20 lỗi cần tránh trong tranh luận

Ngân Ngọc

Phàm Nhân
Giải yêu thích nhất event Viết cho mùa yêu thương II
Ngọc
-199,74
Tu vi
0,00
Tranh luận thế nào cho sang? Cần tránh 20 lỗi ngụy biện này

Trong giao tiếp đôi khi ta không tránh khỏi những cuộc tranh luận, xuất phát từ những ý kiến bất đồng, và trong quá trình đó ta rất dễ mắc phải các lỗi ngụy biện, biến cuộc tranh luận trở thành một cuộc chiến không hồi kết.

Như vậy, ngụy biện là gì? Ngụy biện (fallacy) là lập luận sai về mặt logic. Nói cách khác, ngụy biện là vi phạm các quy tắc logic trong suy luận để giành phần lợi trong tranh luận, trong đối thoại, từ đó có thể biến sai thành đúng, biến đúng thành sai. Nguyên nhân khiến ta mắc lỗi ngụy biện thường do tâm lý háo thắng, do thói quen nói chuyện thông thường, hoặc do nhiễm cách lý luận của báo chí.

Các lỗi ngụy biện trong tranh luận tưởng chừng không đáng kể nhưng nếu không khắc phục, dần dần người thường ngụy biện sẽ quen t.ư duy theo lối mòn. Tần suất mắc lỗi càng nhiều thì càng dẫn đến các hậu quả to lớn. Chẳng hạn như làm chệch hướng, giảm chất lượng chủ đề tranh luận; lập luận thiếu sắc bén, không sâu sát, không phục vụ mục đích tranh luận; làm mất thời gian, sứt mẻ tình cảm của nhau; và làm xấu đi hình ảnh bản thân.

Bên cạnh đó, các lỗi ngụy biện không những dễ mắc phải mà còn rất khó để ta phát hiện ra. Sau đây là 20 lỗi ngụy biện thường xuất hiện trong quá trình tranh luận cũng như trong giao tiếp cuộc sống hàng ngày.

Tần suất mắc lỗi càng nhiều thì càng dẫn đến các hậu quả to lớn hơn, chẳng hạn như làm giảm chất lượng tranh luận, sứt mẻ tình cảm, hoặc làm xấu hình ảnh cá nhân.


1. Ngụy biện tấn công cá nhân (ad hominem)
Thay vì bàn luận vào chủ đề, người tranh luận lại sỉ nhục, hạ bệ, công kích đối tượng tranh luận bằng ngôn từ để làm giảm uy tín của họ. Các câu ngụy biện tấn công cá nhân thường thấy là “có làm được chưa mà nói”, “chưa làm được gì chỉ biết gõ phím thì nói gì ai”,…

Kiểu ngụy biện tấn công cá nhân này xuất hiện rất nhiều trong các cuộc tranh cãi trên mạng. Khi tranh luận, nhiều người không bàn luận vào chủ đề chính mà chỉ chăm chăm mắng nhiếc, nhục mạ người khác.

2. Ngụy biện bôi xấu (poisoning the well)
Nói điều không tốt về người đang tranh luận với mình để hạ uy tín của người đó trước khi người đó đưa ra luận điểm của họ.

“Đừng nhờ A phụ mày tổ chức tiệc. Gu chọn nhạc của nó tệ lắm!”

Trong ví dụ trên, người này đã mắc lỗi ngụy biện bôi xấu, đưa ra một thông tin tiêu cực (có thể đúng hoặc sai) về A để làm giảm uy tín của A. Tổ chức một bữa tiệc còn bao gồm rất nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ là về chọn nhạc hay. Dù A không có gu âm nhạc thì vẫn có thể hỗ trợ tổ chức tiệc được.

3. Ngụy biện bạo lực (ad baculum fallacy/ appeal to force fallcy)
Thay vì dùng lý lẽ, logic thì lại dùng lời ám chỉ, đe dọa để bắt người đối thoại phải đồng ý với ý kiến của mình.

Nhân viên: “Thưa sếp, vì sao em phải làm thêm giờ nhưng lại không có thêm phụ cấp?”
Sếp: “Hoặc anh chấp nhận làm, hoặc nghỉ việc, thế thôi.”


Người sếp trong ví dụ trên đã mắc phải lỗi ngụy biện bạo lực, đe dọa đuổi việc anh nhân viên thay vì đưa ra lý lẽ logic. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi hai người tranh luận ở trong một mối quan hệ bất bình đẳng, chẳng hạn như người lớn-trẻ con, cấp trên-cấp dưới. Người mắc lỗi ngụy biện này thường do thiếu kiên nhẫn, một phần còn do tâm lý của “kẻ mạnh”, ỷ lại mình ở thế trên để ép người kia chấp thuận ý kiến của mình.

4. Ngụy biện “bạn cũng vậy” (tu quoque fallacy)
Nhắc đến thiếu sót, khuyết điểm của người tranh luận cùng để phủ định ý kiến hoặc lý luận của người đó. Thường thì khi phạm vào “tu quoque fallacy” sẽ phạm luôn “ad hominem” (công kích cá nhân).

A: “Gian lận như ông là sai.”
B: “Làm như ông chưa từng gian lận bao giờ vậy. Hồi đi học ông chẳng quay cóp suốt, giờ nói được ai!


Thực chất thì việc anh ta có sai sót gì trong quá khứ, có làm được gì hay không làm được gì trong quá khứ đều không liên quan đến tính logic đang tranh luận.

5. Ngụy biện trượt dốc (slippery slope fallacy)
Đưa ra những suy diễn thiếu căn cứ về tương lai để chứng minh một điều nào đó là sai. Người ngụy biện thường suy diễn một cách tùy tiện, thiếu căn cứ về một hậu quả trong tương lai, làm trầm trọng hóa vấn đề mà không bàn đến tính logic của luận điểm đã đưa ra.

Bạn xin bố mẹ đi chơi nhưng không được, và lý luận của bạn là:“Hôm nay bố mẹ mà không cho con đi, con sẽ mất hết bạn bè! Con sẽ bị cô lập! Rồi con sẽ bị ế tới già cho xem!”

A mang bánh đến lớp học, B hỏi xin A nhưng A từ chối: “Tớ không thể cho cậu bánh vì các bạn khác sẽ thấy và cũng xin tớ, như thế tớ sẽ không còn miếng bánh nào để ăn cả!”

6. Ngụy biện trắng-đen (black-or-white fallacy)
Bắt đối phương chỉ được lựa chọn một trong hai điều mà người ngụy biện cho là duy nhất, trong khi thực tế vẫn còn nhiều lựa chọn khác.

Năm 2016, khi nhà máy thép Formosa xả thải làm cá chết hàng loạt, giám đốc đối ngoại của nhà máy này từng phát biểu:“Không thể được cả hai, phải chọn hoặc nhà máy, hoặc cá tôm”.

Thực tế còn cách khác để giải quyết vấn đề trên. Chẳng hạn như bắt buộc nhà máy này sử dụng công nghệ thân thiện môi trường, thường xuyên áp dụng các biện pháp bảo tồn hệ sinh thái, bảo vệ môi trường theo tiêu chuẩn an toàn. Chẳng qua vị giám đốc này đang muốn ngụy biện để chối bỏ trách nhiệm mà thôi.

7. Ngụy biện nghĩa vụ chứng minh (burden of proof)
Nếu một người cho rằng X là đúng, thì người đó cần phải chứng minh X là đúng, chứ không phải cứ khăng khăng X là đúng vì không ai chứng minh được X là sai.

A: “Các nhà khoa học nghiên cứu ra rằng 80% người làm việc ở Mỹ chán ghét công việc hiện tại của mình.”
B: “Con số 80% từ đâu ra?”
A: “Vậy hãy chứng minh tôi nói sai đi.”


Đáng lẽ A phải là người chứng minh con số 80% chứ không phải chuyển trách nhiệm cho B.

8. Ngụy biện lảng tránh chủ đề (avoiding the issue)
Thay vì đi thẳng vào chủ đề chính thì lại nói lòng vòng các vấn đề nhỏ nhặt xung quanh.

Ví dụ, nhà trường thông báo về việc tăng học phí. Nhưng trong thông báo lại tập trung vào việc đã cải thiện hệ thống tiếp nhận học phí, thuận tiện hơn cho học sinh bằng cách có thêm tài khoản ngân hàng, tăng thêm quầy thu, kéo dài giờ làm,…

9. Ngụy biện lòng vòng (circular reasoning argument)
Thay vì đưa ra thông tin mới, người biện luận chỉ đang lặp lại các luận điểm cũ bằng cách diễn tả khác, rất thiếu tính thuyết phục vì chúng không thể tự bổ sung cho nhau.

A: “D có thể làm chứng cho tôi, tôi không hề lấy quyển sách đó.”
B: “Sao tôi lại phải tin D?
A: “Vì cậu ta là một người tốt. Tôi có thể làm chứng cho cậu ấy.”


10. Ngụy biện bằng chứng vụn vặt (anecdotal evidence fallacy)
Thay vì đưa ra luận điểm và bằng chứng, thì lại đưa ra những kinh nghiệm vụn vặt cá nhân để làm cơ sở bác bỏ luận điểm của người khác.

A: “Hút thuốc rất có hại cho sức khỏe.”
B: “Ông nội của mình hút thuốc nhưng vẫn khỏe mạnh có bệnh tật gì đâu.”


Không nên dùng kinh nghiệm chủ quan, phiến diện của mình để làm cơ sở bác bỏ luận điểm người khác. Kinh nghiệm và những điều ta đã biết, đã trải qua không phải lúc nào cũng đủ bao quát cả trường hợp của người khác. Do đó, muốn đưa ra ý kiến có tính thuyết phục cao cần phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều, có thể dựa vào kinh nghiệm bản thân nhưng phải suy xét và lựa chọn kỹ lưỡng.

Người tranh luận nên giữ bình tĩnh, đánh giá lập luận, chủ đề một cách khách quan, tránh phản bác theo cảm tính.

11. Ngụy biện lạm dụng vị thế/tác phong (appeal to appearance and manner)
Thay vì bàn vào chủ đề thì lại đem vai vế, tuổi tác, kinh nghiệm, …để nâng mình lên và hạ bệ đối phương.

A: “Anh ơi tại sao trong vấn đề này ta phải giải quyết bằng cách X mà không làm cách Y cho tiện hơn?”
B: “Anh là sếp của em, em phải nghe anh, em biết gì mà ý kiến.”


Đây là kiểu ngụy biện khá thông dụng, nâng mình lên và hạ người khác xuống, đôi khi là biến tấu của ngụy biện công kích cá nhân (ad hominem).

12. Ngụy biện bù nhìn rơm (straw man)
Bóp méo (bằng cách chế giễu, xuyên tạc, cường điệu hóa, thô tục hóa…) luận điểm của đối phương để tấn công nhận định của họ, nhằm cho thấy ý kiến của mình là “đúng đắn hơn”, “có lý hơn”.

A: “Tao ủng hộ quyền được làm chủ cơ thể của phụ nữ, họ nên có quyền tự quyết trong chuyện phá thai.”
B: “Phá thai tự do là giết hại hàng loạt sinh mạng vô tội. Mày ủng hộ việc giết người hàng loạt à?”


Trong ví dụ này, B đã cường điệu hóa “phá thai” thành “giết người hàng loạt” để dễ phản bác lại luận điểm của A và tấn công luận điểm của A là đang “ủng hộ việc giết người hàng loạt”.

13. Ngụy biện lợi dụng cảm xúc (appeal to emotion)
Đưa những câu từ đánh vào tâm lý, đạo đức để khiến họ chấp nhận luận điểm (đôi khi là thiếu logic) của mình.

Khi còn nhỏ, mỗi khi tôi kén ăn, bố mẹ tôi lại kể chuyện ngày xưa nghèo khó thế nào, cơm trắng còn không có để ăn. Thật ra đó cũng là một kiểu ngụy biện lợi dụng cảm xúc, khiến tôi đồng cảm với tình cảnh đói khổ ngày trước để chịu ăn cơm.

Ngụy biện lợi dụng cảm xúc đánh vào nhiều trạng thái tâm lý, cảm xúc khác nhau như ghen tị, thù hận, thương hại, sợ hãi, tự hào, yêu mến,… Điều quan trọng ở đây là đôi khi các lập luận là rất vô lý, nhưng ta đều biết rằng, con người rất dễ bị chi phối bởi cảm xúc, nên loại ngụy biện này thường khá hiệu quả. Đó cũng là lý do mà tại sao khi tranh luận ta phải luôn giữ cái đầu lạnh, bình tĩnh đưa ra ý kiến, nhận định của mình.

14. Ngụy biện cá trích đỏ (red herring)
Đưa những phát ngôn không liên quan, dính dáng đến chủ đề đang được đề cập nhằm mục đích đánh lạc hướng hay làm dừng cuộc tranh luận.

A: “Anh chưa hoàn thành công việc tôi giao nữa à?”
B: “Sếp ơi công nhận bộ vest hôm nay anh mặc đẹp thật đấy!”


B đã đánh lạc hướng khi bị A hỏi thăm về chuyện công việc bằng cách khen A mặc vest đẹp.

A: “Gấu trúc đang bên bờ vực tuyệt chủng, chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ chúng!”
B: “Tại sao phải lo lắng về gấu trúc trong khi vẫn có hàng ngàn người vô gia cư, đói nghèo ngoài kia?”


Trong ví dụ này, B thay vì đưa ra ý kiến về vấn đề “gấu trúc tuyệt chủng”, anh ta lái vấn đề sang hướng khác (người vô gia cư, tất nhiên là không liên quan đến gấu trúc), mang ý trách móc để khiến A cảm thấy tội lỗi, từ đó tấn công vào luận điểm của A.

15. Ngụy biện trích dẫn thông tin ngoài ngữ cảnh (quoting out of context)
Trích dẫn lại một thông tin (chẳng hạn như một phát ngôn, nhận xét, dữ liệu nào đó) ở dạng cắt xén, hay trích rút phát biểu ấy ra ngoài ngữ cảnh gốc, để lái vấn đề sang hướng khác, gây cho người đọc thứ ba hiểu nhầm.

Năm 2018, khi Luật An ninh mạng Việt Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIV biểu quyết thông qua, nhiều bài báo mạng đã trích dẫn các quy định trong Luật An ninh mạng nhưng lồng ghép, cắt xén hoặc bịa đặt thêm những điều hoàn toàn không có thật chỉ để kích động những người không tìm hiểu kỹ phản đối quyết định này.

Ngụy biện trích dẫn thông tin ngoài ngữ cảnh rất khó để phát hiện nếu như ta không trang bị cho mình kiến thức thật vững vàng. Do đó, luôn cẩn thận kiểm tra kỹ lưỡng nguồn thông tin trên mạng. Lỗi ngụy biện này có thể xem như là một biến thể đặc biệt của ngụy biện bù nhìn rơm, các trang báo mạng thiếu uy tín thường sử dụng để định hướng dư luận.

16. Ngụy biện lợi dụng đám đông (appeal to the people)
Lợi dụng sự ủng hộ của đám đông để biến luận điểm của mình thành đúng, “lấy ý kiến số đông rồi giết chết thiểu số”.

Một cô gái nói với bạn trai của mình “Anh ơi mua cho em đôi giày đó nhé, bạn của em đứa nào cũng có một đôi”.

Cô gái thuyết phục người bạn trai mua giày mới cho mình bằng cách chỉ ra rằng nhiều bạn bè của cô ấy ai cũng có đôi giày đó, nghĩa là việc mua đôi giày đó là một điều đúng đắn, hợp lý mà người bạn trai phải làm.

Rõ ràng luận điểm của ai đó được nhiều người đồng tình cũng chưa hẳn là đúng đắn. Vậy nên đừng vội tin những gì đám đông cho là đúng, cần phải có chính kiến của bản thân và biết cách quan sát, học hỏi bổ sung kiến thức.

17. Ngụy biện vin vào truyền thống (appeal to the tradition)
Đưa ra lý lẽ rằng trước giờ ai cũng làm vậy hoặc đều tin điều đó là đúng, nên điều đó đúng.

A: “Chúng ta nên đổi mới quy trình sản xuất và áp dụng công nghệ để tăng mạnh hiệu suất của nhà máy.”
B: “Mặc kệ đi, đã mấy chục năm rồi cũng có sao đâu, cần gì thay đổi cho mệt!”


B cho rằng một quy trình sản xuất đã trải qua nhiều chục năm hiển nhiên sẽ là một điều đúng đắn, phản bác lại lý lẽ của A rằng muốn đổi mới quy trình sản xuất và áp dụng công nghệ. Tuy nhiên, không phải cái gì mang tính truyền thống cũng đúng hoàn toàn, mà cần phải phù hợp với điều kiện và bối cảnh hiện tại nữa.

18. Ngụy biện so sánh ẩu (faulty analogy)
So sánh hai điều chỉ giống như ở một khía cạnh nhỏ chứ không thật sự tương đồng để có thể mang ra so sánh.

“Những người mà không thể không uống cà phê sáng cũng chẳng khác gì những kẻ nghiện rượu.”

Việc so sánh người nghiện cà phê cũng như người nghiện rượu trong câu trên thật sự rất khập khiễng. Bởi lẽ, rõ ràng rượu gây ra tác hại lớn hơn cà phê rất nhiều, những người nghiện cà phê không đáng bị chỉ trích nặng nề như thế.

So sánh ẩu cho phép kẻ ngụy biện chuyển hướng cuộc tranh luận, bóp méo sự việc. Người Việt Nam thường có thói quen ví von, so sánh trong trao đổi và tranh luận. Tuy nhiên không phải các sự vật, hiện tượng được mang ra so sánh đều hoàn toàn tương đồng với nhau. Trong tranh luận, nên suy nghĩ cẩn thận trước khi chấp nhận một câu so sánh làm dẫn chứng cho luận điểm của người khác.

19. Ngụy biện thống kê (statistical fallacy)
Đưa ra những con số, thống kê sai, hoặc bịa ra những số liệu theo ý muốn để tranh luận. Tâm lý con người dễ bị thuyết phục bởi số liệu thống kê. Hơn nữa, muốn kiểm chứng mức độ đúng sai cũng cần mất nhiều thời gian tìm hiểu, vì thế rất nhiều người lợi dụng điều này để củng cố độ đáng tin cho lý lẽ của mình.

Một ví dụ rõ rệt nhất chính là số liệu thống kê “huyền thoại” về các sinh viên tốt nghiệp MBA tại Yale năm 1953. Đó là 3% sinh viên tốt nghiệp đặt ra mục tiêu và viết xuống giấy đều sở hữu tài sản lớn hơn 97% không xác định mục tiêu trước.

Thống kê này được trích dẫn trong hàng trăm cuốn sách self-help nhằm chứng minh luận điểm “việc đặt mục tiêu cụ thể có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với thành công của bạn.” Thực tế thì chưa từng có nghiên cứu nào như thế được thực hiện tại Yale cả.

20. Ngụy biện thiên vị (cherry picking fallacy)
Chỉ dùng những thông tin, khía cạnh có lợi cho mình mà lờ đi những thông tin chưa được kiểm chứng, hoặc những thông tin gây bất lợi cho mình hay tạo ra lợi thế cho người đối thoại.

Một ví dụ điển hình nhất của ngụy biện thiên vị là hồ sơ xin việc, bởi nó chỉ thể hiện ưu điểm của người xin việc và lờ đi các khuyết điểm. Hầu hết các nhà tuyển dụng đều biết điều đó nên họ chỉ dùng hồ sơ để tham khảo, còn quyết định có tuyển hay không phải chờ sau khi gặp trực tiếp để phỏng vấn.

Có rất nhiều lỗi ngụy biện rất thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, nhưng hầu như chúng ta không ý thức được điều đó.

Nên ứng đối như thế nào?
Đa phần các lỗi ngụy biện trên đều xuất phát từ việc đuối lý, hoặc không xác định rõ chủ đề chính là gì. Khi gặp những trường hợp này, điều tiên quyết là phải giữ bình tĩnh. Bạn càng mất bình tĩnh thì sẽ càng dễ rơi vào cái “bẫy tâm lý” của đối phương. Chỉ khi bình tĩnh bạn mới có thể đánh giá lập luận và dẫn chứng một cách chính xác, từ đó tìm ra phương pháp ứng đối phù hợp.

Khi chỉ ra những lỗi ngụy biện và đối đáp lại, cần lưu ý lời lẽ không nên quá bộc trực mà trở nên cộc tính, bất lịch sự. Nguyên tắc hàng đầu khi đưa ra ý kiến trong giao tiếp, tranh luận cần phải có sự nhã nhặn, tôn trọng người đối thoại.

Kết
Như vậy ta vừa điểm qua 20 lỗi ngụy biện thường gặp trong tranh luận của người Việt. Hy vọng qua bài viết này, bạn đọc sẽ nhận biết được các lỗi ngụy biện để phần nào biết cách ứng đối lại cũng như hạn chế bản thân mắc phải. Hãy làm cho các cuộc tranh luận trở nên nghiêm túc, phục vụ mục đích trao đổi văn minh và học hỏi những tri thức mới các bạn nhé.

Bài viết này được thực hiện bởi Huệ Chi.

Tranh luận như khi bạn bỏ gia vị vào trong đĩa thức ăn, nếm nếm sao cho được món thức ăn ngon, ấy là nhờ cái duyên của các vị tham gia tranh luận.
 
Last edited by a moderator:

Ngân Ngọc

Phàm Nhân
Giải yêu thích nhất event Viết cho mùa yêu thương II
Ngọc
-199,74
Tu vi
0,00
Bài này dịch thuật ngữ chuyên ngành hay phết, chắc dân trong nghề. Mọi người nên xem để biết, dù để hiểu thì bài này ngắn quá không giải thích hết được.

Mình thấy các tranh luận đang đi vào đường hướng công kích cá nhân là nhiều, là một người thích tranh luận, mình hông thích nhìn thấy điều đó á :be9d0di:
 

Ngân Ngọc

Phàm Nhân
Giải yêu thích nhất event Viết cho mùa yêu thương II
Ngọc
-199,74
Tu vi
0,00
Đây là một đoạn chia sẻ khác về lỗi nguỵ biện trong tranh luận, nguồn từ FB

Chắc chắn là người học luật bạn đã từng gặp và thậm chí thấy hình ảnh của chính mình khi tranh luận kiểu ngụy biện dưới đây. Để bài viết phong phú ad sẽ lấy những ví dụ cụ thể để minh họa cho những kiểu ngụy biện tranh luận này.

1. Bỏ bóng đá người hay còn gọi là công kích cá nhân

Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, nguy hiểm nhất, và có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó.

Dạng tranh luận này có 3 loại biểu hiện:

- Dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu.
Ví dụ: Tôi không hiểu luật sư có được ăn học đang hoàng hay không nhưng phát biểu của luật sư cho thấy luật sư không hiểu biết gì pháp luật

- Người ngụy biện cố gắng thuyết phục người đối thoại chấp nhận luận điểm của họ bằng cách đề cập đến hoàn cảnh của cá nhân đó
Ví dụ: Tôi biết bạn tại sao lại có cách suy nghĩ đó. Bởi bạn xuất thân từ nhà quê, chưa được tiếp xúc nhiều. Điều đấy cũng thật dễ hiểu.

- Loại thứ ba chính là dạng chỉ nhắm vào câu chữ để bắt bẻ kể cả khi câu chữ đó không liên quan nhiều đến vấn đề vướng mắc cần đang tranh luận.
Ví dụ: Trong phần thuyết trình về chế định Tài sản của nhóm II có nhắc đến cụm từ “Sổ đỏ”. Thực ra, tôi cho rằng pháp luật Việt Nam không có từ nào là từ sổ đỏ cả…Nhóm II nói như vậy là không đúng với thuật ngữ pháp lý.

2. Lợi dụng cảm tính và đám đông

Loại ngụy biện này cũng thường thấy trong các tranh luận của người học luật. Người tranh luận thường lợi dụng sự cảm tính và đặc biết sức mạnh của đám đông để bảo vệ cho luận điểm của mình. Đôi khi chúng ta đọc báo cũng thường thấy xuất hiện dạng ngụy biện này để bảo vệ quan điểm của một bài viết.

Ví dụ: Giới luật sư cho rằng…..Hầu hết, cư dân mạng đều …

Mới đây nhất, trong tranh luận của TP Hà Nội đã dẫn chứng luận điểm: Việc chặt phá cây được đa số người dân ủng hộ…Tuy nhiên đây là cách tranh luận ngụy biện.

3. Lợi dụng quyền lực và bạo lực

Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến, có thể gặp thường xuyên trong đời sống hàng ngày và mức độ cũng như sự thể hiện của nó khá đa dạng.

- Sinh viên: Em nói là em đi đúng lan đường mà. Nếu anh bảo em sai, anh phải có chứng minh chứ. Căn cứ vào điều AB luật C anh không được yêu cầu kiểm tra giấy tờ xe em nếu em không vi phạm luật.

- CSGT: Tôi nói cho anh biết, nếu anh còn cố cái tôi sẽ giữ giấy tờ xe 1 tháng. Còn nếu anh không chấp hành có khép anh vào tội Chống người thi hành công vụ
Như vậy là CSGT không dùng luận điểm, căn cứ để tranh luận mà sử dụng bạo lực, quyền lực để đàn áp tranh luận.
Một ví dụ khác:
Tại phiên tòa HĐ'Chủ đề cấm tại BNS''Chủ đề cấm tại BNS' đề nghị:
- Đề nghị bị cáo không chối tội, thành khẩn khai báo. Nếu không bị cáo sẽ bị bị phạt tù nặng
Như vậy HĐ'Chủ đề cấm tại BNS''Chủ đề cấm tại BNS' cũng không dùng chứng cứ, lý lẽ để tranh luận, làm sáng tỏ vụ án mà dùng quyền lực để ép bên tranh luận.

4. Lý lẽ chẻ đôi

- Tôi đề nghị Tòa án tuyên thân chủ tôi không có tội. Trường hợp không thể tuyên thân chủ tôi không phạm tội thì đề nghị HĐ'Chủ đề cấm tại BNS''Chủ đề cấm tại BNS' căn cứ các tình tiết giảm nhẹ để giảm hình phạt.
Loại ngụy biện này ít xảy ra nhưng không phải là không có.

5. Ngụy biện lươn trạch, không liên quan, mệnh đề thiếu logic.
- Khi hành nghề và trong thực tiễn những người học luận, làm luật khó tránh khỏi những sai xót kiểu này. Tuy nhiên, nếu liên tục mắc phải có nghĩa là bạn đã thất bạn trong việc đưa ra lý lẽ thuyết phục.
Hai ví dụ điển hình trong ngụy biện kiểu lươn trạch, mệnh đề thiếu logic đã từng khiến dư luận nóng ‘hừng hực”.
Ví dụ:
- Quốc hội là dân, dân quyết sai dân chịu chứ kỷ luật ai? – Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng.
- Chặt cây không phải hỏi dân. Chính quyền là đại diện cho nhân dân. Nếu chặt cái cây cũng hỏi dân thì bầu ra chính quyền để làm gì?

6. Lợi dụng rủi ro, trường hợp cá biệt để bảo vệ quan điểm
Không ít người học luật, người ban hành chính sách hiện này lợi dụng những rủi ro và trường hợp cá biết để bảo vệ quan điểm.

Ví dụ: Đề xuất tịch thu phương tiện nếu lái xe say xỉn. Lấy lý do tính mạng quan trọng hơn tài sản. Say rượu có thể mất mạng nếu lái xe nên phải tịch thu xe để bảo vệ tính mạng.

- Thưc tế không say rượu vẫn có rủi ro và bất cứ thứ gì đang xảy ra trong đời sống cũng có rủi ro. Cho nên việc sử dụng rủi ro như trên là một cách tranh luận ngụy biện.
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Mình thấy các tranh luận đang đi vào đường hướng công kích cá nhân là nhiều, là một người thích tranh luận, mình hông thích nhìn thấy điều đó á :be9d0di:
Thường thì việc chỉ ra rằng đối phương đang ngụy biện thì cũng không làm đối phương tử tế lên. Đến một lúc nào đó trong cuộc nói chuyện thì tự mình phải nghỉ thôi cho khỏe. :cuoichet:
 

Đặng Nhật Long

Phàm Nhân
Ngọc
-48,47
Tu vi
2,00
.

3. Ngụy biện bạo lực (ad baculum fallacy/ appeal to force fallcy)
Thay vì dùng lý lẽ, logic thì lại dùng lời ám chỉ, đe dọa để bắt người đối thoại phải đồng ý với ý kiến của mình.

Nhân viên: “Thưa sếp, vì sao em phải làm thêm giờ nhưng lại không có thêm phụ cấp?”
Sếp: “Hoặc anh chấp nhận làm, hoặc nghỉ việc, thế thôi.”


Người sếp trong ví dụ trên đã mắc phải lỗi ngụy biện bạo lực, đe dọa đuổi việc anh nhân viên thay vì đưa ra lý lẽ logic. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi hai người tranh luận ở trong một mối quan hệ bất bình đẳng, chẳng hạn như người lớn-trẻ con, cấp trên-cấp dưới. Người mắc lỗi ngụy biện này thường do thiếu kiên nhẫn, một phần còn do tâm lý của “kẻ mạnh”, ỷ lại mình ở thế trên để ép người kia chấp thuận ý kiến của mình.
Nhưng bạo lực là cách nhanh nhất giải quyết vấn đề :54: đấm cho nó một phát thay vì tốn nước bọt thì mọi vấn đề sẽ đc giải quyết nhanh gọn nhẹ :))
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Nhưng bạo lực là cách nhanh nhất giải quyết vấn đề :54: đấm cho nó một phát thay vì tốn nước bọt thì mọi vấn đề sẽ đc giải quyết nhanh gọn nhẹ :))
Và đồng thời là cách tệ nhất để giải quyết vấn đề, nếu như bản thân là thằng bị ăn đấm.
Xong chúng ta lại hỏi tiên sư nhà nước với luật pháp đâu mà để mặt tôi sưng vêu thế này.
 

Đặng Nhật Long

Phàm Nhân
Ngọc
-48,47
Tu vi
2,00
Và đồng thời là cách tệ nhất để giải quyết vấn đề, nếu như bản thân là thằng bị ăn đấm.
Xong chúng ta lại hỏi tiên sư nhà nước với luật pháp đâu mà để mặt tôi sưng vêu thế này.
Thế này huynh lại không nghe câu của Khá Bảnh r :cuoichet:)
“Trên đời không có đúng sai, chỉ có kẻ yếu kẻ mạnh :v mày đấm e t thì t đấm chúng m”
_____ So Cool_____
 
* Lẽ ra tiêu đề nên là “những thói ngụy biện thường gặp khi tranh luận” vì không chỉ riêng người Việt mới có những thói tật như thế, nhưng vì tôn trọng tác giả nên vẫn giữ nguyên bản, chỉ xin chú thích thêm ở đây.

bài viết của giáo sư nguyễn văn tuấn, cop t.ừ nguồn blogspot.

Thói ngụy biện ở người Việt




Tranh luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu được trong một xã hội văn minh. Ở nhiều nước, lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của một xã hội lành mạnh. Ở các nước phương Tây, hầu như ngày nào báo chí cũng có những bài của những cây bỉnh bút tranh luận về một vấn đề nóng nào đó. Trên tivi cũng có những cuộc tranh luận trực tiếp giữa hai hay nhiều người về những chủ đề từ “đại sự” đến những vấn đề tưởng như nhỏ nhất. Trong các hội nghị khoa học, trước một vấn đề còn trong vòng nghi vấn, người ta cũng có những chuyên gia tranh luận dưới dạng những bài giảng khoa học.

Nhưng thế nào là tranh luận nghiêm túc? Nói một cách ngắn gọn, cũng như trong một cuộc đấu võ, một tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui tắc, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi. Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.

Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập trung vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những quan điểm không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của chính mình. Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân thân của người tham gia tranh luận.

Đó là những đòi hỏi khó khăn cho một cuộc tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa, và không phải ai cũng có khả năng đạt được những yêu cầu này, nhất là đối với người Việt vốn chưa quan với văn hóa tranh luận. Do đó, không mấy ai ngạc nhiên khi thấy có quá nhiều trường hợp chất lượng của những cuộc tranh luận giữa người Việt rất thấp. Chỉ cần xem qua những cái-gọi-là “tranh luận” trên các diễn đàn báo chí (và nhất là các “chat room” hay blog), người ta có thể thấy đó không phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng độ giữa các cá nhân tham gia tranh luận, những cuộc chửi bới, chẳng có lí luận của người tranh luận. Ngoài ra, đối với một số người tham gia bình luận về một câu chuyện nào đó là một cuộc dàn xếp, một sự đóng kịch, nhằm tung hỏa mù hoặc lên lớp, hoặc a dua theo đám đông. Đó là những kịch bản ngớ ngẩn đến tội nghiệp. Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện chẳng nói được gì cho đầy đủ, mà cũng chẳng phân tích một vấn đề gì cho đến nơi đến chốn.

Thật vậy, rất nhiều trường hợp, những cuộc tranh luận giữa người Việt chỉ là những cuộc chửi lộn, mà trong đó người ta tha hồ vung vít, ném liệng vốn liếng chữ nghĩa qua lại một cách hỗn độn, mà chẳng cần để ý đến logic hay các nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất dễ dàng nhận thấy rằng trong các cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào mục tiêu là nhân thân, cá nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm và lí lẽ của người đó. Thay vì tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho đối phương một nhãn hiệu, và từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ. Trong hầu như những tranh luận, nhiều người cố tìm hay tạo cho mình một vị trí đạo cao đức trọng cả bằng cách gắn cho đối phương những danh từ và tính từ mang tính miệt thị, một thủ đoạn có khả năng làm cho một cuộc tranh luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức óc thay vì là một trao đổi khoa học.

Thực ra, đó là một hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng nghiêm trọng trong tranh luận. Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong trường hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ. Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.

Điều đáng chú ý là những lỗi lầm về ngụy biện ở người Việt lại hay thấy trong giới có học. Chỉ cần điểm qua báo chí, websites, blog, v.v… chúng ta dễ dàng thấy rất nhiều cái-gọi-là “tranh luận” thật ra chỉ là ngụy biện. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết đó là những ngụy biện, mà thậm chí còn hết lời khen ngợi kẻ ngụy biện là … uyên bác! Điều này cho thấy trong những người Việt học cũng có người rất lười biếng suy nghĩ và chẳng phân biệt được thật và giả, không có khả năng nhận dạng được ngụy biện. Phải ghi nhận một điều là internet đã rất tuyệt vời, vì qua những “tranh luận” và chửi bới của những kẻ tham gia trên internet, chúng ta biết được bộ mặt xấu xí đằng sau những người mang nhãn mác “trí thức” hay “có học”. Những kẻ này tương đối nguy hiểm, vì với cái nhãn mác “có học” đó, họ có cơ hội làm lũng đoạn xã hội và trở thành những con vi khuẩn làm nhiễm trùng nền học thuật nước nhà. Do đó, cần phải giúp họ nhận ra đâu là ngụy biện và đâu là logic.

Thực ra, nhận dạng ngụy biện không phải là một việc làm khó khăn. Nói chung chỉ với một lương năng bình dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang tính ngụy biện với một phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy biện mà vẻ bề ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi logic. Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lý lẽ. Do đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận dạng những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng sai. Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui nạp, lý luận nhập nhằng, phi logic, và sai phạm trù. Trong khuôn khổ giới hạn, người viết bài này không có tham vọng trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì việc này đã được hệ thống hóa trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt kê ra những loại ngụy biện thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể phân biệt giữa chân và giả.

Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như sau:

• Đánh tráo chủ đề
• Lợi dụng cảm tính và đám đông
• Làm lạc hướng vấn đề
• Qui nạp sai
• Nhập nhằng đánh lận con đen
• Phi logic
• Các nhầm lẫn khác
Nhóm 1. Đánh tráo chủ đề
1. Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.

Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con ông cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.”

2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.

3. Lợi dụng nặc danh. Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho biết chính anh từng hoạt động cho địch.”

4. Lợi dụng tác phong. Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.

5. Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”

6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!

Nhóm 2. Lợi dụng cảm tính và đám đông
7. Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”

8. Lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay để bàn rồi đấy.”

9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!)

10. Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có lương tri.

11. Dựa vào quần chúng (ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”

Nhóm 3. Làm lạc hướng vấn đề
12. Lí lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”

13. Lí lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân chủ”.

14. Lí luận lươn trạch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay bao giờ.”

15. Mệnh đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”

16. Đơn giản hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”

Nhóm 4. Qui nạp sai
17. Khái quát hóa vội vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”

18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”

19. Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”

20. Lí lẽ quanh co. Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau.

21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”

22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”

23. Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.”

24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.”

25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”

Nhóm 5. Nguyên nhân giả tạo
26. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”

27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)

28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các hãng xưởng.

29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.

30. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.

31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”

Nhóm 6. Phi logic (non sequitur) và nhần lẫn trong tam đoạn luận
32. Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”

33. Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi không ở New South Wales”.

34. Nhét chữ vào miệng người khác. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng ta?”

35. Ngụy biện tứ ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.

36. Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.

Nhóm 7. Các nhầm lẫn khác
37. Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.

38. Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”

39. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm ngoái.”

40. Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.

41. Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”

42. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao, cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.

43. Lạm dụng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa t.ư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ t.ư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”

Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự nhiên.”

44. Ngụy biện “anh cũng vậy”. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”

45. Lạm dụng thống kê. Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác.

Nhận xét
Có thể nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm chung là (a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để đi đến một kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kì nổi tiếng về ngụy biện.

Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức.

Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kì kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.

Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều quái gở về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin sai lạc, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho người ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.

Để không trở thành những nô lệ, cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên lạc, như là một niềm tin cho hành động. Cần phải dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần phải thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.

Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.

Theo dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân (thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có khi hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất hiện quá nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập khuôn trở thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này là những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi chính thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kì quặc kiểu “anh/chị không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,” “anh chê ‘quốc gia’, vậy anh phải là cộng sản,” “anh khen Việt Nam, vậy anh là cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kỳ 75’, vậy anh là cộng sản,” hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là cộng sản đi tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó là một lối phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một cách cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí tuệ, hay lười biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay phát triển vấn đề xa hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia có/không này không thể đem đến một đáp số cho một vấn đề nào cả.

Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top