vừa dứt lời cũng là lúc mọi người vỗ tay chúc mừng. Ấy thế mà lạ quá, bình thường thì trong những khoảnh khắc thế này, Toản là người vỗ tay to nhất. Thế nhưng lần này, điều đó lại không xảy ra. Dự cảm thấy việc chẳng lành, Đảm quay lại.

Toản vẫn ngồi đó, vẫn với nụ cười cố hữu, vẻ hạnh phúc tràn đầy trên gương mặt. Nhưng ô kìa, đôi mắt anh nhắm nghiền như đang say ngủ, một giấc ngủ thật an bình. Vị vua trẻ đã ra đi. Đảm bất giác không kìm được những giọt nước mắt lăn dài trên má. Tân Thủ tướng quỳ sụp xuống. Anh không khóc, anh không thể khóc. Anh nghĩ rằng, Toản ra đi với nụ cười mãn nguyện, có lẽ nhà vua đã vui lắm. Vậy thì những tiếng khóc lại có thể làm linh hồn người quá cố buồn biết mấy. Anh quỳ, cả chính điện đều quỳ trầm mặc.

Ngày hôm đó, người bạn thân nhất của Toản, Tiểu Thái, đã gửi đến Đảm cùng toàn thể nội các và quốc hội một bức di thư do chính tay Toản viết trước đó không lâu. Trong bức thư, Toản nhường ngôi lại cho anh ba mình là Quang Bàn. Lại có đoạn viết:

“Hỡi những vị anh hùng của đất Việt! Hãy vui lên vì công sức bấy lâu của chúng ta đã được đền đáp. Đừng khóc cho trẫm. Thay vào đó, trẫm muốn các khanh vui cười và chia vui cùng trẫm. Vì trong suốt cuộc đời mình, trẫm đã hoàn thành mọi ước mơ, mọi khát vọng. Trẫm đã trở về nơi trẫm đã đến, trong vòng tay của Đấng Tạo Hoá. Người đã ban cho trẫm rất nhiều điều. Và trẫm cũng không phụ lòng tin yêu của Người.

Hãy vui sống hỡi những người ở lại. Trẫm rất sợ cái chết nhưng cũng chào đón nó bằng một tinh thần lạc quan. Hãy vui lên vì chết có gì là khó, sống mới chính là khó. Trẫm đã xong việc của mình, các khanh ở lại thì hãy tận dụng những giây phút còn tại thế mà tạo phúc ấm cho muôn dân. Trẫm ở trên Thiên đường sẽ ngày đêm dõi theo, vẫn sẽ mãi đi theo và chúc phúc cho mọi người. Hãy sống xứng đáng và vui vẻ”.


Đoạn thư trên ngay ngày hôm sau được đăng tải khắp các mặt báo. Không ai bảo ai, cũng không vì lệnh của chính phủ mà mỗi người đều chít lên đầu chiếc khăn tang màu trắng. Vị vua luôn yêu thương và lo lắng cho họ đã ra đi. Người ấy còn lo cho họ mãi cho đến giây phút cuối đời và còn hứa hẹn dõi theo họ từ trên Thiên đường xa thẳm.

Quốc tang được kéo dài suốt một tháng. Mộ của anh được đặt ở Hoài Ân, Bình Định, bên cạnh mộ của Cố Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh bởi trong di thư, Toản có yêu cầu. Thư rằng “Hãy cho trẫm được nằm bên cạnh người anh em, người bạn và cũng là đối thủ đáng kính trọng mà trẫm chưa một lần gặp mặt, Anh Duệ Đông cung Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh”.

Một bức tượng lớn của Toản cũng được dựng lên ở trước lăng mộ anh cùng dòng chữ: “Nơi đây là chốn an nghỉ của vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử, người đã đánh thức con rồng đất Việt nghìn năm say ngủ. Con dân nước Việt muôn đời sau hãy nhớ lấy: danh hiệu của người là Cảnh Thịnh Đại Hoàng Đế, David I của Việt Nam, Nguyễn Quang Toản”.

Vị vua trẻ anh minh, tài giỏi lại yêu dân Nguyễn Quang Toản đã không còn ở thế gian. Nhưng bức tượng của anh vẫn đứng đó sừng sững qua năm tháng với ánh mắt nhìn xa xăm, nụ cười hiền lành cùng đôi tay dang rộng như muốn ôm tất thảy những người con đất Việt vào lòng.
***** Hết *****
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top