Bàn luận hoặc góp ý-Trí tuệ khác thường của Vương An Thạch

Status
Not open for further replies.

nhatchimai0000

Phàm Nhân
Administrator
bach-ngoc-dich-gia
Ngọc
5.022,77
Tu vi
0,00
Trí tuệ khác thường của Vương An Thạch

tác giả: vị tri điểm kích: thứ

Năm Khánh Lịch thứ bảy đời Bắc Tống, vùng đất Giang Nam mưa dầm liên tục, kéo dài từ tháng ba đến tháng chín. Hoa màu trên cánh đồng không thu hoạch gì được. Diện tích gặp tai họa những một trăm hai mươi bảy huyện. Giá gạo vì thế tăng từ bốn trăm đồng mỗi thạch thành một nghìn năm trăm đồng, dân chúng khốn khổ không thể tả.

Quan viên các châu phủ ở Giang Nam một mặt thỉnh cầu triều đình trợ giúp, một mặt cưỡng bách áp chế giá gạo và phạt đám gian thương đầu cơ tích trữ. Một khi phát hiện có người nâng giá gạo, nhẹ thì tịch thu gia sản, sung quân, nặng thì chém ngay tại chỗ. Dựa vào thủ đoạn sét đánh này, giá gạo tại vùng Giang Nam cũng ổn định trở lại, duy trì ở giá năm trăm đồng một thạch.

Nhưng ở vùng duyên hải Đông Nam, tại một huyện xa xôi tên là huyện Ngân (hiện tại là Ninh Ba) có một huyện lệnh khác thường. Ông chẳng những không khống chế giá gạo mà ngược lại còn phát công văn với danh nghĩa triều đình với quy định cứng nhắc: trong phạm vi huyện Ngân, mỗi thạch giá ba nghìn đồng.

Vị huyện lệnh to gan này chính là Vương An Thạch đại danh đỉnh đỉnh trong lịch sử.

Nhất thời trong thành Trữ Ba tiếng kêu dậy đất, nhất là dân chúng bách tính mắng chửi mắng cực kỳ dữ dội. Vì giá gạo quá đắt nên nhiều nhà đành phải ăn cháo. Đám thương gia bán gạo thì nhảy nhót hoan hô. Kiếm được món hời lớn, bọn họ đều biết điều dâng kim ngân lên cho Vương An Thạch. Đối với lần này thì Vương An Thạch chẳng cự tuyệt một ai, đều nhất nhất nhận lấy. Thỉnh thoảng có thương nhân huyện khác quên kính hiến kim ngân, Vương An Thạch còn sai sư gia đến đòi.

Tri Phủ Hàng Châu lúc ấy là Lữ Hướng Cao nghe được chuyện này giận không thể kiềm được. Chỉ vì e ngại lúc đó gia tộc họ Vương có nhiều người làm quan, gia tộc có ảnh hưởng lớn, mà bản thân Vương An Thạch lại là văn nhân danh sĩ hàng đầu trong nước nên mới tạm thời không truy cứu ngay. Lữ Hướng Cao muốn cho thành Trữ Ba loạn đến lúc không thể vãn hồi mới tới xử lý Vương An Thạch! Để tránh cho mình cái tiếng ghét hiền ghen tài không thể dung người có tiếng.

Không ngờ, vì một vùng Thiểm Tây mấy năm liền mất mùa liên tục nên triều đình đã ngừng cứu tế lâu rồi. Hiện giờ quốc khố trống rỗng, thiên tai mưa dầm ở Giang Nam nhất thời không thể cứu trợ. Đến tháng ba năm thứ hai, ở chợ vùng Giang Nam đã không còn gạo để bán. Giá chợ đen tăng chóng mặt. Giá gạo tăng đến năm nghìn đồng một thạch mà có tiền cũng không mua được. Đám đông dân chúng không thể chịu nổi đành đưa gia đình phiêu tán. Hàng ngày có rất nhiều người vì đói mà chết. Phong cảnh như vẽ của Giang Nam xưa nay trở nên thê lương, tiếng kêu than dậy khắp trời đất.

Tình hình ở thành Trữ Ba lại hoàn toàn đối lập, gạo lúa đầy đủ, nhân dân yên ổn. Hóa ra, thương nhân khắp nơi nghe nói giá gạo ở Trữ Ba cao có thể kiếm lợi nên đều đưa gạo đến đây buôn bán. Dân chúng bách tính Trữ Ba tuy hiện tại không còn tích trữ được hạt gạo nào nhưng không xuất hiện cảnh dân đói. Đối với người dân không thể mua được lương thực, Vương An Thạch bèn phát bạc để cứu trợ.

Sau này, thóc gạo ở Trữ Ba càng lúc càng nhiều, sau rồi cung lớn hơn cầu. Gạo đã đưa tới chả lẽ các thương nhân lại chở về nên đành hạ giá bán. Giá gạo từ từ hạ xuống một nghìn năm trăm đồng một thạch.

So với những nơi khác ở Giang Nam thì thành Trữ Ba quả là thế ngoại đào nguyên.

Hóa ra, Giang Nam không giống với các tỉnh Thiểm, Cam kém phát triển. Trước nay, vùng đất này vốn giàu có và đông đúc, không chỉ có ruộng lúa phì nhiêu mà buôn bán cũng rất thịnh vượng. Gia đình thường dân cũng có chút của để giành vì thế gặp phải năm mất mùa, mọi người chỉ cần lương lực. Dù giá gạo có cao nhưng tiết kiệm một chút cũng đủ cho nửa năm, một năm.

Lữ Hướng Cao lúc này mới cảm thấy Vương An Thạch thật sự cao kiến. Hắn lập tức ngợi khen Vương An Thạch, đồng thời phát mệnh lệnh cho các nơi ở Giang Nam nâng giá lương thực lên ba nghìn năm trăm đồng mỗi thạch.

Các thương nhân nghe được tin liền phấn khởi vận hết khả năng, lừa chở, ngựa vận, thủy bộ song hành vận lương thực cả nước đổ tới Giang Nam. Dân chúng Giang Nam tiêu tán gia tài nhưng cuối cùng cũng vượt được tai kiếp này.

Sau chuyện lần này, thanh danh Vương An Thạch đại chấn. Từ đó về sau một bước lên mây trở thành danh thần một đời Bắc Tống.

Code:
    王安石的另类智慧

    时间:2012-04-26 09:12 作者: 未知 点击: 次

    北宋庆历 7 年, 江南地区阴雨绵绵, 从 3 月一直下到 9 月, 田里的庄稼颗粒无收, 受灾面积达 127 个县. 米价接连上涨, 到了 10 月, 米价就由原来的每石 400 文涨到了 1500 文, 老百姓们苦不堪言.

    江南各州府官员一面向朝廷请求援助, 一面强力抑制米价惩办奸商. 一旦发现有人哄抬米价. 轻则没收家产发配充军. 重则就地斩首. 靠着这种雷霆般的手段, 江南地区的米价终于稳定下来, 维持在每石 500 文左右.

    但是, 在东南沿海, 一个当时叫鄞县的偏远小县里 ( 现在的宁波 ), 却有一个很另类的县令, 不但不抑制米价, 反而发出公文, 以政府的名义硬性规定: 鄞县境内米价每石 3000 文!

    这位大胆的县令就是历史上鼎鼎大名的王安石.

    一时间, 宁波境内民怨沸腾, 尤其是一些普通百姓骂得最厉害. 因为米价太贵, 不少人家只好举家食粥. 米商们则欢呼雀跃. 发了大财, 他们纷纷知趣地给王安石送来金银. 对此, 王安石来者不拒, 一一收下. 偶尔有外地的商人忘了敬献金银, 王安石就让师爷前去讨要.

    时任杭州知府的吕向高, 听说了这事, 怒不可遏. 只因碍着王家世代为官, 实力强大, 而王安石本人又是海内名士文人领袖. 这才暂时没有追究. 吕向高心想, 等宁波闹得不可收拾, 再去发落王安石吧! 也免得自己落下妒贤嫉能不能容人的骂名.

    没想到, 由于陕西一带连年大早, 朝廷已经赈济多年. 如今国库空虚, 对江南的雨灾, 一时无力救助. 到了第二年 3 月, 江南市面上几乎已经无米可卖. 黑市上. 米价出到 5000 文一石, 还常常有价无市. 大量饥民开始涌现, 不少人举家外迁. 每天都有许多人饥饿而死. 昔日风景如画的江南, 一时哀鸿遍野凄凉一片.

    与此形成强烈对比的是, 宁波境内却米粮充足, 人民生活安定. 原来, 全国各地的商人听说宁渡米价高昂, 有利可图, 纷纷把米贩到宁波. 宁波的老百姓们, 虽然一时间将多年的积蓄消耗殆尽, 却几乎没有出现饥民: 对于无力买粮的人家, 王安石就发给银两救助.

    后来, 宁波的米粮越积越多, 渐渐供大于求. 商人们已经把米运来, 不好再运回去, 只好就地降价销售. 米价竟然慢慢降回到了 1500 文一石.

    同江南其他地方比起来, 宁波简直就是个世外桃源.

    原来, 江南不同于陕甘等贫弱地区. 这里历来富庶, 不仅鱼米丰饶, 而且商业十分发达. 普通人家几十年下来, 也小有积蓄. 因此, 乍遇荒年, 人们需要的只是粮食. 就算米价高, 俭省一点. 也能坚持一年半载.

    吕向高这才发现, 王安石真有一套, 实在是高. 他马上嘉奖王安石, 并通令江南各地提高粮价, 每石 3500 文.

    商人们一听, 大受振奋, 纷纷竭尽所能, 马驮驴运水陆并行, 从全国各地源源不断把米贩到江南来. 江南民众家财散尽, 却终于渡过了这一劫.

    经此一事, 王安石名声大振, 从此平步青云, 成为北宋一代名臣.

    ( 黄玉摘自 《 牛城晚报 》2009 年 11 月 11 日 图, 张建辉 )

    上一篇: 鸠山的咖啡屋

    下一篇: 诺贝尔奖来临

    更多

Vương an thạch đích lánh loại trí tuệ

Thì gian:2012-04-26 09:12 tác giả: vị tri điểm kích: thứ

Bắc tống khánh lịch 7 niên, giang nam địa khu âm vũ miên miên, tòng 3 nguyệt nhất trực hạ đáo 9 nguyệt, điền lý đích trang giá khỏa lạp vô thu, thụ tai diện tích đạt 127 cá huyền. Mễ giới tiếp liên thượng trướng, đáo liễu 10 nguyệt, mễ giới tựu do nguyên lai đích mỗi thạch 400 văn trướng đáo liễu 1500 văn, lão bách tính môn khổ bất kham ngôn.

Giang nam các châu phủ quan viên nhất diện hướng triêu đình thỉnh cầu viên trợ, nhất diện cường lực ức chế mễ giới trừng bạn gian thương. Nhất đán phát hiện hữu nhân hống sĩ mễ giới. Khinh tắc một thu gia sản phát phối sung quân. Trọng tắc tựu địa trảm thủ. Kháo trứ giá chủng lôi đình bàn đích thủ đoạn, giang nam địa khu đích mễ giới chung vu ổn định hạ lai, duy trì tại mỗi thạch 500 văn tả hữu.

Đãn thị, tại đông nam duyên hải, nhất cá đương thì khiếu ngân huyền đích thiên viễn tiểu huyền lý ( hiện tại đích trữ ba ), khước hữu nhất cá ngận lánh loại đích huyền lệnh, bất đãn bất ức chế mễ giới, phản nhi phát xuất công văn, dĩ chính phủ đích danh nghĩa ngạnh tính quy định: ngân huyền cảnh nội mễ giới mỗi thạch 3000 văn!

Giá vị đại đảm đích huyền lệnh tựu thị lịch sử thượng đỉnh đỉnh đại danh đích vương an thạch.

Nhất thì gian, trữ ba cảnh nội dân oán phí đằng, vưu kỳ thị nhất ta phổ thông bách tính mạ đắc tối lệ hại. Nhân vi mễ giới thái quý, bất thiểu nhân gia chích hảo cử gia thực chúc. Mễ thương môn tắc hoan hô tước dược. Phát liễu đại tài, tha môn phân phân tri thú địa cấp vương an thạch tống lai kim ngân. Đối thử, vương an thạch lai giả bất cự, nhất nhất thu hạ. Ngẫu nhĩ hữu ngoại địa đích thương nhân vong liễu kính hiến kim ngân, vương an thạch tựu nhượng sư gia tiền khứ thảo yếu.

Thì nhâm hàng châu tri phủ đích lữ hướng cao, thính thuyết liễu giá sự, nộ bất khả át. Chích nhân ngại trứ vương gia thế đại vi quan, thực lực cường đại, nhi vương an thạch bản nhân hựu thị hải nội danh sĩ văn nhân lĩnh tụ. Giá tài tạm thì một hữu truy cứu. Lữ hướng cao tâm tưởng, đẳng trữ ba nháo đắc bất khả thu thập, tái khứ phát lạc vương an thạch ba! Dã miễn đắc tự kỷ lạc hạ đố hiền tật năng bất năng dung nhân đích mạ danh.

Một tưởng đáo, do vu thiểm tây nhất tỉu liên niên đại tảo, triêu đình dĩ kinh chẩn tể đa niên. Như kim quốc khố không hư, đối giang nam đích vũ tai, nhất thì vô lực cứu trợ. Đáo liễu đệ nhị niên 3 nguyệt, giang nam thị diện thượng kỷ hồ dĩ kinh vô mễ khả mại. Hắc thị thượng. Mễ giới xuất đáo 5000 văn nhất thạch, hoàn thường thường hữu giới vô thị. Đại lượng cơ dân khai thủy dũng hiện, bất thiểu nhân cử gia ngoại thiên. Mỗi thiên đô hữu hứa đa nhân cơ ngạ nhi tử. Tích nhật phong cảnh như họa đích giang nam, nhất thì ai hồng biến dã thê lương nhất phiến.

Dữ thử hình thành cường liệt đối bỉ đích thị, trữ ba cảnh nội khước mễ lương sung túc, nhân dân sinh hoạt an định. Nguyên lai, toàn quốc các địa đích thương nhân thính thuyết trữ độ mễ giới cao ngang, hữu lợi khả đồ, phân phân bả mễ phiến đáo trữ ba. Trữ ba đích lão bách tính môn, tuy nhiên nhất thì gian tương đa niên đích tích súc tiêu háo đãi tẫn, khước kỷ hồ một hữu xuất hiện cơ dân: đối vu vô lực mãi lương đích nhân gia, vương an thạch tựu phát cấp ngân lưỡng cứu trợ.

Hậu lai, trữ ba đích mễ lương việt tích việt đa, tiệm tiệm cung đại vu cầu. Thương nhân môn dĩ kinh bả mễ vận lai, bất hảo tái vận hồi khứ, chích hảo tựu địa hàng giới tiêu thụ. Mễ giới cánh nhiên mạn mạn hàng hồi đáo liễu 1500 văn nhất thạch.

Đồng giang nam kỳ tha địa phương bỉ khởi lai, trữ ba giản trực tựu thị cá thế ngoại đào nguyên.

Nguyên lai, giang nam bất đồng vu thiểm cam đẳng bần nhược địa khu. Giá lý lịch lai phú thứ, bất cận ngư mễ phong nhiêu, nhi thả thương nghiệp thập phân phát đạt. Phổ thông nhân gia kỷ thập niên hạ lai, dã tiểu hữu tích súc. Nhân thử, sạ ngộ hoang niên, nhân môn nhu yếu đích chích thị lương thực. Tựu toán mễ giới cao, kiệm tỉnh nhất điểm. Dã năng kiên trì nhất niên bán tái.

Lữ hướng cao giá tài phát hiện, vương an thạch chân hữu nhất sáo, thực tại thị cao. Tha mã thượng gia tưởng vương an thạch, tịnh thông lệnh giang nam các địa đề cao lương giới, mỗi thạch 3500 văn.

Thương nhân môn nhất thính, đại thụ chấn phấn, phân phân kiệt tẫn sở năng, mã đà lư vận thủy lục tịnh hành, tòng toàn quốc các địa nguyên nguyên bất đoạn bả mễ phiến đáo giang nam lai. Giang nam dân chúng gia tài tán tẫn, khước chung vu độ quá liễu giá nhất kiếp.

Kinh thử nhất sự, vương an thạch danh thanh đại chấn, tòng thử bình bộ thanh vân, thành vi bắc tống nhất đại danh thần.

( hoàng ngọc trích tự 《 ngưu thành vãn báo 》2009 niên 11 nguyệt 11 nhật đồ, trương kiến huy )

Thượng nhất thiên: cưu sơn đích già phê ốc

Hạ nhất thiên: nặc bối nhĩ tưởng lai lâm

Canh đa

Vương An Thạch-Ông là ai. Mời các bạn bổ sung.
 

VôHưKhông

Phàm Nhân
Ngọc
366,04
Tu vi
0,00
Vương An Thạch 王安石 (1021–1086), tự là Giới Phủ 介甫, hiệu là Bán Sơn Lão Nhân 半山老人, người ở Phủ Châu – Lâm Xuyên (tỉnh Giang Tây ngày nay), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.

Ông đỗ tiến sĩ năm 1041. Năm 22 tuổi (1042), ông được bổ dụng làm quan trợ lý cho quan đứng đầu thủ phủ tỉnh Dương Châu. Năm 1047, ông được thăng tri huyện Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Năm 1051, ông được sử đến Thương Châu làm Thông phán. Hết nhiệm kỳ này ông được điều về kinh đô. Năm 1057, ông làm tri châu Thương Châu, tỉnh Giang Tô. Năm 1058 ông lại được điều đi làm quan hình ngục Giang Đông, trông coi việc t.ư pháp và hành chính Giang Nam. Đến cuối năm này, sau 17 năm làm quan địa phương, ông đã viết một bài trình lên Tống Nhân Tông, nêu rõ các trì trệ hiện thời của Bắc Tống và nêu lên các biện pháp khắc phục, áp dụng tân pháp để cải cách chế độ kinh tế-xã hội, quân sự của nhà Tống nhưng thất bại do sự chống đối của các tầng lớp quan lại đương thời. Trải qua một thời gian dài hai đời vua Tống Nhân Tông và Tống Anh Tông, sau khi về chịu tang mẹ 3 năm ở quên nhà, ông ở lại đó và mở trường dạy học.

Lúc còn trẻ, ông đã ưa chuộng Nho học và dốc lòng vào việc quan. Khi tuổi về già, do việc quan không đắc ý, nên ông đem lòng say mê nghiên cứu Phật học. Phật giáo lúc bấy giờ thiên về Thiền tông, có ảnh hưởng rất lớn đối với học thuật Trung Quốc đời Tống.

Năm 1068, Tống Thần Tông lên làm vua, triều đình nhà Tống gặp phải tình huống khủng hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Tống Thần Tông lên ngôi và triệu ông về kinh đô Biện Kinh, phong làm Hàn lâm viện Học sĩ. Năm 1069 ông được thăng Tham tri chính sự. Năm 1070, Vương An Thạch được cử làm Tể tướng, đã đề ra chính sách cải cách kinh tế, dựng ra phép "...Bảo Giáp, Bảo Mã làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố dồi dào, làm binh lực nước mạnh" nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp của hai nước Liêu – Tây Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, đồng thời có ý đồ xâm lược các nước phương Nam (trong đó có Đại Việt) để bành trướng lãnh thổ. Tân pháp của ông xét theo quan điểm của kinh tế học hiện đại gần với tính chất của một nền kinh tế kế hoạch hóa và phúc lợi công cộng. Để thủ tiêu việc đầu cơ tích trữ và độc quyền, ông cũng đã đưa ra một hệ thống giá cả cố định, đề ra việc trả lương bổng và trợ cấp hưu trí cho quan lại cũng như trợ cấp cho những người khó khăn v.v.
 

Xin Cái Tên

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Minh Nguyệt Sơn Đầu Khiếu

Vương An Thạch và Tô Ðông Pha là hai vị đại văn hào đã được người Trung Hoa tôn kính vào hàng "Bát Ðại Gia" của họ. Tính tình của hai ông trái ngược nhau: Tô thì hào sảng, bộc trực; còn Vương thì uyên bác, thâm trầm.
Vương An Thạch là người có hùng tâm, đại chí. Ông thi đỗ sớm, nhưng không nhận chức ngaỵ. Ông để ra một thời gian dài gần hai mươi năm để du lịch, học hỏi địa hình địa vật, phong tục tập quán, văn chương văn hóa khắp miền. Sau khi tự nhận thấy mình đã có đủ bản lãnh, ông mới chấp chánh và được phong làm Tể Tướng.
Trong lúc du học ở đảo Hải Nam, ông đã làm một bài thơ, trong đó có hai câu rất lạ:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng hót đầu núi
Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha, khi đọc, thấy không vừa ý nên đã sửa lại hai chữ cuối cho thơ có ý nghĩa hơn.
Ông sửa là:
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Dịch nghĩa:
Trăng sáng rọi đầu núi
Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa

Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch nhưng ông không hề lên tiếng! Vương Tể tướng chỉ bổ nhiệm Tô thi hào làm những chức quan tốt, nhưng chuyển đổi thành một vòng, từ Kinh đô xa dần về tận miền cực Nam, rồi lại trở về Kinh đô.

Khi đến làm quan ở Hải Nam được một thời gian, Tô Ðông Pha mới khám phá ra là: ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi; và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa! Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.

Cách xử sự của Vương làm Tô khâm phục và sau này hai người thành bạn tương kính nhau, mặc dù trái ngược cả về tính tình lẫn chính kiến.
Tâm Hoa
(Mission Viejo, CA)
Thế Kỷ 21, số 107 Mar 1998, trang 10.
 
Status
Not open for further replies.

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top