Đề bài là cảm nhận và nhận xét về nét đẹp nữ tính trong thơ của Xuân Quỳnh qua đoạn thơ trên. Mấy hôm nay nhiều trên mạng nhiều người kêu là khó hiểu và dài dòng. Riêng mình thì đọc đoạn mở đầu thì thấy là nó không khó hiểu lắm
(mất công đọc lại và diễn giải ra thôi). Với những người chuyên hoạt động với truyện dịch hoặc truyện convert ở đây thì chắc là thấy dễ hiểu hơn. Ý kiến mọi người về vấn đề này thế nào, hạn chế công kích cá nhân nhé
.
mini event: Nếu bạn nào có thể "viết lại" bài văn này một cách dễ hiểu hơn ( cỡ người thường đọc phát hiểu luôn), mà tính truyền đạt cũng như truyền cảm không giảm đi. Thì mình xin tặng ít ngọc như là ngưỡng mộ tài năng về văn chương. Giải nhất 10k ngọc, giải nhì 5k ngọc, giải ba 2k ngọc. @Đạo Phong Phong Ca có thể tag thành viên bên sáng tác, và vài người bên dịch cùng convert (nếu có thể) vào cho xôm tụ không
.[/SPOILER]
P/S: Vì mình dùng google để sao chép, nên trong bài có đôi chút sai chính tả. Mọi người thông cảm

mini event: Nếu bạn nào có thể "viết lại" bài văn này một cách dễ hiểu hơn ( cỡ người thường đọc phát hiểu luôn), mà tính truyền đạt cũng như truyền cảm không giảm đi. Thì mình xin tặng ít ngọc như là ngưỡng mộ tài năng về văn chương. Giải nhất 10k ngọc, giải nhì 5k ngọc, giải ba 2k ngọc. @Đạo Phong Phong Ca có thể tag thành viên bên sáng tác, và vài người bên dịch cùng convert (nếu có thể) vào cho xôm tụ không

P/S: Vì mình dùng google để sao chép, nên trong bài có đôi chút sai chính tả. Mọi người thông cảm
[
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Nền tảng là một khái niệm đồng thời mang tính vật chất lẫn phi vật chất. Nó tồn tại hiển nhiên trong mọi dạng thức có mặt trong cuộc sống, lắp đặt nên các công trình và nằm ẩn yên bên trong miện hồn thăm thẳm của mỗi cá nhân. Ở mọi cấu trúc tầm cỡ, nền tảng được tạo lập cho sự vững chãi, định hình bản thể của sự vĩ mô và ở đó, trong hình hài của các khối kiến trúc, con người được diện kiến vẻ đẹp t.ư duy ký thác bên trong sự hữu tồn của viên gạch, nên đất, lớp kính và bản vẽ. Trong địa hạt tâm hồ - chốn thịnh suy của tâm t.ư kiếp người, nền tảng khiến cho người ta thấu hiểu về hệ giá trị của bản thân, kết nối sự vô t.ư lự và ngẫm nghĩ dân vật, sự bất cần và khát vọng chiếm hữu, cảm giác bất lực và niềm hân hoan chinh phục những tầm cỡ. Nền tảng là phần trọng yếu của mọi hình hài vật chất và cảm xúc phi vật chất. Trong văn chương, nền tảng kỳ thực là một khái niệm mang tính phân ưu giữa các tác phẩm vĩ đại và những thoáng gợn chóng phai của bút lực tác giả, Nền tảng đóng góp cho bộ mặt của mọi áng văn chương, bảo lưu cho sự tồn tại lâu dài của triết lý tồn tại bên trong từng tác phẩm. Riêng ở địa hạt thơ ca, nền tảng là cơ sở quan trọng thiết tạo nên phong cách đặc hữu của người thi nhân. Bằng nền tảng, người ta tìm thấy ở vần thơ chất liệu đặc sắc của cảm xúc, phương hưởng dụng ngữ, sự trăn trở trong cốt cách và tiếng thở nghệ thuật đượm đặc sắc tố bản ngã độc nhất. Và với thơ Xuân Quỳnh, nền tảng ấy là linh tính và dự cảm cho những âu lo trăn trở. Sự xáo động trong hồn cốt khiển định hình nên nền tảng của thơ chị với mọi chất liệu tinh kết nên bằng tình yêu, nỗi nhớ, ước nguyện đoàn tụ. Ta nhìn thấy rất rõ thực tế ấy trong những đoạn thơ sau - những đoạn thơ được dự phần vào việc tạo tác nên vẻ đẹp nữ tính" xuyên suốt đời thơ Xuân Quỳnh:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức Được xướng danh là “Nữ hoàng thơ tình yêu”, ngôi báu trong hồn thơ Xuân Quỳnh ngự trị ở những miền hồn riêng biệt, nơi mà trái tim và sự yêu được kết tỉa, đan gài trong hình hài của những thổn thức chứ không thét gào, âm ( khát vọng chứ không cuồng nhiệt, thanh tao bình dị chứ không ước lệ vĩ mô. Ở đó, tình yêu của chị là một chuỗi thầm thì kéo dài, kết nối những cung bậc sâu lắng, phiền muộn tạo thành dáng hình của nàng thơ. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh là sự tái hiện rõ ràng của một dạng thức phát kiến đời sống, bản chất của đời sống ấy nằm trong vòng cương tỏa của những cung bậc khi yêu, cách yêu và ước vọng vì tình yêu, Dung tích của nội hàm tình yêu trong cuộc đời ấy, trong con người ấy vượt qua sự liên tưởng thông thường thuộc về lứa đôi, phạm trù của tình yêu” đã chạm đến các mạch nối đặc thù của cả đời sống bao gồm tình yêu đối với gia đình, tình yêu đối với sự thoảng gợn, tình yêu đối với khát vọng, tình yêu đối với những chênh vênh bất định, thình lình lấn lướt những ý niệm bề sâu. Cả trái tim bé nhỏ đã thấu đạt tường tận phương thức vận hành của nó, dường như nó là không gian nhạy cảm đối với mọi chuyển động vô hình hay hữu hình của ngoại cảnh và rồi không thể bỏ sót lại điều gì dẫu vụn vặt nhất, nó e ấp cưu mang, nhặt lấy những tàn rơi ứ đọng bên lề thời cuộc. Chính lẽ đó, sự nhạy cảm nội tại ấy đã mang lại cho dạng thức tình yêu của Xuân Quỳnh mọi dự cảm tổng hòa của diễn tiến đời sống bao gồm cả những lưỡng cực cấu kết nên từ yêu và xa, nhớ và bạc, âu lo và vô tình, tha thiết và mòn phai, ... Tình yêu lứa đôi là nhánh rẽ, được tách chiết từ không gian cảm xúc trong trái tim Xuân Quỳnh. Chính những cảm niệm trong cách thấu đạt về tình yêu lứa đôi mà tiết điệu thơ của chị nhìn chung bám lấy sự vận động chủ lưu từ đây, rằng trong thơ tình yêu đôi lứa nơi tâm khảm Xuân Quỳnh, mọi giai ngân dù thuộc phạm trù nào của cảm xúc đi chăng nữa, nó cũng đều liền mạch với cảm biến thời cuộc và dự trù về nỗi khắc khoải khôn nguôi nơi thế sự cuộc đời. “Sóng” là thi phẩm được tái tạo từ vòng luân lưu của gió biển, được định hình từ táp gạo của miền khơi vào lòng cát bãi, được thai nghén từ trải nghiệm và suy t.ư khi Xuân Quỳnh có chuyến đi thực tế tại cửa biển Diêm Điền cuối những năm 1960. Những đoạn thơ được trích dẫn như trên là cực trị cảm xúc của miền nghiệm nơi trái tim người phụ nữ đập những nhịp đồng vọng với cả nhịp biển, nhịp đời và nhịp yêu.
Ngoại cảnh không biến mất hoàn toàn khỏi những đường nét tô tạo bởi tác giả trong các tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Ngoại cảnh, ngược lại, bấu rẽ vào bề mặt thi từ, nảy nở những diện mạo phát sinh vượt xa ra khỏi quy luật vật lý của thực tiễn để trở thành một sứ giả phát vọng tiếng tù và vang lên từ tầng vỉa sâu thẳm nơi tâm thức nhà thơ. Lắm khi, nó chỉ là một | thoáng hiện vô t.ư từ dòng chảy tự nhiên của xúc cảm thì nhân, nhưng hắn hỏi nó không hư biến, hư mờ mà được dự phân vào quá trình phát ngôn của cảm xúc:
Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn.
Từ nơi nào sông lên?
Không gian ngoại tại đã được chuyển dịch từ ký ức thực tế sang thành nhãn quan thi vị. Cửa biển Diêm Điền đã gieo cấy sẵn một hạt mầm tương quan giữa cái bao la, bất tận nơi chân trời với niềm nghĩ suy mênh mang, khắc khoải nơi tâm hồn của "Em". Bằng cách đó, "sóng biển" như nghe theo tiếng vẫy gọi của con người và lảo đảo thoát lìa khỏi đường chân trời cố định để vỗ đập ngân nga theo sự vận động của nỗi niềm nội sinh trong tâm khảm “em”. Ở đây, bản thể của "em" và "sóng" được chiết tách ra, không đồng nhất, không giao nhau triệt để. Bởi lẽ, trong âm hưởng thợ và bối cảnh không gian thì ngữ tạo lập nên, cần thiết phải có một khoảng cách giữa hai đối tượng trữ tình này nhằm để "em" có thể định hình rõ ràng sự chuyển động của ý thức bên trong trái tim của mình. Nhưng khoảng cách ấy không khiến “em” và "sóng" trở nên rời rạc, lung lay mà mối quan hệ ấy được giữ vững theo tiến trình đồng nhịp của cách "sóng" vỗ bờ và cách "em" không dừng “nghĩ" suy. Cụm từ "muôn trùng” đã khai mở rộng lớn không gian của biển cả, tấp nập lũ lượt từng cơn “sóng biển”; để rồi, cũng chính nghĩa ý từ cái "muôn trùng” ấy, độc giả cảm được cả cái bất tận trong không gian cảm xúc của chủ thể "em". Và như thế, dòng tâm t.ư của "em” được biểu lộ trong sự cân đối hài hòa của phép điệp cầu trúc ngay sau đó:
"Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn” Động từ "nghĩ như vẫy gọi mọi cung cách của sự yêu. "nghĩ" là phần trí năng Cơ bản của con người, thuộc về cấp độ nhận thức lý tính. Nhưng âm hưởng của “nghĩ trong sự yêu Xuân Quỳnh toát ra từ hai dòng thơ trên lại phần nhiều cho ta thấu đạt nó ở vai trò cảm xúc hơn là lý tính. Cảm xúc của "em" đối với "anh”, của “em” đối với chính mình, của “em” đối với trăn trở, của "em" đối với âu lo. Trong động từ "nghĩ” được điệp lại hai lần đó, độc giả chu du tại một vùng sinh địa của nỗi niềm, dao động biến chuyển khôn nguôi của nỗi nhớ. À ra là thế, "nghĩ" ở đây là một dạng thức biểu hiện của nỗi nhớ, là trạng thái ấy luôn thường trực, luôn ám gợi, luôn ứ đọng tồn tại ở mọi thời khắc trong "em" nên bao giờ “em” cũng phải “nghĩ". Dù là thiên hướng của “nghĩ" thuộc về phạm trù của trái tim nhưng nó không ly khai toàn bộ khỏi sự tỉnh táo nơi cửa ngỏ lý tính. Bởi lẽ rằng trong dòng chảy "nghĩ” suy đó, “em” không chỉ dành nó cho riêng ai, hoặc anh, hoặc em và em dành nó cho cả đôi ta. Đối tượng mà suy nghĩ" của “em” hướng đến là "anh, em". Việc bố trí dấu phẩy ở giữa "anh” và "em" đã khiến cho cấu trúc dòng thơ bị gãy, nhịp thơ bị tách biệt giữa chừng. Nhưng bởi chủ ý của cách bố trí như thế mà việc nghĩ” ngợi, suy t.ư có sự can dự tỉnh táo của lý tính. Ở chỗ, “em” đã dành thì giờ để hồi tưởng.
Dòng thơ cuối của khổ trên đã thiết lập nên một đà thơ đóng vai trò gầy dựng hướng phát triển cho nội hàm khổ thơ tiếp đến:
“Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đầu Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau” Cả khổ thơ nhìn chung nằm trong khát vọng tổng thể là khát vọng truy nguyên cho sự khởi đầu của hai thứ. Một mặt, ấy là niềm trăn trở của người thị nhân đối với ý niệm tìm tòi nguồn gốc phát nguyên nên "sóng". Thế là “Sóng” đã được định vị đúng với nguồn gốc của nó, nó được khởi đầu từ những dòng lưu chuyển của “gió" nên hiển nhiên nó bắt đầu từ gió”. Nhưng ấy lại chưa phải là điểm khởi nguyên tường tận, vì vậy, dòng nghi vấn lại được tiếp nối về nguồn cội của “Gió”. Điệp ngữ “bắt đầu từ được ướm đặt vào hai dòng thơ đầu tiên dường như đã biểu thị thứ khát vọng chân thật của lý tính con người. Đó là thứ khát vọng về sự nghi vấn đối với mọi hiện tượng diễn ra trong đời sống xung quanh. Điều này vốn dĩ là một chủ đề thuộc vào phạm trù triết học, bởi lẽ vai trò của triết học là truy vấn mọi dạng thức tồn tại và biểu hiện của cuộc sống xung quanh nhằm để trả lời câu hỏi về nguồn gốc phát sinh của mọi dạng thực hiện hữu. Ý hướng triết học xuất hiện trong thơ ca vốn dĩ không phải là một điều quá mới mẻ. Người ta đã thấy trong thơ của Danta nét hình đượm đặc của triết học kinh viện thời Trung Cổ, diện kiến trong thơ của Puskin. dáng vấp của triết thuyết thời kỳ Chủ nghĩa lãng mạn lên ngôi. Nhưng trong thơ của Xuân Quỳnh, ý hưởng triết học không được xác lập một cách quá đối rõ ràng, nó giống một hương vị hơn là một món ăn bổ béo bày sẵn, nó giống
một thoáng gợn luyến lưu hơn là một cuồng nhiệt bão tổ. Ước vọng truy nguyên về nguồn gốc của các hiện tượng vật lý như "sóng" và “gió" chỉ là một bộ phận cơ bản cho phép toán chủ yếu được đặt ra trong khổ thơ, đó là phép toán truy nguyên về nguồn cội của tình yêu. Nỗ lực đã được nhà thơ gắng cố tìm tòi, liên kết đến cả những hiện tượng tự nhiên nuôi giữ ước mong rằng sẽ có thể biết được đâu là khởi phát cho những cảm xúc, bâng khuâng, nhớ mong, khắc khoải, chờ đợi, hy vọng, v.v thường thấy khi người ta yêu. Nhưng tự thân tác giả đã hồi đáp cho khát vọng đó bằng lời thừa nhận thắng thần:
“Em cũng không biết nữa" Một dòng thơ nhưng nó được gắn vào đó cả hai tình thái từ ở giữa và cuối ("cũng", “nữa") đã khiến cho âm hưởng xui theo hơi thở nhẹ nhàng của sự bất lực. Bởi lẽ tình yêu là phạm trù được tạo dựng từ bên trong hành trình tương tác giữa người với người, điểm khởi đầu của nó là ở một sự bất định nào đó, một sự hiện hữu mờ nhạt nào đó, một cái gợi nhớ nào đó, một cái đắm say thoáng chợt nào đó - nó là một phức hợp tổng hòa những cái không chắc chắn gây ra trong tâm thức của con người và làm sao người ta có thể tìm tòi ra được nguồn cội rõ ràng của tình yêu nếu mỗi thời khắc trôi qua, người ta luôn cảm nhận được vô vàn những biến động chập chờn trong suy nghĩ nội tại và ngoại cảnh bên ngoài. Tình yêu không được hiện hữu để người ta truy nguyên, bởi vì nó không có một ý nghĩa nhất định tại điểm xuất phát của nó, dẫu là "một buổi chiều”, dưới "nắng nhặt” hay trong gợn “gió hiu hiu:”
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu" Xuân Diệu đã từng ý thức rõ ràng điều đó và đã tuyên ngôn nên một lời khẳng định cho sự bất khả diện kiến nguồn cội của tình yêu. Và rồi Xuân Quỳnh cũng đã tìm đến, giữa nơi giao thoa miền trời, miền biển, miền hồn để thốt nên một lời thừa nhận giàu mỹ cảm và nữ tính: “Em cũng không biết nữa", tiếp nối đó là
một câu hỏi đính kết tại cuối dòng thơ khép lại dòng chảy thi vị của tổng thể toàn khổ:
“Khi nào ta yêu nhau" Lạ lùng thay, khi trong thơ ca, sự tồn tại của trật tự ngôn ngữ cũng như cấu trúc ngữ pháp được quy định sẵn đều trở nên bị hạn định, cô nén lại thành những hạt cát phân tán giữa không gian mênh mông. Quy luật của ngôn ngữ chỉ là một biểu hiện mờ nhạt trong thi ca khi nó đóng góp vai trò định hướng khả năng hiểu biết chứ không trực tiếp dự phần vào cách thức thấu cảm những ý nghĩa do nhà thơ biểu đạt. Trong dòng thơ này, Xuân Quỳnh sử dụng từ để hỏi rất rõ ràng ("Khi nào”) nhưng lại không lắp đặt dấu chấm hỏi (?) - vốn dĩ là một bộ phận quan trọng trong câu nghi vấn - ở cuối dòng thơ. Phải hay chăng, lời nghi vấn này không phải được dùng để hỏi, để truy vấn hay để kiếm tìm hồi đáp rõ ràng. Mà hơn hết, dòng thơ này được thiết tạo với giá trị quan trọng hơn cả là để tái khẳng định sự bất lực của mình đối với nguồn cội
nguồn của dòng chảy tình yêu. Nó không có dấu chấm hỏi cuối dòng là để thổ | lộ cho cảm niệm mà nhà thơ tự đúc kết sau những nghĩ suy, dao động từ bên trong. Cảm niệm ấy là thứ cảm niệm sâu sắc, rằng đừng gắng cổ đến độ hư mòn để tìm kiếm nơi tình yêu bắt đầu. Tình yêu có thể không có điểm bắt đầu nhưng nó rõ ràng có được điểm kết thúc (hoặc chia ly hoặc chung thủy mặn nồng), và trong tâm thể của những con người dành niềm tin bất tuyệt cho tình yêu và phụng thờ vị thần tình ái, có lẽ sẽ ý nghĩa hơn nhiều, giá trị hơn nhiều khi người ta dành thì giờ và xúc cảm để đầu t.ư cho chặng đường mình đương đi qua, để kiến lập nên đích đến chắc chắn hơn của tình yêu mà ở đó, ta có quyền hy vọng một hạnh phúc, một toại nguyện, một lòng tin, một khoan thai,
Những nỗ lực kiếm tìm nguồn cội tình yêu đã tiếp nối dài hơn quãng ngân của niềm nhung nhớ và rồi nỗi nhớ ấy dâng tràn ra khỏi vòng cượng tỏa của hạn định về thời-không và tác động lên cả cấu trúc của tứ thơ:
“Con sông dưới lòng sầu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bời Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức" Tổng thể mạch thi hứng của cả bài thơ “Sóng” là thế vận động tương phùng của hai chủ thể "sóng" và "em". Lắm khi, chúng biệt tách nhau ra để soi rọi và thấu cảm lẫn nhau, lần tìm những sự chung nhất trong cách "sóng" vô bờ và cách "em" nhở "anh". Đôi khi, hai chủ thể ấy là thực hiện thứ cơ chế bổ trợ nhau, rồi đến xích lại gần nhau và rồi nhất quản lẫn nhau tạo dựng thành giác độ đồng quy trong t.ư cách, từ biệt lập đến độ hòa quyện vào nhau. Hai dòng thơ đầu tiên của khổ thơ trên đã thể hiện rõ ràng thứ cơ chế đó, ở chỗ, nó vừa | tái hiện sự chuyến lưu của "Con sóng" ở hai vị trí cơ bản là “lòng sâu" và "mặt nước". Cách diễn tả này nằm ở bề mặt của tứ thơ, là phần diễn tả những chuyển động và hải phận của "sóng" giữa điệp trùng biển khơi. Và rồi từ chính những thí ngữ sẵn có đó, hiệu năng ngôn ngữ đã kiến tạo nên một chiều kích nữa của phương hướng thấu đạt nội hàm ý thơ. Hiển nhiên ta thấy rõ và ta biết chắc rằng trạng thái thường trực của "sóng" là sự chuyển động không dừng, liên hồi, không đứt quãng, không ngơi nghỉ ở cả trên bề mặt" hay ở độ "sâu" bên dưới. Chính cách thức chuyển động liên tục, vận hành hay di dịch đổi thay đó kết hợp cùng với những danh từ đa nghĩa như "mặt" và "lòng" đã làm xuất hiện nên một chủ thể nữa năm ở bề sâu, bề sau, bề xa của ngữ từ mà đòi | buộc phải lăng động, sôi nhìn và mở toang ra những ý hướng khả dĩ để đón nhận lấy. Phải hay chăng, chính những “Con sóng” liên hồi lăn tăn trên "mặt" biển cũng giống như những đổi thay buồn, vui, giận, yêu, ghen, nhớ, vay của chính gương mặt" nơi “em" khi đem lòng yêu anh? Và phải hay chăng những “Con sóng" chuyển lưu ào ạt bên dưới lòng” biển khơi cũng tự nó kết nối với những biến thiên trong tầm “lòng" của em: hôm nay thương nhớ, một mai dỗi hờn, đội ngày ghen ghét, rồi lại thuần túy về lại với niềm thương "anh", yêu “anh”. Cách "Con sóng” tấp nập vỗ bờ, ào ạt xô vào miền cát trắng đã khiến một cách phù hợp với nghĩ suy và cảm xúc thực tế trong phương diện tình yêu. Ở địa hạt tình yêu, dưới cảm niệm của Xuân Quỳnh, sự kết nối diễn ra giữa hai đối tượng là bình đẳng, vì yêu là đặc tính của con người, là quyền hạn bất khả phân ly của nhân quyền, thuộc về sự biểu hiện cơ bản của nhân tính nên chị đã đặt bước chân của mình trên đại lộ thế kỷ mới để khẳng định về cách thức tồn tại của tình yêu nơi người con gái cũng có đủ đầy quyền hạn để tuyên ngôn một chân lý tâm hồn: “Lòng em nhớ đến anh”. Nỗi nhớ ấy không những tác động đến bố cục ngữ pháp tổng quan của toàn khổ thơ, mà nó còn làm đảo lộn cả chiều kích diễn biến của quy luật thời-không, nó chuyển dịch nỗi niềm và sự khát vọng đến mức độ xâm nhập cả vào tiềm thức:
"Cả trong mơ còn thức” Văn chương không tuân theo lề luật cục bộ như những hình thải ý thức khác. Sự tồn tại của văn chương là tập hợp tự do của những biến tố cảm xúc nội sinh trong cảm tưởng và suy nghiệm đặc thù của tác giả. Vì lẽ đó, Xuân Quỳnh đã không dùng đến hệ thống các tính từ đặc tả cường độ của động từ “nhớ. Thay vào ấy, chị sử dụng dòng thơ trên để gợi tả nỗi “nhớ' tiềm tàng nhưng đầy ám gợi. Sự ảm gợi lấn lướt diễn biến của thực tế và rồi đeo bám vào trong cả cõi giới của giấc mơ" - biên thùy cùng cực nơi tiềm thức vẫy gọi và khơi mở những trị năng đặc biệt mà người ta chưa bao giờ hình dung đến. Nơi đó, nó không | tồn tại những sinh thể hữu cơ để ta chạm, ghi, siết. Nơi đó, nó không kết nối với ta bằng phương diện vật chất thuần túy như lệ thường đời sống, nó thừa nhận những cái phi lý nhưng lại là chân lý ("mơ còn thức). Mà ở đó, nó là nơi dung chứa những ý niệm về xúc cảm, vùng đất tập hợp các biến thể thuộc về nghĩ suy và trăn trở mà chỉ khi nào nồng độ và cường độ cảm xúc phát triển đến độ mãnh liệt thì cánh cổng xâm nhập vào cõi giới này mới mở bật ra. Trong tiềm thức Xuân Quỳnh, trạng thái thao thức thường trực cứ thầm thì theo đó ám gợi và khơi vẫy chính là trạng thái của nỗi "nhớ". Nỗi “nhớ' đã kết nhập hai tọa độ độc lập của thực tại và tiềm thức lại, nó khiến cho trái tim và lý trí của Xuân Quỳnh được phủ trùm lớp vải Acacia đan dệt từ những rung động chân thực hơn bao giờ hết. Yêu là vậy, lời nói có thể khiến tình yêu trở nên hoa mỹ bằng những ý vị thanh nhã mỹ miều, hành động có thể đốc thúc tình trường trở nên nồng hậu và phấn khởi nhưng có lẽ, chỉ bằng những thô bày bộc bạch tâm t.ư, thốt nên từ miền hồn của tâm thức với những thảng thốt, ân cần, xao nhãng và hoài cảm, phi lý và nhiệt thành, chân ái và đầy xót xa thì câu chuyện tình yêu mới được lắp kín bởi sự thủy chung, mới đủ sức minh chứng cho lòng chân thành. Đặt trạng thái cảm xúc đó của Xuân Quỳnh dưới góc độ phân tâm học phát triển bởi nhà tâm lý học Sigmund Freud thì có lẽ, thứ trạng thái “nhớ nhung ấy là minh chứng giàu sức thuyết phục cho quan điểm “Chỉ trong giấc mơ, người ta mới diện kiến được những gì chân thực nhất". Và bằng cách đó, Xuân Quỳnh cử giăng mạnh ý niệm về tình cuộc của mình bằng tất thảy những gì biến động và đảo chao, dường như chị đã về tình yêu bằng | bóng đêm, họa tâm tình bằng nỗi nhớ, khắc suy t.ư bằng nỗi niềm nên mỗi tiếng yêu là một lời thổn thức, phản hồi chân thật bằng những tỏ bày ý vị, xuyên xao, ...
Nếu ví cấu trúc nghệ thuật của tổng thể các khổ thơ trên là một vùng biển khơi mênh mông thì thể thơ năm chữ với tiết điệu đặc thù vang vọng ra từ đó đóng vai trò như tạo lập nên âm điệu của những con sóng vô xô liên tục không dứt vào bờ bãi. Trên khơi trường nghệ thuật ấy, những ngôn từ giản dị nhưng giàu sức khơi vây và đan gài hệ thống hình ảnh ẩn dụ ở nhiều tầng via đã khiến cho chủ lưu tình cảm xuyên suốt thi phẩm trôi chảy dào dạt không đứt quãng. Giữa vùng biển mênh mang đến thế, độc giả đã không bị cuốn lạc vào vùng tịch địa âm u của những ám ảnh, ảo mộng hư vô, mà thay vào đó, sự vận động luân lưu từ tách rời đến bầu quyện vào nhau giữa hai chủ thể "sóng" và "em” đã đóng vai trò như ngọn hải đăng rọi soi hướng phát triển nghệ thuật trở nên logic, hài hòa với ý hướng diễn đạt về t.ư tưởng chủ đạo của tác giả cầm trịch nhất quán từ đầu đến khi khép lại. | "Sóng" là thi phẩm tiêu biểu nhất của đời thơ Xuân Quỳnh, vì vậy, không phải vô căn cứ khi xác định rằng "vẻ đẹp nữ tính" trong "Sóng" đã dự phần đáng kể vào quá trình thiết tạo nên nét đẹp ấy trong toàn thể không gian thơ do Xuân Quỳnh sáng tác. Vẻ đẹp nữ tính ấy vừa mang tính truyền thống, vừa mang nét hiện đại. Truyền thống ở chỗ, vẻ đẹp ấy luôn toát ra từ chính nhân phẩm cao đẹp, bằng sự nhẹ nhàng, thanh nhã, thiết tha chứ không cuồng nhiệt táo bạo; vẻ đẹp ấy được tô vẽ bởi sự son sắt thủy chung, niềm tin và khát vọng đến những điều tốt đẹp cho người thương, mái ấm và những phận kiếp cô liêu, nó được đắp xây bởi ý nguyện tích cực lẫn trạng thái âu lo thường trực cho những biến cố mảy may xảy đến bao giờ chẳng hay. Mặt khác, vẻ đẹp nữ tính trong đời thơ Xuân Quỳnh cũng thể hiện một ý niệm hiện đại về vai trò chủ động của phụ nữ đối với tình yêu, rằng chị bày tỏ sự rung cảm của trái tim, nỗi nhớ và lời yêu đối với người mình yêu bằng tất thảy những lời lẽ chân thành, thẳng thắn nhưng vẫn tinh tế, đằm thắm trong nét đẹp dịu dàng nồng hậu của người phụ nữ Việt Nam,
Những đoạn thơ trên và vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh đã đem lại cho bối cảnh thời đại hiện nay chiều sâu tâm lý và khơi vẫy mỗi cá nhân hướng về trái tim của mình - nơi phát sinh, cội nguồn, căn rễ của những điều chân thật và mới mẻ luôn đợi chờ ta khám phá. Lắm người bảo rằng, sự thai nghén và ra đời của “Sóng” dường như đã đi ngược lại với chủ lưu văn học lúc bấy giờ, khi cả nước tiếp nhập vào trong bản hùng ca dân tộc kháng chiến cứu quốc. Nhưng nào có đâu, nào phải đầu, nào thật đâu..., bởi lẽ giữa những hội bom đạn thả dài trên những miền đất rạng ngời của non sông, giữa dòng chảy ào ạt dồn dập của văn chương cách mạng, giản đơn răng, “Sóng” cùng vẻ đẹp nữ tính mà Xuân Quỳnh trao gởi chỉ thuần túy như một đóa “Hoa dọc chiến hào" để mỗi cá nhân có cơ hội bày tỏ lòng tâm sự và cảm nhận lặng lẽ những điều tâm hồn bên trong đang thổn thức. Chính cách mà “Sóng” nở rộ mang theo mùi hương tao nhã, êm đềm của nó đã khiến cho mỗi người được sống dậy những gì chân thật nhất và giữ niềm tin mãnh liệt hơn về một đời sống đáng mơ ước. Bối cảnh khi dịch cô vít đã lấn lướt xóm cửa, làng mạc, khi bè lũ "quân thù" kinh hãi ấy đang đe dọa xã hội ta bằng cơn ác mộng về cái chết và sự chia lia, đọc “Sóng” và thấu cảm đủ đầy nét đẹp nữ tính cùng những giá trị thuần hậu mà bài thơ đem lại, mỗi cá nhân chúng ta lại có cơ hội ấp ủ những ý niệm cao đẹp, khơi sâu tầng vỉa nghĩ suy nội tại để kiếm tìm động lực cho trái tim, cho lý trí và cho cả sự gắn kết giữa người với người cùng nỗ lực vì một xã hội ngày một cường thịnh.
Kết thúc
/SPOILER]
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Nền tảng là một khái niệm đồng thời mang tính vật chất lẫn phi vật chất. Nó tồn tại hiển nhiên trong mọi dạng thức có mặt trong cuộc sống, lắp đặt nên các công trình và nằm ẩn yên bên trong miện hồn thăm thẳm của mỗi cá nhân. Ở mọi cấu trúc tầm cỡ, nền tảng được tạo lập cho sự vững chãi, định hình bản thể của sự vĩ mô và ở đó, trong hình hài của các khối kiến trúc, con người được diện kiến vẻ đẹp t.ư duy ký thác bên trong sự hữu tồn của viên gạch, nên đất, lớp kính và bản vẽ. Trong địa hạt tâm hồ - chốn thịnh suy của tâm t.ư kiếp người, nền tảng khiến cho người ta thấu hiểu về hệ giá trị của bản thân, kết nối sự vô t.ư lự và ngẫm nghĩ dân vật, sự bất cần và khát vọng chiếm hữu, cảm giác bất lực và niềm hân hoan chinh phục những tầm cỡ. Nền tảng là phần trọng yếu của mọi hình hài vật chất và cảm xúc phi vật chất. Trong văn chương, nền tảng kỳ thực là một khái niệm mang tính phân ưu giữa các tác phẩm vĩ đại và những thoáng gợn chóng phai của bút lực tác giả, Nền tảng đóng góp cho bộ mặt của mọi áng văn chương, bảo lưu cho sự tồn tại lâu dài của triết lý tồn tại bên trong từng tác phẩm. Riêng ở địa hạt thơ ca, nền tảng là cơ sở quan trọng thiết tạo nên phong cách đặc hữu của người thi nhân. Bằng nền tảng, người ta tìm thấy ở vần thơ chất liệu đặc sắc của cảm xúc, phương hưởng dụng ngữ, sự trăn trở trong cốt cách và tiếng thở nghệ thuật đượm đặc sắc tố bản ngã độc nhất. Và với thơ Xuân Quỳnh, nền tảng ấy là linh tính và dự cảm cho những âu lo trăn trở. Sự xáo động trong hồn cốt khiển định hình nên nền tảng của thơ chị với mọi chất liệu tinh kết nên bằng tình yêu, nỗi nhớ, ước nguyện đoàn tụ. Ta nhìn thấy rất rõ thực tế ấy trong những đoạn thơ sau - những đoạn thơ được dự phần vào việc tạo tác nên vẻ đẹp nữ tính" xuyên suốt đời thơ Xuân Quỳnh:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức Được xướng danh là “Nữ hoàng thơ tình yêu”, ngôi báu trong hồn thơ Xuân Quỳnh ngự trị ở những miền hồn riêng biệt, nơi mà trái tim và sự yêu được kết tỉa, đan gài trong hình hài của những thổn thức chứ không thét gào, âm ( khát vọng chứ không cuồng nhiệt, thanh tao bình dị chứ không ước lệ vĩ mô. Ở đó, tình yêu của chị là một chuỗi thầm thì kéo dài, kết nối những cung bậc sâu lắng, phiền muộn tạo thành dáng hình của nàng thơ. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh là sự tái hiện rõ ràng của một dạng thức phát kiến đời sống, bản chất của đời sống ấy nằm trong vòng cương tỏa của những cung bậc khi yêu, cách yêu và ước vọng vì tình yêu, Dung tích của nội hàm tình yêu trong cuộc đời ấy, trong con người ấy vượt qua sự liên tưởng thông thường thuộc về lứa đôi, phạm trù của tình yêu” đã chạm đến các mạch nối đặc thù của cả đời sống bao gồm tình yêu đối với gia đình, tình yêu đối với sự thoảng gợn, tình yêu đối với khát vọng, tình yêu đối với những chênh vênh bất định, thình lình lấn lướt những ý niệm bề sâu. Cả trái tim bé nhỏ đã thấu đạt tường tận phương thức vận hành của nó, dường như nó là không gian nhạy cảm đối với mọi chuyển động vô hình hay hữu hình của ngoại cảnh và rồi không thể bỏ sót lại điều gì dẫu vụn vặt nhất, nó e ấp cưu mang, nhặt lấy những tàn rơi ứ đọng bên lề thời cuộc. Chính lẽ đó, sự nhạy cảm nội tại ấy đã mang lại cho dạng thức tình yêu của Xuân Quỳnh mọi dự cảm tổng hòa của diễn tiến đời sống bao gồm cả những lưỡng cực cấu kết nên từ yêu và xa, nhớ và bạc, âu lo và vô tình, tha thiết và mòn phai, ... Tình yêu lứa đôi là nhánh rẽ, được tách chiết từ không gian cảm xúc trong trái tim Xuân Quỳnh. Chính những cảm niệm trong cách thấu đạt về tình yêu lứa đôi mà tiết điệu thơ của chị nhìn chung bám lấy sự vận động chủ lưu từ đây, rằng trong thơ tình yêu đôi lứa nơi tâm khảm Xuân Quỳnh, mọi giai ngân dù thuộc phạm trù nào của cảm xúc đi chăng nữa, nó cũng đều liền mạch với cảm biến thời cuộc và dự trù về nỗi khắc khoải khôn nguôi nơi thế sự cuộc đời. “Sóng” là thi phẩm được tái tạo từ vòng luân lưu của gió biển, được định hình từ táp gạo của miền khơi vào lòng cát bãi, được thai nghén từ trải nghiệm và suy t.ư khi Xuân Quỳnh có chuyến đi thực tế tại cửa biển Diêm Điền cuối những năm 1960. Những đoạn thơ được trích dẫn như trên là cực trị cảm xúc của miền nghiệm nơi trái tim người phụ nữ đập những nhịp đồng vọng với cả nhịp biển, nhịp đời và nhịp yêu.
Ngoại cảnh không biến mất hoàn toàn khỏi những đường nét tô tạo bởi tác giả trong các tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng. Ngoại cảnh, ngược lại, bấu rẽ vào bề mặt thi từ, nảy nở những diện mạo phát sinh vượt xa ra khỏi quy luật vật lý của thực tiễn để trở thành một sứ giả phát vọng tiếng tù và vang lên từ tầng vỉa sâu thẳm nơi tâm thức nhà thơ. Lắm khi, nó chỉ là một | thoáng hiện vô t.ư từ dòng chảy tự nhiên của xúc cảm thì nhân, nhưng hắn hỏi nó không hư biến, hư mờ mà được dự phân vào quá trình phát ngôn của cảm xúc:
Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn.
Từ nơi nào sông lên?
Không gian ngoại tại đã được chuyển dịch từ ký ức thực tế sang thành nhãn quan thi vị. Cửa biển Diêm Điền đã gieo cấy sẵn một hạt mầm tương quan giữa cái bao la, bất tận nơi chân trời với niềm nghĩ suy mênh mang, khắc khoải nơi tâm hồn của "Em". Bằng cách đó, "sóng biển" như nghe theo tiếng vẫy gọi của con người và lảo đảo thoát lìa khỏi đường chân trời cố định để vỗ đập ngân nga theo sự vận động của nỗi niềm nội sinh trong tâm khảm “em”. Ở đây, bản thể của "em" và "sóng" được chiết tách ra, không đồng nhất, không giao nhau triệt để. Bởi lẽ, trong âm hưởng thợ và bối cảnh không gian thì ngữ tạo lập nên, cần thiết phải có một khoảng cách giữa hai đối tượng trữ tình này nhằm để "em" có thể định hình rõ ràng sự chuyển động của ý thức bên trong trái tim của mình. Nhưng khoảng cách ấy không khiến “em” và "sóng" trở nên rời rạc, lung lay mà mối quan hệ ấy được giữ vững theo tiến trình đồng nhịp của cách "sóng" vỗ bờ và cách "em" không dừng “nghĩ" suy. Cụm từ "muôn trùng” đã khai mở rộng lớn không gian của biển cả, tấp nập lũ lượt từng cơn “sóng biển”; để rồi, cũng chính nghĩa ý từ cái "muôn trùng” ấy, độc giả cảm được cả cái bất tận trong không gian cảm xúc của chủ thể "em". Và như thế, dòng tâm t.ư của "em” được biểu lộ trong sự cân đối hài hòa của phép điệp cầu trúc ngay sau đó:
"Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn” Động từ "nghĩ như vẫy gọi mọi cung cách của sự yêu. "nghĩ" là phần trí năng Cơ bản của con người, thuộc về cấp độ nhận thức lý tính. Nhưng âm hưởng của “nghĩ trong sự yêu Xuân Quỳnh toát ra từ hai dòng thơ trên lại phần nhiều cho ta thấu đạt nó ở vai trò cảm xúc hơn là lý tính. Cảm xúc của "em" đối với "anh”, của “em” đối với chính mình, của “em” đối với trăn trở, của "em" đối với âu lo. Trong động từ "nghĩ” được điệp lại hai lần đó, độc giả chu du tại một vùng sinh địa của nỗi niềm, dao động biến chuyển khôn nguôi của nỗi nhớ. À ra là thế, "nghĩ" ở đây là một dạng thức biểu hiện của nỗi nhớ, là trạng thái ấy luôn thường trực, luôn ám gợi, luôn ứ đọng tồn tại ở mọi thời khắc trong "em" nên bao giờ “em” cũng phải “nghĩ". Dù là thiên hướng của “nghĩ" thuộc về phạm trù của trái tim nhưng nó không ly khai toàn bộ khỏi sự tỉnh táo nơi cửa ngỏ lý tính. Bởi lẽ rằng trong dòng chảy "nghĩ” suy đó, “em” không chỉ dành nó cho riêng ai, hoặc anh, hoặc em và em dành nó cho cả đôi ta. Đối tượng mà suy nghĩ" của “em” hướng đến là "anh, em". Việc bố trí dấu phẩy ở giữa "anh” và "em" đã khiến cho cấu trúc dòng thơ bị gãy, nhịp thơ bị tách biệt giữa chừng. Nhưng bởi chủ ý của cách bố trí như thế mà việc nghĩ” ngợi, suy t.ư có sự can dự tỉnh táo của lý tính. Ở chỗ, “em” đã dành thì giờ để hồi tưởng.
Dòng thơ cuối của khổ trên đã thiết lập nên một đà thơ đóng vai trò gầy dựng hướng phát triển cho nội hàm khổ thơ tiếp đến:
“Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đầu Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau” Cả khổ thơ nhìn chung nằm trong khát vọng tổng thể là khát vọng truy nguyên cho sự khởi đầu của hai thứ. Một mặt, ấy là niềm trăn trở của người thị nhân đối với ý niệm tìm tòi nguồn gốc phát nguyên nên "sóng". Thế là “Sóng” đã được định vị đúng với nguồn gốc của nó, nó được khởi đầu từ những dòng lưu chuyển của “gió" nên hiển nhiên nó bắt đầu từ gió”. Nhưng ấy lại chưa phải là điểm khởi nguyên tường tận, vì vậy, dòng nghi vấn lại được tiếp nối về nguồn cội của “Gió”. Điệp ngữ “bắt đầu từ được ướm đặt vào hai dòng thơ đầu tiên dường như đã biểu thị thứ khát vọng chân thật của lý tính con người. Đó là thứ khát vọng về sự nghi vấn đối với mọi hiện tượng diễn ra trong đời sống xung quanh. Điều này vốn dĩ là một chủ đề thuộc vào phạm trù triết học, bởi lẽ vai trò của triết học là truy vấn mọi dạng thức tồn tại và biểu hiện của cuộc sống xung quanh nhằm để trả lời câu hỏi về nguồn gốc phát sinh của mọi dạng thực hiện hữu. Ý hướng triết học xuất hiện trong thơ ca vốn dĩ không phải là một điều quá mới mẻ. Người ta đã thấy trong thơ của Danta nét hình đượm đặc của triết học kinh viện thời Trung Cổ, diện kiến trong thơ của Puskin. dáng vấp của triết thuyết thời kỳ Chủ nghĩa lãng mạn lên ngôi. Nhưng trong thơ của Xuân Quỳnh, ý hưởng triết học không được xác lập một cách quá đối rõ ràng, nó giống một hương vị hơn là một món ăn bổ béo bày sẵn, nó giống
một thoáng gợn luyến lưu hơn là một cuồng nhiệt bão tổ. Ước vọng truy nguyên về nguồn gốc của các hiện tượng vật lý như "sóng" và “gió" chỉ là một bộ phận cơ bản cho phép toán chủ yếu được đặt ra trong khổ thơ, đó là phép toán truy nguyên về nguồn cội của tình yêu. Nỗ lực đã được nhà thơ gắng cố tìm tòi, liên kết đến cả những hiện tượng tự nhiên nuôi giữ ước mong rằng sẽ có thể biết được đâu là khởi phát cho những cảm xúc, bâng khuâng, nhớ mong, khắc khoải, chờ đợi, hy vọng, v.v thường thấy khi người ta yêu. Nhưng tự thân tác giả đã hồi đáp cho khát vọng đó bằng lời thừa nhận thắng thần:
“Em cũng không biết nữa" Một dòng thơ nhưng nó được gắn vào đó cả hai tình thái từ ở giữa và cuối ("cũng", “nữa") đã khiến cho âm hưởng xui theo hơi thở nhẹ nhàng của sự bất lực. Bởi lẽ tình yêu là phạm trù được tạo dựng từ bên trong hành trình tương tác giữa người với người, điểm khởi đầu của nó là ở một sự bất định nào đó, một sự hiện hữu mờ nhạt nào đó, một cái gợi nhớ nào đó, một cái đắm say thoáng chợt nào đó - nó là một phức hợp tổng hòa những cái không chắc chắn gây ra trong tâm thức của con người và làm sao người ta có thể tìm tòi ra được nguồn cội rõ ràng của tình yêu nếu mỗi thời khắc trôi qua, người ta luôn cảm nhận được vô vàn những biến động chập chờn trong suy nghĩ nội tại và ngoại cảnh bên ngoài. Tình yêu không được hiện hữu để người ta truy nguyên, bởi vì nó không có một ý nghĩa nhất định tại điểm xuất phát của nó, dẫu là "một buổi chiều”, dưới "nắng nhặt” hay trong gợn “gió hiu hiu:”
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu" Xuân Diệu đã từng ý thức rõ ràng điều đó và đã tuyên ngôn nên một lời khẳng định cho sự bất khả diện kiến nguồn cội của tình yêu. Và rồi Xuân Quỳnh cũng đã tìm đến, giữa nơi giao thoa miền trời, miền biển, miền hồn để thốt nên một lời thừa nhận giàu mỹ cảm và nữ tính: “Em cũng không biết nữa", tiếp nối đó là
một câu hỏi đính kết tại cuối dòng thơ khép lại dòng chảy thi vị của tổng thể toàn khổ:
“Khi nào ta yêu nhau" Lạ lùng thay, khi trong thơ ca, sự tồn tại của trật tự ngôn ngữ cũng như cấu trúc ngữ pháp được quy định sẵn đều trở nên bị hạn định, cô nén lại thành những hạt cát phân tán giữa không gian mênh mông. Quy luật của ngôn ngữ chỉ là một biểu hiện mờ nhạt trong thi ca khi nó đóng góp vai trò định hướng khả năng hiểu biết chứ không trực tiếp dự phần vào cách thức thấu cảm những ý nghĩa do nhà thơ biểu đạt. Trong dòng thơ này, Xuân Quỳnh sử dụng từ để hỏi rất rõ ràng ("Khi nào”) nhưng lại không lắp đặt dấu chấm hỏi (?) - vốn dĩ là một bộ phận quan trọng trong câu nghi vấn - ở cuối dòng thơ. Phải hay chăng, lời nghi vấn này không phải được dùng để hỏi, để truy vấn hay để kiếm tìm hồi đáp rõ ràng. Mà hơn hết, dòng thơ này được thiết tạo với giá trị quan trọng hơn cả là để tái khẳng định sự bất lực của mình đối với nguồn cội
nguồn của dòng chảy tình yêu. Nó không có dấu chấm hỏi cuối dòng là để thổ | lộ cho cảm niệm mà nhà thơ tự đúc kết sau những nghĩ suy, dao động từ bên trong. Cảm niệm ấy là thứ cảm niệm sâu sắc, rằng đừng gắng cổ đến độ hư mòn để tìm kiếm nơi tình yêu bắt đầu. Tình yêu có thể không có điểm bắt đầu nhưng nó rõ ràng có được điểm kết thúc (hoặc chia ly hoặc chung thủy mặn nồng), và trong tâm thể của những con người dành niềm tin bất tuyệt cho tình yêu và phụng thờ vị thần tình ái, có lẽ sẽ ý nghĩa hơn nhiều, giá trị hơn nhiều khi người ta dành thì giờ và xúc cảm để đầu t.ư cho chặng đường mình đương đi qua, để kiến lập nên đích đến chắc chắn hơn của tình yêu mà ở đó, ta có quyền hy vọng một hạnh phúc, một toại nguyện, một lòng tin, một khoan thai,
Những nỗ lực kiếm tìm nguồn cội tình yêu đã tiếp nối dài hơn quãng ngân của niềm nhung nhớ và rồi nỗi nhớ ấy dâng tràn ra khỏi vòng cượng tỏa của hạn định về thời-không và tác động lên cả cấu trúc của tứ thơ:
“Con sông dưới lòng sầu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bời Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức" Tổng thể mạch thi hứng của cả bài thơ “Sóng” là thế vận động tương phùng của hai chủ thể "sóng" và "em". Lắm khi, chúng biệt tách nhau ra để soi rọi và thấu cảm lẫn nhau, lần tìm những sự chung nhất trong cách "sóng" vô bờ và cách "em" nhở "anh". Đôi khi, hai chủ thể ấy là thực hiện thứ cơ chế bổ trợ nhau, rồi đến xích lại gần nhau và rồi nhất quản lẫn nhau tạo dựng thành giác độ đồng quy trong t.ư cách, từ biệt lập đến độ hòa quyện vào nhau. Hai dòng thơ đầu tiên của khổ thơ trên đã thể hiện rõ ràng thứ cơ chế đó, ở chỗ, nó vừa | tái hiện sự chuyến lưu của "Con sóng" ở hai vị trí cơ bản là “lòng sâu" và "mặt nước". Cách diễn tả này nằm ở bề mặt của tứ thơ, là phần diễn tả những chuyển động và hải phận của "sóng" giữa điệp trùng biển khơi. Và rồi từ chính những thí ngữ sẵn có đó, hiệu năng ngôn ngữ đã kiến tạo nên một chiều kích nữa của phương hướng thấu đạt nội hàm ý thơ. Hiển nhiên ta thấy rõ và ta biết chắc rằng trạng thái thường trực của "sóng" là sự chuyển động không dừng, liên hồi, không đứt quãng, không ngơi nghỉ ở cả trên bề mặt" hay ở độ "sâu" bên dưới. Chính cách thức chuyển động liên tục, vận hành hay di dịch đổi thay đó kết hợp cùng với những danh từ đa nghĩa như "mặt" và "lòng" đã làm xuất hiện nên một chủ thể nữa năm ở bề sâu, bề sau, bề xa của ngữ từ mà đòi | buộc phải lăng động, sôi nhìn và mở toang ra những ý hướng khả dĩ để đón nhận lấy. Phải hay chăng, chính những “Con sóng” liên hồi lăn tăn trên "mặt" biển cũng giống như những đổi thay buồn, vui, giận, yêu, ghen, nhớ, vay của chính gương mặt" nơi “em" khi đem lòng yêu anh? Và phải hay chăng những “Con sóng" chuyển lưu ào ạt bên dưới lòng” biển khơi cũng tự nó kết nối với những biến thiên trong tầm “lòng" của em: hôm nay thương nhớ, một mai dỗi hờn, đội ngày ghen ghét, rồi lại thuần túy về lại với niềm thương "anh", yêu “anh”. Cách "Con sóng” tấp nập vỗ bờ, ào ạt xô vào miền cát trắng đã khiến một cách phù hợp với nghĩ suy và cảm xúc thực tế trong phương diện tình yêu. Ở địa hạt tình yêu, dưới cảm niệm của Xuân Quỳnh, sự kết nối diễn ra giữa hai đối tượng là bình đẳng, vì yêu là đặc tính của con người, là quyền hạn bất khả phân ly của nhân quyền, thuộc về sự biểu hiện cơ bản của nhân tính nên chị đã đặt bước chân của mình trên đại lộ thế kỷ mới để khẳng định về cách thức tồn tại của tình yêu nơi người con gái cũng có đủ đầy quyền hạn để tuyên ngôn một chân lý tâm hồn: “Lòng em nhớ đến anh”. Nỗi nhớ ấy không những tác động đến bố cục ngữ pháp tổng quan của toàn khổ thơ, mà nó còn làm đảo lộn cả chiều kích diễn biến của quy luật thời-không, nó chuyển dịch nỗi niềm và sự khát vọng đến mức độ xâm nhập cả vào tiềm thức:
"Cả trong mơ còn thức” Văn chương không tuân theo lề luật cục bộ như những hình thải ý thức khác. Sự tồn tại của văn chương là tập hợp tự do của những biến tố cảm xúc nội sinh trong cảm tưởng và suy nghiệm đặc thù của tác giả. Vì lẽ đó, Xuân Quỳnh đã không dùng đến hệ thống các tính từ đặc tả cường độ của động từ “nhớ. Thay vào ấy, chị sử dụng dòng thơ trên để gợi tả nỗi “nhớ' tiềm tàng nhưng đầy ám gợi. Sự ảm gợi lấn lướt diễn biến của thực tế và rồi đeo bám vào trong cả cõi giới của giấc mơ" - biên thùy cùng cực nơi tiềm thức vẫy gọi và khơi mở những trị năng đặc biệt mà người ta chưa bao giờ hình dung đến. Nơi đó, nó không | tồn tại những sinh thể hữu cơ để ta chạm, ghi, siết. Nơi đó, nó không kết nối với ta bằng phương diện vật chất thuần túy như lệ thường đời sống, nó thừa nhận những cái phi lý nhưng lại là chân lý ("mơ còn thức). Mà ở đó, nó là nơi dung chứa những ý niệm về xúc cảm, vùng đất tập hợp các biến thể thuộc về nghĩ suy và trăn trở mà chỉ khi nào nồng độ và cường độ cảm xúc phát triển đến độ mãnh liệt thì cánh cổng xâm nhập vào cõi giới này mới mở bật ra. Trong tiềm thức Xuân Quỳnh, trạng thái thao thức thường trực cứ thầm thì theo đó ám gợi và khơi vẫy chính là trạng thái của nỗi "nhớ". Nỗi “nhớ' đã kết nhập hai tọa độ độc lập của thực tại và tiềm thức lại, nó khiến cho trái tim và lý trí của Xuân Quỳnh được phủ trùm lớp vải Acacia đan dệt từ những rung động chân thực hơn bao giờ hết. Yêu là vậy, lời nói có thể khiến tình yêu trở nên hoa mỹ bằng những ý vị thanh nhã mỹ miều, hành động có thể đốc thúc tình trường trở nên nồng hậu và phấn khởi nhưng có lẽ, chỉ bằng những thô bày bộc bạch tâm t.ư, thốt nên từ miền hồn của tâm thức với những thảng thốt, ân cần, xao nhãng và hoài cảm, phi lý và nhiệt thành, chân ái và đầy xót xa thì câu chuyện tình yêu mới được lắp kín bởi sự thủy chung, mới đủ sức minh chứng cho lòng chân thành. Đặt trạng thái cảm xúc đó của Xuân Quỳnh dưới góc độ phân tâm học phát triển bởi nhà tâm lý học Sigmund Freud thì có lẽ, thứ trạng thái “nhớ nhung ấy là minh chứng giàu sức thuyết phục cho quan điểm “Chỉ trong giấc mơ, người ta mới diện kiến được những gì chân thực nhất". Và bằng cách đó, Xuân Quỳnh cử giăng mạnh ý niệm về tình cuộc của mình bằng tất thảy những gì biến động và đảo chao, dường như chị đã về tình yêu bằng | bóng đêm, họa tâm tình bằng nỗi nhớ, khắc suy t.ư bằng nỗi niềm nên mỗi tiếng yêu là một lời thổn thức, phản hồi chân thật bằng những tỏ bày ý vị, xuyên xao, ...
Nếu ví cấu trúc nghệ thuật của tổng thể các khổ thơ trên là một vùng biển khơi mênh mông thì thể thơ năm chữ với tiết điệu đặc thù vang vọng ra từ đó đóng vai trò như tạo lập nên âm điệu của những con sóng vô xô liên tục không dứt vào bờ bãi. Trên khơi trường nghệ thuật ấy, những ngôn từ giản dị nhưng giàu sức khơi vây và đan gài hệ thống hình ảnh ẩn dụ ở nhiều tầng via đã khiến cho chủ lưu tình cảm xuyên suốt thi phẩm trôi chảy dào dạt không đứt quãng. Giữa vùng biển mênh mang đến thế, độc giả đã không bị cuốn lạc vào vùng tịch địa âm u của những ám ảnh, ảo mộng hư vô, mà thay vào đó, sự vận động luân lưu từ tách rời đến bầu quyện vào nhau giữa hai chủ thể "sóng" và "em” đã đóng vai trò như ngọn hải đăng rọi soi hướng phát triển nghệ thuật trở nên logic, hài hòa với ý hướng diễn đạt về t.ư tưởng chủ đạo của tác giả cầm trịch nhất quán từ đầu đến khi khép lại. | "Sóng" là thi phẩm tiêu biểu nhất của đời thơ Xuân Quỳnh, vì vậy, không phải vô căn cứ khi xác định rằng "vẻ đẹp nữ tính" trong "Sóng" đã dự phần đáng kể vào quá trình thiết tạo nên nét đẹp ấy trong toàn thể không gian thơ do Xuân Quỳnh sáng tác. Vẻ đẹp nữ tính ấy vừa mang tính truyền thống, vừa mang nét hiện đại. Truyền thống ở chỗ, vẻ đẹp ấy luôn toát ra từ chính nhân phẩm cao đẹp, bằng sự nhẹ nhàng, thanh nhã, thiết tha chứ không cuồng nhiệt táo bạo; vẻ đẹp ấy được tô vẽ bởi sự son sắt thủy chung, niềm tin và khát vọng đến những điều tốt đẹp cho người thương, mái ấm và những phận kiếp cô liêu, nó được đắp xây bởi ý nguyện tích cực lẫn trạng thái âu lo thường trực cho những biến cố mảy may xảy đến bao giờ chẳng hay. Mặt khác, vẻ đẹp nữ tính trong đời thơ Xuân Quỳnh cũng thể hiện một ý niệm hiện đại về vai trò chủ động của phụ nữ đối với tình yêu, rằng chị bày tỏ sự rung cảm của trái tim, nỗi nhớ và lời yêu đối với người mình yêu bằng tất thảy những lời lẽ chân thành, thẳng thắn nhưng vẫn tinh tế, đằm thắm trong nét đẹp dịu dàng nồng hậu của người phụ nữ Việt Nam,
Những đoạn thơ trên và vẻ đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh đã đem lại cho bối cảnh thời đại hiện nay chiều sâu tâm lý và khơi vẫy mỗi cá nhân hướng về trái tim của mình - nơi phát sinh, cội nguồn, căn rễ của những điều chân thật và mới mẻ luôn đợi chờ ta khám phá. Lắm người bảo rằng, sự thai nghén và ra đời của “Sóng” dường như đã đi ngược lại với chủ lưu văn học lúc bấy giờ, khi cả nước tiếp nhập vào trong bản hùng ca dân tộc kháng chiến cứu quốc. Nhưng nào có đâu, nào phải đầu, nào thật đâu..., bởi lẽ giữa những hội bom đạn thả dài trên những miền đất rạng ngời của non sông, giữa dòng chảy ào ạt dồn dập của văn chương cách mạng, giản đơn răng, “Sóng” cùng vẻ đẹp nữ tính mà Xuân Quỳnh trao gởi chỉ thuần túy như một đóa “Hoa dọc chiến hào" để mỗi cá nhân có cơ hội bày tỏ lòng tâm sự và cảm nhận lặng lẽ những điều tâm hồn bên trong đang thổn thức. Chính cách mà “Sóng” nở rộ mang theo mùi hương tao nhã, êm đềm của nó đã khiến cho mỗi người được sống dậy những gì chân thật nhất và giữ niềm tin mãnh liệt hơn về một đời sống đáng mơ ước. Bối cảnh khi dịch cô vít đã lấn lướt xóm cửa, làng mạc, khi bè lũ "quân thù" kinh hãi ấy đang đe dọa xã hội ta bằng cơn ác mộng về cái chết và sự chia lia, đọc “Sóng” và thấu cảm đủ đầy nét đẹp nữ tính cùng những giá trị thuần hậu mà bài thơ đem lại, mỗi cá nhân chúng ta lại có cơ hội ấp ủ những ý niệm cao đẹp, khơi sâu tầng vỉa nghĩ suy nội tại để kiếm tìm động lực cho trái tim, cho lý trí và cho cả sự gắn kết giữa người với người cùng nỗ lực vì một xã hội ngày một cường thịnh.
Kết thúc
/SPOILER]