[Sáng Tác] Truyện ma đêm khuya

Lan Chi

Phàm Nhân
Ngọc
87.566,78
Tu vi
0,00
Câu chuyện thứ t.ư:

TA KHÔNG ĐI

Đây là một căn biệt thự cổ cũng trên trăm năm tuổi.

Tầng hầm được làm bằng đá ong nguyên khối. Dẫn xuống tầng hầm là một chiếc cầu thang bằng gỗ cũng già bằng tuổi của căn nhà. Mỗi lần đi xuống dưới đó là bậc thứ năm và bậc thứ tám của cầu thang lại kêu cọt kẹt như tiếng xương cốt của các ông bà già đang vặn mình vậy.

Trên nóc trần chỗ chiếu nghỉ của cầu thang có lắp một bóng đèn tròn vàng nhàn nhạt, chủ yếu để thấy đường đi. Qua khỏi chiếu nghỉ thêm tầm mười hai bậc nữa là sẽ tới gian phòng đầu tiên dưới hầm. Ban ngày, khi mở cách cửa ngăn căn phòng với sân sau thì gió luôn lùa vào ào ào khiến chiếc bóng đèn lung lay thêm thập phần ma quái.

Bên trái cầu thang đã được đóng kín bằng cách thanh gỗ, nhưng nhìn xuyên qua kẽ hở cũng sẽ thấy được một căn hầm đá rất rộng, tối thui bên trong. Nghe nói trước kia căn hầm đó là nơi dùng để chứa rượu vang, nhưng do để lâu, nay cũng đã trở nên hoang phế, chỉ nghe thấy tiếng gió lộng và mùi ẩm mốc, rêu xỉ len vào.

Kim đang chầm chậm đi xuống cầu thang. Cô không cần bật chiếc bóng đèn vàng èo uột kia bởi cô đã quá quen với từng bậc thang trong nhà. Cô đi rất nhẹ, lướt qua cả bậc thứ năm và thứ tám, không gây nên một tiếng động nào. Bọn trẻ vẫn còn ngủ say trong phòng.

Cô lướt nhẹ những ngón tay dài, gầy guộc và trắng nhợt lên chiếc bàn ăn to ở giữa phòng. Ánh sáng buổi sớm vẫn còn chưa kịp đến phía sau nhà nên khu vực này vẫn lạnh lẽo và tối nhờ nhờ. Cô ngồi xuống chiếc ghế, nhìn vào phần đồ ăn Tạo đã chuẩn bị sẵn cho các con, đậy lồng bàn cẩn thận. Đôi mắt vẫn đượm buồn, tiêu cự cứ xa xăm như có như không.

- Hối hận sao?

Bỗng nhiên có tiếng nói vang lên từ góc gạc- măng - rê (garde manger: chiếc tủ nhỏ đựng chén bát, thực phẩm ở góc phòng bếp). Giọng nói nghe như gió thoảng từ trong hư vô, không phân biệt rõ nam, nữ hay tuổi tác. Căn phòng cũng quá tối nên chỉ thấy nơi đó tràn ngập bóng đen, không thấy rõ hình dáng người nào cả.

- Ta không biết! - Kim cũng trả lời bằng giọng nhẹ như mây, cũng không buồn ngước nhìn người vừa hỏi.

Một luồng gió thổi qua. Căn phòng dường như trở nên lạnh hơn, nhưng Kim vẫn ngồi bất động.

- Kể từ khi cô chạm vào sợi dây đó và tự mình cất nó đi. Định mệnh đã xui khiến cô sẽ thay thế cho tôi!

Giọng nói lại vang lên trong mơ hồ.

- Nhưng tôi không hiểu sao, tới giờ cả hai chúng ta vẫn còn ở đây cùng nhau. Tôi đã ở đây sáu mươi tám năm chờ đợi trong lạnh lẽo và cô độc cho đến một ngày cô chạm vào tôi....

Kim nhớ đến ngày mới dọn về. Trong căn phòng này chén bát, muỗng đũa vẫn bày biện nguyên trên bàn cứ như ai đó đang dở dang một bữa tiệc. Một chiếc ghế ngã ngang nằm chỏng chơ. Đồ ăn trên bàn thì đã mốc khô đến độ rã ra thành bụi. Khi mở cửa ra cô còn phải sặc vì bụi ở đây. Mất đến ba ngày, cô mới dọn dẹp xong khu vực này. Chén đĩa sau khi rửa sạch đều là dạng đồ sứ của Tây có viền vàng rất đẹp, thanh lịch. Bàn ghế cũng toàn đồ tốt. Việc mẹ cô và Tạo chọn mua căn nhà này hoàn toàn không có gì sai cả, nếu không phải nói là còn lời được nhiều món đồ có giá trị như thế này. Những bộ nồi men, bếp điện hầu như đều còn sử dụng được cả.

Chỉ khi dọn dẹp đến chỗ gác-măng-rê thì cô thấy có một cái khăn lụa khá dài, rất đẹp nằm chơ vơ trong góc. Trong đời cô chưa bao giờ nhìn thấy chiếc khăn nào đẹp đến vậy. Đó là một chiếc khăn dệt trắng, có in những đóa hoa hồng rất tinh tế. Không hiểu sao lại bị vứt chỏng chơ ở đây. Nhưng cô cũng nhanh chóng xóa đi thắc mắc trong đầu. Chủ nhân cũ của ngôi nhà này còn có biết bao nhiêu thứ khác đẹp đẽ hơn nhiều, có lẽ đối với họ chiếc khăn này chỉ là thứ gì đó tầm thường nhất mà thôi.

Kim giặt sạch chiếc khăn, cô càng ngắm càng yêu. Chiếc khăn sau khi được tẩy sạch và được phơi lại càng rực rỡ. Những bông hoa hồng cứ sống động như thật trong ánh nắng vậy. Không hiểu sao Kim rất thích chiếc khăn. Thỉnh thoảng khi Tạo đi vắng hoặc mẹ cô không ở nhà thì cô lại kín đáo lôi chiếc khăn ra, thay lên người bộ đồng phục nữ sinh hồng phấn mà cô vẫn luôn cất kỹ dưới đáy va li. Chiếc khăn được quàng lên cổ, cô xoay người nhảy một điệu quen thuộc và ngắm mình trong gương.

******************

Ký ức như sống lại.

Một đứa bé con chỉ khoảng hai, ba tuổi được dựng dậy. Mẹ nó quấn cho nó thêm tấm áo mỏng, bế thốc nó lên. Tay cầm theo túi quần áo nhỏ, lầm lũi giữa đêm mưa gió. Trời lạnh và mưa khiến nó khóc thét lên. Người mẹ lại dỗ dành và hai mẹ con chen chúc nhau lên một chiếc xe đò cũ kỹ.

Nó ngủ gà gật trong lòng mẹ. Chiếc xe đò đông người lắm, mọi người ngồi chen cả vào nhau, không có cả chỗ để nhúc nhích. Có người say xe, nôn ọe. Người thì cố thu mình trong góc. Người thì vờ nhắm mắt, cố dỗ giấc ngủ. Con bé cũng chẳng quan tâm gì. Nó vẫn ở yên trong lòng mẹ và ngủ thôi.

Đến khi mẹ nó kéo kéo nó thì nó đã thấy mình ở một nơi rất lạnh. Không còn ấm áp như căn nhà cũ nữa. Ba nó đâu rồi, nó ngơ ngác nhìn mẹ, nhìn khung cảnh lạ lẫm chung quanh và bỗng dưng thấy sợ hãi vô cùng. Mẹ nó dẫn nó đến một nơi không đẹp như nhà cũ. Không còn thấy chiếc giường ấm áp, quen thuộc của nó nữa. Nơi này cũng không có chị Hai, chị Ba, anh t.ư nữa. Nơi này chỉ có nó và mẹ thôi.

Như con chim con, nó chỉ biết líu ríu bám sát mẹ mình. Nó cũng thấy mẹ nó khóc, nhưng với trí óc non nớt nó cũng không biết chuyện gì. Dẫu rằng vẫn sợ hãi lắm, nhưng nó không muốn mẹ buồn. Bàn tay nhỏ bé chỉ kéo kéo áo mẹ rồi đứng bên lặng yên. Nó lại thấy mẹ ôm nó vào lòng, khóc to hơn.

Nó không gặp ba nữa, không còn được ba ôm vào lòng tung lên và không còn được ba hôn vào má cái chóc nữa. Chỉ biết mỗi lần nó hỏi mẹ về ba là mẹ nói lại trở nên rất đáng sợ và đánh nó. Do đó, nó cũng tự biết sợ và không bao giờ nhắc về ba. Dẫu rằng, hàng đêm nó vẫn mơ thấy ông tung nó lên, hôn vào má cái chóc.

Đến một ngày nọ, mẹ dắt nó đến một tòa nhà cổ kính, phải đi qua một cái sân rất to và đẹp. Mẹ nó đưa tay nó cho một người phụ nữ còn xinh đẹp hơn nó, nhưng khuôn mặt nghiêm nghị. Bàn tay bà ta rất ấm áp nhưng vẫn không phải tay mẹ nó. Nó khóc òa lên, nhưng mẹ nó đã dỗ dành và đưa nó con gấu bông nhỏ:

- Kim ngoan! Con ở đây với Sơ. Sơ sẽ dạy con học, mẹ còn phải đi làm...

Con bé vẫn khóc thút thít, ôm chặt con gấu bông trong lòng đến khi dáng mẹ đi thật xa. Cánh cửa tu viện nặng nề đóng lại.

Sơ Marie cũng rất dịu dàng, an ủi nó và dẫn nó đến một căn phòng. Nơi đó có ba bạn khác cũng trạc tuổi nó.

Từ đó, Kim có tên mới là Theresa Kim, và nó chỉ biết đến một bộ váy hồng. Sơ cũng không cho phép ôm gấu bông đi lung tung, nên chỉ khi tối, đã tắt đèn Kim mới dám len lén lấy gấu bông ra và ôm.

Trong tu viện không cho nói chuyện nhiều, không cho đùa giỡn, chạy nhảy. Ngoài giờ học, giờ cầu kinh thì tất cả bọn trẻ đều phải học tự giặt giũ quần áo, xếp dọn đồ đạc của riêng mình. Các bạn trong tu viện cũng rất tốt, nhưng có lẽ do sợ sơ Marie nên đa phần bọn trẻ cũng trở nên ít nói chuyện dần. Chúng quen với những tiếng chuông, tiếng đèn tắt, mở mỗi ngày và những việc đã làm theo thời khóa biểu và ngoài ra chỉ là những bài kinh kính Chúa.

Mẹ không trở lại thăm Kim một lần nào nữa cho đến năm Kim mười tuổi, khi cô bé đã quen với nếp sống ở tu viện thì nhận được thư mẹ. Không biết phải tả nỗi mừng rỡ của cô bé như thế nào. Sơ Marie gọi Kim lên văn phòng, dịu dàng vuốt đầu con bé, giọng điềm tĩnh:

- Theresa, con có thể chọn ở lại với Chúa hoặc là theo mẹ con về!

- Dạ thưa sơ, con muốn gặp mẹ, nhưng cũng muốn phụng sự Đức Chúa Cha.

Đôi mắt Sơ ánh lên vẻ hài lòng:

- Theresa, con là đứa bé ngoan. Chúa Cha cũng sẽ hãnh diện vì có một người con như con. Vòng tay của Cha lúc nào cũng chờ đón con trở về. Con có thể về với mẹ, nhưng vẫn có thể tiếp tục đến học tập ở đây cùng bạn bè, nếu mẹ con nguyện ý.

Dĩ nhiên bác sĩ Diệp đồng ý để Kim tiếp tục việc học ở đây. Đây là tu viện cũng là trường học t.ư thục nổi tiếng nhất ở đây. Nếu không phải bà là bác sĩ và thường không từ chối đến khám bệnh cho các sơ ở đây thì không dễ gì bé Kim được nhận vào học.

Năm đó, giận bác sĩ Kiệt lại có thêm vợ bé nên bà một mình ôm con bỏ đi. Bà suy nghĩ rất lâu và quyết định bỏ đi thật xa, lên tận xứ cao nguyên này để tránh ông tìm thấy. Bà muốn chứng minh rằng không có ông, bà vẫn có thể nuôi dạy Kim nên người.

Kim không hề biết chỉ sau khi hai mẹ con lên đến cao nguyên một tháng thì bác sĩ Kiệt đã tìm gặp được bác sĩ Diệp. Hai người đã có một trận cãi vã rất lớn. Lúc đó, do Kim đang được gởi ở nhà cô Mười nên bác sĩ Kiệt không tìm thấy.
Ông giận dữ nói với bác sĩ Diệp:

- Bà quá cứng đầu. Con trẻ có tội tình gì? Cũng chỉ là một vài cô gái.... Chẳng phải ngày đó bà cũng cãi cha mẹ theo tôi sao? Tôi có để mẹ con bà thiệt thòi gì? Bà nhìn xem, cuộc sống bây giờ của bà kìa... Tự đày đọa bản thân bà chưa đủ sao, tại sao bắt Kim phải chịu tội chung? Cuộc sống như vầy làm sao con bé sống? Bà muốn đi cũng được, để tôi đón Kim về tôi nuôi.

Bác sĩ Diệp lại càng giận dữ. Thì ra lỗi không bao giờ ở ông, mà luôn ở bà. Thậm chí trong lòng ông, bà cũng không còn bao nhiêu giá trị:

"Bà muốn đi cũng được, để tôi đón Kim về tôi nuôi!"

Quả thật là hay mà. Con bà mang nặng đẻ đau, muốn rước là rước sao. Bà tống bác sĩ Kiệt ra ngoài sân. Đóng sập cửa và khóc rưng rức, mặc cho ông đập cửa liên hồi. Nhưng với một bác sĩ có chức nghiệp như ông, cũng không thể lẽo đẽo đi theo và đập cửa chờ bà đổi ý. Ông cũng phải trở về Sài Gòn.

Sau khi ông đi, bác sĩ Diệp đã mang Kim đến tu viện. Phần thì bà cũng không thể suốt ngày ôm theo Kim để làm việc được, mang đi nhờ giữ trẻ thì thu nhập không đủ. Đợt trước đến tu viện khám cho các sơ thì sơ Marie có gợi ý bà hãy gửi tạm Kim vào tu viện trong thời gian khó khăn này. Không phải bà không đến thăm Kim sau đó, nhưng bà chỉ đứng từ xa nhìn con qua ô cửa sổ của văn phòng viện trưởng. Bà không muốn con bé lại đeo theo mình, lại khóc òa lên thì có khi các sơ mất cảm tình. Đây là nơi duy nhất con bé được chăm sóc và sống tốt.

Kim không hiểu điều đó. Con bé chỉ hàng đêm ngóng trông. Con bé ôm con gấu bông cũ kỹ và mỗi đêm sau giờ cầu nguyện đều mong sẽ gặp lại mẹ, gặp lại ba trông giấc mơ, được về lại ngôi nhà nơi có ba, có mẹ đang vui vẻ cười, có ba ôm lấy nó và hun cái chóc vào má.

Ròng rã bao nhiêu năm, bây giờ cũng đã gặp lại mẹ. Trong Kim lẫn lộn cảm xúc buồn vui... Tu viện giờ cũng đã như là nhà của cô bé vậy. Từng cọng cây, ngọn cỏ, sơ Marie, bức tượng Đức Chúa Cha lặng lẽ, bình thản treo mình trên thập giá kia, còn có Magarette, Tony, Alina, Christina nữa.

Kim theo bác sĩ Diệp về nhà. Đó là một căn nhà nhỏ nằm khiêm tốn ở khu một, đẹp hơn căn phòng trong ký ức của Kim rất nhiều. Nhưng nơi này không có Chúa, không có sơ Marie, không có các bạn. Mẹ cũng không cho Kim cầu kinh mỗi đêm nữa. Mẹ bảo muốn cầu kinh thì đợi đến tu viện.

Hàng ngày Kim vẫn đến tu viện học tập. Kim đánh đàn mandolin rất hay, các sơ rất thích, nhưng không hiểu sao mẹ lại không thích. Tự dưng Kim sợ phải trở về nhà.

Ở nhà, Kim không được mặc chiếc váy hồng quen thuộc nữa, không được ca hát, không được đàn, không được nói đến Chúa. Cô chỉ được phép mặc chiếc quần đen và áo sơ mi vải thô trắng hoặc chấm những bông hoa nho nhỏ giống như bọn trẻ hàng xóm.

Bọn trẻ hàng xóm rất thích sang rủ Kim đi chơi. Bọn chúng cười đùa, chơi nhiều trò chơi lạ lắm. Kim rất thích nhưng không hiểu sao trong đáy lòng Kim vẫn ít giao tiếp với tụi nó và ít nói, ít cười. Có vẻ như nếp sống ở tu viện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cô bé.

Cho đến ngày Tạo xuất hiện. Tạo cũng là người ít nói, lại rất lễ phép. Mẹ cô cũng rất thích Tạo. Kim thấy mỗi lần có Tạo thì mẹ cô dễ tính hẳn. Tạo thường sang chơi và lúc nào cũng mang theo những món quà nho nhỏ dễ thương cho Kim: khi thì là con cào cào thắt bằng lá, khi thì cái bánh nếp, khi thì một nửa ổ bánh mì...

Và thế đó, cho đến ngày khoác lên người bộ áo dài cưới, tay cầm bó hoa, Kim vẫn còn chưa kịp nhận ra mình đã trở thành một người vợ. Năm đó, cô tròn mười tám tuổi.

Tạo cũng giống mẹ Diệp, không thích cô mặc váy hồng và nhắc đến Chúa.

Từ sau ngày đám cưới, Kim cũng không đến tu viện nữa. Cô lặng lẽ xếp bộ váy đồng phục màu hồng vào trong ngăn cuối cùng của vali.

***********************

Đứng soi mình trong gương, chiếc khăn với những bông hoa hồng sống động kia như ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh của cô, phần còn lại của chiếc khăn rủ nhẹ xuống chiếc váy hồng. Trông cô tinh khiết như một đóa hoa trong buổi sớm mai.

Có một điều, Kim chưa bao giờ kể cho mẹ.

Ngày cuối cùng lúc chia tay ở tu viện, Tony đã chạy đến, cầm lấy tay Kim:

- Em không trở lại sao? Sơ Marie có nói, sắp giải phóng rồi, tất cả chúng ta sẽ cùng nhau sang Pháp, sẽ không còn gặp nhau được nữa.

Quả thật mọi người đã đi cả rồi. Kim đã rất sợ hãi với vẻ nghiêm nghị cũng như đòn roi của mẹ mỗi khi nhắc đến Chúa hay bạn bè ở tu viện, cho nên cô không dám nói gì. Tất cả mọi người cô quen biết, yêu quý đều đi cả. Tu viện trống không, Kim ngẩn ngơ và rất buồn, cho đến khi Tạo nắm lấy bàn tay cô...

*********************

- Cô rất hợp với chiếc khăn này! - Giọng nói mơ hồ như gió thoảng kia lại vang lên. Từ trong khoảng không nhờ nhờ sáng đó, một chiếc khăn phiêu phù giữa không trung, từng đóa hoa hồng sống động kia lại đỏ thắm như máu đang uốn lượn.
Chiếc khăn quấn vào chiếc cổ trắng ngần của Kim đang ngồi trên ghế và rủ xuống người nàng. Những đóa hồng trở nên đỏ thẫm hơn... Chiếc khăn cũng siết chặt lại dần.... Siết chặt dần....

Trí óc Kim trở nên mơ hồ, và tất cả bỗng dưng tối đen. Thân thể cô như đang bị hút vào một khoảng không vô tận, có chút giãy giụa trong tâm trí:

- Không...Ta không đi... Ta không thể rời đi.....

Hết truyện thứ t.ư. Có rùng rợn hơn tí nào không mấy bạn?
 
Last edited:

Lan Chi

Phàm Nhân
Ngọc
87.566,78
Tu vi
0,00
Câu chuyện thứ năm

HƯƠNG BÁNH TÁO

Ngôi nhà có hàng rào gỗ mộc mạc màu trắng đơn sơ, cổng được cài bằng một chốt gỗ, không bao giờ khóa. Đàng sau cánh cổng ấy là một vườn hoa hồng trải dài đến tận sân trước của ngôi nhà nhỏ nhắn, xinh như một lâu đài trong cổ tích.

Chủ nhân của ngôi nhà là bà Lâm Na có mái tóc bạc phơ, luôn được cột gọn đàng sau chiếc khăn màu vàng chanh. Bà cũng rất ít giao tiếp với những người chung quanh. Hàng xóm hiếm khi thấy bà bước ra khỏi nhà. Thỉnh thoảng họ đi ngang, thấy bà ngồi uống trà ở mái hiên thì giơ tay chào hỏi, bà cũng luôn đáp lại bằng nụ cười rất phúc hậu.

Bảo là cậu bé giao báo cho bà. Cậu đã giao báo cho bà đều đặn mỗi ngày suốt mười năm qua. Mỗi buổi sáng lúc còn tờ mờ sáng là cậu đã nhanh nhẹn bước qua cánh cổng của tòa lâu đài cổ tích đó, đặt tờ báo mới nhất trong ngày lên chiếc bàn gỗ ở hàng hiên, nơi lúc nào bà Lâm Na cũng đã để sẵn một miếng bánh táo thơm nồng, phảng phất hương quế được để sẵn đó từ sớm và một tách ca cao nóng hổi.

Bảo thích giao báo đến cho bà Lâm Na đúng giờ và sớm nhất. Lý do vô cùng đơn giản bởi vì bánh táo bà làm rất ngon, ly ca cao nóng cũng thật sự rất tuyệt, hoàn toàn xua đi cái giá lạnh của trời cao nguyên còn đầy sương mù buổi sớm.

Hai bà cháu cũng đã trở nên thân thiết từ bao giờ, mặc dù Bảo đã đi làm thư ký ở phố trên, không còn giao báo nữa. Việc giao báo đã có một cậu bé khác, người cũng rất yêu món bánh táo và sữa ca cao của bà Lâm Na.

Hôm nay cũng gần cuối năm, trên đường từ sở làm về, Bảo ghé sang thăm bà Lâm Na như thường lệ.

Hoa hồng trong vườn đã nở rộ, chuẩn bị đón xuân. Bà Lâm Na sống chỉ có một mình, không chồng không con và cũng không nuôi bất cứ con chó, con mèo nào cả. Bước vào nhà của bà, bạn sẽ phải kinh ngạc vì độ sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Chỉ sợ là cho dù bạn có dùng kính lúp cũng khó tìm ra được một hạt bụi, và nếu một cọng tóc có trót rơi xuống sàn, bản thân nó cũng phải hổ thẹn ngay lập tức.

- Bảo đã về sao cháu? Hôm nay sở ít việc à?

- Dạ! Cuối năm rồi bà, anh em cũng chỉ lên văn phòng ngồi nói chuyện phiếm là chính, cũng coi như nghỉ Tết rồi bà ạ.

- Cháu ăn bánh táo nhé! Bà mới nướng xong một ổ đây!

- Dạ.... - Bảo đáp và nhìn bâng quơ ra vườn. Không hiểu sao anh cảm thấy mỗi lần ghé nhà bà Lâm Na thì đều cảm thấy vô cùng an bình. Sắc trời se lạnh, vườn hồng thơm ngát, mùi bánh táo mới nướng lan tỏa ra khắp ngôi nhà, quyện vào hương ca cao nóng. Có đôi khi anh cảm giác như bà Lâm Na cứ như là bà tiên đã lạc mất lối về trời vậy.

Bà Lâm Na bê ổ bánh thơm phức còn nóng hôi hổi lên, cắt cho Bảo một miếng thật to.

Vị bánh thơm, bùi, có hương táo và phảng phất hương bột quế được rắc ở trên. Bảo dám chắc rằng không ở đâu làm được món bánh táo ngon nhất trần đời như ở đây cả.

Đang nhâm nhi bánh và nói chuyện phiếm cùng bà Lâm Na thì bà bỗng dưng nhíu mày, nhìn qua cửa sổ:

- Lại là lão Phong này!

Bảo nhìn theo, chếch hướng mười giờ là một căn nhà gỗ màu xanh, có một ông cụ da ngăm đen đang đứng ở hiên nhà, tay giơ tách cà phê sang phía bà Lâm Na, nở một nụ cười rất tươi.

- Ông Phong sao ạ? - Bảo quay lại hỏi bà Lâm Na.

- Cái lão già phiền phức ấy... Sáng sáng lúc nào cũng kiếm chuyện ghé qua đây, còn cắm cả hoa nữa này! - Giọng bà cụ bực dọc...

Lúc này Bảo mới để ý trên bàn có một bình hoa đồng tiền đủ sắc màu vẫn còn rất tươi. Rõ ràng đây không phải là hoa trong vườn nhà bà Lâm Na. Do lúc nào trên bàn cũng có bình hoa này nên anh cũng không để ý lắm, cứ coi như đó là điều hiển nhiên. À, thì ra đây là hoa ông Phong tặng cho bà Lâm Na.

Bà cụ nói tiếp:

- Lão ấy phiền lắm, sáng qua cắm hoa. Chiều tối còn qua ăn cơm ké, có khi còn ngủ quên luôn trên sô pha đến độ bà phải dựng dậy tống về nhà.

Bảo cười, trêu:

- Thì ra ông Phong đang theo đuổi bà....

Mặt bà Lâm Na đỏ lựng lên:

- Theo đuổi gì? Bà từng này tuổi rồi... Lão ấy kiếm cớ ăn cơm ké đấy mà... Với lại trong tim bà cũng chỉ có ông Thịnh thôi, không chứa được ai khác đâu.

Bà nhìn về bức ảnh phía trên lò sưởi. Đó là ảnh một người đàn ông có đôi mắt cương nghị, làn da trắng sáng thư sinh nhưng không làm giảm đi vẻ nam tính với bộ quân phục trên người.

Bảo lại cười:

- Ông mất cũng lâu quá rồi, bà xem nếu có người quan tâm...

Giọng bà Lâm Na nhỏ lại:

- Quan tâm thì thế nào chứ? Cháu nghĩ lão ấy sẽ làm gì được cho bà sao? Tuổi này cần gì quan tâm nhiều nữa, chuyện tình cảm lẫn tình dục cũng không cần lắm đâu. Lão ấy, chẳng qua là muốn chuộc lỗi...

Bảo ngạc nhiên:

- Chuộc lỗi? Là sao ạ?

Bà Lâm Na như hồi tưởng lại một thời xa xăm:

- Thật ra lão Phong ấy chính là tình đầu của bà, nhưng người bà chọn làm chồng lại là ông Thịnh. Chiến tranh xảy ra, hai ông lại ở hai chiến tuyến. Chính ông Phong là người bắn chết ông Thịnh...

Đôi mắt người đàn ông trong bức ảnh trên lò sưởi dường như chợt sáng lên, nhìn về phía Bảo và bà Lâm Na.

Củi trong lò vẫn nổ lép bép, ánh lửa bập bùng. Khuôn mặt bà Lâm Na trở nên đượm buồn, dường như thời gian chưa hề trôi đi kể từ ngày hôm ấy.

********************

Cũng nhiều năm trôi qua. Bảo vẫn hàng ngày ghé căn nhà đẹp như lâu đài trong cổ tích đấy. Món bánh táo vẫn luôn thơm nức, nóng hổi và say theo những câu chuyện kể của bà Lâm Na. Vào giờ trà chiều thì lúc nào Bảo cũng quen giơ tay lên vẫy chào ông cụ ở căn nhà màu xanh chếch hướng mười giờ.

Một chiều cuối năm khác, ông cụ không còn ở đó để vẫy tay chào Bảo và nở nụ cười với bà Lâm Na nữa. Căn nhà đã được khóa kín. Mỗi ngày, bà Lâm Na lại chầm chậm chống gậy bước sang căn nhà màu xanh đó, đặt lên bàn một bình hoa hồng. Căn nhà màu xanh không có người ở, không người chăm sóc, cũ dần theo năm tháng, duy chỉ có bình hoa hồng nơi hàng hiên vẫn luôn rực rỡ mỗi ngày.

Đến giờ trà chiều, bà Lâm Na lại nhìn sang hướng mười giờ, mỉm nụ cười hom hem, trong mắt hình như lóng lánh giọt lệ không kịp lăn ra gò má cũng đã không còn mịn màng thuở đôi mươi.

- Họ chết hết cả rồi cháu ạ! - Bà Lâm Na vừa châm một tách ca cao nóng vừa nói với Bảo.

Bảo ngước nhìn người đàn ông trong ảnh trên lò sưởi, rồi lại nhìn sang căn nhà màu xanh chếch hướng mười giờ kia.
Dường như anh lại thấy ông cụ có nụ cười thật tươi đang vẫy tay chào.

- Cháu nhớ mang bánh về cho hai đứa nhỏ và vợ nhé. Cho bà gửi lời hỏi thăm...

Bà Lâm Na tay run run bỏ chiếc bánh táo mới nướng vào trong làn, phủ lên một chiếc khăn trắng, thêu hoa hồng rất đẹp để giữ cho bánh nóng.

- Dạ, cháu và gia đình cám ơn bà. Tết bà sang nhà chơi với chúng cháu nhé!

- Ừ! - Bà cười một nụ cười cũng nhẹ và bâng quơ như gió chiều hôm ấy.

Tết hôm đó, bà Lâm Na không sang nhà Bảo được nữa. Đêm ba mươi, khi mọi người tất bật cúng giao thừa thì bà đã lặng lẽ ngồi trên chiếc ghế tựa trong phòng khách, trút hơi thở cuối cùng. Mọi người nói ông Thịnh đã đến đón bà nên bà tuy ra đi, nhưng trên miệng vẫn phảng phất nét cười hạnh phúc. Bảo thì không biết có phải là ông Thịnh đón bà hay là ông Phong đã đón, hay là cả ba người họ đang hạnh phúc bên nhau, không còn vướng mắc hận thù gì nữa.

Khoảng chừng nửa tháng sau thì có một gia đình dọn đến ngôi nhà của bà Lâm Na, nghe nói là con cháu gì đó được hưởng ngôi nhà theo quyền thừa kế.

Bảo thấy họ dọn hết tất cả đồ đạc của bà Lâm Na ra khỏi nhà, kể cả những bức ảnh đen trắng, những chiếc bình bông cũ kỹ, trang nhã, những chiếc khăn trải bàn bà tự làm. Khu vườn cũng không còn một cây hoa hồng nào nữa, nghe nói nữ chủ mới của ngôi nhà dị ứng với phấn hoa. Hàng rào được dựng cao lên, khóa chặt và hai con chó béc-giê hung dữ luôn sủa vang lên khi có bất cứ người nào đi ngang.

Ngôi nhà giờ chỉ toàn tiếng nhạc xập xình và tiếng ca hát, vài đêm lại có tiếng chửi rủa nhau vì say xỉn.

Hương bánh táo ngọt mật thơm vị quế đã không còn nữa, cũng không còn vị ca cao nóng và những lời tâm sự của bà tiên phúc hậu nữa.

Chiếc làn tre và tấm khăn voan trắng thêu hoa hồng cũng không còn cơ hội trở về căn nhà cổ tích nữa. Chúng ở lại ngôi nhà của Bảo như một vật kỷ niệm của một người bạn lớn tuổi năm nào.

Hết chuyện thứ năm nhé. Chúc các bạn ngon giấc và thèm ăn bánh táo, uống ca cao nóng!
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top