[Giao Lưu] Chuyên Mục: Chuyện Lạ- Kỳ Bí- Truyền Thuyết- Khó Tin (Tổng Hợp)

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
5760

:lasao:có lẽ nhiều người thắc mắc và cảm thấy buồn cười khi từ khóa này có số lượt tìm kiếm quá khủng phải ko? sự thật không chỉ chúng ta mà còn nhiều nước khác trên thế giới cũng tương tự: cao nhất ở những nước có sự tín ngưỡng thần linh cao. các từ khóa như cáchđể tu luyện thành thần tiên- thành thánh-thành cao tăng-phật lạc v.v... có từ rất lâu. lắm rồi. từ khi con người có ý thức tôn giáo nó cũng đã tồn tại cả trước suy nghĩ ấy. do hoàn cảnh, do những cảnh tượng thiên nhiên v.v... con người bõ tay trước nhiều thứ của tự nhiên, có sinh lão bệnh tử.... và hơn hết con người có trí tưởng tượng-có suy nghĩ...ít ra lão tần thủy hoàng cho tàu sứ đi tìm thuốc trường sinh xong an mồ mảđẹp là minh chứng cho sự sợ hãi của con người khi ấy với cái chết với việc giàđi,đau ốm ...
hôm nay cô giáo sẽ dự giờ trình bày với các phụ huynh, tiền bối, sư huynh muội tỷ đệ về thần tiên gần nhất với hiện nay của chúng ta...:hayhay:
* nếu có tu luyện thành tiên thì đó là ở cõi khác thôi, nếu có tồn tại thì cũng từ xa xưa. còn hiện tại con người chúng ta phải tu Tâm- Đức là gốc cho 1 con người.
Người liệu có thể thành tiên? Chuyện tưởng hoang đường thực ra hoàn toàn có thật
Nhan Chân Khanh (năm 709 – 785), tự Thanh Thần, người Vạn Niên, Kinh Triệu, nguyên quán Lâm Nghi, Lang Nha (nay Lâm Nghi, Sơn Đông), xuất thân tiến sĩ, ông bắt đầu nổi danh khi nhậm chức Thái thú Bình Nguyên. Khi An Lộc Sơn khởi binh ở Phạm Dương, các quận ở Hà Bắc đều ra hàng, duy chỉ có Nhan Chân Khanh cố thủ Bình Nguyên, làm minh chủ nghĩa quân, tận lực vì nhà Đường.
Theo ghi chép trong lịch sử, sau đó ông đã nhận lệnh của vua Đức Tông đến chỗ phản tướng Lý Hy Liệt khuyên hàng nhưng không may bị hại. Có lẽ ghi chép không sai, nhưng Nhan Chân Khanh rất có khả năng là không chết, mà đã thành tiên rồi. Nói như vậy có chút ly kỳ, rất nhiều người sẽ không tin, nhưng dù bạn tin hay cũng không quan trọng, có thể xem đây là một câu chuyện thần thoại cũng được.
Nhan Chân Khanh bị gian thần hãm hại
Lý Hy Liệt sau khi công phá Nhữ Châu, tể tướng Lư Kỷ vì đố kỵ, ganh ghét với sự cương trực của Nhan Chân Khanh, muốn thừa cơ hãm hại ông, nên đã tâu với vua Đức Tông rằng: Nhan Chân Khanh đức cao vọng trọng, khắp nơi kính ngưỡng, xin vua hãy để ông ta đi thuyết phục Lý Hy Liệt, có thể không cần động tới gươm đao, không phải đổ máu, mà vẫn bình định được cường địch.
5763

Hoàng thượng tin nghe theo lời của Lư Kỷ liền phái Chân Khanh làm thuyết khách. Có vị công thần tên là Lý Miễn nghe được chuyện này, vô cùng kinh hãi, cho rằng đất nước sẽ mất đi một vị quốc lão, mang đến sỉ nhục cho triều đình liền bí mật dâng tấu chương thỉnh cầu giữ Nhan Chân Khanh lại, đồng thời phái người lên đường đi ngăn Nhan Chân Khanh, nhưng không kịp.
Sau khi Nhan Chân Khanh gặp được Lý Hy Liệt, đang lúc tuyên đọc chiếu thư thì con nuôi của Lý Hy Liệt cùng hơn một ngàn binh sĩ từ đâu xông tới, vây chặt lấy ông, lớn tiếng chửi mắng, rút gươm đao ra nhao nhao đòi giết. Tuy thế Chân Khanh không vì vậy mà biến sắc, vẫn ung dung như thường. Lý Hy Liệt thấy vậy liền bước tới lấy thân mình che chở cho Chân Khanh, rồi thu xếp ông ở trong nhà khách.
Đến hôm sau Lý Hy Liệt mở tiệc chiêu đãi, mời các băng nhóm khác tới dự, rồi bảo các con hát xướng lên những bài công kích triều đình, lấy đó làm vui. Nhan Chân Khanh không khỏi tức giận, đứng bật dậy nói: “Ông cũng là phận bề tôi, sao có thể lệnh kẻ dưới làm điều phản nghịch như vậy!”.
Lý Hy Liệt nghe vậy liền kêu người người chất một đống củi to ngoài sân, châm lửa đốt rồi hỏi Nhan Chân Khanh về chế độ lễ nghi của triều đình. Nhân Chân Khanh đáp: “Ta già rồi, tuy từng chưởng quản quốc lễ, nhưng những gì ghi chép lại đều là lễ nghi của các chư hầu khi gặp quân vương mà thôi.”
Lý Hy Liệt cười gằn: “Nếu ông không đầu hàng, thì sẽ thiêu chết ông!”. Nhan Chân Khanh không chút sợ hãi, chẳng nói chẳng rằng, tự mình nhảy ngay vào đống lửa. Đám phản tặc trông thấy hốt hoảng, vội chạy lại kéo ông ra. Nhan Chân Khanh biết số mình đã tận, không thể thoát khỏi đây nên đã tự mình làm tấu chương cáo biệt với Hoàng đế, sau lại căn dặn những người ở lại hãy khắc tế văn trên bia mộ để thể hiện lòng tận trung của ông với đất nước. Sau đó lũ phản tặc đã siết cổ ông tới chết. Hoàng đế nghe tin này, buồn rầu không thôi, tự trách mình đã quá dại dột, liền báo quốc tang 5 ngày, mọi sự vụ đều dừng lại và phong cho ông là Văn Trung Công.
Nhan Chân Khanh là nguyên lão đã phục vụ bốn triều vua Đường, đức cao vọng trọng, chính trực, cao thượng, tuổi càng cao chí càng cao, thế nhưng lại bị gian thần hãm hại, quả là một kỳ oan trong thiên hạ.
Nhan Chân Khanh tiết lộ mình là người tu Đạo
Thế nhưng câu chuyện chưa chấm dứt ở đây. Trong <Biệt Truyện> kể rằng, trước khi đi Thái Châu để thuyết phục Lý Hy Liệt, Nhan Chân Khanh đã gọi con trai lại và dặn dò: “Cha và Nguyên Tải đều uống tiên dược, nhưng dược lực của ông ta đã bị tửu sắc phá hỏng mất, cho nên không bằng được cha. Lần này cha đi Thái Châu, nhất định sẽ bị nghịch tặc giết hại. Sau này con có thể đưa cha về mai táng ở Hoa Âm. Mở quan tài ra xem, chắc chắn sẽ thấy không giống với người thường.”
Trong cuốn <Biệt Truyện> cũng kể rằng, khi Nhan Chân Khanh sắp sửa bị siết cổ chết, ông đã cởi đai vàng đưa cho sứ giả và nói: “Ta từng tu luyện đạo thuật, vậy nên xem việc bảo toàn thân thể là điều quan trọng.”
Người đến siết cổ ông vâng lời, sau khi siết chết lại cho chôn cất ông tử tế. Sau này khi phản tặc bị dẹp yên, người nhà Nhan Chân Khanh đã rời mộ của Nhan Chân Khanh về kinh thành. Đến lúc mở quan tài ra xem thử thì quả nhiên là thấy khác với người thường: da thịt của ông vẫn y nguyên như khi còn sống, tay chân rất mềm mại, râu tóc màu đen, tay nắm chặt. Ai nấy đều cảm thấy kinh ngạc không thốt lên lời. Điều kỳ lạ hơn nữa là trên đường về kinh thành, mọi người cảm thấy sao mà quan tài càng lúc càng nhẹ, đến lúc đưa tới nơi chôn cất, mở quan tài ra xem lần nữa thì thấy bên trong đã trống không từ lúc nào.
Đạo sĩ Hình Hòa Phác biết chuyện liền nói: “Đây chính là chuyện đắc Đạo thành tiên mà ngày thường bọn ta hay nói đến! Mặc dù ẩn thân trong sắt đá, nhưng thời gian tu luyện đã tròn đầy, đến ngày tự nhiên sẽ nứt ra mà bay đi.” Trong cũng có ghi chép lại chi tiết sự việc này.
Người nhà vô tình gặp lại Nhan Chân Khanh
Mười mấy năm sau, gia đình Nhan Chân Khanh có sai người hầu đến Trịnh Châu thu tô. Lúc quay về có đi ngang qua Lạc Kinh, người hầu này đã tình cờ đi đến chùa Đồng Đức, nhìn thấy Nhan Chân Khanh mặc áo bào màu trắng, mở ô che, ngồi trên Phật điện.
Người hầu này vội vã đi lên phía trước, định sụp lạy. Thế nhưng Nhan Chân Khanh đã nhanh chóng quay người xoay mặt đi, ngẩng đầu lên nhìn bức tường trong chùa. Người hầu liền chạy vòng quanh, hoặc trái hoặc phải đi theo phía sau ông, nhưng Nhan Chân Khanh trước sau vẫn không để cho người hầu nhìn thấy mặt.
Một lúc sau Chân Khanh bước xuống khỏi Phật điện, ra khỏi cửa rồi bỏ đi. Người hầu cũng từng bước từng bước đi theo ông. Chân Khanh thấy vậy liền đi thẳng về đến vườn rau bỏ hoang ở phía đông thành. Đây là căn vườn có hai căn nhà cũ nát, ngoài cửa có treo rèm, Nhan Chân Khanh liền vén rèm lên, rồi đi vào trong.
Người hầu bước tới khu vườn, chỉ dám hành lễ bên ngoài tấm rèm và lên tiếng cung kính. Nhan Chân Khanh liền hỏi: “Ngươi là ai?”. Người hầu liền xưng tên tuổi, nghe vậy, Nhan Chân Khan liền gọi: “Vào đây”.
Người hầu bước vòng trong, nhìn thấy đúng là Nhan Chân Khan liền quỳ xuống khóc lóc. Nhan Chân Khanh vội đỡ người hầu dậy rồi hỏi sơ lược về tình hình con cháu trong nhà. Sau khi hỏi han được một lúc, ông móc trong túi ra 10 lượng vàng, kêu người hầu mang về để phụ giúp chi phí trong nhà rồi căn dặn hắn sau khi quay về tuyệt đối không được nói lại với người khác. Sau này trong nhà có khó khăn, có thể quay lại đây.
Người hầu về đến Ung Châu, cả nhà họ Nhan rất lấy làm kinh ngạc. Đem ra tiệm bán số vàng đó thì quả nhiên thấy đúng là vàng thật. Con cháu họ Nhan liền vội vội vàng vàng mua xe ngựa, cùng với người hầu đó phi nước đại đến đó vườn rau cũ, nhưng đến nơi chỉ thấy cỏ dại um tùm, ngoài ra không thấy gì cả.
Câu chuyện này sau đó đã lan rộng khắp cả kinh thành, những người thời đó hay chuyện đều cho rằng Nhan Chân Khanh đã thoát xác thành tiên rồi.
Thật vậy, người tu đạo phần lớn đều là mang theo thân thể thành tiên, tuy nhiên sau khi tu thành vốn không lên trời ngay lập tức, mà vẫn ở lại một thời gian, đi hoàn thành một số nguyện vọng. Nhan Chân Khanh chắc chắn cũng là như vậy!
* theo : DKN.TV
Người thường gặp Tiên, liệu có phải câu chuyện hoang đường?
Kho tàng truyện cổ tích dân gian Việt Nam được coi là kho báu mà người xưa đã lưu lại cho con cháu mai sau, giúp các thế hệ Việt thời nay tìm lại được cội nguồn của mình. Nó là một phần của nền văn hóa truyền thống, còn gọi là nền văn hóa thần truyền, là nơi kết tụ những tinh hoa dân tộc, nuôi dưỡng tính cách và tâm hồn Việt. Hàng trăm tích xưa chuyện cũ được người xưa lưu lại đã luôn nhắn nhủ rằng: Người Việt chúng ta là con rồng cháu tiên, là có nguồn gốc từ Thần.
Người xưa có câu: Tiên khó gặp nhưng không khó tìm. Trong các tích truyện cổ, người xưa nói rằng đã có những giai đoạn trong lịch sử, người và Thần Tiên đã có những giao tiếp ở thế gian. Tuy nhiên, nhiều người thời nay, do ảnh hưởng của quan niệm “thấy thì tin, không thấy không tin” đã luôn phủ nhận thần tích. Người thời nay xem những tích truyện cổ này chỉ là những truyền thuyết, được hư cấu theo trí tưởng tượng của người xưa. Trong một nỗ lực khơi lại nguồn tinh hoa của nền văn hóa Thần truyền, khơi lại bản chất Thần Tiên trong con người chúng ta, đồng thời tránh những lệch lạc trong nhận thức của người hiện đại về những truyền thuyết lịch sử, Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu lại những tích sử trứ danh, những giai thoại thần kì trong trong kho tàng truyện cổ Việt. Dưới là câu chuyện “Từ Thức gặp Tiên”.
Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư sinh ở đất Hóa Châu tên Từ Thức, được bổ nhiệm giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Cạnh huyện đường có ngôi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc mẫu đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai gái các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa. Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cô gái tuyệt sắc, trạc mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tô điểm phấn son nhưng làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.
Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, không ngờ mẫu đơn giòn gãy dưới tay. Người giữ hoa trông thấy liền bắt nàng trói vào gốc cây. Đến xế chiều cũng không thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức nhân đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương, bèn cởi áo cừu đang mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả, ngập ngừng cảm ơn Từ Thức rồi đi về một phía mất hút.
Là một vị quan nhân từ, luôn được dân tình thêm mến trọng nhưng Từ Thức vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Khi cấp trên gởi tờ khiển trách, Từ Thức thở than: “Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát khỏi vòng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ không bao giờ phụ ta!” Nghĩ vậy, chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang theo bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng cảnh. Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu thơ của chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn sông Lễ, bờ Kênh Nga.
Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một lớp mây năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi non kỳ dị. Từ Thức lo ngại bảo người chèo thuyền: “Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay núi Thần dời lại, không thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ”?
Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt một sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: “Không có cánh làm sao mà vượt qua được?” Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.
Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa hang động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài bước thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối không còn biết đâu lối ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối quanh co, được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng tối, mắt chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây muôn màu sắc bao phủ các đền đài dát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý lạ, hương thơm khác thường.
Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang khúc khích bảo nhau: “Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến!”
Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: “Phu nhân chúng tôi cho mời chàng vào”. Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức hoành phi chữ vàng: “Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các”.
Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất bảo. Bà tiên mời Từ Thức ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo: “Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây, chàng có biết nơi này là đâu không”?
Từ Thức đáp: “Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc thuyền con ở giữa trời biển. Tôi không được biết là chốn này có lầu hồng, điện biếc. Lòng tôi đây còn nhiễm đầy trần tục, không hiểu biết được đây là chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ”.
Bà tiên nói: “Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến!”
Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo xanh đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra người đã làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu nữ mà nói với Từ Thức:
“Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong Hội Thưởng Hoa, được chàng cứu thoát. Lòng em nó vẫn không quên. Ta muốn cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó”.
Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cưỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ phương nam cưỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây… Các tiên tụ họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.
Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.
Tiên nương mặc áo lụa nói: “Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ không hối tiếc đời cũ và sẽ không còn nói là trên đời này không có Tiên”!
Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu nhân chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư tiên.
Nàng tiên trẻ tuổi cười và nói: “Cô dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, không còn gầy như trước nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới không có chồng. Tôi không còn có thể tin như vậy nữa!”
Ngụy phu nhân nói: “Tôi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc Ngọc lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu ta chế giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng cười lắm ru!”.
Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém vui:
“Cô dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ không khỏi có kẻ mỉa mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó!”
Kim Tiên liền nói: “Tôi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ xấu miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem tin đến cho vua Hán. Chính chúng tôi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm thượng của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống kia? Tân lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy để làm buồn lòng chàng làm gì”.
Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia tay ra về. Còn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:
“Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ mới lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu viết ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hoàng Lãng. Hoàn cảnh tuy mỗi nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao không khí chung quanh đôi ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình yêu không phát sinh ra ở lòng em, hay là em cố cầm giữ lại?”
Giáng Hương buồn rầu đáp: “Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hoàng Điện, thường lui tới Hồng Môn, sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lòng không vương vấn dục tình. Còn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết còn ở nơi Thúy Điện, vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lòng em còn dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!”
Từ Thức nói: “Nếu thế thì em cũng không xa cách anh lắm”! Cả hai đều bật cười.
Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên. Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm thoát thế mà đã qua một năm rồi. Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối trăng rọi qua song, có khi Từ Thức không làm sao nhắm được mắt. Một nỗi buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy. Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương:
“Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển muôn trùng, không biết rõ nhà anh ở nơi nào!”
Một lát chàng lại nói: “Khi đi, anh còn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lòng trần chưa rũ sạch, anh muốn nhìn lại quê hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về thăm nhà ít lâu. Không biết em nghĩ sao?”
Giáng Hương buồn bã không thốt nên lời. Từ Thức nói tiếp: “Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc nhà, rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân”.
Giáng Hương khóc nói: “Em không muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời quá vắn vỏi, anh sẽ không còn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!”
Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo: “Ta không ngờ con người ấy lại còn vương vấn tục lụy đến thế!” Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức đi. Giáng Hương trao cho chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò: “Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em!”
Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân xuống mặt đất. Nhưng tất cả đều đã hoàn toàn đổi thay. Nhà cửa, người làng không còn là những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu xanh như xưa. Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức không, mọi người đều nói: “Hồi chúng tôi còn bé, có nghe nói là ông cố ba đời chúng tôi mang tên đó. Ông ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tôi đã trải qua ba đời vua”.
Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song chiếc xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong thư ra đọc: “Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đôi ta đã dứt! Làm sao tìm lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa”, mới biết là Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt. Sau đó, Từ Thức khoác áo lông, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hoành Sơn, không thấy trở về nữa.
* Nguồn : INternet
Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị
Trên thế gian này có tồn tại những người tu đạo, đặc biệt trong những núi sâu rừng già, họ đã từng sống rất lâu, có người đã sống mấy trăm năm, thậm chí mấy nghìn năm. Điều này nói ra có thể nhiều người sẽ không tin nổi … Dưới đây là câu chuyện được kể lại của một người như vậy.
Trước hết xin được nói rõ, bài viết này không phải là câu chuyện hư cấu. Những gì được viết được kể, hoàn toàn đều là những trải nghiệm chân thật, cảm ngộ chân thật của bản thân tôi. Các vị có thể tin, cũng có thể không tin, nhưng mong các vị hãy tu tích khẩu đức, đừng có tạo nghiệp chướng cho bản thân mình.
Những người bình thường nhìn thấy “300 năm” trong tiêu đề, nhất định sẽ cho rằng tôi đang khoác lác, nhưng tôi xin nói với các vị rằng, tuổi thật sự của tôi chính xác là 330 tuổi, cũng chính là nói rằng tôi sinh ra vào giữa những năm Khang Hy triều đại nhà Thanh. Kỳ thật, 330 tuổi cũng không thể nói là rất già, những người hơn 2.000 tuổi tôi đều đã đích thân gặp qua, nghe nói còn có những người sống trên 5.000 tuổi ở nhân gian, chỉ là không có cơ hội gặp được mà thôi.
Tôi là người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, giữa những năm Ung Chính, vì để tránh chiến loạn, cả nhà chúng tôi chạy nạn đến núi Đại Ba, miền bắc tỉnh Tứ Xuyên, nhưng không may gặp phải lở đất, cuối cùng chỉ có một mình tôi may mắn thoát được, năm đó tôi 30 tuổi. Về sau tôi bị lạc đường trong núi, tự mình đã đi lang thang trong suốt mười mấy ngày liền, ngay chính vào lúc sắp bị đói chết, một vị Đạo sĩ đã cứu sống tôi. Vị Đạo sĩ này chính là sư phụ của tôi sau này, lúc đó ông đã ở trong núi Đại Ba tu luyện hơn 700 năm. Từ đó, tôi liền đi theo ông bắt đầu tu luyện. Ở đây cần phải nói rõ, tôi và sư phụ tuy đều là Đạo sĩ, tu là Pháp môn Tam Thanh, nhưng chúng tôi không phải là Đạo giáo, không có một chút quan hệ gì với Đạo giáo cả.
Sư phụ của tôi là người của triều đại nhà Đường, tuy đã tu luyện hơn 700 năm rồi, nhưng ông nhìn còn trẻ hơn tôi lúc đó nhiều. Bởi ông đã tu đến cuối cùng rồi, dù có cố gắng thế nào cũng không tu lên trên được nữa, vậy nên đã thu tôi làm đồ đệ, truyền thừa Đạo chính thống trong môn này của chúng tôi. Mọi người nhất định sẽ không nghĩ được rằng, công pháp tu luyện trong môn này của chúng tôi, vô cùng vô cùng đơn giản, đặc biệt thích hợp cho những người lười biếng, bởi vì công pháp của chúng tôi chính là ngủ.
Sau khi sư phụ truyền công pháp cho tôi xong, lần đầu tiên tôi đã ngủ hơn một tháng, sau khi tỉnh dậy thân thể có những biến đổi rất lớn, gần như đã thay đổi thành một người khác vậy, khỏe mạnh hơn trước đây rất nhiều. Sau đó, ông lại bảo tôi đọc “Đạo Đức Kinh”, đọc xong kinh thư lại đi ngủ. Cứ không ngừng đọc kinh thư, nằm ngủ như vậy, một lần dài nhất, tôi đã ngủ một giấc hơn 2 năm. Cứ lặp đi lặp lại không ngừng như vậy, một mạch tu đến hơn 60 năm, cuối cùng tôi đã đạt đến cảnh giới tiểu thừa (thiên mục đã mở, đại chu thiên toàn bộ đều đã được đả thông). Lúc này tôi đã có được rất nhiều công năng đặc dị, ví như tịch cốc (nhịn ăn nhịn uống mà không mệt mỏi), thuật ban vận, đi lại trên không, tha tâm thông, thấu thị nhân thể, v.v….Cũng phải nói thêm, kể từ khi bắt đầu tu luyện, tướng mạo của tôi như dừng lại ở tuổi 30, mãi cho đến tận hôm nay cũng không có bất cứ sự thay đổi gì.
Tu đến cảnh giới tiểu thừa, sư phụ bảo tôi trở lại cõi người đi vân du. Sư phụ nói, nếu như tôi chìm đắm vào danh lợi thanh sắc, bị thế giới phồn hoa làm cho mờ mắt, thì không cần trở về núi nữa, tôi có thể tự mình chọn con đường sau này. Nếu như sau 3 năm, tôi vẫn không bị sa ngã, thì hãy trở về núi Đại Ba, ông sẽ chỉ đạo tôi tiếp tục tu luyện công pháp tiếp theo.
Vân du ở bên ngoài rất khổ, quy định cũng nhiều. Thứ nhất, trong cõi trần không được sử dụng bất kể công năng đặc dị nào, trước lúc xuống núi sư phụ đã khóa hết công năng của tôi, bao gồm cả tịch cốc, bởi trong thời gian vân du, tôi tự mình nghĩ cách giải quyết vấn đề ăn uống. Thứ hai, không được đụng đến tiền bạc, chỉ có thể thông qua phương thức xin ăn để có được thức ăn. Thứ ba, còn có rất nhiều giới luật, trộm cắp, tà râm, uống rượu, v.v….giống như những quy định trong Phật giáo. Sư phụ có thể dùng thiên nhãn thông giám sát tôi mọi lúc mọi nơi, nếu như tôi phạm phải bất cứ quy định nào, thì sẽ không còn có cơ hội đi theo sư phụ tu luyện nữa.
Sau khi rời khỏi núi Đại Ba, tôi trước tiên đi đến Vị Nam vùng Thiểm Tây, sau đó lại đi Đồng Quan. Ở Đồng Quan, tôi cuối cùng đã phải tự giải quyết vấn đề ăn uống. Bởi vì tướng mạo của tôi là một người đàn ông khỏe mạnh của tuổi 30, xin ăn vô cùng khó khăn, thường hay bị mắng, chẳng có mấy ai đồng ý bố thí cho tôi cả. Ở Đồng Quan tôi đã làm thuê cho một nhà địa chủ họ Lưu, chỉ cần có chỗ ăn chỗ ngủ, không cần tiền công. Địa chủ rất lấy làm vui mừng, cũng đồng ý với tôi. Tôi cũng không có tâm trạng muốn đi những nơi khác, ở nhà địa chủ họ Lưu, yên bình trải qua 3 năm, rất may là không có phạm giới nào cả, thời hạn 3 năm đã hết, tôi lại trở về núi Đại Ba, bên cạnh sư phụ.
Những ngày tháng sau này chính là không ngừng tu luyện, cứ cách 35 năm một lần, đều sẽ phải xuống núi vân du mấy năm, có những lúc sư phụ sẽ cùng đi vân du với tôi, khi đó tôi không có cách nào làm biếng nữa, không thể sống thảnh thơi như ở nhà Lưu địa chủ nữa, mà mỗi ngày đểu cần phải ra ngoài xin ăn. Vân du nhiều năm như vậy, hết thảy chua ngọt đắng cay, phong ba bão tố của nhân gian đều đã trải qua hết cả, nhưng ý chí tu luyện của tôi trước sau không hề bị lay dộng. Đối với những thay đổi triều đại, thế sự biến hóa của thế gian, chúng tôi xưa nay đều không can thiệp, bao gồm cả những tai nạn và chiến tranh kia, chúng tôi trước sau không hề quản. Vì những thứ này đều là có định số, ai loạn động, thì người đó sẽ phải lãnh tai ương.
Tôi biết trong cõi trần có rất nhiều rất nhiều người có hứng thú với tu Đạo, nhưng họ không rõ được rằng tu Đạo cần phải chịu đựng rất nhiều cái khổ, phải trải qua bao nhiêu dày vò và ma nạn. Chỉ pha mấy ấm trà, hẹn vài người bạn, ngồi mà luận đạo, đó không phải là tu hành, mà là nghỉ ngơi. Tu hành thật sự, là phải trải qua rất nhiều cái khổ.
Sau khi tu luyện hơn 200 năm, nói một cách chính xác là 1 năm trước khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, sư phụ của tôi qua đời, từ đó về sau môn phái của chúng tôi chỉ còn lại một mình tôi. Mục tiêu sau cùng của tu Đạo chính là đắc Đạo thành Tiên, để có được sự vĩnh hằng của sinh mệnh, nhưng pháp môn này của chúng tôi cao nhất chỉ có thể tu đến “ngũ khí triều thiên”, cách trường sinh bất lão vẫn còn một quãng rất xa. Sau khi sư phụ qua đời, thi thể ông không hề bị mục nát, tôi đem nó bảo tồn trong một ngôi miếu cũ ở Hán Trung, về sau nơi này bị chiến tranh phá hủy, nhục thân của sư phụ cũng bị hủy luôn trong đó. Thực ra, đây cũng không có gì phải nuối tiếc cả, chẳng qua chỉ là một lớp da thịt mà thôi.
Sau khi sư phụ mất, tôi phải độc tu một mình. Đối với một người tu luyện đơn độc mà nói, cái khổ lớn nhất, chính là cô quạnh và đơn độc. Có những lúc ngồi thiền một năm, sau khi xuất định được mấy ngày rồi lại nhập định tiếp, mười mấy năm không thấy một bóng người, không nói một lời nào là chuyện rất bình thường. Vì để khắc phục cô đơn buồn tẻ, tôi thích đi vân du, bắt đầu từ năm 1960, tôi vừa đi vân du vừa tiếp tục việc tu luyện của mình.
Đợi đến măn 1988, cái năm xảy ra vụ hỏa hoạn lớn ở núi Đại Hưng An, tôi cuối cùng đã tu đến cảnh giới cao nhất trong môn của chúng tôi là “ngũ khí triều thiên”. Lúc này, công năng đặc dị của tôi, đã đạt đến cao độ trước nay chưa từng có, trên cơ bản những công năng mà bạn từng nghe nói thì tôi đều có hết cả, hơn nữa công lực lớn mạnh, hoàn toàn không phải là thứ mà những người có công năng đặc dị trên thế gian kia có thể so sánh được. Hơn nữa từ đó về sau, những lúc vân du, tôi có thể không còn cần phải tuân thủ giới luật nữa, công năng đặc dị cũng có thể sự dụng tùy ý rồi, nhưng điều kiện trước hết là không được phép can thiệp vào bất cứ sự tình nào của thế gian con người, dẫu cho là một việc nhỏ rất là nhỏ nhặt cũng không được, nếu không sẽ gặp phải báo ứng, hoặc công năng bị mất đi.
May mắn hữu duyên gặp sư phụ thứ hai
Sau khi tu thành rồi, tôi du ngoạn ở nhân gian 5 năm, đi khắp hết mọi ngõ ngách trên thế giới, đã quen biết rất nhiều những người tu luyện như tôi, nếm đủ cuộc sống các dạng các loại, nhưng lại cảm thấy những thứ đó đều không có ý nghĩa gì nữa. Thế là, vào trung tuần Tháng 8/1993, tôi ngồi một chuyến xe lửa trở về miền bắc tỉnh Tứ Xuyên, chuẩn bị tiếp tục sống cuộc sống ẩn cư của mình, đợi khi cơ duyên chín mười rồi, cũng thu nhận một đồ đệ, truyền thừa đạo pháp chính thống trong môn pháp này của mình. Chính là trên chuyến xe lửa này, tôi đã gặp được một người đã thay đổi vận mệnh của tôi. Lúc đó, người này và tôi cùng ngồi ở một toa tàu, chúng tôi vừa nhìn mặt nhau thì đã biết đôi bên đều là người tu đạo, người này trông rất là trẻ, mặt mày hiền hậu, lúc nào cũng như đang mỉm cười.
Tôi đi đến trò chuyện với ông ấy một lúc, thì lại không khỏi hết sức kinh hoàng, bởi tôi phát hiện, công lực của người này cao đến nỗi, quả thật là tôi không cách nào tưởng tượng ra được. Rốt cuộc là cao đến mức nào, bây giờ tôi cũng không nói ra được, bởi vì đạo hạnh của tôi, căn bản không có cách nào thăm dò vấn đề này được, bản thân tôi ngay cả cái ngón chân của ông đều không sánh được. Về sau, tôi đã bái người này làm thầy, ông đã truyền cho tôi công pháp trong pháp môn đó của ông.

Dưới sự giúp đỡ của sư phụ thứ hai, chưa đến một tháng, tôi đã đột phát giới hạn trong pháp môn trước đây của tôi, thành công tu đến được cảnh giới “tam hoa tụ đỉnh”. Cũng chính là nói, từ sau lần này, tôi đã đạt được thân thể bất tử.
Bây giờ, tôi lại đến cõi người vân du, đây là lần vân du sau cùng của tôi, có nhiều tâm nguyện cần phải hoàn thành, tôi lên mạng viết ra bài viết này, thuật lại và tiết lộ một vài lí luận có liên quan đến công năng đặc dị và tu đạo, đây cũng chính là một trong những tâm nguyện của tôi. Những người có duyên với tôi, tự nhiên sẽ đọc được, tự nhiên sẽ có những thu hoạch, những thể ngộ của bản thân mình, cũng coi là một phương thức đặc thù trong thệ nguyện “cứu thế độ nhân” của ngày xưa.
Dưới đây, tôi xin được nói rõ một số vấn đề mà người thường được phép biết đến, cũng để cho đọc giả làm một nghiệm chứng thật giả đối với bài viết này.
Trên thế giới thật sự có Thần, Phật, yêu, ma tồn tại không?
Đây là điều không cần phải nghi ngờ gì cả. Hình thức tồn tại của các sinh mệnh nhiều đến nỗi không thể lường được, cũng không có cách nào tính toán được, những sinh mệnh có sắc thân giống như con người này, trong vũ trụ chỉ là số rất ít. Tôi đi trên phố, những người bình thường làm sao biết được thân phận thật sự của tôi? Cũng giống như vậy, thử hỏi có bao nhiêu chư Thần chư Phật, kể cả yêu ma quỷ quái lấy hình hài của người thường đi lại trên thế gian, cái này tôi cũng không biết được.
Có rất nhiều người khinh rẻ những người ăn mày, thậm chí có kẻ còn quá đáng hơn lại đi chà đạp những người ăn mày, nhưng tôi xin nói với các vị rằng, rất nhiều người ăn mày đều là có nguồn gốc không hề tầm thường, không phải là những người tu đạo đến cõi người vân du, thì chính là những vị Thần mang theo sứ mệnh mà đến. Có thể nói như vậy, chư Thần nhiều đến nỗi không chỗ nào không có, câu nói “ngẩng đầu ba thước có thần linh” này, hoàn toàn là sự thật, chỉ là những người bình thường không có thiên nhãn thông, nhìn không thấy mà thôi.
Vận mệnh của con người, sự phát triển của xã hội nhân loại, đều là Thần Phật đang khống chế cả. Một người bình thường ngay từ khi mới sinh ra, cho đến lúc chết đi, vận mệnh trong một đời này của họ đều là được an bài hết cả rồi, dẫu cho là sự việc hết sức nhỏ nhặt như rụng một sợi tóc, đều là đã được an bài kỹ lưỡng trước đó cả rồi. Một người trong xã hội nên làm những gì, nên có những gì, từ sớm đã có định số, sự nỗ lực của con người, cơ bản là đang đi trên quá trình đã được định sẵn từ trước.
Các vị ắt hẳn sẽ không tin, các vị có thể cảm thấy rằng rất nhiều thứ của mình đều là thông qua phấn đấu nỗ lực mà có được, kỳ thật, dùng công năng mà nhìn, quá trình phấn đấu của con người, đều là những vị Thần nắm giữ vận mệnh của con người, ở đằng sau thao túng các vị làm, con người chính là giống như con rối. Chư Thần dùng các loại quan niệm, tình cảm, dục vọng, cho đến cả những sự việc mà mọi người cho là ngẫu nhiên, để mà điều khiển hành vi của con người. Những động vật khác cũng đều giống như con người vậy, cũng đều là được chư Thần thao túng như vậy cả.
* theo Tinhhoa.net
Kỳ bí hoàng đế tu tiên đạt đẳng cấp cao nhất lịch sử

ừ cổ đến nay, người nghèo muốn phú quý, người phú quý muốn làm hoàng đế, đã làm hoàng đế rồi lại muốn tu tiên.

Làm thần tiên có gì tốt? Trước hết có thể sống lâu trăm tuổi, hơn nữa thần tiên ăn mặc tốt hơn người phàm đồng thời còn có vô số nữ tiên làm bạn, sinh hoạt hạnh phúc còn hơn hoàng đế rất nhiều.
Từ thời Hạ, Thương, Chu, các bậc đế vương đều khổ công tìm kiếm thần tiên. Tần Thủy Hoàng có cả thiên hạ vẫn chưa mãn ý, mấy lần phái người ra ngoài biển cầu tiên. Hán Vũ Đế một đời anh hùng đánh bại Hung Nô, cuối đời cũng mê luyến thần tiên. Các vua nhà Đường lại càng như vậy, từ Đường Thái Tông trở đi, gần như quá nửa hoàng đế nhà Đường đều say mê luyện đan phục thuốc để cầu trường sinh bất lão.
Đặc biệt, trong lịch sử Trung Quốc có một vị hoàng đế không những ở địa vị cửu ngũ chí tôn mà đồng thời còn được xếp vào hàng tiên, địa vị cao, có thể hiệu lệnh vạn tiên. Vị hoàng đế tu tiên truyền kỳ này chính là Tống Huy Tông.
5764

Khởi đầu của việc Tống Huy Tông tu tiên là một lần ông đi ra ngoài, đột nhiên ngẩng đầu lên trông thấy ở phương xa có lầu quỳnh nhà ngọc, trong đó mờ mờ ảo ảo phảng phất như có bóng người đi lại. Chỉ trong nháy mắt, cảnh tượng đó vụt biến mất. Tống Huy Tông một phen kinh ngạc bèn quay ra hỏi người xung quanh có thấy gì không. Các thái giám, cung nữ ở bên cạnh đều nói không thấy gì, duy có con của Sái Kinh là Sái Du nói có thấy.
Vua liền hỏi Sái Du cụ thể thấy cái gì. Sái Du liền nói, thấy rất nhiều đình đài lầu các, trong đó còn có nhiều tiên nhân đi lại. Tống Huy Tông cả mừng, từ đó quyết định tu luyện thành tiên.
Vì Tống Huy Tông thích đạo giáo, tìm kiếm tiên nhân cho nên các môn các phái đạo sĩ liền nườm nượp kéo nhau về kinh thành để tìm cơ hội cầu kiến nhà vua. Các đạo sĩ đó ở bên cạnh vua, tuy không phải thần tiên gì nhưng rất giỏi phỏng đoán ý tứ con người. Thêm nữa một số người còn tinh thông y học, phong thủy, chiêm bốc hoặc là có một chút quỷ thuật. Do đó không ít đạo sĩ đã được Tống Huy Tông phong thưởng rất hậu.
Bởi vậy thời này người cầm cờ đạo gia để tìm cầu phú quý càng lúc càng đông. Trong đó, người nổi tiếng nhất là Lâm Linh Tố. Ông này rất biết a dua theo xu thế. Ông ta nói với Tống Huy Tông rằng bản thân ông ấy là tiên trên trời giáng phàm. Ở thiên giới, ông ta sớm đã gặp Tống Huy Tông rồi. Còn nói Huy Tông là con trưởng của Ngọc Hoàng đại đế hiệu là Tiêu Ngọc Thanh Vương, cũng còn gọi là Trường Sinh Đại Đế Quân. Em của Tống Huy Tông gọi là Thanh Hoa Đế Quân. Dưới sự sai khiến của Trường Sinh Đại Đế Quân có 800 tiên cung, trong đó có những tiên như Sái Kinh, Đồng Quán. Vua Huy Tông nghe vậy thì tâm phục tin ngay.
Tống Huy Tông có một người phi được ân sủng là Lưu Quý Phi, cũng được Lâm Linh Tố nói rằng ông ta đã gặp qua trên thiên đình và bà này vốn là Cửu Hoa Ngọc Chân An Phi. Ông ta lại cũng phỉnh phờ rằng vua và cung tần mỹ nữ, tể tướng quan lại, đều là thần tiên theo lệnh hạ phàm. Đợi đến sau này hết hạn sẽ cùng về thiên giới, tận hưởng phú quý.
Những điều đó khiến vua sung sướng, phi tần sung sướng, các nhà quyền quý sung sướng. Người người đều vui mừng nên họ gọi Lâm Linh Tố là Thông Chân Đạt Linh tiên sinh. Uy danh của Lâm Linh Tố do vậy trở nên cực lớn. Có lần trên đường đi gặp xa giá của Hoàng Thái Tử (sau này là Tống Khâm Tông), ông ta vẫn điềm nhiên như không thấy.
Sau này, Tống Huy Tông cảm thấy mỗi lần cầu khẩn thượng thiên cứ phải thông qua Lâm Linh Tố và các đạo sĩ thật là phiền phức. Do vậy bèn nói với Lâm Linh Tố: Nếu trẫm là Trường Sinh Đại Đế Quân, tại sao không xin Ngọc Đế sách phong cho trẫm làm Giáo Chủ Đạo Quân hoàng đế? Thế là Lâm Linh Tố bèn giả thần giả quỷ hoàn thành nghi thức cầu phong này.
Cuối cùng Tống Huy Tông chẳng những là đế vương của nhân gian, mà còn là giáo chủ của các tiên nhân hoạt động ở nhân gian. Từ đó về sau, ông ta đối với các đạo sĩ, chân nhân, tiên phật đều không khách khí gì nữa vì nghĩ rằng tất cả họ đều là thuộc cai quản của ông ta.
Trò chơi thần tiên này, Tống Huy Tông chơi trong mười mấy năm đến nỗi đem giang sơn đại Tống tươi đẹp đến chỗ bị hủy hoại. Tuy ông ta tự đắc là chủ của vạn tiên nhưng lại không thể thoát khỏi vận mệnh của ông vua mất nước.
Người tu Đạo, tích Đức có thể thành tiên nơi cõi trời
Những ai có thể sống tốt trong cõi người, tạo nhiều công đức hoặc là người tu Đạo thì đều có cơ hội chuyển sinh lên cõi trời, đây là một sự thật chứ không chỉ là câu chuyện mang ý nghĩa biểu dương người tốt trong xã hội.
* nguồn : internet
( còn tiếp ).
 

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
Ly kỳ chuyện Cao Biền trấn yểm ở Việt Nam
5765

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.


Phép phong thủy phân biệt hình thế của đất làm năm loại: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Tùy theo thế đất và hình dáng của cuộc đất (giống con vật gì) để theo đó đặt tên, tiên đoán lành dữ cho những ai sử dụng cuộc đất ấy, như: lục long tranh châu, phượng hoàng ẩm thủy, hổ trục quần dương, hoặc quần tiên hội ẩm (được xem là những cuộc đất quý).
Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La
Theo t.ư liệu lịch sử và phong thủy, Cao Biền khi sang xâm lấn nước ta đã tiến chiếm thành Đại La và cho đắp lớn thành này cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự.
Để làm rào chắn cho thành Đại La, Cao Biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà.
Là người giỏi về thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, nên Cao Biền đã dò xét rất kỹ vị trí để xây thành Đại La (mà sau này vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Thăng Long đã cho xây mới lại) và dò tìm đầu mối long mạch nước ta.
Nhắc đến vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn), nhắc đến thành Đại La và kinh đô Thăng Long, vì đều liên quan đến việc Cao Biền sử dụng những thuật lạ của phong thủy để trấn yểm và tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta thời ấy theo lệnh của vua Đường Ý tông (860 – 873).
Tài liệu ghi, khi Đường Ý tông quyết định cử Cao Biền sang nước ta, đã ngầm bảo: “Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”.
Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.
Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.
Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam.
Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.
La Quý nối chỗ đứt long mạch
Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ.
Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.
Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn:
“Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.
Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.
Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.
Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam...
Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.
Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay.
Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.
Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch:
Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.
Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong;
Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý.
Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.
Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta:
Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô.
Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.
5766

** Nguồn : internet.
** xem thêm bài về Cao biền tại :
Chuyện thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền
Chuyện thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền - Trí Thức VN
**Youtobe :
** t.ư liệu wiki : Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt
Những vụ trấn yểm nổi tiếng Việt Nam
Link : Những vụ trấn yểm nổi tiếng Việt Nam
** Link t.ư liệu lịch sử : Cao Biền và Đại Việt
 

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
Quạ báo thù người
Bị hiểu nhầm đã giết quạ con, anh Shiva Kewat ở Ấn Độ bị quạ bố mẹ bám theo mổ, khiến anh luôn phải mang theo gậy mỗi khi ra khỏi nhà suốt ba năm qua.
Anh Shiva Kewat, sống ở bang Madhya Pradesh, cho hay cách đây ba năm, anh nhìn thấy một con quạ non bị kẹt vào chiếc lưới sắt nên tiến đến để cứu nó. Tuy nhiên, lúc anh đưa con chim ra thì nó đã chết trong tay anh vì kiệt sức. Bố mẹ của con quạ nhỏ cho rằng anh chính là kẻ giết con mình, vì thế chúng luôn nuôi ý định báo thù.
Những năm qua, Kewat nhiều lần bị quạ lao tới tấn công và để lại không ít vết trầy xước trên cơ thể. Vì thế, mỗi lần đi ra khỏi nhà, anh phải mang theo một cây gậy, phòng trường hợp bị quạ mổ. Người đàn ông này cho biết anh không muốn làm đàn quạ bị thương hay tức giận thêm, vì thế chỉ dùng gậy để xua chúng đi.
"Giá mà tôi có thể giải thích cho chúng hiểu, rằng năm đó tôi chỉ cố gắng cứu con chim con. Nhưng đáng tiếc chúng luôn nghĩ tôi đã giết con của chúng", Kewat nói.
Trong video do một người chứng kiến quay lại, Kewat đang đứng bên đường và cố gắng xua đuổi một con quạ tấn công mình. Anh hết cúi lại né, ra sức xua con quạ đang bay thành vòng tròn trên đầu.
Do thường xuyên bị quạ mổ, trên đầu Kewat có không ít sẹo. Tuy nhiên, dân làng lại thấy thích thú trước sự "báo thù" của những con quạ nên thường dõi theo mỗi khi Kewat ra ngoài.
"Những con quạ tấn công anh ấy như thể chúng là máy bay chiến đấu đang lao thẳng vào mục tiêu trong các bộ phim vậy", họ nói.
Không ai trong làng, ngoài Kewat, nhận được sự chú ý "đầy bạo lực" như vậy từ những con quạ.
"Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến quạ tấn công người để trả thù", phóng viên Ranjit Gupta nói khi đến gặp anh Kewat để phỏng vấn.
Năm 2011, các nhà nghiên cứu ở Seattle, Mỹ, phát hiện loài quạ thường thù dai và có khả năng nhớ mặt người. Họ đã bắt những con quạ trong 5 năm để phục vụ cho cuộc nghiên cứu nhưng một năm sau khi được thả, chúng vẫn có thể nhớ mặt họ.
* nguồn : ngoisao.net+youtobe
* clip :
* clip :
Khỉ lái xe máy mini giữa phố, húc ngã một cậu bé
Con khỉ đội mũ bảo hiểm, phóng xe giữa phố nhưng tông phải một cậu bé, khiến em ngã nhào.
Đoạn video, được quay ở khu vực tây Java, Indonesia, cho thấy con khỉ cưỡi trên chiếc xe máy nhỏ xíu, lao từ trên một con dốc thoải xuống, trên người buộc một sợi dây thừng.
Tuy nhiên, lúc con khỉ lao xuống đoạn đường hẹp, chiếc xe máy bị lung lay khiến con vật khó giữ thăng bằng. Chiếc xe đâm đúng chân một cậu bé đang đứng xem màn điều khiển xe sành điệu của con khỉ, khiến em ngã sóng soài trên mặt đất. Cậu bé sau đó nhanh chóng đứng lên, trong khi con khỉ sau vài giây ngơ ngác thì chạy đi nhặt chiếc mũ bảo hiểm bị văng ra giữa đường.
Đoạn video được chia sẻ lên mạng xã hội hôm 14/3 nhưng chỉ sau một ngày đã thu hút hơn nửa triệu lượt xem trên Instagram.
Theo Mirror, hành động trên của con khỉ là một phần trong màn biểu diễn đường phố truyền thống ở Indonesia có tên là Topeng Monyet (tạm dịch là Mặt nạ của khỉ). Đây là một hoạt động giải trí gây tranh cãi, trong đó những con khỉ được đeo mặt nạ, ăn mặc như con người và thực hiện các màn trình diễn như lái xe đạp hay xe máy. Chúng thường bị xích ở cổ và các đoạn video trên mạng cho thấy chúng bị giật rất mạnh khi đang biểu diễn cho người dân xem.
Topeng Monyet từng bị cấm ở thủ đô Jakarta sau một cuộc vận động vào năm 2013. Nhiều con khỉ đã không thể quay trở lại rừng sau thời gian bị chấn thương nghiêm trọng về cả thể chất và tinh thần khi biểu diễn trên đường phố. Tuy nhiên, hình thức giải trí, mua vui kiếm tiền này vẫn còn đang tồn tại ở nhiều nơi trên khắp Indonesia.
* Nguồn : ngoisao.net Khỉ lái xe máy mini giữa phố, húc ngã một cậu bé
* clip :
 

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
Chuyện vong nhập và cách hàng phục vong nhập


Thời buổi văn minh hiện đại như hiện nay mà còn nói đến ma quỷ, lại còn cả vụ vong nhập, thì có vẻ như mê tín dị đoan. Mê tín là lòng tin mê lầm. Không có mà tin có, gọi là tin mê lầm. Nhưng vụ tin này không phải mê tín.
Vì niềm tin của mình có cơ sở kinh điển để luận, cũng từng hiện ra thực tế cho mình thấy, đủ để tin những gì Phật nói trong kinh là xác thực. Nên tin đó không phải là mê tín.Các kinh nói ma quỷ có mà không tánh. Không tánh, nên ứng ra thực tế thì “cũng có mà cũng không”.
Có mà không tánh, là có mà cái có này không mang tính phổ quát. Tức không cố định là khi nào cũng có, chỉ là tùy duyên của mỗi người mà thấy có hoặc thấy không. Với người có nhân duyên với ma, hoặc do nguyện lực độ sanh, thì thấy có ma. Người không có nhân duyên thấy ma, cũng không có nguyện lực gặp ma, thì không thấy ma. Nói có mà không tánh là như vậy, là không tánh cố định.

Như người có duyên ở trong Nam, khó mà thấy tuyết rơi, trong khi người ở Sapa hay ở các nước Âu Mỹ thì đến mùa là thấy tuyết rơi. Kẻ trong Nam, từng trải qua một lần ở Sapa hay đi du lịch ở các nước Âu Mỹ vào mùa Đông, nghe nói tuyết rơi sẽ tin. Kẻ không đi nhưng được cái duyên nghe người thân nói lại hoặc nhìn thấy nó qua điện thoại di động thì cũng công nhận có tuyết rơi. Thấy có, thấy không là do duyên của từng người. Pháp nhân duyên là như vậy. Chính vì mặt nhân duyên này của pháp mà biết là pháp không tánh. Do tánh pháp là không mà hiển thị thành mặt nhân duyên như vậy. Không tánh, là không tánh cố định, chỉ tùy duyên mà hiện tướng.
Cho nên, người ta nói không có ma mà mình thấy có, cũng không phải là việc lạ để gây tranh cãi. Tại duyên người ta chưa thấy, không thể bắt người ta tin mình. Duyên mình thấy có, không có nghĩa là người khác cũng phải thấy có như mình. Nhưng điều đó không có nghĩa ma đã không, khi Phật đã kể vô số về những câu chuyện ngạ quỷ, từ nhân duyên cho đến hình tướng của chúng. Tất cả là tùy duyên. Kẻ hiểu về duyên khởi, sẽ biết như thế. Đó là lý do kinh luận nói có ma quỷ mà cái có đó không tánh. Tức không phải không có ma quỷ. Không đủ duyên hội tụ thì thấy nó không. Đủ duyên hiện khởi thì nó hiện ra với đủ thứ hình dạng. Nói “có mà không tánh” là như vậy.
Cúng dường hồi hướng có thể giúp vong linh an lạc.
Cũng có dạng người, từng thấy tường tận mọi việc xảy ra, cũng được học, đọc trong kinh luận rằng ma quỷ có, nhưng vẫn khẳng định “không có”. Dạng này thời Phật đã xuất hiện. Đó là ngài Thiện Tinh, thị giả của Phật. Dù thấy tường tận mọi việc xảy ra đúng như những gì Phật đã nói, vẫn khẳng định không có. Do vô minh. Vì có ý đồ bất chính. Thời Phật còn gặp phải, huống là thời mạt pháp này. Chỉ là chuyện bình thường.
Trong cái duyên của tôi, tôi tin có ma quỷ. Vì tôi từng nghe và thấy những việc liên quan đến chúng, chứng kiến luôn cả việc chúng nhập vào người khác thế nào. Cũng từng ra tay tiếp cứu thiên hạ. Việc này không phải là việc lạ. Chư vị tiền bối cũng từng gặp, từng kể ra nghe rất thú vị.
Gần ba chục năm trước…
Ngày ấy em tôi được đưa vào Bệnh viện Sài Gòn, bị tiêu chảy cấp tính. Con bé chứng kiến toàn bộ mọi sự việc ma nhập hành xác và trả thù người sống thế nào. Việc này, toàn bộ bệnh nhân cùng phòng cũng như bác sĩ phụ trách phòng ấy chứng kiến. Tôi thì chỉ có duyên để nghe. Những lúc tôi vào, “con ma” ngủ yên. Chỉ thấy người phụ nữ lớn tuổi ngồi bên cạnh khóc rấm rứt, đang lẩm bẩm lời gì đó.
Bà ta kể rằng, con trai bà yêu một người con gái. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng bà không chấp nhận và bắt cậu ta rời bỏ. Cô ta uất ức và uống thuốc rầy tự tử. Rồi nhập vào con gái bà. Con gái bà đâm đầu vào xe hơi và được đưa vào Bệnh viện Sài Gòn, nằm đúng ngay cái giường mà cô gái kia đã chết. Mỗi lần lên cơn, cô gái nắm lấy tấm drap siết chặt cổ mình, rồi đánh thùm thụp vào ngực mình, là thân xác của cô em chồng. Tôi hỏi sao bà không thử tụng kinh. Bà nói thử rồi, nhưng vừa cầm chuông mõ lên là nó nhảy tới quơ hết, rồi chạy ra đường đâm đầu vào xe hơi. Bốn người đàn ông lực lưỡng không ngăn được một người phụ nữ nhỏ bé. Nhập viện.
Pháp nếu dùng không đúng duyên thì không có tác dụng dù hình thức mang tính Chánh pháp. Mang Bát-nhã ra tụng để giữ thành thì thành mất là chuyện đương nhiên, vì lực tụng Bát-nhã của người đời, tâm chưa đủ thanh tịnh để quân địch án binh bất động. Phải như Phật hoàng Trần Nhân Tông, quán rõ nhân duyên của chúng sinh mà dụng pháp. Pháp nào có duyên của pháp đó. Đúng thuốc thì bệnh lành. Việc dùng pháp này đòi hỏi phải “cảm ứng đạo giao” mới có tác dụng. Thành có khi một pháp thấy hình thức có vẻ trái với giới luật mà lại cứu được người. Còn thiện lành mà không đúng duyên thì cũng chẳng tới đâu. Vì thế cái gọi là dùng pháp chánh hay tà được xét trên mặt lợi ích chúng sinh hơn là xét trên mặt phương tiện.
Dù phương tiện thế nào, nếu nó đem lại lợi ích cho chúng sinh thì phương tiện ấy vẫn gọi là chánh, chánh trong cái duyên ấy. Kinh Đại Bửu Tích quyển 6, phẩm Pháp hội Đại thừa phương tiện, Phật đã nêu một số ví dụ nói về những gì đang luận bàn đây. Và kết luận: “Bồ-tát hành phương tiện giáo hóa chúng sinh, tùy theo sở dục của họ mà hiện thân… khi biết chúng sinh đã tạo thiện căn không thối chuyển thì liền xả ly, đối với ngũ dục không hề luyến tiếc”.
Vì lý do đó mà thấy Phật hoàng Trần Nhân Tông cầm quân đánh giặc. Hình thức có vẻ như đi ngược với giới luật mà Phật tử đã thọ, không sát sinh, mà thật là không phải. Chánh hay tà không căn cứ trên phương tiện mà căn cứ trên lợi ích của đa số. Lợi ích đó là thái bình và niềm tin được củng cố. Ngài mang Thập thiện đi khắp nơi giáo hóa nhân sinh. Xã hội ổn định, đất nước phát triển. Thành dụng pháp thế nào không quan trọng. Quan trọng là nó mang lại lợi ích gì cho chúng sinh. Đó mới là vấn đề đáng nói.
Nếu pháp dụng đó có thể dẫn người từ bỏ ác nghiệp, hành thiện nghiệp, tin vào nhân quả, an định được xã hội thì dù pháp có trái với giới luật và không có trong kinh điển, trong trường hợp đó, nó vẫn được gọi là Chánh pháp.
Xin nhấn mạnh là “trong trường hợp” đó. Nghĩa là, pháp ấy vẫn được coi là Chánh pháp trong trường hợp đó, trong các duyên khác thì chưa hẳn. Phẩm Pháp hội Đại thừa phương tiện đã nói rõ về việc này.
Nói chung, thứ gì là phương tiện thì nó chỉ mang tính tùy duyên, không mang tính phổ quát như chân lý. Không phổ quát thì không phải là pháp có thể truyền bá rộng rãi, nhất là với những hình thức có vẻ trái với giới luật. Vì không phải ai cũng có thể ứng dụng phương tiện đó, cũng không phải là pháp mà phàm phu, nhất là hạng không hiểu gì về Phật pháp, có thể thấu được thực chất của nó mà không khởi tâm xấu ác, nên trong kinh Phật dạy: “Các phương tiện này phải giữ chặt, cất kín, chẳng nên nói với hạng người hạ liệt, thiện căn kém mỏng…”(1).
Đây đang nói ở mặt dụng pháp của kẻ trí, không nói ở mặt nhân quả. Nhân quả thì nhân nào có quả nấy. Gây nhân, đủ duyên nhất định phải nhận quả. Tùy mức độ tác ý của thân tâm là thiện hay ác mà quả nhận được có mức độ khác nhau. Bồ-tát dụng pháp lợi ích chúng sinh mà không lầm nhân quả.
Đứng ở mặt nhân quả mà nói, việc giết người khi đủ duyên sẽ có quả báo. Song tùy vào tâm thức lúc giết người và tâm thức lúc trả quả mà báo có nặng nhẹ khác nhau. Giết người vì lợi ích của người khác, vì tự vệ, quả sẽ khác với việc giết người do cố ý, do tham hay sân. Khi quả báo tới, kẻ không tu hành nhận quả khác với kẻ có tu hành.
Cho nên, sau chiến tranh Nguyên Mông, một pháp được coi là tốt nhất trong tình thế lúc ấy, vì không thể đòi hỏi một pháp toàn triệt trong thế giới tương đối này, Phật hoàng Trần Nhân Tông đi khắp nơi, phá các râm miếu, dùng Thập thiện giáo hóa nhân sinh. Ngoài việc an định xã hội trong hiện tại, việc đó còn giúp nhân sinh xây dựng cái nhân phước thiện trong tương lai, hầu chuyển bớt nghiệp quả mà mình vừa gây nhân trong quá khứ, dù đó chỉ do tự vệ.
Em gái tôi từng nghe người phụ nữ lớn tuổi khóc và năn nỉ cô gái tha thứ cho bà. Cô gái kia đấm thùm thụp vào ngực mình mà khóc uất ức: “Tha thứ cho bà rồi ai tha thứ cho tôi. Bà có biết tôi đau đớn nóng bức thế nào không mà bà đòi tha thứ cho bà …”. Mới thấy tự tử không phải là hết. Ngợp mà chết thì cảm giác ngợp còn mãi. Đau đớn nóng rát mà chết thì đau đớn nóng rát còn đó. Khổ này chồng khổ kia. Đâu phải chết là hết. Rơi vào thân ngạ quỷ với những hận thù đau đớn chưa hết thì cứ nghiệp đó mà theo. Trả thù và tạo bất thiện nghiệp, nghĩ có thể giải quyết được phần nào việc đau đớn của mình mà thật là chỉ đi ngược. Đó là cái khổ muôn kiếp của con người, muốn sướng mà gây nghiệp khổ, muốn có hoa mà trồng nhân cỏ.
Rốt cuộc không biết việc đó thế nào. Vì con em đã đòi ra viện sớm. Dù bệnh chưa hết. Nó mất hồn khi nghe cô gái nói: “Tao không sợ đâu, đừng có niệm Phật…”. Ma nhìn thấu tới nó, nó chuồn gấp cho yên.
Đó là cảnh ma nhập tôi gặp phải mà tôi không biết làm gì cho họ. Vì lúc đó tôi chưa biết gì về Phật pháp.
Lần thứ hai là cháu của một con nhóc trong đạo tràng. Mỗi lần cái vong ấy vào thân thì con bé lại khóc. Cứ ngồi vậy mà khóc. Có khi khóc đến nửa ngày mới ngưng. Ngưng rồi lại khóc. Công việc bỏ hết. Tôi không chứng kiến tận mắt nhưng nghe nó khóc qua điện thoại khi mẹ nó gọi tôi. Tiếng khóc lạ lẫm. Có lẽ để biết ma khóc, chẳng phải người khóc. Hên là cái vong này nó biết Phật pháp, chắc nó muốn gia đình nó đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, nên khi mẹ nó thành tâm niệm Quán Thế Âm là nó ngừng khóc. Phải hứa thêm với nó sẽ đi chùa, tụng kinh mỗi đêm, kết hợp với việc cúng dường, làm công quả phước thiện hồi hướng cho nó.
Tôi thì thành tâm niệm danh hiệu Địa Tạng, cúng dường các loại công đức cho Tam bảo tận mười phương, nguyện Ngài trợ lực để vong nhân nhận được tất cả mà phát niềm tin, buông bỏ. Muốn đầu thai thì đầu thai. Chưa muốn đi thì được an vui. Thế là nó hài lòng, xuất ra và không bao giờ vào quấy nữa. Con bé hiện cũng đã có chồng và sống yên ấm.
Đó là vài chuyện ma quỷ trong đời sống thường nhật mà tôi từng chứng kiến. Còn việc mở mắt thấy bóng trắng đứng đầu võng hay đi lãng vãng trong các giấc mơ, không phải không, nhưng mơ thì không kể ra đây.
Giờ đến việc ma nhập nói trong kinh điển
Chuyện của Tôn giả Mục Kiền Liên. Người bị ma nhập là Tôn giả Mục Kiền Liên. Lúc đó đã đứng trong hàng thánh Thanh văn của Phật, đã có năng lực thấy được ma vào chỗ nào trong thân, còn cảm nhận luôn được những suy nghĩ của ma. Thánh như vậy mà ma vẫn vào thân. Tất cả đều có nhân duyên. Vì trong quá khứ, Tôn giả từng là một ác ma, từng nhập vào thân người khác quấy phá. Giờ là lúc cái quả hiện hình. Nhưng nhờ có năng lực của giới-định-tuệ, ma chỉ lọt vào được bụng ngài, không thể chiếm tâm thức của ngài. Tôn giả có thể nhận biết và khiến nó xuất ra.
Chuyện kể đây, dựa vào bài kinh thứ 50, có tên là Hàng ma, thuộc kinh Trung bộ I2.
Mục Kiền Liên trong kinh này được gọi với cái tên là Mahamoggallana.
Khi ấy Mahamoggallana đang đi kinh hành ngoài trời thì bỗng thấy bụng nặng như có thứ gì trong ấy. Tôn giả liền đi vào tự viện và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau đó bắt đầu chánh t.ư niệm. Tôn giả thấy ác ma đang ở trong bao tử. Tôn giả nói với ác ma “Hãy đi ra ác ma! Chớ đến phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai, chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh và đau khổ lâu dài”. Nhưng ác ma không ra. Vì nghĩ Bổn sư còn chưa thể biết nhanh như thế, huống là đệ tử.
Biết được t.ư tưởng của ma, Mahamoggallana lặp lại những ý nghĩ đó cho nó nghe, và khuyến cáo lần nữa “Hãy đi ra ác ma! Chớ đến phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai, chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh và đau khổ lâu dài”.
Ác ma thấy không xong, liền chui ra và đứng ở cửa. Tôn giả thấy vậy bắt đầu thuyết pháp. Ngài kể lại tiền kiếp đã từng làm ác ma như thế nào và có mối liên hệ gì với ác ma bây giờ.
Thuở xưa, thời Phật Kakusandha, Tôn giả là một ác ma có tên là Dusi. Chị của ác ma tên là Kali. Ác ma hiện nay là con của người chị đó, tức là cháu của Dusi.
Thời đó, Dusi chứng kiến cảnh Tôn giả Sanjiva nhập diệt tận định, do không biết, dân làng châm lửa hỏa táng. Sáng hôm sau Sanjiva xuất định, vào thành khất thực tiếp. Tôn giả được mọi người tán thán. Ác ma thấy vậy liền khởi nghĩ: “Ta không biết chỗ đến và đi của chư vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Giờ hãy nhập vào các gia chủ Bà-la-môn và nói như sau: “Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sinh từ gót chân này…”.Thực hiện cách đó, ma hy vọng chư Tỷ-kheo sẽ động tâm vì những lời hủy báng mà thay đổi tâm đạo. Chư vị sẽ khởi tâm sân si, trả đủa v.v… Thế là việc phá hoại thành công. Khởi tưởng rồi, liền theo đó mà thực hành. Những ai bị ác ma nhập vào, liền lớn tiếng phỉ báng, mạ lỵ, thống trách chư Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh.
Nhưng ma không chỉ thực hành một pháp đó. Nó còn cách thứ hai. Đó là dùng lời tán dương. Đối với chư Tỷ-kheo có giới luật và thiện tánh, ác ma nhập vào các gia chủ Bà-la-môn, đến và tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường chư vị Tỷ-kheo. Với cách đó ác ma hy vọng chư vị động tâm, thay đổi tâm, tham đắm danh lợi mà phá hỏng đạo nghiệp của mình.
Đây chỉ nói ác ma phá hoại các bậc tu hành chân chính, không thấy nói đến việc phá hoại những vị không chân chánh. Có lẽ, chư vị ấy không cần ai phá nữa. Tự bản thân đã tạo đủ nhân để có quả. Chỉ tội cho hàng gia chủ Bà-la-môn bị ác ma nhập. Phần lớn các người ấy sau khi thân hoại mạng chung đều sinh vào đường dữ, ác thú và địa ngục. Nói phần lớn, vì vẫn còn những người không bị quả báo ở các đường đó. Là do biết sám hối, tu thiện pháp, nên chuyển được nghiệp.
Cách hàng phục ma
Ở bài kinh này, Phật không dạy pháp hàng phục ma cho hàng Ba-la-môn bị ma nhập mà cho chư vị Tỷ-kheo bị ma quấy phá. Nhưng từ đó, ta vẫn có thể rút ra bài học cho bản thân để tránh việc ma nhập.
Phật dạy chư vị Tỷ-kheo hãy đi đến khu rừng, gốc cây hay chỗ vắng lặng, đầy khắp mười phương cùng với tâm từ mà an trú, cùng với tâm bi, tâm hỷ, tâm xả mà an trú. Quảng đại. Vô biên. Không sân. Không hận. Nghĩa là đối với cảnh đáng sân, đáng giận, không khởi tâm sân, không khởi tâm giận. Dùng từ, bi, hỷ xả đối trị sân hận. Dùng từ bi mà hỷ xả những lời phỉ báng, mạ lỵ, thống trách… Việc này chỉ thực hiện được với điều kiện bình thường người tu có ít nhiều công phu. Giới, định, tuệ đã được huân tập. Đến lúc đó mới đủ tỉnh giác mà kiềm chế lực của tham, sân v.v…, không thì sẽ chao đảo theo cảnh. Tâm loạn là nhân duyên để ma có cơ hội phá hoại hơn nữa. Ngoài đời, nhiều người đã tan thân mất mạng vì không chịu nổi sự phỉ báng của dư luận.
Đối với những lời tán thán hay tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, Phật cũng dạy chư Tỷ-kheo đi đến khu rừng, gốc cây hay chỗ vắng lặng, nhưng “Quán bất tịnh trên thân, quán nhàm chán với các món ăn, quán bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành”. Dạy quán như thế là để phá tâm tham chấp. Không tham chấp vào những thứ đó thì không bị sai sử bởi những thứ đó. Ma này xem ra nguy hiểm hơn ma trước, vì nó phục vụ bản ngã và đánh trúng ý thích của con người. Thấy hãnh diện hay hứng thú với những người chuyên cúng dường hay các vật phẩm cúng dường, là bước đầu rơi vào ma sự. Chỉ vì được họ tôn trọng, tán thán hay cúng dường mà lời nói của họ trở thành có giá trị với mình, cũng là đang rơi vào ma sự v.v… Nói chung, ma sự xuất hiện vì để tâm chấp dính vào các phân biệt nhị biên. Không chấp thì có thể tùy duyên mà hành xử. Tùy duyên, không phải tùy nghiệp. Tùy duyên được thì ứng duyên liền có pháp, tuy phân biệt mà không rơi vào cái chấp nhị biên phân biệt.
Với cách mà Như Lai dạy cho chư Tỷ-kheo hàng phục ma sự, ta có thể rút ra cách hàng phục ma cho bản thân, là những người có thể bị ma nhập bất cứ lúc nào khi tham sân còn đầy dẫy. Đó là làm sao đừng để tham sân làm chủ lấy mình, cần cẩn trọng với ba nghiệp của mình, nhất là với khẩu nghiệp, một loại nghiệp tưởng chừng như vô tội mà có khi giết người lúc nào không hay.
Ma nhập, chủ yếu là làm sao để mình chửi bới những người có đức hạnh, phá hoại những pháp giúp an định con người và xã hội. Nếu chúng ta tập định tĩnh làm chủ được khẩu nghiệp và thân nghiệp, không để xảy ra các bất thiện nghiệp dù tâm ý có bị xúi giục thì ma có lỡ nhập vào, nhất định cũng tìm đường rút ra. Đã không thể mượn đó tạo tác ác nghiệp thì không ở lại đó làm gì. Việc này đòi hỏi bình thường mình phải tập định tĩnh với mọi cảnh duyên. Đọc, học thêm kinh luận để tăng trưởng trí tuệ. Bớt tham gia những việc không phải là của mình hay mình không phải là người trong cuộc. Có vậy mới mong làm chủ được bản thân khi cần.
Nên nhớ, một lời góp ý chân tình vì đạo hạnh của người khác, đúng lúc, đúng nơi, hoàn toàn khác với các loại chửi bới, nhục mạ, dùng hiệu ứng đám đông hầu đạt cho được mục tiêu thấp hèn của mình. Hai việc đó hoàn toàn khác nhau, vì xuất phát từ tâm và khẩu khác nhau. Nhân khác thì đương nhiên quả phải khác. Một bên lên thiên đường. Một bên xuống địa ngục. Vì ma nhập, vì bản thân chính là ma vương.
Cúng dường hồi hướng có thể giúp vong linh an lạc
Câu chuyện này kéo dài 184 kiếp. Từ thời Cổ Phật thứ 18 cho đến thời Phật Thích Ca. Được lấy ra từ bài kinh Chuyện ngạ quỷ ngoại bức tường, phẩm Con rắn, thuộc kinh Tiểu bộ (II), do giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt.
Do không ưa thích việc cúng dường tinh xá và phụng sự Đức Cổ Phật thời ấy, một nhóm người đã ngăn cản những vật đóng góp, ăn các phẩm vật cúng dường và nổi lửa phóng đốt trai đường. Do nhân duyên đó, họ bị sinh vào địa ngục. Trải qua 92 kiếp mới được thọ thân vào thế giới ngạ quỷ.
Vào thời đó, người đời thường hay cúng dường vì lợi ích của các quyến thuộc. Họ hướng tâm “Lễ vật này cúng dường cho các quyến thuộc của tôi”. Nhờ đó các vong linh được an lạc. Các ngạ quỷ3 nhận biết điều này, nên thời Đức Phật Kassapa, họ đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, giờ làm sao để chúng con được an lạc?” Phật Kassapa trả lời: “Hiện nay chư vị chưa thể nhận được sự an lạc. Nhưng 92 kiếp sau, vào thời Đức Phật Gotama, vua Bimbisāra là quyến thuộc của các vị, sẽ dâng lễ vật cúng dường và hồi hướng công đức ấy cho các vị. Các vị sẽ được an lạc”.
Đến thời Phật Thích Ca (Gotama), nhà vua làm lễ cúng dường, cầu cho quyến thuộc của mình. Tuy vậy, trong khi làm lễ, ông đang bận tâm thắc mắc Phật đang ở đâu, nên không hồi hướng, cũng không hướng tâm về các vong linh quyến thuộc. Chúng không nhận được thí vật. Ban đêm chúng thất vọng và kêu rên thảm thiết. Nhà vua sợ hãi, mang việc này trình lên Đức Phật.
Đức Phật dạy: “Xin Đại vương đừng sợ. Đó là quyến thuộc của Đại vương, đã tái sinh trong cõi ngạ quỷ. Chúng lang thang khắp nơi trong nhiều kiếp, với ước mong điều này: “Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường Phật và hồi hướng công đức ấy cho ta”. Nhưng hôm qua khi Đại vương dâng lễ, ngài đã không hồi hướng công đức. Do đó chúng mất hết hy vọng và kêu la thảm thiết”.

Rồi Thế Tôn nhận lời thỉnh cầu cúng dường của nhà vua vào ngày hôm sau. Sau khi cúng dường, ông hồi hướng phước đức ấy cho các vong linh quyến thuộc.
Lập tức xuất hiện các ao sen cho chúng tắm rửa và uống nước, có thể giúp chúng vơi đi nỗi thống khổ và nóng bức. Cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm, khi được cúng dường với lời hướng nguyện, sẽ xuất hiện vật thực giúp chúng no đủ. Y phục, sàng tọa và tinh xá, khi được cúng dường với lời hướng nguyện, sẽ biến thành thiên y, thiên cung, sàng tọa để chúng thọ nhận.
Đức Thế Tôn đã khiến cho tất cả các điều ấy hiển hiện trước mắt nhà vua. Nhà vua rất hoan hỷ. Việc cúng dường hồi hướng xong, Đức Phật dạy bài kệ, trong đó có những đoạn cần lưu ý:
6. Chốn kia không có cấy cày đâu
Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào
Buôn bán như đây đều chẳng có
Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
7. Bên kia thế giới các vong linh
Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh
Như nước đổ từ trên núi xuống
Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
8. Cũng vậy, những gì người bố thí
Từ đây nuôi sống các vong nhân.
11. Song lễ vật này được cúng dường
Khéo đem an trú ở chư Tăng
Quả này hiện tại và sau nữa
Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
12. Đây là nghĩa vụ của thân nhân
Tôn trọng vong nhân đã cúng dâng
Tăng chúng được thêm nhiều dũng lực
Người làm công đức lớn vô ngần.

Theo bài kinh này thì việc bố thí cúng dường cho Tăng chúng, có thể chưa giúp các vong linh chuyển liền được nghiệp ngạ quỷ (là việc đòi hỏi bản thân phải tự chuyển hóa thân tâm. Tức phải thêm cái duyên thân tâm chuyển hóa mới có thể thoát kiếp ngạ quỷ, như bà Thanh Đề mẹ ngài Mục Kiền Liên), nhưng nó đã có tác dụng giúp ngạ quỷ vơi bớt thống khổ, hưởng chút khoái lạc trong thế giới khổ đau. Cho nên, không thể phủ nhận lợi ích cúng dường Tăng chúng trong việc độ các vong nhân. Chính từ nhân duyên thọ lạc này, niềm tin đối với Phật, Pháp, Tăng mới xuất hiện, là cơ duyên giúp họ chịu tu hành để có cái quả chuyển hóa các khổ nghiệp.
Dựa trên tinh thần này, bất cứ ai cũng có thể giúp các vong linh quyến thuộc của mình vơi bớt sự thống khổ nhờ vào việc cúng dường. Không phải chỉ vong linh mà với cả người sống đây. Phẩm vật có thể là vật thực mà cũng có thể là công đức tu hành của chính mình, những thứ mà không có tiền mình vẫn có thể tạo để cúng dường mười phương Tam bảo, dùng đó hồi hướng cho thân nhân được an ổn. Quan trọng là phải có phần hướng tâm hồi hướng, vong linh mới nhận được.
Đối với các oan gia trái chủ, nếu thành tâm hồi hướng mọi công đức có được trong ba đời cho chư vị, có lẽ chư vị cũng vơi bớt thống khổ mà tha thứ. Cho nên, ở đời, ngoài việc giữ tâm định tĩnh, bao dung, tha thứ v.v… còn nên tạo thiện nghiệp với người trong mọi hoàn cảnh. Ngay cả với người không tốt với mình, nếu có thể tạo thiện nghiệp với họ thì cũng nên tạo. Để tích lũy thiện nghiệp.
Nhiều người thấy lạ, kiểu như nói tôi ngu, khi thấy tôi cứ cắm đầu làm việc gì đó cho những kẻ đối xử không tốt với mình. Tại chư vị không hiểu, mọi thứ xảy ra trên đời đều có nhân duyên. Không phải tự dưng người ta ghét mình. Là do có cái nghiệp của mình trong đó. Mình làm tất cả không phải để họ thương mình mà chính là để chuyển hóa cái nghiệp của mình. Quan trọng là có công đức để dành dụm. Thứ gì trái nghịch mà làm được, công đức mới nhiều. Khi cần, có thể dùng đó cúng dường mười phương chư Phật và Bồ-tát, hồi hướng cho tha nhân.
Tôi thường dùng cách này để giải quyết những việc vượt quá khả năng cho phép. Dùng nhiều thứ nhỏ hợp với khả năng của mình, cúng dường và hồi hướng cho những thứ lớn hơn mà mình chưa đủ khả năng, hầu giúp người. Đó là lý do việc hồi hướng của tôi đa phần đều thành công. Vì tôi có của để dành. Tôi biết củng cố niềm tin bằng thiện nghiệp và dùng thiện nghiệp để củng cố niềm tin. Không có kiểu hồi hướng suông. Lời hướng nguyện hồi hướng luôn đi kèm với tâm thành và thiện nghiệp đã tích lũy. Tích lũy mà không thấy tích lũy. Chỉ biết trong hiện tại cố gắng làm, làm được gì thì làm.
Tạo phước nghiệp không khó
Tôi thấy không có gì khó để tạo phước đức cho mình. Chỉ cần nhịn được cha mẹ, anh chị em một lời, cũng đã phát sinh phước nghiệp. Chuyện gì chưa tự mình tường tận thì không khởi tâm khen chê, là đã tích lũy được đức nghiệp. Người ta hỏi đường, biết thì chỉ cho hết lòng, đừng làm biếng nói không cho khỏe. Tự mình không xả rác mà còn giúp nhặt rác cho đường phố được sạch đẹp, là đang tạo phước nghiệp. Đã có bảng cấm câu cá thì đừng đứng đó mà câu, đừng tranh cãi ngoài đường phố, chấp hành luật giao thông cho tốt v.v… là đang tạo phước nghiệp.
Thứ gì cũng phát sinh phước báu. Phước báu kiếm không khó. Những phước báu đó, nếu hồi hướng về Bồ-đề vô thượng, liền thành công đức. Chỉ là do mình không có trí tuệ để biết thứ gì phát sinh phước báu, thứ gì mang họa cho mình mà hành động. Mình làm biếng không đúng lúc, nhưng lại tích cực tham gia những thứ không nên tham gia một cách rất nhiệt tình. Nhiệt tình cộng với ngu si mà thành phá hoại. Phước đức biến thành ác nghiệp. Đều ở tự mình. Dựng hay phá đều do chính mình.
Đừng quên hồi hướng
Người đời ít biết được việc hướng tâm hồi hướng quan trọng thế nào trong đời sống thường nhật. Chính vì thế mà thấy bất lực với lũ con không thể dạy, một ông chồng quá thể rượu chè v.v… Không hướng người theo điều tốt được thì hãy sửa lấy chính mình, rồi hồi hướng cho tha nhân. Nếu không tu mà ngồi đó chửi hoài thì chửi đến vạn kiếp cũng chẳng xong, chỉ thêm họa miệng. Trong các loại công đức, công đức phát tâm Bồ-đề là lớn nhất.
Rồi còn công đức tự lợi và lợi tha, không phải chỉ trong một đời mà đến ba thời, vô lượng vô biên không thể nói. Hồi hướng chừng ấy công đức thì thứ gì mà chẳng xong. Không kiếp này thì các kiếp sau, mọi nhân duyên có liên can đều được thanh toán gọn nhẹ mà chẳng mất lòng ai vì cứ muốn dạy họ theo mình.
Cái đáng sợ là tu thì làm biếng mà muốn hưởng cái quả tốt đẹp. Hồi hướng thì nhiều mà công hạnh thì không. Khổ là ở đó. Không tin “bản thân nếu chịu tu, có thể thay đổi được hoàn cảnh” là điều khá bất hạnh đối với người thời nay. Bác bỏ nhân quả, không dám đối diện với những sự thật đau lòng thông qua nhân quả, cũng là cái nhân khiến ác nghiệp tăng thịnh. Ác nghiệp tăng thịnh thì xã hội không yên, oan gia trái chủ thêm nhiều. Gốc không trị, cứ trên ngọn mà vớt vát thì khó mà an định được xã hội.
Xã hội chỉ an bình khi con người ý thức rõ ràng về nhân quảNói đến nhân quả, hiện nay người tin vào nhân quả không bao nhiêu. Nhất là ở mặt tâm linh và những nơi mà Phật giáo chính thống ít được coi trọng. Vì nhân quả xảy ra trong ba đời nên trở thành khó tin, ngoại trừ những ai từng có kinh nghiệm về nó. Song vẫn có loại nhân quả xảy ra trong hiện tại giúp con người ý thức rõ về nhân quả mà giảm bớt ác nghiệp và thích thú với thiện nghiệp. Việc này có thể y vào pháp luật và giáo dục mà thực hiện. Ác nghiệp phải được xử lý nghiêm khắc và tương xứng.
Một cái nhân như thế sẽ có một cái quả tương xứng và phải được thực thi bình đẳng từ quan đến dân, mới có thể an định được xã hội phần nào. Việc mang trái cây và thịt vào một đất nước, không phải là một ác nghiệp, nhưng quy định của đất nước họ là không được mang vào. Nếu mang vào, hoặc là bị phạt rất nặng (tiền phạt gấp hai mươi lần tiền vé máy bay khứ hồi), hoặc bị cấm nhập cảnh. Không chỉ chừng đó. Vi phạm đó còn được lưu giữ và ảnh hưởng rất lớn đến việc nhập cảnh của bạn vào những lần sau. Việc ấn định này được thực thi nghiêm túc, không có chuyện lo lót. Nhờ đó việc mang đồ cấm vào đất nước họ giảm hẳn. Bởi không ai muốn rơi vào loại nhân quả như thế. Mỗi người phải tự nghiêm túc với bản thân. Với luật pháp trong nước, một hình phạt tương xứng với một tội ác có thể giúp ngăn ngừa bớt tội ác, hình thành nên những thói quen tốt, loại bỏ dần các thói quen xấu, lâu dần thói quen tốt sẽ trở thành tính cách của một con người. Thói quen một khi đã được lập, con người cứ theo đó mà đi.
Con nhóc 5 tuổi, qua Canada mới một năm, nhưng những gì ở xứ người có khả năng làm ảnh hưởng đến tương lai của nó sau này, nó đều được dạy rất kỹ để tuân thủ. Lên xe phải thắt dây. Nó tự làm và nhắc người khác làm. Không làm nó sẽ nhắc cho đến khi nào bạn làm. Nó được dạy như thế để bảo vệ mạng sống của nó, cũng là để không ảnh hưởng đến quyền lợi của mẹ nó. Nó không được đụng bất kỳ thứ gì không phải của nó khi chưa xin phép. Đi bộ băng qua đường lớn, phải tuân thủ nghiêm túc luật đã đề ra v.v… Nó được dạy rất kỹ về những việc như thế ngay từ lúc còn bé. Để thành thói quen khi lớn lên. Vì mọi thứ vi phạm đều được cơ quan có chức năng lưu giữ và ảnh hưởng khá lớn đối với cuộc sống tương lai của nó. Xin việc trở thành khó khăn, tương lai mờ tối, vì những lỗi trong quá khứ. Cha mẹ không muốn việc đó xảy ra với con mình. Bắt buộc, con nít phải được dạy những điều tốt đẹp, trở thành thói quen và thành nhân cách của nó trong tương lai. Tiền bạc không mua được những thứ đó, chỉ có giáo dục và luật pháp.
Ác nghiệp giảm thiểu là nhờ cho thiên hạ thấy cái quả của ác nghiệp ảnh hưởng đến hạnh phúc của họ thế nào. Biết vận dụng nhân quả như thế thì an định được xã hội. Vấn đề là chúng ta đã không tin vào phần nhân quả tâm linh và để lòng tham lấn át mọi thứ. Pháp luật trở thành lỏng lẻo vì tiền bạc nằm ở thế chủ đạo. Cái phao cuối cùng góp phần an định xã hội bị loại bỏ thì xã hội ngày càng rối ren. Đã tạo ác nghiệp rồi thì càng không muốn tin vào nhân quả, cũng chẳng muốn nhân quả xuất hiện trên đời này. Bác hết cho yên. Tuy vậy, tin hay không tin không ảnh hưởng gì đến quy luật ấy. Vì nhân quả là thực lý chi phối thế giới này.
Phật vào thế giới này còn không thoát được nhân quả chi phối, huống là phàm phu nhân gian. Đã có nhân sinh thì nhất định có quả tử. Đã tạo nghiệp mã mạch, đủ duyên liền có quả của nhân ấy v.v… Muốn hay không muốn, lý đó vẫn hiện diện chi phối tất cả. Mọi lành dữ ở thế gian này đều có nhân duyên từ trước, cũng như mọi hành động hiện tại đều có cái quả trong tương lai khi đủ duyên. Nhân quả chi phối vận hành tất cả, không bỏ sót thứ gì.
Con người nếu không tin vào nhân quả thì tham sân càng tăng thịnh, xã hội càng nhiễu nhương, là cái nhân đen tối cho ra những cái quả bất hạnh kế tiếp. Nhân như thế thì tương ưng với quả thế thôi.
Nhân mùa Phật đản, nguyện thế giới thái bình, nhân sinh an ổn, tham sân không che mờ được Phật trí của mình, nhìn các pháp đúng như chính nó, từ-bi-hỷ-xả với muôn loài, chính là từ-bi-hỷ-xả với chính mình, Sa-bà này trở thành Hoa nghiêm của mười phương chư Phật.
Tài liệu Tham khảo:
1) Kinh Đại Bửu Tích quyển 6, phẩm Pháp hội Đại thừa phương tiện, HT.Thích Trí Tịnh dịch.
(2) Kinh Trung bộ – PL 2536-1992 – Đại tạng kinh Việt Nam. Do HT.Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pāli.
(3) Kinh ghi là vong linh.
5795

* nguồn : Chuyện vong nhập và cách hàng phục vong nhập
 

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
1.000 ô tô cổ bị bỏ quên trong rừng
1.000 chiếc ô tô với kiểu dáng có thể mê hoặc bất cứ nhà sưu tập xe cổ nào bị bỏ quên trong rừng rậm ở Thụy Điển từ những năm 1950.
Suốt hơn 50 năm nằm lặng lẽ trong bãi đỗ xe trong khu rừng thuộc quận Bastnas, thuộc miền nam Thụy Điển, mỗi chiếc xe hoen rỉ đã nhuốm màu thời gian, màu mưa gió, quện với màu xanh của cây lá, nhưng vẫn còn đó những đường cong kiêu hãnh cùng những chi tiết được thiết kế cực kì tinh tế của những chiếc ô tô mang phong cách thời kì thế chiến II.
5796

Bãi đỗ xe do hai người anh em người Thụy Điển xây dựng để làm nơi trú ngụ cho những chiếc ô tô bị … bỏ rơi lúc bấy giờ. Tuy nhiên, giờ đây có thể gọi chúng là bộ sưu tập trong mơ của bất kỳ tín đồ yêu xe cổ nào, với rất nhiều hãng tiếng tăm như Opels, Fords, Volvos, Buicks, Audis, Saabs và Sunbeam.
Có những chiếc xe, cây cối đã mọc len lỏi vào tận bên trong, những dây leo cuốn quanh ghế ngồi và tay lái, trong khi rêu xanh phủ kín cả thân xe. Theo Daily Mail, nếu chỉ để bán phế liệu, toàn bộ số xe này cũng đã có giá trị hơn 160.000 USD.
Trước khi người ta tìm kiếm biện pháp xử lý hữu hiệu nhất đối với 1.000 chiếc xe cổ, nhiếp ảnh gia nổi tiếng Svein Nordrum đã kịp tìm tới khu rừng và ghi nhận lại hình ảnh tuyệt đẹp hiếm thấy.
Vị nhiếp ảnh gia 54 tuổi chia sẻ: “Khu rừng cực kỳ yên tĩnh. Đến đây người ta dễ có những cảm giác lạ lùng, như thể chúng ra đang ở bên rìa thế giới”.
“Rừng rất rậm rạp nên ta không thấy cảnh tượng ô tô la liệt trong bãi xe, dù có tới 1.000 chiếc xe, bởi nhiều chiếc xe ẩn hiện trong lá cây…Những chiếc ô tô đã trở thành một phần của khu rừng. Cây lá tìm mọi cách để luồn lách vào bên trong xe. Thậm chí một số động vật còn biến chiếc ô tô thành tổ ấm của mình”.
Được biết, đây là những chiếc xe do binh lính Mỹ bỏ lại khi rời khỏi châu Âu sau Thế chiến II. Hai anh em người Thụy Điển góp nhặt chúng lại để sửa chữa hoặc tháo rời bộ phận và bán phế liệu. Họ còn dựng nhà ngay trong khu rừng để thuận tiện cho công việc làm ăn. Việc này kéo dài tới những năm 1980 trước khi hai anh em bỏ khu rừng ra đi vào đầu những năm 1990, để lại 1.000 chiếc xe cho khu rừng "trông coi".
5797

5798

* nguồn xem thêm : 1.000 ô tô cổ bị bỏ quên trong rừng
 

Minh Nhân

Phàm Nhân
Ngọc
13.991,08
Tu vi
0,00
Hé lu tiên tử @Giảo Lam Lan được biết tiên tử là một họa thần, nét vẽ như múa, ngưỡng mộ lắm thay! :byebye:

Trảm mỗ xưa nay ăn hàng xong rảnh rỗi đi dạo topic chơi thấy cái này hấp dẫn quá, cơ mà lội đọc một hồi, Trảm mỗ hơi khó đọc.

1. Vì nội dung tuy đa dạng như chưa được hệ thống, hay nói hơi ngại một chút là hơi hỗn tạp :xinloi:

2. Format trình bài chưa bắt mắt, cần thêm khoảng cách giữa các đoạn, ảnh có thể căn giữa,...

3. Thay vì tống hết vô 1 topic thì có thể chia ra mỗi một tin/chuyên mục là một topic khác nhau. Diễn đàn khuyến khích mở thêm những topic mới, không sao đâu.

4. Nghe đâu Thôn Đào Hoa có chưa trình "Radio chúng ta cùng hé lô" à nhầm Radio gì đó Trảm mỗ không biết rõ tại chém chơi thôi :5cool_big_smile:
Và ý Trảm mỗ là, Tiên Tử hoặc thôn dân của Thôn thử đọc mấy câu chuyện này thu âm lại thành radio thử xem, vừa có thể phát triển 1 kênh youtube mới lại vừa là một hoạt động khác biệt và hấp dẫn ở diễn đàn :3cool_adore:

@Vũ Tích @Ái Phiêu Diêu @HanaMon @...

Ầy da, Trảm mỗ dân đen mà tại cái tính nhiều ... chuyện lại thường nói tào lao bí đao rau má đậu xanh và thích máu tanh gây war chém gió nên các vị thông cẻm :xinloi:
 

Giảo Lam Lan

Phàm Nhân
Ngọc
1.916,83
Tu vi
0,00
Hé lu tiên tử @Giảo Lam Lan được biết tiên tử là một họa thần, nét vẽ như múa, ngưỡng mộ lắm thay! :byebye:

Trảm mỗ xưa nay ăn hàng xong rảnh rỗi đi dạo topic chơi thấy cái này hấp dẫn quá, cơ mà lội đọc một hồi, Trảm mỗ hơi khó đọc.

1. Vì nội dung tuy đa dạng như chưa được hệ thống, hay nói hơi ngại một chút là hơi hỗn tạp :xinloi:

2. Format trình bài chưa bắt mắt, cần thêm khoảng cách giữa các đoạn, ảnh có thể căn giữa,...

3. Thay vì tống hết vô 1 topic thì có thể chia ra mỗi một tin/chuyên mục là một topic khác nhau. Diễn đàn khuyến khích mở thêm những topic mới, không sao đâu.

4. Nghe đâu Thôn Đào Hoa có chưa trình "Radio chúng ta cùng hé lô" à nhầm Radio gì đó Trảm mỗ không biết rõ tại chém chơi thôi :5cool_big_smile:
Và ý Trảm mỗ là, Tiên Tử hoặc thôn dân của Thôn thử đọc mấy câu chuyện này thu âm lại thành radio thử xem, vừa có thể phát triển 1 kênh youtube mới lại vừa là một hoạt động khác biệt và hấp dẫn ở diễn đàn :3cool_adore:

@Vũ Tích @Ái Phiêu Diêu @HanaMon @...

Ầy da, Trảm mỗ dân đen mà tại cái tính nhiều ... chuyện lại thường nói tào lao bí đao rau má đậu xanh và thích máu tanh gây war chém gió nên các vị thông cẻm :xinloi:
:009: ta chỉ được 1 cái boxx này thì bảo ta phân loại kiểu gì? giá mà được hẳn 1 room ta sẽ phân ra theo tab phân loại : bí ẩn- truyền thuyết + truyện lạ-khó tin + kinh dị-đáng sợ + chuyên mục sợ hãi phân theo tầng từ “Cấm đăng tại BNS” tới 2xx+ đến truyện tranh , chuyện chữ kinh dị ....chịu thôi :004:
 

Ái Phiêu Diêu

Hợp Thể Sơ Kỳ
Ngọc
538,05
Tu vi
1.054,89
:009: ta chỉ được 1 cái boxx này thì bảo ta phân loại kiểu gì? giá mà được hẳn 1 room ta sẽ phân ra theo tab phân loại : bí ẩn- truyền thuyết + truyện lạ-khó tin + kinh dị-đáng sợ + chuyên mục sợ hãi phân theo tầng từ “Cấm đăng tại BNS” tới 2xx+ đến truyện tranh , chuyện chữ kinh dị ....chịu thôi :004:

Tỷ có thể chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là mỗi topic như muội đã nói với tỷ á. Tạm thời tỷ đừng post dồn vào topic này nữa. Thử làm theo như cách cuả muội và @Nhất Trảm huynh đệ nói đi ạ. :008:
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top