Kim ngắn đang nằm số một. Kim dài chầm chậm đè lên số mười hai…
Vậy là đã một giờ sáng rồi ư? Nhanh quá. Màn đêm đã giăng đầy khắp lối. Trăng rơi nhoà trên mái.
Ngày xưa có người đã từng nói với tôi rằng thức khuya quá là không tốt; hút thuốc nhiều cũng là không tốt. Thậm chí họ còn tỉ mỉ làm một cuộc điều tra nho nhỏ, rằng tác hại về sức khoẻ này, rằng một ngày tôi đốt bao nhiêu gói, một gói là bao nhiêu, từ đó rút ra kết luận tổng thiệt hại “là không thể đo đếm được”??! Kết luận đó là chính xác, lập luận cũng vô cùng chặt chẽ, dẫu cho tôi là kẻ ưa lý luận hay lý sự gì đi chăng nữa cũng vô phương phản bác. Tôi chỉ có thể đưa ra cái câu nói kinh điển của mấy tay “đã chôn điếu xuống rồi lại đào điều lên”. Là thuốc lá đem lại thứ mà kẻ không hút làm sao mà biết, là người bạn trong những lúc tưởng như tuyệt vọng nhất, vân vân và vân vân. Nó đem lại một giá trị tinh thần “cũng không thể đo đếm được”, cân bằng hoàn toàn cái tổng thiệt hại ở trên. Vừa xinh!
Là nói thế thôi; chứ tôi biết tỏng rằng mấy anh đưa nó lên miệng là theo thói quen mà thôi!
Ừ mà nhân tiện nhắc đến thói quen; chợt nhớ dạo này tôi không còn thói quen thức khuya nữa; ăn đúng giờ, ngủ đúng giấc lắm! Bèn chui đầu ra khỏi chăn mới hay mặt trời đã đứng trên ngọn tre mất rồi. Vậy là mười ba giờ trưa chứ chả phải một giờ sáng. Tôi đã nhầm, như bao lần khác trong đời! Mà ai chả nghĩ lúc đó phải là một giờ sáng cơ chứ? Thế nên, dẫu là tôi có trót sinh đúng ngày đầu tiên của tháng t.ư thì cũng không phải tôi cố ý lừa hay chòng ghẹo người đọc đâu nhé; tự họ đã tin vào lời nói của người khác, hoặc là họ quá chủ quan mà đưa ra nhận định sai lầm. Sai lầm giống y như cái anh chàng thủ môn đẹp trai mà vẫn sai lè người Đức, được réo tên gọi hồn suốt mấy ngày hôm nay từ sau cái đêm ở Kiev ấy.
À ừ thì nhân tiện nhắc đến thành phố Kiev của Ukraina thì tôi chợt nhớ có đoạn thơ viết về dòng sông Da-nuýp có chảy qua đây.
“Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube
Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao
Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp
Những người nước lạ phải lòng nhau..”
Một bài thơ tình nghe đâu đã được viết từ hồi những năm 50 của thế kỷ trước. Lại nhân tiện nói đến tình yêu, bất chợt nghĩ về những mối tình của bản thân, thấy chuyện tình nào cũng đẹp cả. À đấy là xét theo hệ quy chiếu của nhà thơ Hồ Dzếch: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”. Cái cô mà ta yêu thì họ chả yêu lại; cái người thích ta thì ta lại ậm ừ chứ không mặn mà. Bởi thế mà có câu một bàn tay không vỗ nên nhịp. Nhưng cũng có lúc, là nam cũng được mà nữ cũng được; chỉ cần một bàn tay lại làm nên chuyện; nhưng chỉ là, chỉ là trong một số trường hợp đặc biệt mà thôi…
Nhưng cũng có một mối tình, nếu như chúng ta có thể rộng lượng mà xem đó là một mối tình, lại vượt lên trên tất cả. Nó mập mờ, không hề có chút gì rõ ràng; đôi khi chỉ từ một phía. Dĩ nhiên rồi, đó là tình yêu thủa ngây ngô, cái tuổi ăn chưa no mà lo cũng chưa tới, lần đầu tiên bị cái gã nghịch ngợm cởi trần, đóng khố, cầm cái cung bé tí mà lại bắn ra được sét, cái loại sét không thấy tiếng sấm nhưng lại giết người không dao, tiếng sét ái tình.
Nếu nói tình yêu thủa học trò là tình cảm thánh thiện nhất, trong sáng, không toan tính thì yếu tố mập mờ lại là thứ thi vị nhất trong đó; ối anh chết vì nó nhưng cũng có một cơ số anh được sinh ra từ cái sự mập mờ ấy…
Tôi cũng có một mối tình mập mờ như thế. Không có lời yêu; chẳng hề có hoa; mới chỉ được chạm, chỉ là khẽ chạm chứ nào dám mơ đến chuyện nắm bàn tay của nàng.
Thường nghe, đôi ta gặp nhau là do duyên số, là định mệnh. Tôi thì chả nghĩ thế, tôi gặp nàng chẳng qua là nhờ bố tôi. Ông cụ đã thực hành một cách hoàn hảo cái “chủ nghĩa xê dịch” của Nguyễn Tuân vào đời sống. Năm tôi lên sáu, nghĩa là có vẻ đã cứng cáp, là ông đưa cả nhà tôi đi hết nơi này đến nơi kia. Bàn thắng hoàn hảo nhất của ông cụ có lẽ là cho tôi được hưởng cái cảm giác ba học kỳ liên tiếp học ở ba mái trường. Sợ thật! Nhờ có ông cụ mà tôi được học chung với nàng, rồi cũng chỉ được ba năm là ông lại kéo tôi rời xa nàng, mãi mãi.
Tôi thì được cái là không có cái hoa tay nào. Thành ra vẽ người hay vẽ gà thì cũng từa tựa nhau mà thôi; vẽ tay hay chân thì cũng chỉ cần một đoạn thẳng là đủ rồi. Nhờ thế nên khả năng miêu tả người của tôi cũng tệ nốt. Vì vậy, tôi thực sự e ngại chuyện dùng từ ngữ để khắc hoạ lại chân dung nàng; sợ rằng vốn từ kém cỏi của bản thân chả đủ làm nền. Chỉ có thể kể lại rằng nàng có má lúm đồng tiền, khi cười thì như mùa thu toả nắng.
Đâu như hồi lớp 6, lớp 7 thì phải, môn Ngữ Văn có yêu cầu học sinh làm thơ lục bát. Tôi cũng hăm hở xách bút ra trận; định bụng làm cho nàng ngạc nhiên một phen. Nội dung cả bài thì tôi chịu; một phần chắc là do có tuổi rồi nên trí nhớ cũng kém dần; chín phần chắc là do nó không hay nên không buồn nhớ. Chỉ còn đọng lại được câu:
“Trên cành đọng mấy giọt sương
Long lanh ánh nắng vấn vương tơ lòng”
Buổi chiều đến lớp, tranh thủ lúc mười phút đầu giờ, tôi hồi hộp đưa bài thơ cho nàng xem. Lý do cũng rất chính đáng là nhờ nàng sửa hộ. Khi cô giáo vừa vào thì nàng quay xuống, mặt lạnh tanh, chẳng nói năng gì, chỉ trả lại tờ giấy cho tôi. Trong bài, nàng gạch chéo chữ “mấy” bằng đường mực đỏ, viết nắn nót ở trên một chữ “chút”. Thú thực là lúc đó tôi cũng chả hiểu gì cả; “mấy” và “chút” thì cũng khác quái gì nhau đâu nhỉ?
Cả tiết học, tôi ngồi đọc đi đọc lại cả câu. Tự nhiên nhận ra rằng cái chữ “mấy” của mình cứ cục mịch, thô lỗ đến lạ; lại còn như pha chút giọng của một con buôn đang ngồi đếm lời lãi. Còn “chút” thì đúng chất mỏng manh, nhẹ nhàng như giọt sương mai. Cũng nói đến số lượng nhưng người ta thì chỉ thoáng quá, có chút, một chút thôi… Nửa cụ thể lại nửa mập mở, lấp lửng; tưởng như rõ ràng mà lại bí ẩn. Bởi vì “A secret makes a woman woman” mà.
Chuyện cũng đã qua lâu lắm rồi, vật đổi sao dời nhưng cho đến tận bây giờ, mỗi lần định viết gì đó, tôi đều nhớ đến cái đường gạch chéo màu đỏ bằng cây bút bi Thiên Long, đến cái nét mặt lạnh lùng của nàng mà chùn bút.
Năm ấy, nàng và tôi đều trong đội thi học sinh giỏi của trường. Có một buổi trưa trờ, trưa trật tôi lóc cóc đạp xe đến ôn thi. Bố nàng chỉ nhìn tôi một cái rồi chép miệng, xong là đi đâu đến chiều cũng chưa thấy về. Còn mẹ nàng rõ ràng là quý tôi lắm. Thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, cụ bèn đem cây quạt từ nhà trong ra; lại còn lấy cho tôi một ly chè nữa, bảo của cái P. nấu đấy. Ôi! Đến đây dĩ nhiên là tôi có thể bịa ra vài câu vô thưởng vô phạt như: ‘đây là ly chè ngon nhất mà tôi đã từng được ăn; dẫu cho sau này tôi đã từng được đi nhiều nơi, được nếm thử hương vị đặc trưng của từng miền nhưng có lẽ tôi không bao giờ có thể tìm lại cái cảm giác thanh tao, mát lịm giống như ly chè ấy nữa”.
Không! Tôi đang viết cho nàng cơ mà, cho cái cảm xúc rung động lần đầu tiên trong đời, một thứ tình cảm trong sáng vời vợi; chẳng thể nào tôi lại dám đưa những lời lẽ nghe ngọt ngào nhưng giả dối ấy vào đây được. Sự thật phải được tôn trọng! Sự thật là tôi còn chẳng nhớ nổi ly chè ấy là chè gì nữa cơ!? Đậu xanh, đậu đen hay chè bưởi? Kệ! Có lẽ với một đứa trẻ hồi đó, có đồ ăn là tốt rồi. Còn bà cụ cứ nhìn tôi ăn với ánh mắt mà hồi đó tôi cứ đem ra so sánh với việc mẹ vợ nhìn con rể vậy. Nhưng đấy là suy nghĩ hồi ấy thôi; chứ giờ ngẫm lại tôi chỉ có thể nói là của đáng tội, ông bà có ba người con, trên nàng còn hai bà chị nữa. Có lẽ là cái nhìn của sự khát khao, mong chờ… Chả hay ông cụ nhà nàng có ý định “vỡ kế hoạch” lần nữa hay không?! Hoặc là được thằng cu con chống gậy, hoặc cùng lắm là lại góp thêm công sức nhỏ bé vào việc hạn chế mất cân bằng giới tính ở Việt Nam. Hơn nữa nhà có bốn cô con gái lại càng tuyệt diệu; “tam nam bất phú, tứ nữ bất bần” mà… Đường nào cũng đẹp!
À còn nhân vật chính của chúng ta đâu rồi nhỉ? Tôi nhớ mình đã ăn đến ly chè thứ hai rồi mà chim cá vẫn bặt tăm. Điều đáng sợ nhất với con trai có lẽ là chờ đợi một cô gái. Tôi có nghe mấy cô bạn nói chuyện, gì mà “đợi em đợi đến hoa cũng tàn”, rồi hoàng tử với chả soái ca. Ngại quá, cái đó phải hiểu chính xác là nói đểu chuyện các cô bắt người ta phải đợi lâu quá thôi. Hoa nở rồi rơi mà còn cứ thỏ thẻ: “đợi em thêm mấy phút nữa”.
Mãi thì nàng cũng ra, là lúc tôi nói tạm biệt với mấy ly chè để bắt đầu công cuộc học, học nữa, học mãi. Chúng tôi làm đề thi năm trước. Xong xuôi, bất chợt nàng hỏi:
- T đeo khăn quàng kiểu gì thế?
- Có biết đâu, tớ chỉ toàn buộc hai lần là xong. – Tôi xấu hổ.
- Để P chỉ cho.
Nói là làm, nàng tháo khăn quàng ra, tự tay đeo lại cho tôi, còn tỉ mỉ chỉ tôi từng bước đeo sao cho đúng quy trình.Hai khuôn mặt chỉ cách nhau một gang tay; lần đầu tiên tôi nhìn con gái nhà người ta gần như thế. Đôi mắt của tôi xấu hổ chỉ dám nhìn quanh, nhìn lên trên chứ tuyệt không dám nhìn nàng, lại càng không dám nhìn xuống. Tôi cứ đứng như Từ Hải và cũng chỉ muốn đứng như thế mãi…
Có lẽ nàng là một cô giáo tốt, chỉ tiếc tôi lại là một cậu học sinh tồi, cho đến giờ tôi không còn hát Đoàn ca nữa, đã hát “L’Internationale” rồi mà vẫn chưa biết đeo khăn quàng đúng cách.
Năm ngoái, tôi có đi cùng mẹ về thăm người họ hàng xa. Vẫn cái xã ấy, cái tên đã lừa một đứa trẻ khi nó cứ nghĩ xã ấy nhiều suối và trồng nhiều nho lắm. Ai mà ngờ được người ta đặt tên xã cho đẹp thôi chứ chả liên quan gì. Mẹ ở lại trò chuyện với bác còn tôi xách xe lang thang một mình trên đường. Về sau tôi cứ lấy làm lạ cho chuyện mình không đến nhà nàng, gặp lại người cũ từng thương. Vốn dĩ tôi là kẻ vụng chèo nhưng hay khéo chống; chuyện gì cũng tìm được hàng tá lý do để bao biện. Nhưng mãi đến giờ tôi vẫn không tìm ra được điều gì để giải thích cho chuyện tôi đã chùn chân khi chỉ còn mấy chục mét nữa là đến nhà nàng.
Lúc hai mẹ con về, tôi cứ ngó nghiêng hai bên đường. Mẹ tôi phải gắt lên:
- Anh mà cứ lái xe kiểu đó là tôi xuống đi bộ đấy.
- Đâu có, vẫn tập trung mà.
- Thế anh cứ nhìn đông, nhìn tây làm gì?
- À, con nhớ hồi đó đi qua chợ là có nhà thờ to lắm mà; nãy giờ không thấy.
Mẹ gõ vào đầu tôi rồi chỉ tay về sau.
- Anh vừa đi qua lúc nãy còn gì.
- Nó bé tí; không phải đâu.
- Bé gì mà bé. Có anh hồi đó còn bé nên cảm thấy nhà thờ to thế thôi; giờ anh lớn tướng rồi thì nhìn nó chả bé đi.
À, ra thế!
Khi chúng ta lớn lên, có những thứ nhỏ lại…
Vậy là đã một giờ sáng rồi ư? Nhanh quá. Màn đêm đã giăng đầy khắp lối. Trăng rơi nhoà trên mái.
Ngày xưa có người đã từng nói với tôi rằng thức khuya quá là không tốt; hút thuốc nhiều cũng là không tốt. Thậm chí họ còn tỉ mỉ làm một cuộc điều tra nho nhỏ, rằng tác hại về sức khoẻ này, rằng một ngày tôi đốt bao nhiêu gói, một gói là bao nhiêu, từ đó rút ra kết luận tổng thiệt hại “là không thể đo đếm được”??! Kết luận đó là chính xác, lập luận cũng vô cùng chặt chẽ, dẫu cho tôi là kẻ ưa lý luận hay lý sự gì đi chăng nữa cũng vô phương phản bác. Tôi chỉ có thể đưa ra cái câu nói kinh điển của mấy tay “đã chôn điếu xuống rồi lại đào điều lên”. Là thuốc lá đem lại thứ mà kẻ không hút làm sao mà biết, là người bạn trong những lúc tưởng như tuyệt vọng nhất, vân vân và vân vân. Nó đem lại một giá trị tinh thần “cũng không thể đo đếm được”, cân bằng hoàn toàn cái tổng thiệt hại ở trên. Vừa xinh!
Là nói thế thôi; chứ tôi biết tỏng rằng mấy anh đưa nó lên miệng là theo thói quen mà thôi!
Ừ mà nhân tiện nhắc đến thói quen; chợt nhớ dạo này tôi không còn thói quen thức khuya nữa; ăn đúng giờ, ngủ đúng giấc lắm! Bèn chui đầu ra khỏi chăn mới hay mặt trời đã đứng trên ngọn tre mất rồi. Vậy là mười ba giờ trưa chứ chả phải một giờ sáng. Tôi đã nhầm, như bao lần khác trong đời! Mà ai chả nghĩ lúc đó phải là một giờ sáng cơ chứ? Thế nên, dẫu là tôi có trót sinh đúng ngày đầu tiên của tháng t.ư thì cũng không phải tôi cố ý lừa hay chòng ghẹo người đọc đâu nhé; tự họ đã tin vào lời nói của người khác, hoặc là họ quá chủ quan mà đưa ra nhận định sai lầm. Sai lầm giống y như cái anh chàng thủ môn đẹp trai mà vẫn sai lè người Đức, được réo tên gọi hồn suốt mấy ngày hôm nay từ sau cái đêm ở Kiev ấy.
À ừ thì nhân tiện nhắc đến thành phố Kiev của Ukraina thì tôi chợt nhớ có đoạn thơ viết về dòng sông Da-nuýp có chảy qua đây.
“Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube
Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao
Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp
Những người nước lạ phải lòng nhau..”
Một bài thơ tình nghe đâu đã được viết từ hồi những năm 50 của thế kỷ trước. Lại nhân tiện nói đến tình yêu, bất chợt nghĩ về những mối tình của bản thân, thấy chuyện tình nào cũng đẹp cả. À đấy là xét theo hệ quy chiếu của nhà thơ Hồ Dzếch: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”. Cái cô mà ta yêu thì họ chả yêu lại; cái người thích ta thì ta lại ậm ừ chứ không mặn mà. Bởi thế mà có câu một bàn tay không vỗ nên nhịp. Nhưng cũng có lúc, là nam cũng được mà nữ cũng được; chỉ cần một bàn tay lại làm nên chuyện; nhưng chỉ là, chỉ là trong một số trường hợp đặc biệt mà thôi…
Nhưng cũng có một mối tình, nếu như chúng ta có thể rộng lượng mà xem đó là một mối tình, lại vượt lên trên tất cả. Nó mập mờ, không hề có chút gì rõ ràng; đôi khi chỉ từ một phía. Dĩ nhiên rồi, đó là tình yêu thủa ngây ngô, cái tuổi ăn chưa no mà lo cũng chưa tới, lần đầu tiên bị cái gã nghịch ngợm cởi trần, đóng khố, cầm cái cung bé tí mà lại bắn ra được sét, cái loại sét không thấy tiếng sấm nhưng lại giết người không dao, tiếng sét ái tình.
Nếu nói tình yêu thủa học trò là tình cảm thánh thiện nhất, trong sáng, không toan tính thì yếu tố mập mờ lại là thứ thi vị nhất trong đó; ối anh chết vì nó nhưng cũng có một cơ số anh được sinh ra từ cái sự mập mờ ấy…
Tôi cũng có một mối tình mập mờ như thế. Không có lời yêu; chẳng hề có hoa; mới chỉ được chạm, chỉ là khẽ chạm chứ nào dám mơ đến chuyện nắm bàn tay của nàng.
Thường nghe, đôi ta gặp nhau là do duyên số, là định mệnh. Tôi thì chả nghĩ thế, tôi gặp nàng chẳng qua là nhờ bố tôi. Ông cụ đã thực hành một cách hoàn hảo cái “chủ nghĩa xê dịch” của Nguyễn Tuân vào đời sống. Năm tôi lên sáu, nghĩa là có vẻ đã cứng cáp, là ông đưa cả nhà tôi đi hết nơi này đến nơi kia. Bàn thắng hoàn hảo nhất của ông cụ có lẽ là cho tôi được hưởng cái cảm giác ba học kỳ liên tiếp học ở ba mái trường. Sợ thật! Nhờ có ông cụ mà tôi được học chung với nàng, rồi cũng chỉ được ba năm là ông lại kéo tôi rời xa nàng, mãi mãi.
Tôi thì được cái là không có cái hoa tay nào. Thành ra vẽ người hay vẽ gà thì cũng từa tựa nhau mà thôi; vẽ tay hay chân thì cũng chỉ cần một đoạn thẳng là đủ rồi. Nhờ thế nên khả năng miêu tả người của tôi cũng tệ nốt. Vì vậy, tôi thực sự e ngại chuyện dùng từ ngữ để khắc hoạ lại chân dung nàng; sợ rằng vốn từ kém cỏi của bản thân chả đủ làm nền. Chỉ có thể kể lại rằng nàng có má lúm đồng tiền, khi cười thì như mùa thu toả nắng.
Đâu như hồi lớp 6, lớp 7 thì phải, môn Ngữ Văn có yêu cầu học sinh làm thơ lục bát. Tôi cũng hăm hở xách bút ra trận; định bụng làm cho nàng ngạc nhiên một phen. Nội dung cả bài thì tôi chịu; một phần chắc là do có tuổi rồi nên trí nhớ cũng kém dần; chín phần chắc là do nó không hay nên không buồn nhớ. Chỉ còn đọng lại được câu:
“Trên cành đọng mấy giọt sương
Long lanh ánh nắng vấn vương tơ lòng”
Buổi chiều đến lớp, tranh thủ lúc mười phút đầu giờ, tôi hồi hộp đưa bài thơ cho nàng xem. Lý do cũng rất chính đáng là nhờ nàng sửa hộ. Khi cô giáo vừa vào thì nàng quay xuống, mặt lạnh tanh, chẳng nói năng gì, chỉ trả lại tờ giấy cho tôi. Trong bài, nàng gạch chéo chữ “mấy” bằng đường mực đỏ, viết nắn nót ở trên một chữ “chút”. Thú thực là lúc đó tôi cũng chả hiểu gì cả; “mấy” và “chút” thì cũng khác quái gì nhau đâu nhỉ?
Cả tiết học, tôi ngồi đọc đi đọc lại cả câu. Tự nhiên nhận ra rằng cái chữ “mấy” của mình cứ cục mịch, thô lỗ đến lạ; lại còn như pha chút giọng của một con buôn đang ngồi đếm lời lãi. Còn “chút” thì đúng chất mỏng manh, nhẹ nhàng như giọt sương mai. Cũng nói đến số lượng nhưng người ta thì chỉ thoáng quá, có chút, một chút thôi… Nửa cụ thể lại nửa mập mở, lấp lửng; tưởng như rõ ràng mà lại bí ẩn. Bởi vì “A secret makes a woman woman” mà.
Chuyện cũng đã qua lâu lắm rồi, vật đổi sao dời nhưng cho đến tận bây giờ, mỗi lần định viết gì đó, tôi đều nhớ đến cái đường gạch chéo màu đỏ bằng cây bút bi Thiên Long, đến cái nét mặt lạnh lùng của nàng mà chùn bút.
Năm ấy, nàng và tôi đều trong đội thi học sinh giỏi của trường. Có một buổi trưa trờ, trưa trật tôi lóc cóc đạp xe đến ôn thi. Bố nàng chỉ nhìn tôi một cái rồi chép miệng, xong là đi đâu đến chiều cũng chưa thấy về. Còn mẹ nàng rõ ràng là quý tôi lắm. Thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, cụ bèn đem cây quạt từ nhà trong ra; lại còn lấy cho tôi một ly chè nữa, bảo của cái P. nấu đấy. Ôi! Đến đây dĩ nhiên là tôi có thể bịa ra vài câu vô thưởng vô phạt như: ‘đây là ly chè ngon nhất mà tôi đã từng được ăn; dẫu cho sau này tôi đã từng được đi nhiều nơi, được nếm thử hương vị đặc trưng của từng miền nhưng có lẽ tôi không bao giờ có thể tìm lại cái cảm giác thanh tao, mát lịm giống như ly chè ấy nữa”.
Không! Tôi đang viết cho nàng cơ mà, cho cái cảm xúc rung động lần đầu tiên trong đời, một thứ tình cảm trong sáng vời vợi; chẳng thể nào tôi lại dám đưa những lời lẽ nghe ngọt ngào nhưng giả dối ấy vào đây được. Sự thật phải được tôn trọng! Sự thật là tôi còn chẳng nhớ nổi ly chè ấy là chè gì nữa cơ!? Đậu xanh, đậu đen hay chè bưởi? Kệ! Có lẽ với một đứa trẻ hồi đó, có đồ ăn là tốt rồi. Còn bà cụ cứ nhìn tôi ăn với ánh mắt mà hồi đó tôi cứ đem ra so sánh với việc mẹ vợ nhìn con rể vậy. Nhưng đấy là suy nghĩ hồi ấy thôi; chứ giờ ngẫm lại tôi chỉ có thể nói là của đáng tội, ông bà có ba người con, trên nàng còn hai bà chị nữa. Có lẽ là cái nhìn của sự khát khao, mong chờ… Chả hay ông cụ nhà nàng có ý định “vỡ kế hoạch” lần nữa hay không?! Hoặc là được thằng cu con chống gậy, hoặc cùng lắm là lại góp thêm công sức nhỏ bé vào việc hạn chế mất cân bằng giới tính ở Việt Nam. Hơn nữa nhà có bốn cô con gái lại càng tuyệt diệu; “tam nam bất phú, tứ nữ bất bần” mà… Đường nào cũng đẹp!
À còn nhân vật chính của chúng ta đâu rồi nhỉ? Tôi nhớ mình đã ăn đến ly chè thứ hai rồi mà chim cá vẫn bặt tăm. Điều đáng sợ nhất với con trai có lẽ là chờ đợi một cô gái. Tôi có nghe mấy cô bạn nói chuyện, gì mà “đợi em đợi đến hoa cũng tàn”, rồi hoàng tử với chả soái ca. Ngại quá, cái đó phải hiểu chính xác là nói đểu chuyện các cô bắt người ta phải đợi lâu quá thôi. Hoa nở rồi rơi mà còn cứ thỏ thẻ: “đợi em thêm mấy phút nữa”.
Mãi thì nàng cũng ra, là lúc tôi nói tạm biệt với mấy ly chè để bắt đầu công cuộc học, học nữa, học mãi. Chúng tôi làm đề thi năm trước. Xong xuôi, bất chợt nàng hỏi:
- T đeo khăn quàng kiểu gì thế?
- Có biết đâu, tớ chỉ toàn buộc hai lần là xong. – Tôi xấu hổ.
- Để P chỉ cho.
Nói là làm, nàng tháo khăn quàng ra, tự tay đeo lại cho tôi, còn tỉ mỉ chỉ tôi từng bước đeo sao cho đúng quy trình.Hai khuôn mặt chỉ cách nhau một gang tay; lần đầu tiên tôi nhìn con gái nhà người ta gần như thế. Đôi mắt của tôi xấu hổ chỉ dám nhìn quanh, nhìn lên trên chứ tuyệt không dám nhìn nàng, lại càng không dám nhìn xuống. Tôi cứ đứng như Từ Hải và cũng chỉ muốn đứng như thế mãi…
Có lẽ nàng là một cô giáo tốt, chỉ tiếc tôi lại là một cậu học sinh tồi, cho đến giờ tôi không còn hát Đoàn ca nữa, đã hát “L’Internationale” rồi mà vẫn chưa biết đeo khăn quàng đúng cách.
Năm ngoái, tôi có đi cùng mẹ về thăm người họ hàng xa. Vẫn cái xã ấy, cái tên đã lừa một đứa trẻ khi nó cứ nghĩ xã ấy nhiều suối và trồng nhiều nho lắm. Ai mà ngờ được người ta đặt tên xã cho đẹp thôi chứ chả liên quan gì. Mẹ ở lại trò chuyện với bác còn tôi xách xe lang thang một mình trên đường. Về sau tôi cứ lấy làm lạ cho chuyện mình không đến nhà nàng, gặp lại người cũ từng thương. Vốn dĩ tôi là kẻ vụng chèo nhưng hay khéo chống; chuyện gì cũng tìm được hàng tá lý do để bao biện. Nhưng mãi đến giờ tôi vẫn không tìm ra được điều gì để giải thích cho chuyện tôi đã chùn chân khi chỉ còn mấy chục mét nữa là đến nhà nàng.
Lúc hai mẹ con về, tôi cứ ngó nghiêng hai bên đường. Mẹ tôi phải gắt lên:
- Anh mà cứ lái xe kiểu đó là tôi xuống đi bộ đấy.
- Đâu có, vẫn tập trung mà.
- Thế anh cứ nhìn đông, nhìn tây làm gì?
- À, con nhớ hồi đó đi qua chợ là có nhà thờ to lắm mà; nãy giờ không thấy.
Mẹ gõ vào đầu tôi rồi chỉ tay về sau.
- Anh vừa đi qua lúc nãy còn gì.
- Nó bé tí; không phải đâu.
- Bé gì mà bé. Có anh hồi đó còn bé nên cảm thấy nhà thờ to thế thôi; giờ anh lớn tướng rồi thì nhìn nó chả bé đi.
À, ra thế!
Khi chúng ta lớn lên, có những thứ nhỏ lại…