T
Tịch Địa
Guest
Thể theo yêu cầu của mọi người, Tịch lập topic này để post niêm luật của mấy thể loại đơn giản một chút cho mọi người cùng làm nhé.
Chú ý là không được spam bậy đâu đấy
Vì thể thơ tự do 4 chữ không được hoan nghênh lắm, nên mình bắt đầu với thể thơ tự do 5 chữ vần tiếp nhé:
Note:
Chủ ý để viết nên 1 bài thơ là để diễn tả cảm xúc, dùng từ ngữ mà diễn đạt tâm ý của người làm thơ, nhiều khi quá gò bó trong luật thơ có thể sẽ mất đi cái hứng làm thơ, vì vậy, nếu bài thơ khi đọc lên nghe êm dịu, xuôi tai, diễn tả được ý tứ và cảm xúc của tác giả thì không cần theo đúng luật thơ cũng có thể là 1 bài thơ hay phải không các bạn.
(ST)
LUẬT THÔNG VẬN TRONG THƠ
Văn là kim văn còn gọi là văn xuôi, chỉ có câu mà không có vần.
Thơ xuất xứ từ cổ văn, gọi là vận văn nghĩa là văn vần.
Từ định nghĩa này, minh thị rằng thơ là phải có vần, dù là bất cứ thể thơ gì đi nữa, như thơ tự do, thơ mới ...
Về vần thơ có hai luật:
1. Chính vận:
Là vần đúng, tức là tất cả các chữ mà theo luật phải vần với nhau thì những chữ đó đều phải cùng syllables với nhau.
Thí dụ:
- trường, sương, dương, thương, vương ...
- hồng, đông, sông, trông, chồng ...
- mướt, vượt, lướt, thướt, rượt ...
- biết, riết, liệt, biệt, thiệt ...
2. Thông vận:
Thông vận nghĩa là vần thông (hay thông vần cũng vậy). Vần thông là những chữ không cùng syllables với nhau, nhưng có giọng phát âm nghe na ná (tương tự) do nguồn gốc cùng một chữ nhưng vì bị đọc trại ra, được xếp vào bảng luật thông vận. Vì chữ bị đọc trại này thành ra nó có syllables khác, vì vậy những chữ tương tự cũng được chấp nhận theo luật.
Tại sao có sự chữ bị đọc trại ra như vậy ? Sau đây là sự giải thích và đó cũng là lịch sử của sự hình thành luật thông vận trong thơ.
Nền văn học nước ta và nước Tàu đã có từ lâu đời. Hai nước Tàu và Việt có cùng chung một nền văn học và cùng chung một thể chế chính trị là chế độ quân chủ Tầng lớp trung tâm tập quyền (gọi là quân chủ chuyên chế). Chế độ quân chủ có nhiều luật rất khắc khe, như mọi người đều phải cử (kiêng) tên của các ông vua, bà hoàng, thái tử, công chúa ... ở các địa phương còn phải cử tên các quan lớn nữa. Ai gọi nhằm tên đáng lẽ ra phải kiêng cử thì gọi là phạm húy, coi như có tội ngạo mạn.
Do đó mà luật đặt ra khi gặp những chữ nhằm tên vua, chúa etc ... thì phải đọc và nói trại ra, chữ viết cũng phải trại ra.
Luật này được áp dụng chặt chẽ trong các trường thi gọi là trường qui (trường qui là qui định nơi thi cử). Các sĩ tử phải thuộc, nếu ai làm bài dù hay cách mấy mà phạm húy cũng đều bị đánh rớt cả. Luật này rất nghiêm ngặt, nhiều sĩ tử vì không thuộc hết trường qui mà bị thi rớt oan uổng.
Những chữ phải cử rất nhiều. Lấy một số thí dụ sau đây:
Thí dụ vua Tự Đức tên là Hồng Nhậm nên gặp chữ nhậm phải đọc là Nhiệm. Vua Tự Đức còn có tên khác nữa là Thì, nên gặp chữ Thì phải đọc là Thời, vì vậy tên ông Ngô Thì Nhậm được đọc là Ngô Thời Nhiệm.
Hoặc hoàng tử Cảnh là con vua Gia Long tên Cảnh, nên gặp chữ Cảnh phải đọc là Kiểng. Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, nên gặp chữ Đảm phải đọc là Đởm. Mẹ của vua Minh Mạng tên Nguyễn Thị Hoa, nên gặp chữ Hoa phải đọc là Huê. Chúa Nguyễn Hoàng là ông tổ đời thứ nhì của vua Gia Long, nên gặp chữ Hoàng phải đọc là Huỳnh. Ông Nguyễn Kim là thái tổ của vua Gia Long nên gặp chữ Kim phải viết là Câm. Hồng là tên của một bà vợ vua nên gặp chữ Hồng phải đọc là Hường. Tương tự như vậy, chữ Tòng đọc là Tùng, chữ Chu (tên của chúa Nguyễn Phúc Chu) đọc là Châu, vì vậy tên ông Ngô Tòng Chu đọc là Ngô Tùng Châu. Tương tự như vậy, Long=Luông, An=Yên, Hường=Huồng, Hoàn=Huờn, Quyền=Quờn, Quan= Quơn, Quí=Quới, Hán=Hớn (hảo hán=hảo hớn), Trường=Tràng, Nhân=Nhơn, Chân=Chơn, Nguyên (tên của chúa Nguyễn Phúc Nguyên) phải đọc là Nguơn, Duyên=Duơn, Đại=Đợi, Yến=Én, Dao=Diêu, Đào=Điều, Lương=Lang, Trương=Trang, Doanh=Dinh, Thành=Thiềng, Vĩnh=Vãng, Sinh=Sanh, Cang=Cương, Sơn=San, Đỉnh=Đảnh, Dũng=Dõng,Thịnh=Thạnh, Chính=Chánh etc ... nhiều vô số kể, không thể nào kể hết ra được.
Khi đi thi, các sĩ tử phải thuộc bảng trường qui này để nếu có gặp phải chữ phạm húy thì biết luật mà viết trại ra. Từ luật trường qui này mà các chữ không cùng giống syllables với vần chính (do đọc trại ra âm na ná) mà vẫn được công nhận là hợp vần theo luật.
Đại khái, xin liệt kê ra đây một số vần thông được chấp nhận là hợp vần theo luật thông vận trong khi làm thơ.
a. Vần thông của vần bằng:
Đơn âm:
o, ô, u : thông vần với nhau.
e, ê, i : thông vần với nhau.
ơ, ư : vần nhau.
a, ơ : vần nhau.
ai, ay, ây : vần nhau.
ai, oi, ôi, ơi, ươi, ui : thông nhau.
ao, eo, êu, iêu, iu, ưu : thông nhau.
am, ơm : thông nhau.
ăm, âm : thông nhau.
êm, im : thông nhau.
an, ơn : thông nhau.
ăn, ân, uân : thông nhau.
Phức âm:
en, in, iên, uyên : thông nhau.
on, ôn, uôn : thông nhau.
on, un : thông nhau.
ang, ương : thông nhau (thí dụ tràng thiên = trường thiên, bên đàng = bên đường, cầu Trường Tiền=cầu Tràng Tiền)).
ăng, âng , ưng : thông nhau.
ong, ông, ung : thông nhau.
uông, ương : thông nhau.
anh, ênh, inh, oanh, uynh : thông nhau.
etc ... (vần thông của vần bằng còn nữa).
b. Vần thông của vần trắc:
Đơn âm:
ói, ủi : thông nhau.
ĩa, uệ : thông nhau.
ọ, ủa : thông nhau.
é, ị : thông nhau.
ổ, ũ : thông nhau.
Phức âm:
áo, iễu : thông nhau.
út, uốt : thông nhau.
ật, ứt : thông nhau.
ật, ắt : thông nhau.
óng, úng : thông nhau.
ặn, ẩn : thông nhau.
ạm, ợm : thông nhau.
ấc, ực : thông nhau.
ác, ước : thông nhau.
ụi, ỗi : thông nhau.
uyệt, ịt : thông nhau.
ạc, ước : thông nhau.
ỗ, ữa : thông nhau.
etc ...
(ST)
Văn là kim văn còn gọi là văn xuôi, chỉ có câu mà không có vần.
Thơ xuất xứ từ cổ văn, gọi là vận văn nghĩa là văn vần.
Từ định nghĩa này, minh thị rằng thơ là phải có vần, dù là bất cứ thể thơ gì đi nữa, như thơ tự do, thơ mới ...
Về vần thơ có hai luật:
1. Chính vận:
Là vần đúng, tức là tất cả các chữ mà theo luật phải vần với nhau thì những chữ đó đều phải cùng syllables với nhau.
Thí dụ:
- trường, sương, dương, thương, vương ...
- hồng, đông, sông, trông, chồng ...
- mướt, vượt, lướt, thướt, rượt ...
- biết, riết, liệt, biệt, thiệt ...
2. Thông vận:
Thông vận nghĩa là vần thông (hay thông vần cũng vậy). Vần thông là những chữ không cùng syllables với nhau, nhưng có giọng phát âm nghe na ná (tương tự) do nguồn gốc cùng một chữ nhưng vì bị đọc trại ra, được xếp vào bảng luật thông vận. Vì chữ bị đọc trại này thành ra nó có syllables khác, vì vậy những chữ tương tự cũng được chấp nhận theo luật.
Tại sao có sự chữ bị đọc trại ra như vậy ? Sau đây là sự giải thích và đó cũng là lịch sử của sự hình thành luật thông vận trong thơ.
Nền văn học nước ta và nước Tàu đã có từ lâu đời. Hai nước Tàu và Việt có cùng chung một nền văn học và cùng chung một thể chế chính trị là chế độ quân chủ Tầng lớp trung tâm tập quyền (gọi là quân chủ chuyên chế). Chế độ quân chủ có nhiều luật rất khắc khe, như mọi người đều phải cử (kiêng) tên của các ông vua, bà hoàng, thái tử, công chúa ... ở các địa phương còn phải cử tên các quan lớn nữa. Ai gọi nhằm tên đáng lẽ ra phải kiêng cử thì gọi là phạm húy, coi như có tội ngạo mạn.
Do đó mà luật đặt ra khi gặp những chữ nhằm tên vua, chúa etc ... thì phải đọc và nói trại ra, chữ viết cũng phải trại ra.
Luật này được áp dụng chặt chẽ trong các trường thi gọi là trường qui (trường qui là qui định nơi thi cử). Các sĩ tử phải thuộc, nếu ai làm bài dù hay cách mấy mà phạm húy cũng đều bị đánh rớt cả. Luật này rất nghiêm ngặt, nhiều sĩ tử vì không thuộc hết trường qui mà bị thi rớt oan uổng.
Những chữ phải cử rất nhiều. Lấy một số thí dụ sau đây:
Thí dụ vua Tự Đức tên là Hồng Nhậm nên gặp chữ nhậm phải đọc là Nhiệm. Vua Tự Đức còn có tên khác nữa là Thì, nên gặp chữ Thì phải đọc là Thời, vì vậy tên ông Ngô Thì Nhậm được đọc là Ngô Thời Nhiệm.
Hoặc hoàng tử Cảnh là con vua Gia Long tên Cảnh, nên gặp chữ Cảnh phải đọc là Kiểng. Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, nên gặp chữ Đảm phải đọc là Đởm. Mẹ của vua Minh Mạng tên Nguyễn Thị Hoa, nên gặp chữ Hoa phải đọc là Huê. Chúa Nguyễn Hoàng là ông tổ đời thứ nhì của vua Gia Long, nên gặp chữ Hoàng phải đọc là Huỳnh. Ông Nguyễn Kim là thái tổ của vua Gia Long nên gặp chữ Kim phải viết là Câm. Hồng là tên của một bà vợ vua nên gặp chữ Hồng phải đọc là Hường. Tương tự như vậy, chữ Tòng đọc là Tùng, chữ Chu (tên của chúa Nguyễn Phúc Chu) đọc là Châu, vì vậy tên ông Ngô Tòng Chu đọc là Ngô Tùng Châu. Tương tự như vậy, Long=Luông, An=Yên, Hường=Huồng, Hoàn=Huờn, Quyền=Quờn, Quan= Quơn, Quí=Quới, Hán=Hớn (hảo hán=hảo hớn), Trường=Tràng, Nhân=Nhơn, Chân=Chơn, Nguyên (tên của chúa Nguyễn Phúc Nguyên) phải đọc là Nguơn, Duyên=Duơn, Đại=Đợi, Yến=Én, Dao=Diêu, Đào=Điều, Lương=Lang, Trương=Trang, Doanh=Dinh, Thành=Thiềng, Vĩnh=Vãng, Sinh=Sanh, Cang=Cương, Sơn=San, Đỉnh=Đảnh, Dũng=Dõng,Thịnh=Thạnh, Chính=Chánh etc ... nhiều vô số kể, không thể nào kể hết ra được.
Khi đi thi, các sĩ tử phải thuộc bảng trường qui này để nếu có gặp phải chữ phạm húy thì biết luật mà viết trại ra. Từ luật trường qui này mà các chữ không cùng giống syllables với vần chính (do đọc trại ra âm na ná) mà vẫn được công nhận là hợp vần theo luật.
Đại khái, xin liệt kê ra đây một số vần thông được chấp nhận là hợp vần theo luật thông vận trong khi làm thơ.
a. Vần thông của vần bằng:
Đơn âm:
o, ô, u : thông vần với nhau.
e, ê, i : thông vần với nhau.
ơ, ư : vần nhau.
a, ơ : vần nhau.
ai, ay, ây : vần nhau.
ai, oi, ôi, ơi, ươi, ui : thông nhau.
ao, eo, êu, iêu, iu, ưu : thông nhau.
am, ơm : thông nhau.
ăm, âm : thông nhau.
êm, im : thông nhau.
an, ơn : thông nhau.
ăn, ân, uân : thông nhau.
Phức âm:
en, in, iên, uyên : thông nhau.
on, ôn, uôn : thông nhau.
on, un : thông nhau.
ang, ương : thông nhau (thí dụ tràng thiên = trường thiên, bên đàng = bên đường, cầu Trường Tiền=cầu Tràng Tiền)).
ăng, âng , ưng : thông nhau.
ong, ông, ung : thông nhau.
uông, ương : thông nhau.
anh, ênh, inh, oanh, uynh : thông nhau.
etc ... (vần thông của vần bằng còn nữa).
b. Vần thông của vần trắc:
Đơn âm:
ói, ủi : thông nhau.
ĩa, uệ : thông nhau.
ọ, ủa : thông nhau.
é, ị : thông nhau.
ổ, ũ : thông nhau.
Phức âm:
áo, iễu : thông nhau.
út, uốt : thông nhau.
ật, ứt : thông nhau.
ật, ắt : thông nhau.
óng, úng : thông nhau.
ặn, ẩn : thông nhau.
ạm, ợm : thông nhau.
ấc, ực : thông nhau.
ác, ước : thông nhau.
ụi, ỗi : thông nhau.
uyệt, ịt : thông nhau.
ạc, ước : thông nhau.
ỗ, ữa : thông nhau.
etc ...
(ST)
Chú ý là không được spam bậy đâu đấy

Vì thể thơ tự do 4 chữ không được hoan nghênh lắm, nên mình bắt đầu với thể thơ tự do 5 chữ vần tiếp nhé:
Bảng Luật :
- Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x t x B
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B
VD:
Con đã hiểu mẹ ơi
Xin đừng buồn nữa nhé
Từ giờ đây có lẽ
Quanh quẩn ở nhà thôi
Ba biền biệt xa xôi
Mẹ âm thầm một bóng
Con buông xuôi lều chõng
Làm sao mẹ chẳng buồn
(TK)
- Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x b x T
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T
VD:
Trời đã khuya rồi đó
Sao chưa ngủ mẹ ơi
Hay mãi ngắm sao rơi
Làm tim già co thắt
Bao lần con cúi mặt
Giọt lệ thấm vào tim
Bấy lần mẹ im lìm
Nhìn sao đêm rơi rụng
...
(TK)
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- Ngoài ra chữ thứ hai là bằng thì chữ thứ t.ư là nên trắc và ngược lại.
- Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x t x B
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B
VD:
Con đã hiểu mẹ ơi
Xin đừng buồn nữa nhé
Từ giờ đây có lẽ
Quanh quẩn ở nhà thôi
Ba biền biệt xa xôi
Mẹ âm thầm một bóng
Con buông xuôi lều chõng
Làm sao mẹ chẳng buồn
(TK)
- Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x b x T
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T
VD:
Trời đã khuya rồi đó
Sao chưa ngủ mẹ ơi
Hay mãi ngắm sao rơi
Làm tim già co thắt
Bao lần con cúi mặt
Giọt lệ thấm vào tim
Bấy lần mẹ im lìm
Nhìn sao đêm rơi rụng
...
(TK)
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- Ngoài ra chữ thứ hai là bằng thì chữ thứ t.ư là nên trắc và ngược lại.
Bảng Luật :
- Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x B x x T x B
x x T x x B x T (vần với câu dưới)
x x T x x B x T (vần với câu trên)
x x B x x T x B (vần với câu dưới)
.....
VD:
Em đi rồi giọt nắng cũng buồn tênh
Mưa rả rích kéo chiều về rất vội
Con đường cũ đắm chìm trong bao nỗi
Yêu thương nào lặng lẽ vỗ cánh bay
Em đi rồi ta mất hẳn vòng tay
Ôm nhung nhớ nuôi tháng ngày còn lại
Đừng em nhé chia tay là đi mãi
Một lần thôi dù chỉ ngoái mắt nhìn…
TK
- Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x T x x B x T
x x B x X T x B (vần với câu dưới)
x x B x x T x B (vần với câu trên)
x x T x x B x T (vần với câu dưới)
.....
VD:
Ơi hạt nắng đi đâu mà dữ vậy
Bỏ ta buồn cả mấy tháng trời nay
Trời cũng buồn nên cứ mãi mưa bay
Vườn hò hẹn nghe dầm dề nỗi nhớ
Ơi hạt nắng trời khuya trăng không ở
Bỏ ta buồn than thở với ngàn sao
Quen nắng rồi ta chỉ một ước ao
Chan hòa mãi đêm lẫn ngày nắng hỡi !
TK
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x B x x T x B
x x T x x B x T (vần với câu dưới)
x x T x x B x T (vần với câu trên)
x x B x x T x B (vần với câu dưới)
.....
VD:
Em đi rồi giọt nắng cũng buồn tênh
Mưa rả rích kéo chiều về rất vội
Con đường cũ đắm chìm trong bao nỗi
Yêu thương nào lặng lẽ vỗ cánh bay
Em đi rồi ta mất hẳn vòng tay
Ôm nhung nhớ nuôi tháng ngày còn lại
Đừng em nhé chia tay là đi mãi
Một lần thôi dù chỉ ngoái mắt nhìn…
TK
- Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x T x x B x T
x x B x X T x B (vần với câu dưới)
x x B x x T x B (vần với câu trên)
x x T x x B x T (vần với câu dưới)
.....
VD:
Ơi hạt nắng đi đâu mà dữ vậy
Bỏ ta buồn cả mấy tháng trời nay
Trời cũng buồn nên cứ mãi mưa bay
Vườn hò hẹn nghe dầm dề nỗi nhớ
Ơi hạt nắng trời khuya trăng không ở
Bỏ ta buồn than thở với ngàn sao
Quen nắng rồi ta chỉ một ước ao
Chan hòa mãi đêm lẫn ngày nắng hỡi !
TK
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- x : bằng hoặc trắc đều được
Thơ Thất Ngôn (hay còn gọi Tứ Tuyệt)
Thất ngôn đơn giản là thể thơ gồm bốn câu mỗi đoạn, và mỗi câu được mang bảy chữ, được sắp theo luật như sau:
Bốn câu được chia thành hai cặp:
Một cặp mang thanh x T x B x T x (trắc, bằng, trắc)
Một cặp mang thanh x B x T x B x (bằng, trắc, bằng)
Hai cặp này có thể đặt xen kẽ, hoặc đối xứng tùy ý, miễn sao nghe êm tai là được. Trong từng câu, những chữ mang thanh trắc bằng bắt buộc phải là các chữ 2, 4, và 6 của mỗi câu. Như vậy chữ thứ 2 và thứ 6 luôn mang cùng một thanh còn chữ thứ 4 thì ngược lại theo đúng luật thơ.
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn (vần với câu 2 và 4)
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất.
Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần (vần với câu 4)
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Cách này thường được Thành phố sử dụng.
Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi (vần với câu 4)
Qua những sân cung rộng hải hồ (vần với câu 3)
Có phải A Phòng hay Cô Tô ? (vần với câu 2)
Lá liễu dài như một nét mi (vần với câu 1)
Cách này ít người sử dụng.
Thất ngôn đơn giản là thể thơ gồm bốn câu mỗi đoạn, và mỗi câu được mang bảy chữ, được sắp theo luật như sau:
Bốn câu được chia thành hai cặp:
Một cặp mang thanh x T x B x T x (trắc, bằng, trắc)
Một cặp mang thanh x B x T x B x (bằng, trắc, bằng)
Hai cặp này có thể đặt xen kẽ, hoặc đối xứng tùy ý, miễn sao nghe êm tai là được. Trong từng câu, những chữ mang thanh trắc bằng bắt buộc phải là các chữ 2, 4, và 6 của mỗi câu. Như vậy chữ thứ 2 và thứ 6 luôn mang cùng một thanh còn chữ thứ 4 thì ngược lại theo đúng luật thơ.
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách:
Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn (vần với câu 2 và 4)
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất.
Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần (vần với câu 4)
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Cách này thường được Thành phố sử dụng.
Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:
Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi (vần với câu 4)
Qua những sân cung rộng hải hồ (vần với câu 3)
Có phải A Phòng hay Cô Tô ? (vần với câu 2)
Lá liễu dài như một nét mi (vần với câu 1)
Cách này ít người sử dụng.
Thơ Đường
Thơ Đường được bắt đầu từ bên Trung Hoa, thời nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong triều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thơ nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là thơ Đường.
Thơ Đường còn được gọi là "Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú" tạm dịch là Đường thơ bảy chữ tám câu. Tám câu này được phân ra thành bốn cặp (cặp là hai câu giống nhau theo luật bằng trắc).
cặp 1: gồm câu một và câu tám
cặp 2: gồm câu hai và câu ba
cặp 3: gồm câu bốn và câu năm
cặp 4: gồm câu sáu và câu bảy
Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu; đặc biệt, những chữ 7 (chữ cuối của mỗi câu) cũng phải theo luật bằng-trắc (b=bằng, t=trắc).
Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)
Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)
Ví dụ:
Lạc cực bi sinh sự lý thường
Thất thời vi tặc đắc thời vương
Thi thư vạn thế lưu Thương Hạ
Sử sách thiên niên ký Hán Đường
Kỳ tích khởi quy nhân khí đoản
Thành công tự đáo khách can trường
Anh hùng chí khí thiên môn ngoại
Nhi nữ tâm tình lệ hoá tương
Phichan họa "Ly biệt" của Nguyệt Sinh
Dịch thơ:
Vui hết buồn sang cái sự thường
Thua thành giặc cỏ, thắng làm vương
Thi thư vạn thế từ Thương Hạ
Sử sách ngàn năm thuở Hán Đường
Kỳ tích há theo người kém chí
Thành công ắt đón khách can trường
Anh hùng chí khí ngoài muôn dặm
Nhi nữ lệ sầu hóa sông Tương
Nguyệt Sinh
Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu ĐỀ và hai câu năm và câu sáu là hai câu LUẬN.... hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, danh từ (noun) đối danh từ, động từ (verb) đối động từ, tính từ (adjective) đối tính từ, quan trọng hơn cả là hai cặp câu này phải Ý đối Ý.
Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể HỌA THƠ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những mang VẦN của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên (thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.
(ST)
Thơ Đường được bắt đầu từ bên Trung Hoa, thời nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong triều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thơ nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là thơ Đường.
Thơ Đường còn được gọi là "Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú" tạm dịch là Đường thơ bảy chữ tám câu. Tám câu này được phân ra thành bốn cặp (cặp là hai câu giống nhau theo luật bằng trắc).
cặp 1: gồm câu một và câu tám
cặp 2: gồm câu hai và câu ba
cặp 3: gồm câu bốn và câu năm
cặp 4: gồm câu sáu và câu bảy
Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu; đặc biệt, những chữ 7 (chữ cuối của mỗi câu) cũng phải theo luật bằng-trắc (b=bằng, t=trắc).
Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)
Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:
câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)
Ví dụ:
Lạc cực bi sinh sự lý thường
Thất thời vi tặc đắc thời vương
Thi thư vạn thế lưu Thương Hạ
Sử sách thiên niên ký Hán Đường
Kỳ tích khởi quy nhân khí đoản
Thành công tự đáo khách can trường
Anh hùng chí khí thiên môn ngoại
Nhi nữ tâm tình lệ hoá tương
Phichan họa "Ly biệt" của Nguyệt Sinh
Dịch thơ:
Vui hết buồn sang cái sự thường
Thua thành giặc cỏ, thắng làm vương
Thi thư vạn thế từ Thương Hạ
Sử sách ngàn năm thuở Hán Đường
Kỳ tích há theo người kém chí
Thành công ắt đón khách can trường
Anh hùng chí khí ngoài muôn dặm
Nhi nữ lệ sầu hóa sông Tương
Nguyệt Sinh
Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu ĐỀ và hai câu năm và câu sáu là hai câu LUẬN.... hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, danh từ (noun) đối danh từ, động từ (verb) đối động từ, tính từ (adjective) đối tính từ, quan trọng hơn cả là hai cặp câu này phải Ý đối Ý.
Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể HỌA THƠ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những mang VẦN của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên (thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.
(ST)
Bảng Luật :
b B t T b B (vần 1)
b B t T b B (vần 1) t B (vần 2)
b B t T b B (vần 2)
b B t T b B (vần 2) t B (vần 3)
VD:
Tìm trong kỷ niệm bao lần
Câu thơ vẫn đọng những vần xót xa
Em giờ đã hóa người ta
Mà tôi chẳng biết phôi pha thế nào
Hằng đêm nỗi nhớ thì thào
Trường xưa lớp cũ ngọt ngào đón đưa
Bờ này dẫu có dầm mưa
Mong rằng bến ấy nắng chưa nhạt nhòa
PL
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- Chữ cuối của câu Lục (câu có 6 chữ) vần với chữ cuối của câu Bát (câu có 8 chữ) đứng liền trước nó và vần với chữ thứ 6 của câu Bát đứng liền sau nó.
- Lục Bát chính thể ngắt nhịp ở chữ 2-4-6 trong câu.
- Bài thơ Lục Bát thông thường bắt đầu từ câu 6 chữ (câu Lục), tiếp theo câu 8 chữ (câu Bát), xen kẽ cho đến hết bài và thường kết thúc ở câu Bát.
- Trong câu Bát, chữ thứ 6 phải khác dấu chữ thứ 8, nếu chữ thứ 6 là huyền thì chữ thứ 8 là không dấu và ngược lại. (Tuy nhiên chỉ cần giao vần bằng trắc đúng là được, cái này không quan trọng lắm đâu )
b B t T b B (vần 1)
b B t T b B (vần 1) t B (vần 2)
b B t T b B (vần 2)
b B t T b B (vần 2) t B (vần 3)
VD:
Tìm trong kỷ niệm bao lần
Câu thơ vẫn đọng những vần xót xa
Em giờ đã hóa người ta
Mà tôi chẳng biết phôi pha thế nào
Hằng đêm nỗi nhớ thì thào
Trường xưa lớp cũ ngọt ngào đón đưa
Bờ này dẫu có dầm mưa
Mong rằng bến ấy nắng chưa nhạt nhòa
PL
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- Chữ cuối của câu Lục (câu có 6 chữ) vần với chữ cuối của câu Bát (câu có 8 chữ) đứng liền trước nó và vần với chữ thứ 6 của câu Bát đứng liền sau nó.
- Lục Bát chính thể ngắt nhịp ở chữ 2-4-6 trong câu.
- Bài thơ Lục Bát thông thường bắt đầu từ câu 6 chữ (câu Lục), tiếp theo câu 8 chữ (câu Bát), xen kẽ cho đến hết bài và thường kết thúc ở câu Bát.
- Trong câu Bát, chữ thứ 6 phải khác dấu chữ thứ 8, nếu chữ thứ 6 là huyền thì chữ thứ 8 là không dấu và ngược lại. (Tuy nhiên chỉ cần giao vần bằng trắc đúng là được, cái này không quan trọng lắm đâu )
Lục Bát biến thể là thơ Lục Bát được biến đổi cách gieo vần, cấu trúc bằng trắc và ngắt nhịp trong câu. Dưới đây là một số loại Lục Bát biến thể thường gặp:
1/ Biến đổi cấu trúc bằng trắc
- Câu Lục giữ nguyên, câu Bát biến đổi chữ thứ 2 thành thanh trắc:
b B t T b B (vần)
b T t T b B (vần) t B
Ví dụ :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(ca dao)
- Cả câu Lục và câu Bát đều biến đổi chữ thứ 2 thành thanh trắc:
b T t T b B (vần)
b T t T b B (vần) t B
Ví dụ :
Có sáo thì sáo nước trong
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con
(ca dao)
2/ Biến đổi cách ngắt nhịp:
- Câu Bát giữ nguyên, câu Lục biến đổi chữ thứ 2 thành trắc và ngắt nhịp ở chữ thứ 3:
b T t / T b B (vần)
b B t T b B (vần) t B
Ví dụ:
Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
(Truyện Kiều)
3/ Biến đổi cách gieo vần:
Gieo vần ở chữ thứ 4: Nghĩa là chữ thứ 4 của câu Bát vần với chữ cuối của câu Lục.
- Câu Lục giữ nguyên, câu Bát biến đổi cấu trúc bằng trắc:
b B t T b B (vần)
t T b B (vần) t T b B
Ví dụ :
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
(ca dao)
- Cả câu Lục và câu Bát đều biến đổi cấu trúc bằng trắc:
b T t T b B (vần)
t T b B (vần) t T b B
Ví dụ :
Cưới vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
(ca dao)
1/ Biến đổi cấu trúc bằng trắc
- Câu Lục giữ nguyên, câu Bát biến đổi chữ thứ 2 thành thanh trắc:
b B t T b B (vần)
b T t T b B (vần) t B
Ví dụ :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(ca dao)
- Cả câu Lục và câu Bát đều biến đổi chữ thứ 2 thành thanh trắc:
b T t T b B (vần)
b T t T b B (vần) t B
Ví dụ :
Có sáo thì sáo nước trong
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con
(ca dao)
2/ Biến đổi cách ngắt nhịp:
- Câu Bát giữ nguyên, câu Lục biến đổi chữ thứ 2 thành trắc và ngắt nhịp ở chữ thứ 3:
b T t / T b B (vần)
b B t T b B (vần) t B
Ví dụ:
Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
(Truyện Kiều)
3/ Biến đổi cách gieo vần:
Gieo vần ở chữ thứ 4: Nghĩa là chữ thứ 4 của câu Bát vần với chữ cuối của câu Lục.
- Câu Lục giữ nguyên, câu Bát biến đổi cấu trúc bằng trắc:
b B t T b B (vần)
t T b B (vần) t T b B
Ví dụ :
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
(ca dao)
- Cả câu Lục và câu Bát đều biến đổi cấu trúc bằng trắc:
b T t T b B (vần)
t T b B (vần) t T b B
Ví dụ :
Cưới vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
(ca dao)
Thơ Song Thất Lục Bát là thơ có hai câu 7 chữ (câu Thất 1 và câu Thất 2), tiếp theo là câu 6 chữ (câu Lục) và câu 8 chữ (câu Bát).
Bảng Luật :
x x t/b x B x T (vần 1)
x x B x T (vần 1) x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2) x B (vần 3)
x x t/b x B (vần 3) x T
VD:
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
(Đặng Trần Côn)
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- t/b : chữ thứ 3 câu Thất 1 thông thường là thanh trắc nhưng cũng có thể biến đổi thành thanh bằng.
- Câu Lục và câu Bát hoàn toàn giống với thơ Lục Bát ở lớp 14.
- Chữ cuối của câu Thất 1 vần với chữ thứ 5 của câu Thất 2, chữ cuối của câu Thất 2 vần với chữ cuối của câu Lục bên dưới, chữ cuối của câu Bát vần với chữ thứ 5 của câu Thất kế tiếp,... và cứ tiếp nối như vậy cho đến khi kết thúc.
- Trường hợp ngoại lệ: Chữ cuối của câu Bát vần với chữ thứ 3 của câu Thất kế tiếp, lúc này chữ thứ 3 của câu Thất đó chuyển thành thanh bằng.
Bài thơ STLB thường bắt đầu bằng hai câu Thất và dừng lại ở câu Bát.
Lưu ý: hai câu Thất luôn ngắt nhịp lẻ, nghĩa là ngắt nhịp ở chữ thứ 3 & 5 trong câu.
Bảng Luật :
x x t/b x B x T (vần 1)
x x B x T (vần 1) x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2) x B (vần 3)
x x t/b x B (vần 3) x T
VD:
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
(Đặng Trần Côn)
Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- t/b : chữ thứ 3 câu Thất 1 thông thường là thanh trắc nhưng cũng có thể biến đổi thành thanh bằng.
- Câu Lục và câu Bát hoàn toàn giống với thơ Lục Bát ở lớp 14.
- Chữ cuối của câu Thất 1 vần với chữ thứ 5 của câu Thất 2, chữ cuối của câu Thất 2 vần với chữ cuối của câu Lục bên dưới, chữ cuối của câu Bát vần với chữ thứ 5 của câu Thất kế tiếp,... và cứ tiếp nối như vậy cho đến khi kết thúc.
- Trường hợp ngoại lệ: Chữ cuối của câu Bát vần với chữ thứ 3 của câu Thất kế tiếp, lúc này chữ thứ 3 của câu Thất đó chuyển thành thanh bằng.
Bài thơ STLB thường bắt đầu bằng hai câu Thất và dừng lại ở câu Bát.
Lưu ý: hai câu Thất luôn ngắt nhịp lẻ, nghĩa là ngắt nhịp ở chữ thứ 3 & 5 trong câu.
Song tứ lục bát là biến dạng của song thất lục bát.
Trong thể này các chữ vần với nhau đều là vần bằng
1. Chữ cuối câu 2 (4 chữ) vần với chữ cuối câu 1 (4 chữ)
2. Chữ cuối câu 3 (6 chữ) vần vớí chữ cuối câu 2 (4 chữ)
3. Chữ thứ 6 câu 4 (8 chữ) vần vớí chữ cuối câu 3 (6 chữ)
4. Chữ thứ 8 câu 4 vần với chữ cuối câu 1 của đoạn tiếp theo
Ví dụ:
Có những buổi chiều
Vắng bóng người yêu
Em ngồi xõa tóc cô liêu
Trên không vẳng tiếng sáo diều vu vơ
Có một chiều mơ
Lại một chiều thơ
Em đan mộng đẹp bằng tơ
Có người làm nhện đứng chờ mối em
Những buổi chiều êm
Đưa võng bên thềm
Nhớ em mắt biếc môi mềm
Người về đoàn tụ êm đềm gối chăn.
(Pham Doanh)
Trong thể này các chữ vần với nhau đều là vần bằng
1. Chữ cuối câu 2 (4 chữ) vần với chữ cuối câu 1 (4 chữ)
2. Chữ cuối câu 3 (6 chữ) vần vớí chữ cuối câu 2 (4 chữ)
3. Chữ thứ 6 câu 4 (8 chữ) vần vớí chữ cuối câu 3 (6 chữ)
4. Chữ thứ 8 câu 4 vần với chữ cuối câu 1 của đoạn tiếp theo
Ví dụ:
Có những buổi chiều
Vắng bóng người yêu
Em ngồi xõa tóc cô liêu
Trên không vẳng tiếng sáo diều vu vơ
Có một chiều mơ
Lại một chiều thơ
Em đan mộng đẹp bằng tơ
Có người làm nhện đứng chờ mối em
Những buổi chiều êm
Đưa võng bên thềm
Nhớ em mắt biếc môi mềm
Người về đoàn tụ êm đềm gối chăn.
(Pham Doanh)
Note:
Chủ ý để viết nên 1 bài thơ là để diễn tả cảm xúc, dùng từ ngữ mà diễn đạt tâm ý của người làm thơ, nhiều khi quá gò bó trong luật thơ có thể sẽ mất đi cái hứng làm thơ, vì vậy, nếu bài thơ khi đọc lên nghe êm dịu, xuôi tai, diễn tả được ý tứ và cảm xúc của tác giả thì không cần theo đúng luật thơ cũng có thể là 1 bài thơ hay phải không các bạn.
(ST)
Last edited by a moderator: