Mr Củ Cà Rốt
Phàm Nhân

Tác Giả: Michèle Desbordes
Thể loại: Văn học nước ngoài
Nguồn giới thiệu:
Link truyện: Hiện nay reader BNS chưa có truyện này dù nó tương đối nổi tiếng, hi vọng sẽ có bạn nào sưu tầm về.
Lời giới thiệu: Sưu tầm
Một bản tình ca xao xuyến…
Ông là một danh họa, nhà điêu khắc, kiến trúc sư bậc thầy của người Ý. Theo lời mời gọi của vị vua, ông sang Pháp sống. Những chuyến đi nhọc nặng. Những ưu t.ư về sự tàn lụi của một kiếp người khiến ông mỏi mệt. Ông đến ở trong một khu nhà với các học trò và gặp một nữ gia nhân. Sự xuất hiện của bà không gây cho ông nhiều sự chú ý lắm! Nhưng càng về sau, ông lại càng hướng cái nhìn thương yêu về phía bà hơn. Ông cảm thấy tim xốn xang khi thấy bà đang rảo bước, khi thấy dáng bà thấp thoáng sau những rặng nho trong buổi trời chiều. Và những lúc như thế, ông lại vẽ nên một thiên thần có mái tóc xoăn đỏ cùng đôi mắt trĩu nặng.
Ông bảo ông thích mùa hè, thích những bức bích họa, thích vườn treo trong nắng sớm. Ông cũng nói về quá khứ, về người mẹ hiền thân thương, người đã lén lút sinh ông như một con chó cái, người mà mùi hương của làn da đã thay đổi theo năm tháng bởi những ruồng rẫy và bao điều không thể thứ tha. Thỉnh thoảng, khi đang mải miết đuổi theo những suy nghĩ của mình, ông nghe vọng về tiếng gọi của tuổi thơ, tiếng gọi của cái chết. Và ông sẵn sáng đón chờ.
Còn bà, bà chỉ đơn giản là một người giúp việc cho ông, luôn cầm mẫn và nhẫn nại trong sự im lặng đầy ưng thuận. Bà chu toàn cho ông cùng các học trò những món ăn ngon, bộ quần áo phẳng phiu và nhà cửa sạch sẽ. Người ta có thể thấy sự già nua, cỗi cằn ở bà qua viền mắt xanh xao, cái gáy khắc khoải, bộ váy toan xám trắng xỉn màu và tính tình bà: luôn luôn thinh lặng, luôn luôn kể chuyện bằng một chất giọng đều đều, nho nhỏ. Bà thường dành cả buổi ngồi bên cửa sổ, hai tay đan vào nhau trong hõm váy. Nhẫn nhục. Cam chịu. Và đang cố giấu những điều bà có thể thốt ra nhưng lại không muốn cất thành lời. Ông và các học trò có nghe loáng thoáng về ngày trước của bà. Bà sống ở cánh rừng thấp trũng. Những người phụ nữ như bà, không màng đến nơi mình đã sinh ra, tìm đến những ngôi nhà đá trắng ven sông, hầu hạ cho các người chủ giàu có. Những nữ giúp việc chứng kiến người chủ ra trận, du ngoạn, đau đớn, rên rỉ, rồi lại tươi cười nhảy múa. Đến một ngày kia, khi người chủ đã thấm mệt, khi người chủ hấp hối nói lời trân trối cuối cùng thì bà cùng những phụ nữ kia-những người đã quen với kiếp sống nô bộc, sẽ lắng nghe họ, sẽ tắm cho họ và thắp ngọn nến cuối cùng nơi ngôi mộ để những linh hồn không lạc lối dưới địa ngục. Rồi những con người ấy, sẽ lại ra đi tìm kiếm cho mình người chủ mới.
Bà thường giữ khoảng cách khi bên ông. Đôi lúc bà cũng khẽ nhìn ông và rồi lại thôi, lại quay trở về với công việc. Bỗng một tối nọ, bà tìm đến ông, bà xin lỗi vì đã làm phiền nhưng bà mong ông hiểu cho, xin ông hãy cho phép bà nói lên ước nguyện của mình. Rồi bằng một sự vồn vã hiếm có, bà nói. Bà bảo rằng sức khỏe bà đã suy yếu, rằng bà sẽ chẳng còn sống được bao lâu nên cũng chẳng thể phục vụ ông thêm nữa. Bà thưa rằng trước khi xác bà mục rữa trong hầm mộ thì bà muốn làm một cái gì đó có ích, cho ông. Và bà đã được toại nguyện…
Câu chuyện có cái kết không buồn nhưng cũng chẳng vui. Bà mất khi đang trên đường về nhà, chân đi đôi giày cao cổ ông cho và hai tay nhẹ nhàng đặt lên sợi dây chuyền ngọc trai mà ông tặng. Có lẽ bà đã cảm nhận được tình cảm chân thành và sâu lắng mà ông dành cho mình. Thật hạnh phúc.
Vài ngày sau đó ông cũng ra đi khi ông tin chắc rằng sắc trời sẽ chuyển màu xanh.
“Ngyện ước”nhốt câu chuyện trong vẻ ngập ngừng, bí ẩn. Nơi thiên nhiên hoang sơ, bình yên tô điểm cho mối tình thầm lặng, e ấp. Nơi mà ngôn ngữ của tình yêu không phải diễn tả bằng lời mà là bằng những xúc cảm của ánh mắt và sự im lặng đã là quá đủ. Nơi mà khi trò chuyện hai người lại không thể hiểu nhau. Ấy mà khi nhìn nhau, vậy là bao nhiêu trăn trở, nghĩ suy dường như đã được người kia thấu cảm.
Có lẽ, ai trong chúng ta khi đọc xong câu chuyện này, đều nghĩ rằng hai con người ấy là những kẻ nhút nhát, không biết nắm lấy cơ hội. Nhưng, trong cuộc sống này, đôi khi có những điều quá đỗi đáng yêu và diệu kì đến nỗi chúng cũng đủ khiến cho ta ấm lòng, khiến cho cuộc đời nở hoa thơm. Điều ta cần làm là trân quý và nâng niu nó mà thôi.
THÔNG TIN KHÁC
Michèle Desbordes sinh năm 1940 tại Sologne (Pháp). Sau khi tốt nghiệp đại học văn chương tại Sorbonne, bà trở thành quản thư. Năm 1944, bà trở thành giám đốc thư viện tại đại học Oléans. Năm 1966 tiểu thuyết đầu tay (L’Habituée) đã gây ngạc nhiên bằng khả năng khéo léo chuyển tải thông điệp của sự im lặng, của những điều không nói được bằng lời. Khả năng này càng trở nên tinh tế, điêu luyện và tạo nên phong cách đặc trưng của bà trong “Nguyện ước” (1999), cuốn tiểu thuyết thứ hai. Ngoài viết tiểu thuyết, bà còn sang tác thơ và đã cho xuất bản một tập thơ.
“Nguyện ước” đã dành được nhiều giải thưởng và được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Ý, Hà Lan.
Bà mất ngày 24 tháng Giêng năm 2006 tại Baule (Pháp).
Ông là một danh họa, nhà điêu khắc, kiến trúc sư bậc thầy của người Ý. Theo lời mời gọi của vị vua, ông sang Pháp sống. Những chuyến đi nhọc nặng. Những ưu t.ư về sự tàn lụi của một kiếp người khiến ông mỏi mệt. Ông đến ở trong một khu nhà với các học trò và gặp một nữ gia nhân. Sự xuất hiện của bà không gây cho ông nhiều sự chú ý lắm! Nhưng càng về sau, ông lại càng hướng cái nhìn thương yêu về phía bà hơn. Ông cảm thấy tim xốn xang khi thấy bà đang rảo bước, khi thấy dáng bà thấp thoáng sau những rặng nho trong buổi trời chiều. Và những lúc như thế, ông lại vẽ nên một thiên thần có mái tóc xoăn đỏ cùng đôi mắt trĩu nặng.
Ông bảo ông thích mùa hè, thích những bức bích họa, thích vườn treo trong nắng sớm. Ông cũng nói về quá khứ, về người mẹ hiền thân thương, người đã lén lút sinh ông như một con chó cái, người mà mùi hương của làn da đã thay đổi theo năm tháng bởi những ruồng rẫy và bao điều không thể thứ tha. Thỉnh thoảng, khi đang mải miết đuổi theo những suy nghĩ của mình, ông nghe vọng về tiếng gọi của tuổi thơ, tiếng gọi của cái chết. Và ông sẵn sáng đón chờ.
Còn bà, bà chỉ đơn giản là một người giúp việc cho ông, luôn cầm mẫn và nhẫn nại trong sự im lặng đầy ưng thuận. Bà chu toàn cho ông cùng các học trò những món ăn ngon, bộ quần áo phẳng phiu và nhà cửa sạch sẽ. Người ta có thể thấy sự già nua, cỗi cằn ở bà qua viền mắt xanh xao, cái gáy khắc khoải, bộ váy toan xám trắng xỉn màu và tính tình bà: luôn luôn thinh lặng, luôn luôn kể chuyện bằng một chất giọng đều đều, nho nhỏ. Bà thường dành cả buổi ngồi bên cửa sổ, hai tay đan vào nhau trong hõm váy. Nhẫn nhục. Cam chịu. Và đang cố giấu những điều bà có thể thốt ra nhưng lại không muốn cất thành lời. Ông và các học trò có nghe loáng thoáng về ngày trước của bà. Bà sống ở cánh rừng thấp trũng. Những người phụ nữ như bà, không màng đến nơi mình đã sinh ra, tìm đến những ngôi nhà đá trắng ven sông, hầu hạ cho các người chủ giàu có. Những nữ giúp việc chứng kiến người chủ ra trận, du ngoạn, đau đớn, rên rỉ, rồi lại tươi cười nhảy múa. Đến một ngày kia, khi người chủ đã thấm mệt, khi người chủ hấp hối nói lời trân trối cuối cùng thì bà cùng những phụ nữ kia-những người đã quen với kiếp sống nô bộc, sẽ lắng nghe họ, sẽ tắm cho họ và thắp ngọn nến cuối cùng nơi ngôi mộ để những linh hồn không lạc lối dưới địa ngục. Rồi những con người ấy, sẽ lại ra đi tìm kiếm cho mình người chủ mới.
Bà thường giữ khoảng cách khi bên ông. Đôi lúc bà cũng khẽ nhìn ông và rồi lại thôi, lại quay trở về với công việc. Bỗng một tối nọ, bà tìm đến ông, bà xin lỗi vì đã làm phiền nhưng bà mong ông hiểu cho, xin ông hãy cho phép bà nói lên ước nguyện của mình. Rồi bằng một sự vồn vã hiếm có, bà nói. Bà bảo rằng sức khỏe bà đã suy yếu, rằng bà sẽ chẳng còn sống được bao lâu nên cũng chẳng thể phục vụ ông thêm nữa. Bà thưa rằng trước khi xác bà mục rữa trong hầm mộ thì bà muốn làm một cái gì đó có ích, cho ông. Và bà đã được toại nguyện…
Câu chuyện có cái kết không buồn nhưng cũng chẳng vui. Bà mất khi đang trên đường về nhà, chân đi đôi giày cao cổ ông cho và hai tay nhẹ nhàng đặt lên sợi dây chuyền ngọc trai mà ông tặng. Có lẽ bà đã cảm nhận được tình cảm chân thành và sâu lắng mà ông dành cho mình. Thật hạnh phúc.
Vài ngày sau đó ông cũng ra đi khi ông tin chắc rằng sắc trời sẽ chuyển màu xanh.
“Ngyện ước”nhốt câu chuyện trong vẻ ngập ngừng, bí ẩn. Nơi thiên nhiên hoang sơ, bình yên tô điểm cho mối tình thầm lặng, e ấp. Nơi mà ngôn ngữ của tình yêu không phải diễn tả bằng lời mà là bằng những xúc cảm của ánh mắt và sự im lặng đã là quá đủ. Nơi mà khi trò chuyện hai người lại không thể hiểu nhau. Ấy mà khi nhìn nhau, vậy là bao nhiêu trăn trở, nghĩ suy dường như đã được người kia thấu cảm.
Có lẽ, ai trong chúng ta khi đọc xong câu chuyện này, đều nghĩ rằng hai con người ấy là những kẻ nhút nhát, không biết nắm lấy cơ hội. Nhưng, trong cuộc sống này, đôi khi có những điều quá đỗi đáng yêu và diệu kì đến nỗi chúng cũng đủ khiến cho ta ấm lòng, khiến cho cuộc đời nở hoa thơm. Điều ta cần làm là trân quý và nâng niu nó mà thôi.
THÔNG TIN KHÁC
Michèle Desbordes sinh năm 1940 tại Sologne (Pháp). Sau khi tốt nghiệp đại học văn chương tại Sorbonne, bà trở thành quản thư. Năm 1944, bà trở thành giám đốc thư viện tại đại học Oléans. Năm 1966 tiểu thuyết đầu tay (L’Habituée) đã gây ngạc nhiên bằng khả năng khéo léo chuyển tải thông điệp của sự im lặng, của những điều không nói được bằng lời. Khả năng này càng trở nên tinh tế, điêu luyện và tạo nên phong cách đặc trưng của bà trong “Nguyện ước” (1999), cuốn tiểu thuyết thứ hai. Ngoài viết tiểu thuyết, bà còn sang tác thơ và đã cho xuất bản một tập thơ.
“Nguyện ước” đã dành được nhiều giải thưởng và được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Ý, Hà Lan.
Bà mất ngày 24 tháng Giêng năm 2006 tại Baule (Pháp).