Giảo Lam Lan
Phàm Nhân

hôm nay cô giáo sẽ dự giờ trình bày với các phụ huynh, tiền bối, sư huynh muội tỷ đệ về thần tiên gần nhất với hiện nay của chúng ta...

* nếu có tu luyện thành tiên thì đó là ở cõi khác thôi, nếu có tồn tại thì cũng từ xa xưa. còn hiện tại con người chúng ta phải tu Tâm- Đức là gốc cho 1 con người.
Người liệu có thể thành tiên? Chuyện tưởng hoang đường thực ra hoàn toàn có thật
Nhan Chân Khanh (năm 709 – 785), tự Thanh Thần, người Vạn Niên, Kinh Triệu, nguyên quán Lâm Nghi, Lang Nha (nay Lâm Nghi, Sơn Đông), xuất thân tiến sĩ, ông bắt đầu nổi danh khi nhậm chức Thái thú Bình Nguyên. Khi An Lộc Sơn khởi binh ở Phạm Dương, các quận ở Hà Bắc đều ra hàng, duy chỉ có Nhan Chân Khanh cố thủ Bình Nguyên, làm minh chủ nghĩa quân, tận lực vì nhà Đường.
Theo ghi chép trong lịch sử, sau đó ông đã nhận lệnh của vua Đức Tông đến chỗ phản tướng Lý Hy Liệt khuyên hàng nhưng không may bị hại. Có lẽ ghi chép không sai, nhưng Nhan Chân Khanh rất có khả năng là không chết, mà đã thành tiên rồi. Nói như vậy có chút ly kỳ, rất nhiều người sẽ không tin, nhưng dù bạn tin hay cũng không quan trọng, có thể xem đây là một câu chuyện thần thoại cũng được.
Nhan Chân Khanh bị gian thần hãm hại
Lý Hy Liệt sau khi công phá Nhữ Châu, tể tướng Lư Kỷ vì đố kỵ, ganh ghét với sự cương trực của Nhan Chân Khanh, muốn thừa cơ hãm hại ông, nên đã tâu với vua Đức Tông rằng: Nhan Chân Khanh đức cao vọng trọng, khắp nơi kính ngưỡng, xin vua hãy để ông ta đi thuyết phục Lý Hy Liệt, có thể không cần động tới gươm đao, không phải đổ máu, mà vẫn bình định được cường địch.
Hoàng thượng tin nghe theo lời của Lư Kỷ liền phái Chân Khanh làm thuyết khách. Có vị công thần tên là Lý Miễn nghe được chuyện này, vô cùng kinh hãi, cho rằng đất nước sẽ mất đi một vị quốc lão, mang đến sỉ nhục cho triều đình liền bí mật dâng tấu chương thỉnh cầu giữ Nhan Chân Khanh lại, đồng thời phái người lên đường đi ngăn Nhan Chân Khanh, nhưng không kịp.
Sau khi Nhan Chân Khanh gặp được Lý Hy Liệt, đang lúc tuyên đọc chiếu thư thì con nuôi của Lý Hy Liệt cùng hơn một ngàn binh sĩ từ đâu xông tới, vây chặt lấy ông, lớn tiếng chửi mắng, rút gươm đao ra nhao nhao đòi giết. Tuy thế Chân Khanh không vì vậy mà biến sắc, vẫn ung dung như thường. Lý Hy Liệt thấy vậy liền bước tới lấy thân mình che chở cho Chân Khanh, rồi thu xếp ông ở trong nhà khách.
Đến hôm sau Lý Hy Liệt mở tiệc chiêu đãi, mời các băng nhóm khác tới dự, rồi bảo các con hát xướng lên những bài công kích triều đình, lấy đó làm vui. Nhan Chân Khanh không khỏi tức giận, đứng bật dậy nói: “Ông cũng là phận bề tôi, sao có thể lệnh kẻ dưới làm điều phản nghịch như vậy!”.
Lý Hy Liệt nghe vậy liền kêu người người chất một đống củi to ngoài sân, châm lửa đốt rồi hỏi Nhan Chân Khanh về chế độ lễ nghi của triều đình. Nhân Chân Khanh đáp: “Ta già rồi, tuy từng chưởng quản quốc lễ, nhưng những gì ghi chép lại đều là lễ nghi của các chư hầu khi gặp quân vương mà thôi.”
Lý Hy Liệt cười gằn: “Nếu ông không đầu hàng, thì sẽ thiêu chết ông!”. Nhan Chân Khanh không chút sợ hãi, chẳng nói chẳng rằng, tự mình nhảy ngay vào đống lửa. Đám phản tặc trông thấy hốt hoảng, vội chạy lại kéo ông ra. Nhan Chân Khanh biết số mình đã tận, không thể thoát khỏi đây nên đã tự mình làm tấu chương cáo biệt với Hoàng đế, sau lại căn dặn những người ở lại hãy khắc tế văn trên bia mộ để thể hiện lòng tận trung của ông với đất nước. Sau đó lũ phản tặc đã siết cổ ông tới chết. Hoàng đế nghe tin này, buồn rầu không thôi, tự trách mình đã quá dại dột, liền báo quốc tang 5 ngày, mọi sự vụ đều dừng lại và phong cho ông là Văn Trung Công.
Nhan Chân Khanh là nguyên lão đã phục vụ bốn triều vua Đường, đức cao vọng trọng, chính trực, cao thượng, tuổi càng cao chí càng cao, thế nhưng lại bị gian thần hãm hại, quả là một kỳ oan trong thiên hạ.
Nhan Chân Khanh tiết lộ mình là người tu Đạo
Thế nhưng câu chuyện chưa chấm dứt ở đây. Trong <Biệt Truyện> kể rằng, trước khi đi Thái Châu để thuyết phục Lý Hy Liệt, Nhan Chân Khanh đã gọi con trai lại và dặn dò: “Cha và Nguyên Tải đều uống tiên dược, nhưng dược lực của ông ta đã bị tửu sắc phá hỏng mất, cho nên không bằng được cha. Lần này cha đi Thái Châu, nhất định sẽ bị nghịch tặc giết hại. Sau này con có thể đưa cha về mai táng ở Hoa Âm. Mở quan tài ra xem, chắc chắn sẽ thấy không giống với người thường.”
Trong cuốn <Biệt Truyện> cũng kể rằng, khi Nhan Chân Khanh sắp sửa bị siết cổ chết, ông đã cởi đai vàng đưa cho sứ giả và nói: “Ta từng tu luyện đạo thuật, vậy nên xem việc bảo toàn thân thể là điều quan trọng.”
Người đến siết cổ ông vâng lời, sau khi siết chết lại cho chôn cất ông tử tế. Sau này khi phản tặc bị dẹp yên, người nhà Nhan Chân Khanh đã rời mộ của Nhan Chân Khanh về kinh thành. Đến lúc mở quan tài ra xem thử thì quả nhiên là thấy khác với người thường: da thịt của ông vẫn y nguyên như khi còn sống, tay chân rất mềm mại, râu tóc màu đen, tay nắm chặt. Ai nấy đều cảm thấy kinh ngạc không thốt lên lời. Điều kỳ lạ hơn nữa là trên đường về kinh thành, mọi người cảm thấy sao mà quan tài càng lúc càng nhẹ, đến lúc đưa tới nơi chôn cất, mở quan tài ra xem lần nữa thì thấy bên trong đã trống không từ lúc nào.
Đạo sĩ Hình Hòa Phác biết chuyện liền nói: “Đây chính là chuyện đắc Đạo thành tiên mà ngày thường bọn ta hay nói đến! Mặc dù ẩn thân trong sắt đá, nhưng thời gian tu luyện đã tròn đầy, đến ngày tự nhiên sẽ nứt ra mà bay đi.” Trong cũng có ghi chép lại chi tiết sự việc này.
Người nhà vô tình gặp lại Nhan Chân Khanh
Mười mấy năm sau, gia đình Nhan Chân Khanh có sai người hầu đến Trịnh Châu thu tô. Lúc quay về có đi ngang qua Lạc Kinh, người hầu này đã tình cờ đi đến chùa Đồng Đức, nhìn thấy Nhan Chân Khanh mặc áo bào màu trắng, mở ô che, ngồi trên Phật điện.
Người hầu này vội vã đi lên phía trước, định sụp lạy. Thế nhưng Nhan Chân Khanh đã nhanh chóng quay người xoay mặt đi, ngẩng đầu lên nhìn bức tường trong chùa. Người hầu liền chạy vòng quanh, hoặc trái hoặc phải đi theo phía sau ông, nhưng Nhan Chân Khanh trước sau vẫn không để cho người hầu nhìn thấy mặt.
Một lúc sau Chân Khanh bước xuống khỏi Phật điện, ra khỏi cửa rồi bỏ đi. Người hầu cũng từng bước từng bước đi theo ông. Chân Khanh thấy vậy liền đi thẳng về đến vườn rau bỏ hoang ở phía đông thành. Đây là căn vườn có hai căn nhà cũ nát, ngoài cửa có treo rèm, Nhan Chân Khanh liền vén rèm lên, rồi đi vào trong.
Người hầu bước tới khu vườn, chỉ dám hành lễ bên ngoài tấm rèm và lên tiếng cung kính. Nhan Chân Khanh liền hỏi: “Ngươi là ai?”. Người hầu liền xưng tên tuổi, nghe vậy, Nhan Chân Khan liền gọi: “Vào đây”.
Người hầu bước vòng trong, nhìn thấy đúng là Nhan Chân Khan liền quỳ xuống khóc lóc. Nhan Chân Khanh vội đỡ người hầu dậy rồi hỏi sơ lược về tình hình con cháu trong nhà. Sau khi hỏi han được một lúc, ông móc trong túi ra 10 lượng vàng, kêu người hầu mang về để phụ giúp chi phí trong nhà rồi căn dặn hắn sau khi quay về tuyệt đối không được nói lại với người khác. Sau này trong nhà có khó khăn, có thể quay lại đây.
Người hầu về đến Ung Châu, cả nhà họ Nhan rất lấy làm kinh ngạc. Đem ra tiệm bán số vàng đó thì quả nhiên thấy đúng là vàng thật. Con cháu họ Nhan liền vội vội vàng vàng mua xe ngựa, cùng với người hầu đó phi nước đại đến đó vườn rau cũ, nhưng đến nơi chỉ thấy cỏ dại um tùm, ngoài ra không thấy gì cả.
Câu chuyện này sau đó đã lan rộng khắp cả kinh thành, những người thời đó hay chuyện đều cho rằng Nhan Chân Khanh đã thoát xác thành tiên rồi.
Thật vậy, người tu đạo phần lớn đều là mang theo thân thể thành tiên, tuy nhiên sau khi tu thành vốn không lên trời ngay lập tức, mà vẫn ở lại một thời gian, đi hoàn thành một số nguyện vọng. Nhan Chân Khanh chắc chắn cũng là như vậy!
* theo : DKN.TV
Người thường gặp Tiên, liệu có phải câu chuyện hoang đường?
Kho tàng truyện cổ tích dân gian Việt Nam được coi là kho báu mà người xưa đã lưu lại cho con cháu mai sau, giúp các thế hệ Việt thời nay tìm lại được cội nguồn của mình. Nó là một phần của nền văn hóa truyền thống, còn gọi là nền văn hóa thần truyền, là nơi kết tụ những tinh hoa dân tộc, nuôi dưỡng tính cách và tâm hồn Việt. Hàng trăm tích xưa chuyện cũ được người xưa lưu lại đã luôn nhắn nhủ rằng: Người Việt chúng ta là con rồng cháu tiên, là có nguồn gốc từ Thần.
Người xưa có câu: Tiên khó gặp nhưng không khó tìm. Trong các tích truyện cổ, người xưa nói rằng đã có những giai đoạn trong lịch sử, người và Thần Tiên đã có những giao tiếp ở thế gian. Tuy nhiên, nhiều người thời nay, do ảnh hưởng của quan niệm “thấy thì tin, không thấy không tin” đã luôn phủ nhận thần tích. Người thời nay xem những tích truyện cổ này chỉ là những truyền thuyết, được hư cấu theo trí tưởng tượng của người xưa. Trong một nỗ lực khơi lại nguồn tinh hoa của nền văn hóa Thần truyền, khơi lại bản chất Thần Tiên trong con người chúng ta, đồng thời tránh những lệch lạc trong nhận thức của người hiện đại về những truyền thuyết lịch sử, Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu lại những tích sử trứ danh, những giai thoại thần kì trong trong kho tàng truyện cổ Việt. Dưới là câu chuyện “Từ Thức gặp Tiên”.
Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư sinh ở đất Hóa Châu tên Từ Thức, được bổ nhiệm giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Cạnh huyện đường có ngôi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc mẫu đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai gái các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa. Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cô gái tuyệt sắc, trạc mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tô điểm phấn son nhưng làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.
Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, không ngờ mẫu đơn giòn gãy dưới tay. Người giữ hoa trông thấy liền bắt nàng trói vào gốc cây. Đến xế chiều cũng không thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức nhân đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương, bèn cởi áo cừu đang mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả, ngập ngừng cảm ơn Từ Thức rồi đi về một phía mất hút.
Là một vị quan nhân từ, luôn được dân tình thêm mến trọng nhưng Từ Thức vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Khi cấp trên gởi tờ khiển trách, Từ Thức thở than: “Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát khỏi vòng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ không bao giờ phụ ta!” Nghĩ vậy, chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang theo bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng cảnh. Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu thơ của chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn sông Lễ, bờ Kênh Nga.
Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một lớp mây năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi non kỳ dị. Từ Thức lo ngại bảo người chèo thuyền: “Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay núi Thần dời lại, không thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ”?
Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt một sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: “Không có cánh làm sao mà vượt qua được?” Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.
Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa hang động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài bước thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối không còn biết đâu lối ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối quanh co, được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng tối, mắt chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây muôn màu sắc bao phủ các đền đài dát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý lạ, hương thơm khác thường.
Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang khúc khích bảo nhau: “Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến!”
Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: “Phu nhân chúng tôi cho mời chàng vào”. Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức hoành phi chữ vàng: “Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các”.
Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất bảo. Bà tiên mời Từ Thức ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo: “Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây, chàng có biết nơi này là đâu không”?
Từ Thức đáp: “Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc thuyền con ở giữa trời biển. Tôi không được biết là chốn này có lầu hồng, điện biếc. Lòng tôi đây còn nhiễm đầy trần tục, không hiểu biết được đây là chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ”.
Bà tiên nói: “Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến!”
Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo xanh đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra người đã làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu nữ mà nói với Từ Thức:
“Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong Hội Thưởng Hoa, được chàng cứu thoát. Lòng em nó vẫn không quên. Ta muốn cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó”.
Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cưỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ phương nam cưỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây… Các tiên tụ họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.
Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.
Tiên nương mặc áo lụa nói: “Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ không hối tiếc đời cũ và sẽ không còn nói là trên đời này không có Tiên”!
Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu nhân chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư tiên.
Nàng tiên trẻ tuổi cười và nói: “Cô dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, không còn gầy như trước nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới không có chồng. Tôi không còn có thể tin như vậy nữa!”
Ngụy phu nhân nói: “Tôi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc Ngọc lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu ta chế giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng cười lắm ru!”.
Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém vui:
“Cô dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ không khỏi có kẻ mỉa mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó!”
Kim Tiên liền nói: “Tôi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ xấu miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem tin đến cho vua Hán. Chính chúng tôi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm thượng của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống kia? Tân lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy để làm buồn lòng chàng làm gì”.
Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia tay ra về. Còn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:
“Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ mới lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu viết ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hoàng Lãng. Hoàn cảnh tuy mỗi nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao không khí chung quanh đôi ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình yêu không phát sinh ra ở lòng em, hay là em cố cầm giữ lại?”
Giáng Hương buồn rầu đáp: “Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hoàng Điện, thường lui tới Hồng Môn, sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lòng không vương vấn dục tình. Còn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết còn ở nơi Thúy Điện, vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lòng em còn dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!”
Từ Thức nói: “Nếu thế thì em cũng không xa cách anh lắm”! Cả hai đều bật cười.
Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên. Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm thoát thế mà đã qua một năm rồi. Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối trăng rọi qua song, có khi Từ Thức không làm sao nhắm được mắt. Một nỗi buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy. Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương:
“Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển muôn trùng, không biết rõ nhà anh ở nơi nào!”
Một lát chàng lại nói: “Khi đi, anh còn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lòng trần chưa rũ sạch, anh muốn nhìn lại quê hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về thăm nhà ít lâu. Không biết em nghĩ sao?”
Giáng Hương buồn bã không thốt nên lời. Từ Thức nói tiếp: “Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc nhà, rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân”.
Giáng Hương khóc nói: “Em không muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời quá vắn vỏi, anh sẽ không còn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!”
Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo: “Ta không ngờ con người ấy lại còn vương vấn tục lụy đến thế!” Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức đi. Giáng Hương trao cho chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò: “Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em!”
Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân xuống mặt đất. Nhưng tất cả đều đã hoàn toàn đổi thay. Nhà cửa, người làng không còn là những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu xanh như xưa. Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức không, mọi người đều nói: “Hồi chúng tôi còn bé, có nghe nói là ông cố ba đời chúng tôi mang tên đó. Ông ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tôi đã trải qua ba đời vua”.
Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song chiếc xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong thư ra đọc: “Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đôi ta đã dứt! Làm sao tìm lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa”, mới biết là Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt. Sau đó, Từ Thức khoác áo lông, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hoành Sơn, không thấy trở về nữa.
* Nguồn : INternet
Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị
Trên thế gian này có tồn tại những người tu đạo, đặc biệt trong những núi sâu rừng già, họ đã từng sống rất lâu, có người đã sống mấy trăm năm, thậm chí mấy nghìn năm. Điều này nói ra có thể nhiều người sẽ không tin nổi … Dưới đây là câu chuyện được kể lại của một người như vậy.
Trước hết xin được nói rõ, bài viết này không phải là câu chuyện hư cấu. Những gì được viết được kể, hoàn toàn đều là những trải nghiệm chân thật, cảm ngộ chân thật của bản thân tôi. Các vị có thể tin, cũng có thể không tin, nhưng mong các vị hãy tu tích khẩu đức, đừng có tạo nghiệp chướng cho bản thân mình.
Những người bình thường nhìn thấy “300 năm” trong tiêu đề, nhất định sẽ cho rằng tôi đang khoác lác, nhưng tôi xin nói với các vị rằng, tuổi thật sự của tôi chính xác là 330 tuổi, cũng chính là nói rằng tôi sinh ra vào giữa những năm Khang Hy triều đại nhà Thanh. Kỳ thật, 330 tuổi cũng không thể nói là rất già, những người hơn 2.000 tuổi tôi đều đã đích thân gặp qua, nghe nói còn có những người sống trên 5.000 tuổi ở nhân gian, chỉ là không có cơ hội gặp được mà thôi.
Tôi là người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, giữa những năm Ung Chính, vì để tránh chiến loạn, cả nhà chúng tôi chạy nạn đến núi Đại Ba, miền bắc tỉnh Tứ Xuyên, nhưng không may gặp phải lở đất, cuối cùng chỉ có một mình tôi may mắn thoát được, năm đó tôi 30 tuổi. Về sau tôi bị lạc đường trong núi, tự mình đã đi lang thang trong suốt mười mấy ngày liền, ngay chính vào lúc sắp bị đói chết, một vị Đạo sĩ đã cứu sống tôi. Vị Đạo sĩ này chính là sư phụ của tôi sau này, lúc đó ông đã ở trong núi Đại Ba tu luyện hơn 700 năm. Từ đó, tôi liền đi theo ông bắt đầu tu luyện. Ở đây cần phải nói rõ, tôi và sư phụ tuy đều là Đạo sĩ, tu là Pháp môn Tam Thanh, nhưng chúng tôi không phải là Đạo giáo, không có một chút quan hệ gì với Đạo giáo cả.
Sư phụ của tôi là người của triều đại nhà Đường, tuy đã tu luyện hơn 700 năm rồi, nhưng ông nhìn còn trẻ hơn tôi lúc đó nhiều. Bởi ông đã tu đến cuối cùng rồi, dù có cố gắng thế nào cũng không tu lên trên được nữa, vậy nên đã thu tôi làm đồ đệ, truyền thừa Đạo chính thống trong môn này của chúng tôi. Mọi người nhất định sẽ không nghĩ được rằng, công pháp tu luyện trong môn này của chúng tôi, vô cùng vô cùng đơn giản, đặc biệt thích hợp cho những người lười biếng, bởi vì công pháp của chúng tôi chính là ngủ.
Sau khi sư phụ truyền công pháp cho tôi xong, lần đầu tiên tôi đã ngủ hơn một tháng, sau khi tỉnh dậy thân thể có những biến đổi rất lớn, gần như đã thay đổi thành một người khác vậy, khỏe mạnh hơn trước đây rất nhiều. Sau đó, ông lại bảo tôi đọc “Đạo Đức Kinh”, đọc xong kinh thư lại đi ngủ. Cứ không ngừng đọc kinh thư, nằm ngủ như vậy, một lần dài nhất, tôi đã ngủ một giấc hơn 2 năm. Cứ lặp đi lặp lại không ngừng như vậy, một mạch tu đến hơn 60 năm, cuối cùng tôi đã đạt đến cảnh giới tiểu thừa (thiên mục đã mở, đại chu thiên toàn bộ đều đã được đả thông). Lúc này tôi đã có được rất nhiều công năng đặc dị, ví như tịch cốc (nhịn ăn nhịn uống mà không mệt mỏi), thuật ban vận, đi lại trên không, tha tâm thông, thấu thị nhân thể, v.v….Cũng phải nói thêm, kể từ khi bắt đầu tu luyện, tướng mạo của tôi như dừng lại ở tuổi 30, mãi cho đến tận hôm nay cũng không có bất cứ sự thay đổi gì.
Tu đến cảnh giới tiểu thừa, sư phụ bảo tôi trở lại cõi người đi vân du. Sư phụ nói, nếu như tôi chìm đắm vào danh lợi thanh sắc, bị thế giới phồn hoa làm cho mờ mắt, thì không cần trở về núi nữa, tôi có thể tự mình chọn con đường sau này. Nếu như sau 3 năm, tôi vẫn không bị sa ngã, thì hãy trở về núi Đại Ba, ông sẽ chỉ đạo tôi tiếp tục tu luyện công pháp tiếp theo.
Vân du ở bên ngoài rất khổ, quy định cũng nhiều. Thứ nhất, trong cõi trần không được sử dụng bất kể công năng đặc dị nào, trước lúc xuống núi sư phụ đã khóa hết công năng của tôi, bao gồm cả tịch cốc, bởi trong thời gian vân du, tôi tự mình nghĩ cách giải quyết vấn đề ăn uống. Thứ hai, không được đụng đến tiền bạc, chỉ có thể thông qua phương thức xin ăn để có được thức ăn. Thứ ba, còn có rất nhiều giới luật, trộm cắp, tà râm, uống rượu, v.v….giống như những quy định trong Phật giáo. Sư phụ có thể dùng thiên nhãn thông giám sát tôi mọi lúc mọi nơi, nếu như tôi phạm phải bất cứ quy định nào, thì sẽ không còn có cơ hội đi theo sư phụ tu luyện nữa.
Sau khi rời khỏi núi Đại Ba, tôi trước tiên đi đến Vị Nam vùng Thiểm Tây, sau đó lại đi Đồng Quan. Ở Đồng Quan, tôi cuối cùng đã phải tự giải quyết vấn đề ăn uống. Bởi vì tướng mạo của tôi là một người đàn ông khỏe mạnh của tuổi 30, xin ăn vô cùng khó khăn, thường hay bị mắng, chẳng có mấy ai đồng ý bố thí cho tôi cả. Ở Đồng Quan tôi đã làm thuê cho một nhà địa chủ họ Lưu, chỉ cần có chỗ ăn chỗ ngủ, không cần tiền công. Địa chủ rất lấy làm vui mừng, cũng đồng ý với tôi. Tôi cũng không có tâm trạng muốn đi những nơi khác, ở nhà địa chủ họ Lưu, yên bình trải qua 3 năm, rất may là không có phạm giới nào cả, thời hạn 3 năm đã hết, tôi lại trở về núi Đại Ba, bên cạnh sư phụ.
Những ngày tháng sau này chính là không ngừng tu luyện, cứ cách 35 năm một lần, đều sẽ phải xuống núi vân du mấy năm, có những lúc sư phụ sẽ cùng đi vân du với tôi, khi đó tôi không có cách nào làm biếng nữa, không thể sống thảnh thơi như ở nhà Lưu địa chủ nữa, mà mỗi ngày đểu cần phải ra ngoài xin ăn. Vân du nhiều năm như vậy, hết thảy chua ngọt đắng cay, phong ba bão tố của nhân gian đều đã trải qua hết cả, nhưng ý chí tu luyện của tôi trước sau không hề bị lay dộng. Đối với những thay đổi triều đại, thế sự biến hóa của thế gian, chúng tôi xưa nay đều không can thiệp, bao gồm cả những tai nạn và chiến tranh kia, chúng tôi trước sau không hề quản. Vì những thứ này đều là có định số, ai loạn động, thì người đó sẽ phải lãnh tai ương.
Tôi biết trong cõi trần có rất nhiều rất nhiều người có hứng thú với tu Đạo, nhưng họ không rõ được rằng tu Đạo cần phải chịu đựng rất nhiều cái khổ, phải trải qua bao nhiêu dày vò và ma nạn. Chỉ pha mấy ấm trà, hẹn vài người bạn, ngồi mà luận đạo, đó không phải là tu hành, mà là nghỉ ngơi. Tu hành thật sự, là phải trải qua rất nhiều cái khổ.
Sau khi tu luyện hơn 200 năm, nói một cách chính xác là 1 năm trước khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, sư phụ của tôi qua đời, từ đó về sau môn phái của chúng tôi chỉ còn lại một mình tôi. Mục tiêu sau cùng của tu Đạo chính là đắc Đạo thành Tiên, để có được sự vĩnh hằng của sinh mệnh, nhưng pháp môn này của chúng tôi cao nhất chỉ có thể tu đến “ngũ khí triều thiên”, cách trường sinh bất lão vẫn còn một quãng rất xa. Sau khi sư phụ qua đời, thi thể ông không hề bị mục nát, tôi đem nó bảo tồn trong một ngôi miếu cũ ở Hán Trung, về sau nơi này bị chiến tranh phá hủy, nhục thân của sư phụ cũng bị hủy luôn trong đó. Thực ra, đây cũng không có gì phải nuối tiếc cả, chẳng qua chỉ là một lớp da thịt mà thôi.
Sau khi sư phụ mất, tôi phải độc tu một mình. Đối với một người tu luyện đơn độc mà nói, cái khổ lớn nhất, chính là cô quạnh và đơn độc. Có những lúc ngồi thiền một năm, sau khi xuất định được mấy ngày rồi lại nhập định tiếp, mười mấy năm không thấy một bóng người, không nói một lời nào là chuyện rất bình thường. Vì để khắc phục cô đơn buồn tẻ, tôi thích đi vân du, bắt đầu từ năm 1960, tôi vừa đi vân du vừa tiếp tục việc tu luyện của mình.
Đợi đến măn 1988, cái năm xảy ra vụ hỏa hoạn lớn ở núi Đại Hưng An, tôi cuối cùng đã tu đến cảnh giới cao nhất trong môn của chúng tôi là “ngũ khí triều thiên”. Lúc này, công năng đặc dị của tôi, đã đạt đến cao độ trước nay chưa từng có, trên cơ bản những công năng mà bạn từng nghe nói thì tôi đều có hết cả, hơn nữa công lực lớn mạnh, hoàn toàn không phải là thứ mà những người có công năng đặc dị trên thế gian kia có thể so sánh được. Hơn nữa từ đó về sau, những lúc vân du, tôi có thể không còn cần phải tuân thủ giới luật nữa, công năng đặc dị cũng có thể sự dụng tùy ý rồi, nhưng điều kiện trước hết là không được phép can thiệp vào bất cứ sự tình nào của thế gian con người, dẫu cho là một việc nhỏ rất là nhỏ nhặt cũng không được, nếu không sẽ gặp phải báo ứng, hoặc công năng bị mất đi.
May mắn hữu duyên gặp sư phụ thứ hai
Sau khi tu thành rồi, tôi du ngoạn ở nhân gian 5 năm, đi khắp hết mọi ngõ ngách trên thế giới, đã quen biết rất nhiều những người tu luyện như tôi, nếm đủ cuộc sống các dạng các loại, nhưng lại cảm thấy những thứ đó đều không có ý nghĩa gì nữa. Thế là, vào trung tuần Tháng 8/1993, tôi ngồi một chuyến xe lửa trở về miền bắc tỉnh Tứ Xuyên, chuẩn bị tiếp tục sống cuộc sống ẩn cư của mình, đợi khi cơ duyên chín mười rồi, cũng thu nhận một đồ đệ, truyền thừa đạo pháp chính thống trong môn pháp này của mình. Chính là trên chuyến xe lửa này, tôi đã gặp được một người đã thay đổi vận mệnh của tôi. Lúc đó, người này và tôi cùng ngồi ở một toa tàu, chúng tôi vừa nhìn mặt nhau thì đã biết đôi bên đều là người tu đạo, người này trông rất là trẻ, mặt mày hiền hậu, lúc nào cũng như đang mỉm cười.
Tôi đi đến trò chuyện với ông ấy một lúc, thì lại không khỏi hết sức kinh hoàng, bởi tôi phát hiện, công lực của người này cao đến nỗi, quả thật là tôi không cách nào tưởng tượng ra được. Rốt cuộc là cao đến mức nào, bây giờ tôi cũng không nói ra được, bởi vì đạo hạnh của tôi, căn bản không có cách nào thăm dò vấn đề này được, bản thân tôi ngay cả cái ngón chân của ông đều không sánh được. Về sau, tôi đã bái người này làm thầy, ông đã truyền cho tôi công pháp trong pháp môn đó của ông.
Dưới sự giúp đỡ của sư phụ thứ hai, chưa đến một tháng, tôi đã đột phát giới hạn trong pháp môn trước đây của tôi, thành công tu đến được cảnh giới “tam hoa tụ đỉnh”. Cũng chính là nói, từ sau lần này, tôi đã đạt được thân thể bất tử.
Bây giờ, tôi lại đến cõi người vân du, đây là lần vân du sau cùng của tôi, có nhiều tâm nguyện cần phải hoàn thành, tôi lên mạng viết ra bài viết này, thuật lại và tiết lộ một vài lí luận có liên quan đến công năng đặc dị và tu đạo, đây cũng chính là một trong những tâm nguyện của tôi. Những người có duyên với tôi, tự nhiên sẽ đọc được, tự nhiên sẽ có những thu hoạch, những thể ngộ của bản thân mình, cũng coi là một phương thức đặc thù trong thệ nguyện “cứu thế độ nhân” của ngày xưa.
Dưới đây, tôi xin được nói rõ một số vấn đề mà người thường được phép biết đến, cũng để cho đọc giả làm một nghiệm chứng thật giả đối với bài viết này.
Trên thế giới thật sự có Thần, Phật, yêu, ma tồn tại không?
Đây là điều không cần phải nghi ngờ gì cả. Hình thức tồn tại của các sinh mệnh nhiều đến nỗi không thể lường được, cũng không có cách nào tính toán được, những sinh mệnh có sắc thân giống như con người này, trong vũ trụ chỉ là số rất ít. Tôi đi trên phố, những người bình thường làm sao biết được thân phận thật sự của tôi? Cũng giống như vậy, thử hỏi có bao nhiêu chư Thần chư Phật, kể cả yêu ma quỷ quái lấy hình hài của người thường đi lại trên thế gian, cái này tôi cũng không biết được.
Có rất nhiều người khinh rẻ những người ăn mày, thậm chí có kẻ còn quá đáng hơn lại đi chà đạp những người ăn mày, nhưng tôi xin nói với các vị rằng, rất nhiều người ăn mày đều là có nguồn gốc không hề tầm thường, không phải là những người tu đạo đến cõi người vân du, thì chính là những vị Thần mang theo sứ mệnh mà đến. Có thể nói như vậy, chư Thần nhiều đến nỗi không chỗ nào không có, câu nói “ngẩng đầu ba thước có thần linh” này, hoàn toàn là sự thật, chỉ là những người bình thường không có thiên nhãn thông, nhìn không thấy mà thôi.
Vận mệnh của con người, sự phát triển của xã hội nhân loại, đều là Thần Phật đang khống chế cả. Một người bình thường ngay từ khi mới sinh ra, cho đến lúc chết đi, vận mệnh trong một đời này của họ đều là được an bài hết cả rồi, dẫu cho là sự việc hết sức nhỏ nhặt như rụng một sợi tóc, đều là đã được an bài kỹ lưỡng trước đó cả rồi. Một người trong xã hội nên làm những gì, nên có những gì, từ sớm đã có định số, sự nỗ lực của con người, cơ bản là đang đi trên quá trình đã được định sẵn từ trước.
Các vị ắt hẳn sẽ không tin, các vị có thể cảm thấy rằng rất nhiều thứ của mình đều là thông qua phấn đấu nỗ lực mà có được, kỳ thật, dùng công năng mà nhìn, quá trình phấn đấu của con người, đều là những vị Thần nắm giữ vận mệnh của con người, ở đằng sau thao túng các vị làm, con người chính là giống như con rối. Chư Thần dùng các loại quan niệm, tình cảm, dục vọng, cho đến cả những sự việc mà mọi người cho là ngẫu nhiên, để mà điều khiển hành vi của con người. Những động vật khác cũng đều giống như con người vậy, cũng đều là được chư Thần thao túng như vậy cả.
* theo Tinhhoa.net
Kỳ bí hoàng đế tu tiên đạt đẳng cấp cao nhất lịch sử
ừ cổ đến nay, người nghèo muốn phú quý, người phú quý muốn làm hoàng đế, đã làm hoàng đế rồi lại muốn tu tiên.
Làm thần tiên có gì tốt? Trước hết có thể sống lâu trăm tuổi, hơn nữa thần tiên ăn mặc tốt hơn người phàm đồng thời còn có vô số nữ tiên làm bạn, sinh hoạt hạnh phúc còn hơn hoàng đế rất nhiều.
Từ thời Hạ, Thương, Chu, các bậc đế vương đều khổ công tìm kiếm thần tiên. Tần Thủy Hoàng có cả thiên hạ vẫn chưa mãn ý, mấy lần phái người ra ngoài biển cầu tiên. Hán Vũ Đế một đời anh hùng đánh bại Hung Nô, cuối đời cũng mê luyến thần tiên. Các vua nhà Đường lại càng như vậy, từ Đường Thái Tông trở đi, gần như quá nửa hoàng đế nhà Đường đều say mê luyện đan phục thuốc để cầu trường sinh bất lão.
Đặc biệt, trong lịch sử Trung Quốc có một vị hoàng đế không những ở địa vị cửu ngũ chí tôn mà đồng thời còn được xếp vào hàng tiên, địa vị cao, có thể hiệu lệnh vạn tiên. Vị hoàng đế tu tiên truyền kỳ này chính là Tống Huy Tông.
Khởi đầu của việc Tống Huy Tông tu tiên là một lần ông đi ra ngoài, đột nhiên ngẩng đầu lên trông thấy ở phương xa có lầu quỳnh nhà ngọc, trong đó mờ mờ ảo ảo phảng phất như có bóng người đi lại. Chỉ trong nháy mắt, cảnh tượng đó vụt biến mất. Tống Huy Tông một phen kinh ngạc bèn quay ra hỏi người xung quanh có thấy gì không. Các thái giám, cung nữ ở bên cạnh đều nói không thấy gì, duy có con của Sái Kinh là Sái Du nói có thấy.
Vua liền hỏi Sái Du cụ thể thấy cái gì. Sái Du liền nói, thấy rất nhiều đình đài lầu các, trong đó còn có nhiều tiên nhân đi lại. Tống Huy Tông cả mừng, từ đó quyết định tu luyện thành tiên.
Vì Tống Huy Tông thích đạo giáo, tìm kiếm tiên nhân cho nên các môn các phái đạo sĩ liền nườm nượp kéo nhau về kinh thành để tìm cơ hội cầu kiến nhà vua. Các đạo sĩ đó ở bên cạnh vua, tuy không phải thần tiên gì nhưng rất giỏi phỏng đoán ý tứ con người. Thêm nữa một số người còn tinh thông y học, phong thủy, chiêm bốc hoặc là có một chút quỷ thuật. Do đó không ít đạo sĩ đã được Tống Huy Tông phong thưởng rất hậu.
Bởi vậy thời này người cầm cờ đạo gia để tìm cầu phú quý càng lúc càng đông. Trong đó, người nổi tiếng nhất là Lâm Linh Tố. Ông này rất biết a dua theo xu thế. Ông ta nói với Tống Huy Tông rằng bản thân ông ấy là tiên trên trời giáng phàm. Ở thiên giới, ông ta sớm đã gặp Tống Huy Tông rồi. Còn nói Huy Tông là con trưởng của Ngọc Hoàng đại đế hiệu là Tiêu Ngọc Thanh Vương, cũng còn gọi là Trường Sinh Đại Đế Quân. Em của Tống Huy Tông gọi là Thanh Hoa Đế Quân. Dưới sự sai khiến của Trường Sinh Đại Đế Quân có 800 tiên cung, trong đó có những tiên như Sái Kinh, Đồng Quán. Vua Huy Tông nghe vậy thì tâm phục tin ngay.
Tống Huy Tông có một người phi được ân sủng là Lưu Quý Phi, cũng được Lâm Linh Tố nói rằng ông ta đã gặp qua trên thiên đình và bà này vốn là Cửu Hoa Ngọc Chân An Phi. Ông ta lại cũng phỉnh phờ rằng vua và cung tần mỹ nữ, tể tướng quan lại, đều là thần tiên theo lệnh hạ phàm. Đợi đến sau này hết hạn sẽ cùng về thiên giới, tận hưởng phú quý.
Những điều đó khiến vua sung sướng, phi tần sung sướng, các nhà quyền quý sung sướng. Người người đều vui mừng nên họ gọi Lâm Linh Tố là Thông Chân Đạt Linh tiên sinh. Uy danh của Lâm Linh Tố do vậy trở nên cực lớn. Có lần trên đường đi gặp xa giá của Hoàng Thái Tử (sau này là Tống Khâm Tông), ông ta vẫn điềm nhiên như không thấy.
Sau này, Tống Huy Tông cảm thấy mỗi lần cầu khẩn thượng thiên cứ phải thông qua Lâm Linh Tố và các đạo sĩ thật là phiền phức. Do vậy bèn nói với Lâm Linh Tố: Nếu trẫm là Trường Sinh Đại Đế Quân, tại sao không xin Ngọc Đế sách phong cho trẫm làm Giáo Chủ Đạo Quân hoàng đế? Thế là Lâm Linh Tố bèn giả thần giả quỷ hoàn thành nghi thức cầu phong này.
Cuối cùng Tống Huy Tông chẳng những là đế vương của nhân gian, mà còn là giáo chủ của các tiên nhân hoạt động ở nhân gian. Từ đó về sau, ông ta đối với các đạo sĩ, chân nhân, tiên phật đều không khách khí gì nữa vì nghĩ rằng tất cả họ đều là thuộc cai quản của ông ta.
Trò chơi thần tiên này, Tống Huy Tông chơi trong mười mấy năm đến nỗi đem giang sơn đại Tống tươi đẹp đến chỗ bị hủy hoại. Tuy ông ta tự đắc là chủ của vạn tiên nhưng lại không thể thoát khỏi vận mệnh của ông vua mất nước.
Người tu Đạo, tích Đức có thể thành tiên nơi cõi trời
Những ai có thể sống tốt trong cõi người, tạo nhiều công đức hoặc là người tu Đạo thì đều có cơ hội chuyển sinh lên cõi trời, đây là một sự thật chứ không chỉ là câu chuyện mang ý nghĩa biểu dương người tốt trong xã hội.
* nguồn : internet
( còn tiếp ).