[Điểm Sách] Tiểu thuyết: Người đàn bà trong cồn cát - Kobo Abe

Mr Củ Cà Rốt

Phàm Nhân
Ngọc
72,00
Tu vi
0,00
Image


Truyện: Người đàn bà trong cồn cát
Tác Giả: Kobo Abe
Thể loại: Văn học nước ngoài


Nguồn giới thiệu:


Link truyện: Hiện nay reader BNS chưa có truyện này dù nó tương đối nổi tiếng, hi vọng sẽ có bạn nào sưu tầm về.


Lời giới thiệu: Sưu tầm


Một buổi chiều tháng tám, có một người đàn ông đứng trong nhà ga xe lửa tại S…”. Câu chuyện bắt đầu như một sự tường thuật về một sự việc hết sức bình thường, không có gì đáng để chú ý. Nhân vật chính của truyện hiện lên là một người đàn ông không rõ tên tuổi, lai lịch xuất xứ, chỉ được giới thiệu trong vai trò là một nhà giáo say mê tìm hiểu côn trùng. Cuộc phưu lưu chỉ thực sự bắt đầu khi anh được đưa vào nghỉ trọ trong ngôi nhà của một người đàn bà sống trong hố sâu của cồn cát…


Nhân vật người đàn bà cũng xuất hiện hết sức mờ ảo, không tên, không tuổi, sống cam chịu dưới cồn cát đã nhiều năm. Chồng và con chị đã mất trong một trận bão cát, để lại chị cô đơn trong căn nhà được vây bọc bởi những bức tường cát. Cuộc sống của chị là những ngày dài nhàm chán nối tiếp nhau, đêm đào cát, ngày thì ngủ. Sự có mặt của người đàn ông như một món quà kỳ diệu cho chị “Từ xa nhìn lại, chốn này có vẻ như một mảnh đất nhỏ bé. Song một khi ở dưới đáy hồ ta sẽ không nhìn thấy gì hết, ngoài cát và bầu trời bao la. Một sự tồn tại đều đều buồn bã nằm gọn trong tầm mắt của ta. có lẽ chị đã sống trọn cả cuộc đời dưới đáy hồ này không một lời vỗ về an ủi. Phải chăng lúc này trái tim chị đang rộn lên trái tim một thiếu nữ, bởi vì nó đã bẫy được anh và dâng anh cho chị. Thực đáng thương biết bao!”. Bất chấp sự tức giận, thái độ thô lỗ của anh, chị ân cần chăm sóc, phục tùng anh như một người vợ chân chính.


Lúc đầu anh chỉ nghĩ đây là một chỗ trú chân tạm thời của mình. Cho đến khi chuẩn bị hành lý trên vai để tiếp tục cuộc hành trình thì anh nhận ra một điều rằng chiếc thang dây - cầu nối duy nhất của ngôi nhà trong hố cát này với thế giới bên ngoài đã biến mất. Bất ngờ, đau khổ, tuyệt vọng, anh vùng vẫy điên loạn trong cái bẫy thiên nhiên không có lối thoát này. Anh cố thử thoát ra bằng mọi cách từ cách đơn giản bột phát là trèo lên bức tường cát dựng đứng trơn tuột, đến việc vận dụng những kiến thức khoa học rồi dàn xếp một cuộc trốn chạy công phu… tất cả đều thất bại. Ở đây, anh có đầy đủ mợi thứ cần thiết: nước uống, thức ăn, thuốc lá, rượu thậm chí nếu muốn anh còn có thể đọc báo. Nhưng cái anh thiếu thốn nhất chính là tự do, là tiếng nói cộng đồng, là cuộc sống trước kia của anh. Đấu tranh không mang lại kết quả, anh nhượng bộ làm một người tù để chờ cơ hội chạy thoát.


Ta nắm trong tay tấm vé một lần đi đến vùng buồn chán, ú ù u…


Vận may đến với anh sau bao ngày nung nấu ý đồ thoát thân. Bằng trí thông minh và sự quyết tâm của một con người khát khao tự do, anh đã thoát khỏi hố cát ngục tù. Tưởng rằng sau khi leo lên được bức tường cát đó, anh lại trở về với vị trí là một thầy giáo, với niềm đam mê côn trùng, với bạn bè, cuộc sống của anh trước kia. Nhưng rồi bất chấp tất cả nỗ lực và niềm hy vọng của anh, anh lại bị đẩy vào một cuộc rượt đuổi của dân làng để rồi kết thúc tuyệt vọng trong tiếng kêu cứu, khẩn nài của chính mình để được cứu sống cho dù chỉ là sống lại trong nhà ngục thiên nhiên đó. Cuộc sống tù túng, niềm mong mỏi giao lưu với thế giới bên ngoài làm anh bất chấp mọi luân thường đạo lý, anh sẵn sàng làm tình với chị trước mặt mọi người để đổi lấy một chút tự do nhỏ nhoi. Anh đã làm tổn thương chị chỉ vì một trò tiêu khiển cho dân làng và rồi sự bao dung, nhẫn nhịn của chị đã thay đổi suy nghĩ của anh. Anh chấp nhận làm một thành viên trong cái tổ ấm mà “ngước mắt lên chỉ thấy cát và trời xanh”. Anh bắt đầu hòa nhịp vào cuộc sống, làm những công việc của chị, cùng nhau xây dựng một gia đình. Trong quá trình khám phá ra cách lấy nước từ cát, vô tình anh đã làm mình xích lại gần, trở nên thân quen với cái hố cát này. “Sự thay đổi của cát phù hợp với sự đổi thay trong chính con người anh. Có lẽ cùng với nguồn nước trong cát, anh đã tìm thấy con người mới của mình”. Sự ân cần, chu đáo, tình cảm chân thành của chị đã làm anh cảm động và gắn bó với chị từ lúc nào anh cũng không hay biết…


Chiếc thang dây thả xuống để đưa chị đi cấp cứu do chửa ngoài dạ con cũng là chiếc thang dây anh hằng mong ước. Vậy mà giờ đây đứng trước nó, anh lưỡng lự, mân mê nó, trèo lên trên để rồi lại leo xuống chỉ để sửa lại công trình nghiên cứu lấy nước từ cát của anh. “Chẳng cần phải vội vàng trong việc thoát thân. Trên chiếc vé khứ hồi mà anh đang cầm tay lúc này, chỗ để điền nơi đến và thời gian khởi hành vẫn còn bỏ trống để anh tự tay viết vào như ý anh muốn. Hơn thế, anh hiểu rằng anh đang nung nấu một nỗi khát khao được nói với một người nào đó về cái bẫy nước. Và nếu anh muốn nói về nó, thì chẳng có thính giả nào tốt hơn bọn dân làng kia. Anh muốn chấm dứt bằng cách nói điều đó ra với một người nào đó - nếu không phải hôm nay, thì ngày mai vậy.


Câu chuyện kết thúc với bản thông báo mất tích của anh. Khi tên tuổi của anh được xác định, anh là một con người cụ thể thì cũng chính là lúc anh tình nguyện ở lại cái bẫy mà mình mắc phải. Tác giả không cho biết gì thêm về những cống hiến sau này của Niki Jumpei cho vùng cát. Nhưng chúng ta chắc chắn anh ở lại tới ngần ấy năm, tách biệt với xã hội, bị coi như kẻ mất tích, không chỉ vì để phổ biến cách lấy nước. Để làm việc ấy chỉ cần ba ngày. Chắc chắn anh phải tìm được cách ngăn cát thay vì lấy sức xúc cát suốt đêm. Chắc chắn, anh phải thấy cái gọi là hạnh phúc nơi vùng đất khắc nghiệt ấy. Hạt giống tình yêu đã nảy mầm trong anh để rồi đơm hoa kết trái và níu giữ anh với mảnh đất này, với những con người thiếu thốn cả vật chất và tình cảm nơi này.

THÔNG TIN KHÁC
Trước Murakami Haruki trên 20 năm, Kobo Abe (1924-1993), đã được biết đến như một tác gia Nhật Bản nổi tiếng quốc tế về các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, ngụ ngôn, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức của con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị càng ngày càng tiện lợi và máy móc. Trong nước Nhật, ông thuộc lớp nhà văn tiền vệ, được đánh giá là có t.ư tưởng và thủ pháp đi trước thời đại. Ngoài nước Nhật, nhà văn, nhà soạn kịch Abe Kobo được ví với Samuel Beckett và Eugène Ionesco.


Kobo Abe tên thật là Abe Kimifusa (Kobo là âm Hán-Nhật của chữ Kimifusa), sinh ở Tokyo, nhưng theo cha là một y sĩ sang Mukden, lãnh thổ Mãn Châu lúc đó đang bị Nhật chiếm đóng. Từ nhỏ, Abe thích Toán và sưu tập côn trùng. Năm 1941, 17 tuổi, ông trở về Nhật và hai năm sau vào học Y khoa tại Đại học Đế quốc Tokyo. Ông tốt nghiệp năm 1948, nhưng không hành nghề y sĩ mà bắt đầu nghề văn, gia nhập nhóm văn học do Hamada Kiyoteru lãnh đạo, nhắm đến việc dung hợp những thủ pháp văn học thuộc trường phái Siêu thực với ý thức hệ Mác-xít.


Ông bắt đầu sáng tác từ 1943, nhưng đến 1947 mới tự xuất tiền túi xuất bản tập thơ đầu tay là Mumei Shishu (Tập thơ vô danh). Năm sau đó, ông bắt đầu được biết tiếng nhờ tác phẩm Owarishi michi no shirube ni (Trên cột mốc ở đường cùng). Ông chịu ảnh hưởng của Samuel Beckett, Fyodor Dostoyevsky và nhất là Franz Kafka.


Những tác phẩm có tính cách tiền vệ của ông dần dần được giới độc giả trẻ ưa chuộng: Dendrocacalia (Cây dendrocacalia, 1949), Akai mayu (Cái kén đỏ, 1950), Maho no choku (Viên phấn phù thuỷ, 1950) đều lấy đề tài “hoá thân”, biến hình của con người theo kiểu Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shi no hanzai (Bức tường - Tội của S. Karma, 1951) được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta hoá thành nhân cách và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị lôi ra toà án.


Tiểu thuyết Suna no onna (Người đàn bà trong cồn cát; bản Anh ngữ: Woman in the Dunes) xuất bản năm 1962, được giải thưởng văn học Yomiuri, giúp ông xác lập chỗ đứng đặc biệt trên văn đàn Nhật Bản, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giải thưởng Văn học Nước ngoài của Pháp, và quay thành phim được giải thưởng ở Đại hội Phim ảnh Cannes 1963, giúp Kobo Abe được chú ý và hâm mộ trên khắp thế giới.


Kobo Abe không chỉ là tiểu thuyết gia mà còn là nhà soạn kịch thành công. Thập niên 1960, ông hợp tác cùng đạo diễn Teshigahara Hiroshi quay thành phim các tác phẩm văn học của ông, như Otoshi ana (The Pitfall / Lỗ hổng, 1962), Suna no onna (Woman in the Dunes / Người đàn bà nơi cồn cát, 1962), Tanin no kao (The Face of Another / Khuôn mặt kẻ khác, 1966),... Năm 1973, ông sáng lập trường dạy diễn xuất ở Tokyo để dạy các phương pháp trình diễn độc sáng của ông, đồng thời là chỗ để ông đạo diễn kịch. Ban kịch do ông thành lập, “Abe Kobo Studio”, đã sang Mỹ lưu diễn năm 1979. Và ông đã được đề cử vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Mỹ năm 1977.


Kobo Abe mất năm 1993 vì bệnh tim, để lại một sự nghiệp văn học xuất chúng trải dài 40 năm.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top