Mà từ hồi học đến giờ có điều ta vẫn ko hiểu, là sau khi bán vào lầu xanh Kiều tự tử ko chịu tiếp khách để giữ gìn trong trắng. Vậy mà sao sau khi cứu đc thì lại chịu tiếp khách, chẳng lẽ lúc đó thay đổi suy nghĩ à? Lão có thể lý giải hơm?
Hay là sau khi suýt chết Kiều mới thấy cuộc sống rất đáng quý. Còn sống vẫn tốt hơn. Mà muốn sống thì phải chịu tiếp khách.
Đây nhé:
....
Khi nghe nàng nói rõ sự thật thì Tú Bà gào lên... rồi "
Giật bì tiên, rắp sấn vào ra tay". Trong lòng đang chứa chất bao đau khổ (xa cha mẹ, bội ước với người yêu, mất cái "ngàn vàng"...) nay lại rõ một sự thật phũ phàng: làm gái lầu xanh. Tất cả làm cho ly-nước-đau-khổ tràn đầy. Sự tử tự của nàng Kiều là tất yếu. Đó chỉ là việc xảy ra tiếp theo lần định tử tự trước để thoát khỏi sự đau khổ tột cùng, sự chán chường tràn ngập trong lòng nàng.
Ta cũng cần phải kể đến một yếu tố quan trọng không kém, đó là yếu tố thời gian. Nếu những việc vừa nêu trên mà diễn ra trong một thời gian dài thì có lẽ chưa chắc đã đẩy nàng đến chỗ quyết liệt như vậy, đằng này sự việc lại đến dồn dập, đau khổ chồng lên đau khổ chỉ trong một thời gian rất ngắn. Như vậy, ta đã lý giải rõ ràng vì sao nàng Kiều chưa bị đánh, chưa bị đau đớn về thể xác mà lại tự tìm đến cái chết. Điều đó đúng với sự phát triển tất yếu của tâm lý con người, của tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du tiên sinh đã dựng lên một cách tài tình biết bao!
Còn vì sao khi bị đánh thậm tệ thì nàng lại không tự tử? Các tình huống xảy ra hoàn toàn khác và tính chất của sự việc cũng khác hẳn. Việc tự tử của nàng Kiều không thành. Trong cơn mê, nàng thấy Đạm Tiên báo cho biết "
Số còn nặng nghiệp má đào/ Người dù muốn quyết, trời nào đã cho/ Hãy xin hết kiếp liễu bồ/ Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau".
Nàng Kiều hiểu rằng: Trời đã định, số phận đã định thế, muốn chết cũng không được. Niềm tin vào lời "thần mộng" này rất quan trọng, liên quan đến ứng xử của nàng sau này. Còn mụ Tú Bà thì sao? Mụ đã từng gào lên "
Màu hồ đã mất đi rồi/ Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma" - sau khi biết rõ sự thật nàng Kiều nói ra. Mụ không chịu để mất vốn liếng đã bỏ ra!
Trước tình thế đó, mụ ngon ngọt thuyết phục nàng Kiều, chỉ cho nàng rõ một sự thật "Một người dễ có mấy thân", lại chỉ rõ lứa tuổi tươi đẹp của nàng "Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài", mụ lại còn tỏ ra thẳng thắn nhận cái sai về mình "
Cũng là lỡ một lầm hai" và lại còn hứa "
Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây". Mụ cho rằng: Việc nàng Kiều đến chỗ mụ, chẳng qua "Lỡ chân trót đã vào vào đây" nên đành phải "
Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non" (nghĩa là: gìn giữ để chờ ngày lấy chồng xứng đáng). Cuối cùng mụ khẳng định: Làm thế (tự tử) chỉ "thiệt mình" mà hại đến mụ thì hay gì?
Để Kiều tin hơn và hoàn toàn xóa bỏ sự nghi ngờ của nàng, mụ thề thốt: "
Mai sau ở chẳng như lời/ Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi". Tất cả những điều đó đã tác động đến nàng "Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần". Nếu nói theo cách nói ngày nay thì mụ Tú Bà đã thành công trong "công tác t.ư tưởng" đối với nàng Kiều. Sự khôn ngoan, khéo léo ấy đã mở cho nàng Kiều một viễn cảnh không còn ảm đạm nữa. Bằng thực tế, mụ không bắt nàng Kiều tiếp khách mà cho nàng ra ở cái lầu có tên là Ngưng Bích.
Ở đây, nàng nhớ đến người yêu, nhớ đến cha mẹ đã già, buồn nhìn cảnh vật chiều hôm ở cửa bể với những con thuyền xa xa, với cánh hoa trôi vô định... Trong tâm trạng buồn trước cảnh vật và số phận của mình, nàng đã thốt lên mấy câu thơ. Nàng lại nghe "có tiếng đâu họa vần". Người họa vần là Sở Khanh. Sở Khanh có vẻ là một thư sinh, tỏ ra quyến luyến nàng, khen nàng "sắc nước hương trời" và tỏ tình cảm "
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng" rồi khẳng định "
Thuyền quyên ví biết anh hùng/ Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi".
Một người đang trong cảnh cá chậu chim lồng, đang trong cảnh tương lai mờ mịt "Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi" thì lời nói quyết đoán của Sở Khanh không thể không tác động mạnh mẽ đến nàng. Thế là nàng "đánh liều" nhắn lời rồi viết thư kể rõ tình cảnh của mình. Thư đi, Sở Khanh có thư lại, hẹn ngày giờ bỏ trốn. Họ Sở lại "bốc" cho nàng yên tâm: Nếu thế nào thì "
Có ta đây cũng chẳng cơn cứ gì". Sở Khanh đưa nàng Kiều "
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn" bỏ trốn giữa đêm thu.
Nàng Kiều ngây thơ và quá tin nên đi theo họ Sở, ngờ đâu "Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào". Lúc này chỉ có một mình nàng "khôn biết làm sao" khi đoàn người đổ đến vây bắt. "
Tú Bà tốc thẳng đến nơi/ Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà/ Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra/ Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời". Con người chứ có phải gỗ đá đâu! "
Thịt da ai cũng là người/ Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau". Trong tình hình đó, Kiều phải nhận tội và cầu xin tha thiết "khẩn cầu" "Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa".
Như vậy, xem ra có cái gì đó không bình thường: sắp bị đánh thì tìm cách tự tử, bị đánh thì lại không tự tử, phải chấp nhận điều tồi tệ nhất mà nàng không muốn! Nhưng xem xét kỹ thì vấn đề thật hợp lý. Tự tử là vì đau đớn về tinh thần, không còn cách nào làm giảm đi được. Sự đau đớn này không phải tự nàng Kiều gây ra, chỉ có cái chết mới chấm dứt được nỗi đau khổ đó. Còn khi trốn không thành, bị bắt rồi bị đánh thậm tệ, muốn giảm sự đau đớn về thể xác thì chỉ còn cách nhận tội và xin từ bỏ tấm lòng trinh bạch của mình. Tự mình thấy mình có tội thì còn oan ức cái nỗi gì nữa!
Sau này, nàng Kiều (cũng như người đọc) được Mã Kiều nói rõ mối quan hệ giữa Tú Bà và Sở Khanh "
Đà đao sắp sẵn chước dùng/ Lạ gì một cốt một đồng xưa nay/ Có ba mươi lạng trao tay/ Không dưng chi có chuyện này trò kia!" thì mới rõ ra mọi điều. Tú Bà đã dùng "đà đao kế" ("đà đao" là giả thua, kéo lết đao rồi bất ngờ quăng đao lại chém") để xử lý nàng Kiều, làm cho nàng mắc lừa và dựa vào đó trị tội nàng. Qua phân tích những vấn đề trên, ta không những rõ lý do tự tử và không tự tử của nàng Kiều mà còn một lần nữa thấy rõ bộ mặt thật nham hiểm, đểu cáng của mụ Tú Bà và từ đây, từ cái lò lầu xanh của mụ mà nàng Kiều chịu "nhiều lưu lạc" lại "nhiều gian truân" trong suốt mười lăm năm khổ ải sau này.