Nay nhân ngày mưa phùn, lục lại một số kinh thư Đạo gia, mạn phép đăng lên Thái Thương Thanh Tĩnh Kinh tiểu đạo thường nghiền ngẫm, nhờ chủ đề này luận Đạo cùng các đạo hữu.
Kinh này lấy hai chữ “Thanh Tịnh” làm chính, cũng chính là nguyên tắc căn bản nhất để tu tâm dưỡng tính của Đạo gia.
Tác giả: không rõ, có nguồn nói là do Thiên Sư Cát Hồng (1) viết. Thiên Sư Cát Hồng thuật lại việc Lão Quân khi tây du đã cùng Tây Vương Mẫu thuyết thường về Thanh Tịnh Kinh, tất cả đều truyền miệng, không có bất kỳ văn tự nào, vì thế ông thuật lại cho hậu thế dưới dạng kinh thư.
Thanh Tịnh Kinh là một trong những công khoá trọng yếu khi tu tập hằng ngày của đạo sĩ.
Thanh Tịnh Kinh theo khảo chứng thì xuất hiện nổi bật nhất từ thời Đường, người đã từng ghi chép về kinh này là Đỗ Quang Đình (2). Tới thời Kim, sau khi Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân Giáo, liền trở thành một trong những kinh điển quan trọng của Đạo giáo.
老君曰: 大道无形, 生育天地; 大道无情, 运行日月; 大道无名, 长养万物; 吾不知其名, 强名曰道.
Lão Quân viết: Đại Đạo vô hình, sinh dục thiên địa. Đại Đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt. Đại Đạo vô danh, trường dưỡng vạn vật. Ngô bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo.
Giải nghĩa đơn giản: Đại Đạo vô hình, thiên địa từ đó mà sinh ra, Đại Đạo vô tình, nhật nguyệt theo đó mà vận hành. Đại Đạo không có tên thực sự, luôn luôn nuôi dưỡng vạn vật. Ta không biết tên, chỉ đành viết một chữ Đạo.
夫道者: 有清有浊, 有动有静; 天清地浊, 天动地静; 男清女浊, 男动女静; 降本流末, 而生万物. 清者, 浊之源, 动者, 静之基; 人能常清静, 天地悉皆归.
Phu đạo giả: Hữu thanh hữu trọc, hữu động hữu tĩnh. Thiên thanh, địa trọc, thiên động, địa tĩnh. Nam thanh, nữ trọc, nam động, nữ tĩnh. Giáng bản lưu mạt, nhi sinh vạn vật. Thanh giả, trọc chi nguyên, động giả tĩnh chi cơ. Nhân năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai quy.
Giải nghĩa đơn giải: Theo Đạo thì người có cả thanh cả trọc, có động có tĩnh. Trời thanh, đất trọc, trời động, đất tĩnh. Nam thanh, nữ trọc, nam động, nữ tĩnh. Từ gốc tới ngọn, sinh ra vạn vật. Thanh trọc là cái nguyên gốc của con người, động tĩnh là căn bản của con người. Nếu đạt được sự Thanh Tịnh, tất sẽ có được đạo của trời đất.
夫人神好清, 而心扰之; 人心好静, 而欲牵之. 常能遣其欲, 而心自静; 澄其心, 而神自清; 自然六欲不生, 三毒消灭.
Phu nhân thần hảo thanh, nhi tâm nhiễu chi. Nhân tâm hảo tĩnh, nhi dục khiên chi. Thường năng khiển kỳ dục, nhi tâm tự tĩnh, trừng kỳ tâm nhi thần tự thanh. Tự nhiên lục dục bất sinh, tam độc tiêu diệt.
Giải nghĩa đơn giản: Cái thần của người thì ưa thanh, nhưng tâm dễ bị nhiễu loạn. Cái tâm của người thì ưa tĩnh, nhưng dễ bị dục vọng lôi kéo. Có thể chế ngự được dục vọng thì tâm tự tĩnh, lặng được tâm thì thần tự thanh. Tự nhiên là lục dục sẽ không sinh, tam độc tham, sân, si bị tiêu diệt.
所以不能者, 为心未澄, 欲未遣也; 能遣之者: 内观其心, 心无其心; 外观其形, 形无其形; 远观其物, 物无其物; 三者既悟, 唯见於空. 观空亦空, 空无所空; 所空既无, 无无亦无; 无无既无, 湛然常寂. 寂无所寂, 欲岂能生; 欲既不生, 即是真静. 真常应物, 真常得性; 常应常静, 常清静矣. 如此清静, 渐入真道; 既入真道, 名为得道; 虽名得道, 实无所得; 为化众生, 名为得道; 能悟之者, 可传圣道.
Sở dĩ bất năng giả, vi tâm vị trừng, dục vị khiển dã. Năng khiển chi giả, nội quan kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm. Ngoại quan kỳ hình, hình vô kỳ hình. Viễn quan kỳ vật, vật vô kỳ vật. Tam giả ký ngộ, duy kiến vu không. Quan không diệc không, không vô sở không. Sở không ký vô, vô vô diệc vô. Vô vô ký vô, trạm nhiên thường tịch. Tịch vô sở tịch, dục khởi năng sinh. Dục ký bất sinh, tức thị chân tĩnh. Chân thường ứng vật, chân thường đắc tính. Thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh hĩ. Như thử thanh tĩnh, tiệm nhập chân đạo. Ký nhập chân đạo, danh vi đắc đạo, tuy danh đắc đạo, thực vô sở đắc. Vi hóa chúng sinh, danh vi đắc đạo. Năng ngộ chi giả, khả truyền thánh đạo.
Giải nghĩa đơn giản: Cho nên người chưa được vậy, phải tự lắng lại tâm mình, kiểm soát dục vọng. Người kiểm soát được dục vọng, trong thì tự xét tâm mình, tâm không thật thì sao gọi là tâm, ngoài thì tự xét thân mình, thân mà không thật sao gọi là thân. Xem xét sự vật, vật không thật sao gọi là vật. Cả ba thứ đó, đều gọi là không. Thứ không thấy được là không, không có cũng là không, không có nơi nào không có Không, không không cũng không, không không đã không, như sự bình lặng vẫn luôn tồn tại. Nơi nào chẳng có sự bình lặng, nào có sinh ra dục vọng, không có dục vọng, chính là cái tĩnh thật sự. Chân thường ứng vật, chân thường được tính, ứng với cái tĩnh lặng bình thường, cũng là thanh tịnh. Thanh Tịnh như vậy, đã dần tiếp cận với Đạo. Đạt được Đạo, gọi là đắc đạo, tuy có cái danh đắc đạo, thực ra không được gì cả. Vì cảm hoá chúng sinh, nên được gọi là đắc đạo. Người có thể ngộ được như vậy, mới có thể truyền thánh đạo.
老君曰: 上士不争, 下士好争; 上德不德, 下德执德; 执著之者, 不名道德. 众生所以不得真道者, 为有妄心; 既有妄心, 即惊其神; 既惊其神, 即著万物; 既著万物, 即生贪求; 既生贪求, 即是烦恼; 烦恼妄想, 忧苦身心; 便遭浊辱, 流浪生死; 常沉苦海, 永失真道. 真常之道, 悟者自得; 得悟道者, 常清静矣!
Lão Quân viết: Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ hảo tranh. Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức. Chấp trứ chi giả, bất danh đạo đức. Chúng sinh sở dĩ bất đắc chân đạo giả, vi hữu vọng tâm. Ký hữu vọng tâm, tức kinh kỳ thần. Ký kinh kỳ thần, tức trứ vạn vật. Ký trứ vạn vật, tức sinh tham cầu. Ký sinh tham cầu, tức thị phiền não. Phiền não vọng tưởng, ưu khổ thân tâm, tiện tao trọc nhục, lưu lãng sinh tử, thường trầm khổ hải, vĩnh thất chân đạo. Chân thường chi đạo, ngộ giả tự đắc, đắc ngộ đạo giả, thường thanh tĩnh hĩ.
Giải nghĩa đơn giản: bậc thượng sĩ thì không tranh giành, bậc hạ sĩ thì thích tranh giành. Người thượng đức thì không coi mình là có đức, kẻ hạ đức thì tự coi mình là có đức. Người cố chấp tự coi mình như vậy, không thể gọi là có đạo đức. Chúng sinh không có được chân đạo, vì có tâm làm điều xấu. Đã có tâm làm xấu, thì kinh ảnh hưởng đến cái thần của bản thân, cũng là vạn vật. Vạn vật xung quanh bị ảnh hưởng, thì sinh ra lòng tham lam. Tham lam được sinh ra, chính là phiền não. Những phiền não vọng tưởng, làm khổ cả thân cả tâm, liền rơi vào hỗn loạn nhục nhã, phiêu dạt trong sinh tử, chìm trong biển khổ, cứ thế mà đánh mất chân đạo. Chân Đạo cũng là thứ bình thường nhất, phải tự mình ngộ ra, người ngộ được Đạo, thì được thanh tịnh.
Chú giải: (1) Thiên Sư Cát Hồng – một trong Ngũ Đại Thiên Sư của Đạo giáo
(2) Đỗ Quang Đình 杜光庭, tự Tân Thánh 賓聖, hiệu Đông Doanh Tử 東瀛. Là thi nhân đời Đường và Ngũ đại thập quốc, người Ngoại Châu, Tấn Vân.
Sơ lược:
Thái Thượng Thanh Tịnh Kinh, Thái Thượng Thanh Tĩnh Kinh là một trong những kinh điển quan trọng của Đạo giáo. Kinh văn này không chỉ cho người ta phương pháp tu dưỡng, mà cần từ trong tâm mình trừ đi dục vọng sai trái, từ đó tham ngộ Đại Đạo.Kinh này lấy hai chữ “Thanh Tịnh” làm chính, cũng chính là nguyên tắc căn bản nhất để tu tâm dưỡng tính của Đạo gia.
Về lịch sử của Thái Thượng Thanh Tịnh Kinh – gọi ngắn là Thanh Tịnh Kinh:
Tác giả: không rõ, có nguồn nói là do Thiên Sư Cát Hồng (1) viết. Thiên Sư Cát Hồng thuật lại việc Lão Quân khi tây du đã cùng Tây Vương Mẫu thuyết thường về Thanh Tịnh Kinh, tất cả đều truyền miệng, không có bất kỳ văn tự nào, vì thế ông thuật lại cho hậu thế dưới dạng kinh thư.
Thanh Tịnh Kinh là một trong những công khoá trọng yếu khi tu tập hằng ngày của đạo sĩ.
Thanh Tịnh Kinh theo khảo chứng thì xuất hiện nổi bật nhất từ thời Đường, người đã từng ghi chép về kinh này là Đỗ Quang Đình (2). Tới thời Kim, sau khi Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân Giáo, liền trở thành một trong những kinh điển quan trọng của Đạo giáo.
Nguyên văn Thái Thượng Thanh Tịnh Kinh:
老君曰: 大道无形, 生育天地; 大道无情, 运行日月; 大道无名, 长养万物; 吾不知其名, 强名曰道.
Lão Quân viết: Đại Đạo vô hình, sinh dục thiên địa. Đại Đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt. Đại Đạo vô danh, trường dưỡng vạn vật. Ngô bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo.
Giải nghĩa đơn giản: Đại Đạo vô hình, thiên địa từ đó mà sinh ra, Đại Đạo vô tình, nhật nguyệt theo đó mà vận hành. Đại Đạo không có tên thực sự, luôn luôn nuôi dưỡng vạn vật. Ta không biết tên, chỉ đành viết một chữ Đạo.
夫道者: 有清有浊, 有动有静; 天清地浊, 天动地静; 男清女浊, 男动女静; 降本流末, 而生万物. 清者, 浊之源, 动者, 静之基; 人能常清静, 天地悉皆归.
Phu đạo giả: Hữu thanh hữu trọc, hữu động hữu tĩnh. Thiên thanh, địa trọc, thiên động, địa tĩnh. Nam thanh, nữ trọc, nam động, nữ tĩnh. Giáng bản lưu mạt, nhi sinh vạn vật. Thanh giả, trọc chi nguyên, động giả tĩnh chi cơ. Nhân năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai quy.
Giải nghĩa đơn giải: Theo Đạo thì người có cả thanh cả trọc, có động có tĩnh. Trời thanh, đất trọc, trời động, đất tĩnh. Nam thanh, nữ trọc, nam động, nữ tĩnh. Từ gốc tới ngọn, sinh ra vạn vật. Thanh trọc là cái nguyên gốc của con người, động tĩnh là căn bản của con người. Nếu đạt được sự Thanh Tịnh, tất sẽ có được đạo của trời đất.
夫人神好清, 而心扰之; 人心好静, 而欲牵之. 常能遣其欲, 而心自静; 澄其心, 而神自清; 自然六欲不生, 三毒消灭.
Phu nhân thần hảo thanh, nhi tâm nhiễu chi. Nhân tâm hảo tĩnh, nhi dục khiên chi. Thường năng khiển kỳ dục, nhi tâm tự tĩnh, trừng kỳ tâm nhi thần tự thanh. Tự nhiên lục dục bất sinh, tam độc tiêu diệt.
Giải nghĩa đơn giản: Cái thần của người thì ưa thanh, nhưng tâm dễ bị nhiễu loạn. Cái tâm của người thì ưa tĩnh, nhưng dễ bị dục vọng lôi kéo. Có thể chế ngự được dục vọng thì tâm tự tĩnh, lặng được tâm thì thần tự thanh. Tự nhiên là lục dục sẽ không sinh, tam độc tham, sân, si bị tiêu diệt.
所以不能者, 为心未澄, 欲未遣也; 能遣之者: 内观其心, 心无其心; 外观其形, 形无其形; 远观其物, 物无其物; 三者既悟, 唯见於空. 观空亦空, 空无所空; 所空既无, 无无亦无; 无无既无, 湛然常寂. 寂无所寂, 欲岂能生; 欲既不生, 即是真静. 真常应物, 真常得性; 常应常静, 常清静矣. 如此清静, 渐入真道; 既入真道, 名为得道; 虽名得道, 实无所得; 为化众生, 名为得道; 能悟之者, 可传圣道.
Sở dĩ bất năng giả, vi tâm vị trừng, dục vị khiển dã. Năng khiển chi giả, nội quan kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm. Ngoại quan kỳ hình, hình vô kỳ hình. Viễn quan kỳ vật, vật vô kỳ vật. Tam giả ký ngộ, duy kiến vu không. Quan không diệc không, không vô sở không. Sở không ký vô, vô vô diệc vô. Vô vô ký vô, trạm nhiên thường tịch. Tịch vô sở tịch, dục khởi năng sinh. Dục ký bất sinh, tức thị chân tĩnh. Chân thường ứng vật, chân thường đắc tính. Thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh hĩ. Như thử thanh tĩnh, tiệm nhập chân đạo. Ký nhập chân đạo, danh vi đắc đạo, tuy danh đắc đạo, thực vô sở đắc. Vi hóa chúng sinh, danh vi đắc đạo. Năng ngộ chi giả, khả truyền thánh đạo.
Giải nghĩa đơn giản: Cho nên người chưa được vậy, phải tự lắng lại tâm mình, kiểm soát dục vọng. Người kiểm soát được dục vọng, trong thì tự xét tâm mình, tâm không thật thì sao gọi là tâm, ngoài thì tự xét thân mình, thân mà không thật sao gọi là thân. Xem xét sự vật, vật không thật sao gọi là vật. Cả ba thứ đó, đều gọi là không. Thứ không thấy được là không, không có cũng là không, không có nơi nào không có Không, không không cũng không, không không đã không, như sự bình lặng vẫn luôn tồn tại. Nơi nào chẳng có sự bình lặng, nào có sinh ra dục vọng, không có dục vọng, chính là cái tĩnh thật sự. Chân thường ứng vật, chân thường được tính, ứng với cái tĩnh lặng bình thường, cũng là thanh tịnh. Thanh Tịnh như vậy, đã dần tiếp cận với Đạo. Đạt được Đạo, gọi là đắc đạo, tuy có cái danh đắc đạo, thực ra không được gì cả. Vì cảm hoá chúng sinh, nên được gọi là đắc đạo. Người có thể ngộ được như vậy, mới có thể truyền thánh đạo.
老君曰: 上士不争, 下士好争; 上德不德, 下德执德; 执著之者, 不名道德. 众生所以不得真道者, 为有妄心; 既有妄心, 即惊其神; 既惊其神, 即著万物; 既著万物, 即生贪求; 既生贪求, 即是烦恼; 烦恼妄想, 忧苦身心; 便遭浊辱, 流浪生死; 常沉苦海, 永失真道. 真常之道, 悟者自得; 得悟道者, 常清静矣!
Lão Quân viết: Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ hảo tranh. Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức. Chấp trứ chi giả, bất danh đạo đức. Chúng sinh sở dĩ bất đắc chân đạo giả, vi hữu vọng tâm. Ký hữu vọng tâm, tức kinh kỳ thần. Ký kinh kỳ thần, tức trứ vạn vật. Ký trứ vạn vật, tức sinh tham cầu. Ký sinh tham cầu, tức thị phiền não. Phiền não vọng tưởng, ưu khổ thân tâm, tiện tao trọc nhục, lưu lãng sinh tử, thường trầm khổ hải, vĩnh thất chân đạo. Chân thường chi đạo, ngộ giả tự đắc, đắc ngộ đạo giả, thường thanh tĩnh hĩ.
Giải nghĩa đơn giản: bậc thượng sĩ thì không tranh giành, bậc hạ sĩ thì thích tranh giành. Người thượng đức thì không coi mình là có đức, kẻ hạ đức thì tự coi mình là có đức. Người cố chấp tự coi mình như vậy, không thể gọi là có đạo đức. Chúng sinh không có được chân đạo, vì có tâm làm điều xấu. Đã có tâm làm xấu, thì kinh ảnh hưởng đến cái thần của bản thân, cũng là vạn vật. Vạn vật xung quanh bị ảnh hưởng, thì sinh ra lòng tham lam. Tham lam được sinh ra, chính là phiền não. Những phiền não vọng tưởng, làm khổ cả thân cả tâm, liền rơi vào hỗn loạn nhục nhã, phiêu dạt trong sinh tử, chìm trong biển khổ, cứ thế mà đánh mất chân đạo. Chân Đạo cũng là thứ bình thường nhất, phải tự mình ngộ ra, người ngộ được Đạo, thì được thanh tịnh.
Chú giải: (1) Thiên Sư Cát Hồng – một trong Ngũ Đại Thiên Sư của Đạo giáo
(2) Đỗ Quang Đình 杜光庭, tự Tân Thánh 賓聖, hiệu Đông Doanh Tử 東瀛. Là thi nhân đời Đường và Ngũ đại thập quốc, người Ngoại Châu, Tấn Vân.
Last edited: